Những trận chiến lớn nhất chính là những trận chiến trong tâm trí chúng ta.

Jameson Frank

 
 
 
 
 
Tác giả: Knut Hamsun
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Thái Bá Tân
Biên tập: Bach Ly Bang
Upload bìa: Liem La
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1379 / 19
Cập nhật: 2015-08-10 14:20:27 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
on trai người thợ xay bột mì lên thành phố. Trong một thời gian dài cậu không về nhà. Cậu tới trường, học các môn khoa học khác nhau, rồi lớn lên, trở thành một chàng trai to lớn, khoẻ mạnh, môi trên đã xuất hiện một lớp lông mềm. Từ làng tới thành phố khá xa, tiền tàu đi về không ít, vì vậy ông thợ xay tiết kiệm trong nhiều năm liền đã để cậu con ở luôn trên thành phố cả mùa hè lẫn mùa đông. Và hết ngày này sang ngày khác, Juhannes ngồi lì bên trang sách.
Cuối cùng cậu trở thành người lớn thực sự, mười tám tuổi, rồi hai mươi tuổi.
Một ngày mùa xuân nọ Juhannes rời tàu thuỷ bước lên bờ. Trên nóc lâu đài ông chủ có ngọn cờ nhỏ, được cắm để mừng Đitlef, cậu con trai trở về nhà nghỉ hè cùng một chuyến tàu thuỷ với Juhannes. Một cỗ xe ngựa được phái đến đón Đitlef. Juhannes cúi chào ông chủ lâu đài, vợ ông ta và Victôria. Chao, Victôria đã lớn và thành cô gái nhanh sao! Nàng không đáp lại cái chào của Juhannes.
Chàng cởi mũ cúi đầu lần nữa và nghe nàng khẽ hỏi anh trai:
- Ai đang chào ta thế nhỉ, anh Đitlef?
- À, Juhannes, con trai ông lão xay bột mì ấy mà, - Đitlef đáp.
Victôria lại nhìn về phía chàng, nhưng vì bất tiện, Juhannes không chào lần nữa. Rỗi cỗ xe lăn bánh.
Còn Juhannes thì đi bộ về nhà.
Trời, ngôi nhà của gia đình mới bé nhỏ và buồn cười làm sao! Juhannes không thể bước vào nhà mà không cúi xuống. Bố mẹ chàng đón chàng bằng một bữa ăn thịnh soạn. Chàng xúc động đến tận đáy lòng. ở đây cái gì cũng chứa đầy các hồi ức thân yêu và cảm động. Hai ông bà già lần lượt chìa tay cho chàng, chúc mừng chàng đã về nhà.
Ngay chiều hôm ấy Juhannes đi dạo quanh vùng. Chàng tới thăm chiếc cối xay, mỏ đá bỏ hoang và chiếc hồ, nơi có thời chàng từng ngồi câu cá. Với nỗi buồn khó tả, chàng lắng nghe những tiếng chim quen thuộc; những con chim này đã xây tổ trên cây. Thậm chí chàng còn làm một cái móc để quan sát được rõ hơn một tổ kiến khổng lồ trong rừng. Kiến đã biến đi đâu mất, chỉ còn lại tổ không. Juhannes lấy móc khều, nhưng không thấy một dấu hiệu sự sống nào. Vừa đi dạo, chàng vừa nhận thấy khu rừng thuộc ông chủ lâu đài đã trở nên thưa thớt hơn.
- Sao, có nhận ra chốn cũ quê nhà nữa không? - Bố chàng đùa hỏi. - Có tìm thấy chim sáo và các bạn cũ của mình không?
- Có nhận ra, nhưng không phải tất cả, - chàng đáp. - Rừng bây giờ thưa quá.
- Rừng không phải của ta, mà của ông chủ, - bố chàng đáp. - Đếm cây người khác không phải việc chúng ta. Ai chẳng cần tiền, mà ông chủ lâu đài thì lại càng cần nhiều.
Ngày tiếp ngày trôi qua. Đó là những ngày trong sáng, hạnh phúc, những giờ phút ngọt ngào khi được một mình với những kí ức tuổi thơ kì diệu; tất cả đều kêu gọi ta trở về với mặt đất và bầu trời xanh thẳm, với đồng quê bao la và núi rừng cao ngút. Juhannes đang đi trên con đường dẫn tới lâu đài. Sáng nay một con ruồi trâu đốt chàng, làm môi trên của chàng sưng vù lên. Nếu phải gặp ai đó trong nhà ông chủ, chàng sẽ cúi chào rồi lập tức lánh đi. Nhưng chàng đã không gặp ai. ở khu vườn trước lâu đài, chàng gặp một người phụ nữ quý phái, khi đến ngang hàng, chàng cúi thấp đầu chào rồi đi tiếp. Đó là bà chủ lâu đài. Cả bây giờ khi đi qua lâu đài, Juhannes vẫn cảm thấy tim đập mạnh hồi hộp như ngày nào. Ngôi nhà lớn với vô số các cửa sổ và ông chủ có vẻ khinh người vẫn làm chàng kính phục.
Juhannes rẽ về phía bến.
Ở đây chàng bỗng nhìn thấy Đitlef và Victôria. Chàng thấy buồn, vì biết đâu họ chẳng nghĩ rằng chàng cố tình xuất hiện trước mặt họ và lại với cái môi sưng vều này nữa! Chàng bước chậm lưỡng lự, không biết nên đi tiếp hay không, và rồi cuối cùng chàng vẫn đi tiếp. Từ xa, chàng đã ngả mũ chào khi thấy họ đang đi lại. Họ lặng lẽ gật đầu đáp, rồi lặng lẽ đi thẳng. Victôria chăm chăm nhìn chàng. Một nét gì đó chợt thoáng qua mặt nàng.
Juhannes tiếp tục đi tới bến, nhưng không hiểu sao chàng bỗng cảm thấy lo lắng, thậm chí cả cách đi cũng để lộ rằng chàng đang lúng túng. Chà, Victôria chóng lớn quá, hoàn toàn đã là một cô gái, mà lại rất xinh đẹp! Đôi mày của nàng hầu như dính vào nhau phía trên mũi và trông chẳng khác gì hai nét bút lụa mềm mại, đôi mắt sâu hơn và đã trở nên có màu xanh xám.
Lúc quay lại, Juhannes rẽ sang con đường nhỏ chạy từ lâu đài tắt qua rừng. Bây giờ thì chẳng ai có thể trách chàng tìm cách bám sát gót các con ông chủ nữa. Chàng leo lên ngọn núi, tìm một phiến đá bằng phẳng và ngồi xuống. Bên chàng, chim hót say sưa, kêu gọi nhau hoặc tha những cọng lá trong mỏ.
Không khí thoang thoảng mùi nồng của đất, mùi hoa mới nở và mùi củi mục.
Nhưng thật bất ngờ, Juhannes lại nhìn thấy Victôria - nàng đang đi thẳng về phía ngọn đồi, nhưng từ một hướng khác.
Juhannes cảm thấy buồn bã một cách bất lực - chàng những muốn bỏ đi đâu thật xa. Lần này thì chắc chắn nàng sẽ nghĩ là chàng cố tình đón đường gặp nàng. Có nên chào lần nữa không? Hay tốt nhất cứ vờ không thấy nàng, nhất là khi môi chàng đang sưng lên một cách tai hại thế này?
Nhưng Victôria đã đi tới rất gần. Chàng đứng dậy ngả mũ chào. Nàng mỉm cười gật đầu.
- Chào anh. Chúc mừng anh đã về, - nàng nói.
Juhannes có cảm giác môi nàng run run, nhưng nàng nhanh chóng bình tĩnh trở lại.
- Đúng là một điều khó tin, - chàng nói, - nhưng quả thật tôi không ngờ cô lại đi về hướng này.
- Tất nhiên là anh không thể biết được, - nàng đáp, - vì đơn giản là bỗng nhiên tôi có ý định đi theo con đường này.
Ôi! Thế mà chàng lại dám gọi nàng là "cô"!
- Anh về nhà có lâu không? - Nàng hỏi.
- Cho đến hết kì nghỉ.
Juhannes nói một cách vất vả, chàng bỗng thấy nàng trở nên hoàn toàn xa lạ. Nàng bắt chuyện với chàng làm gì nhỉ?
- Anh Đitlef có nói rằng anh là người rất thông minh, anh Juhannes ạ. Anh học giỏi lắm. Anh Đitlef còn nói anh làm cả thơ nữa. Có đúng thế không?
Chàng đáp ngắn gọn và có vẻ miễn cưỡng:
- Có gì đáng ngạc nhiên đâu. Thơ thì ai chẳng làm được.
Có lẽ bây giờ nàng sẽ bỏ đi, vì nàng im lặng không nói gì.
- Thật buồn là hôm nay tôi bị ruồi trâu đốt, - chàng lại nói rồi chỉ vào môi. - Vì thế mà môi tôi mới sưng vều lên thế này.
- Anh vắng nhà quá lâu, nên ruồi trâu ở đây không còn nhận ra anh nữa.
Chàng thì bị ruồi trâu đốt, mà nàng lại còn giễu được. Cũng dễ hiểu thôi. Cứ đứng đấy mà quay chiếc dù đỏ trên đầu thì còn biết gì tới người khác. Thế mà ngày xưa chàng đã bế trên tay cô tiểu thư xinh đẹp và kiêu kì này đấy.
- Bản thân tôi bây giờ cũng chẳng nhận ra chúng, dù trước kia chúng tôi từng là bạn với nhau.
Victôria không hiểu ý sâu kín của câu nói này nên không nói gì. Vâng, hàm ý sâu lắm.
- Ở đây còn nhiều điều tôi không nhận ra. Thậm chí cả khu rừng cũng bị đốn thưa rất nhiều.
Mặt nàng có vẻ buồn.
- Vâng, vậy thì có lẽ anh sẽ không muốn làm thơ ở đây, - nàng nói. - Mà bỗng nhiên có lúc nào đó, anh nẩy ra ý định làm thơ tặng tôi thì sao nhỉ? ồ không, tôi nói là nói thế thôi. Tôi có hiểu gì về thơ đâu.
Bị chạm tự ái, Juhannes im lặng cúi đầu nhìn xuống đất, nàng giả vờ tỏ ra lịch sự, nhưng thực tế đang cười giễu chàng, thử nói một vài lời khác thường rồi đợi xem chúng sẽ gây ra ấn tượng thế nào. Vô ích thôi - những năm qua Juhannes đã không để phí thời gian vô ích, không những viết lách mà còn đọc được nhiều sách hơn nhiều so với người khác.
- Thôi, có lẽ chúng ta còn gặp nhau nữa. Tạm biệt.
Chàng ngả mũ chào rồi lặng lẽ bỏ đi, không trả lời.
Giá Victôria biết được rằng chàng làm thơ chỉ để tặng cho nàng, một mình nàng mà thôi. Tất cả mọi bài, kể cả những bài nói về đêm đen và ngọn lửa nhỏ trên đầm lầy. Nhưng tiếc rằng nàng không bao giờ biết được điều ấy.
Sáng chủ nhật, Đitlef tới gọi Juhannes đi ra đảo. "Mình lại phải ngồi cầm chèo đây", - chàng thầm nghĩ, nhưng nhận lời. Mặc dù chủ nhật, người đi dạo trên bến không nhiều, xung quanh thật yên tĩnh, trên cao mặt trời chiếu sáng rực rỡ. Sau đó bỗng có tiếng nhạc vọng lại từ biển cả, từ phía những hòn đảo xa. Đó là chiếc tàu đưa thư lượn vòng sắp vào bến. Nhạc đang chơi trên boong.
Juhannes mở dây buộc thuyền rồi ngồi xuống sau mái chèo. Vào cái ngày đầy nắng này, chàng cảm thấy mình đang ở tâm trạng lâng lâng dễ chịu, và tiếng nhạc bay lên từ con tàu thêu dệt trong không trung những nét vàng hoa lá.
Nhưng sao Đitlef lại có thể chậm như vậy? Anh ta đứng trên bờ, nhìn con tàu và những hành khách trên đó như thể đang chờ người nào đó. "Việc gì phải ngồi cầm chèo thế này, cứ lên bờ cái đã", - Juhannes nghĩ rồi cho thuyền quay mũi.
Đúng lúc ấy chàng bỗng thấy một cái gì trăng trắng thoáng qua, và tiếp theo là tiếng nước té. Ngay lập tức có tiếng người kêu to thất thanh trên tàu, còn những người đứng trên bờ thì vừa đưa tay chỉ trỏ, vừa dán mắt nhìn vào chỗ cái bóng trắng ấy biến mất. Tiếng nhạc im bặt.
Juhannes vội vàng bơi đến cứu. Chàng hành động theo bản năng, không suy nghĩ, không do dự. Chàng không nghe tiếng một bà mẹ đang kêu to trên tàu: "Con tôi, ôi con gái tôi!". Chàng không nhìn thấy người nào. Không để phí một giây vô ích, chàng đã nhảy từ thuyền xuống nước và lặn. Trong chốc lát không thấy chàng đâu, nhưng ở chỗ chàng lặn nổi lên những vòng tròn trên nước, và mọi người hiểu chàng đang tìm người bị nạn.
Tiếng kêu thất thanh trên tàu vẫn chưa dứt.
Chàng lại lặn lần nữa xa hơn. ở cách xa chỗ xảy ra tai nạn mấy mét. Mọi người tranh nhau chỉ trỏ và gào to: "Không, ở đây, ở đây cơ!".
Và chàng lại lặn xuống nước.
Lại lần nữa là sự chờ đợi căng thẳng, là tiếng kêu rên não lòng của bà mẹ. Một người đàn ông nào đấy đang đứng trên boong, bóp tay một cách tuyệt vọng. Một người nữa cởi quần áo, giày và nhảy xuống nước - đó là người hoa tiêu. Người này tìm kiếm rất kĩ chỗ cô bé rơi xuống nước, và bây giờ mọi người chỉ hi vọng vào ông ta.
Nhưng liền lúc ấy Juhannes lại nhô đầu khỏi nước, ở chỗ còn xa hơn trước rất nhiều. Juhannes đã để mất mũ, đầu chàng bóng nhẵn và lấp lánh dưới mặt trời như đầu hải mã. Hình như có cái gì đấy đang cản trở không cho chàng bơi dễ dàng: Một tay chàng bận. Rồi chỉ mấy giây sau chàng đã giữ được con mồi giữa hai hàm răng - đó là cô bé bị nạn. Trên bờ và trên boong tàu nhất loạt vang lên những tiếng kêu ngạc nhiên sung sướng. Chắc ông hoa tiêu cũng nghe thấy, vì ông ngoi lên đưa mắt nhìn xung quanh.
Cuối cùng Juhannes bơi được đến con thuyền. Lúc này đã bị gió đẩy đi một quãng. Chàng đặt cô bé lên thuyền rồi bơi lên sau. Tất cả những việc ấy chàng chỉ làm trong vòng hơn một phút - từ bờ, người ta thấy chàng cúi xuống đứa bé, xé nửa sau lưng chiếc áo nó đang mặc, rồi đem hết sức chèo nhanh về phía con tàu. Khi người bị nạn được đưa lên boong, trên tàu liên tiếp vang lên hai tiếng "Ura!"... "Ura!"...
- Làm sao anh có thể nghĩ tới việc phải tìm cô bé ở một chỗ xa như thế? - Có người hỏi chàng.
Chàng đáp:
- Tôi biết rõ chỗ này. ở đây có luồng chảy, lúc nãy tôi sực nhớ tới điều ấy.
Một người đàn ông quý tộc nào đó lách qua đám đông đi lại, mặt tái nhợt như xác chết. Nhưng ông ta mỉm cười một cách khổ sở, mắt rưng rưng.
- Mời ông lên boong! Xin mời! - Ông ta nói to. - Tôi muốn được cảm ơn ông. Chúng tôi biết ơn ông nhiều lắm. Chỉ một phút thôi. - Và rồi người đàn ông mặt tái nhợt như xác chết ấy lại biến mất trong đám đông.
Từ trên cao, một chiếc thang được bỏ xuống và Juhannes leo lên boong. Một bà nào đó đã ghì chặt cả người chàng đang ướt vào lòng, còn người đàn ông có bộ mặt ngơ ngác và trắng bệch giúi vào tay chàng chiếc đồng hồ của mình. Juhannes bước vào cabin, ở đấy có hai người đang làm hô hấp nhân tạo cho cô bé. Họ nói: "Ngay bây giờ cô ấy sẽ tỉnh lại. Tim đã đập rồi".
Juhannes nhìn người bị nạn. Đó là một cô bé tóc vàng, mặc chiếc váy ngắn cũn, phía sau lưng bị xé. Có ai đó đội chiếc mũ cho chàng, và chàng được tiễn xuống thuyền.
Chàng hoàn toàn không nhớ chàng đã lên bờ và kéo thuyền khỏi mặt nước như thế nào. Chàng chỉ nghe mọi người kêu "Ura!" lần nữa, và khi con tàu đi tiếp, trên boong lại nổi lên tiếng nhạc vui vẻ. Những đợt sóng sung sướng chảy khắp người chàng lành lạnh: chàng mỉm cười, lặng lẽ mấp máy môi.
- Thế là cuộc dạo chơi của chúng ta hôm nay không thành. - Đitlef nói, vẻ không hài lòng.
Victôria xuất hiện. Nàng bước về phía trước và vội nói:
- Anh điên rồi chắc, anh ấy phải về nhà thay quần áo.
- Điều ấy cũng chẳng có gì quan trọng lắm, nhất là khi đang ở cái tuổi mười chín.
Juhannes rảo bước về nhà. Trong đầu chàng còn văng vẳng tiếng nhạc và tiếng kêu "Ura!". Sự hưng phấn vẫn chưa rời bỏ chàng. Vượt qua ngôi nhà bố mẹ. Chàng đi tắt qua rừng tới mỏ đá bỏ hoang. ở đấy chàng tìm một chỗ thuận tiện rồi ngồi xuống sưởi nắng. Hơi nước bốc lên từ quần áo chàng. Chàng ngồi, nhưng một sự lo lắng mơ hồ dịu ngọt và mãnh liệt không chịu để chàng yên. Hạnh phúc làm chàng ngây ngất. Chàng quỳ xuống, những giọt nước mắt nóng bỏng lăn trên má. Chàng thầm cảm ơn Chúa đã ban cho chàng một ngày như hôm nay. Lúc nãy Victôria đứng trên bờ và nàng đã nghe những tiếng hô to "Ura!". "Anh hãy về nhà thay quần áo đi!", - nàng bảo chàng như vậy.
Chàng lại ngồi xuống rồi lần nữa, lần nữa cười to sung sướng. Nàng đã nhìn thấy chàng thực hiện cái hành động anh hùng, cái chiến công ấy. Nàng đã tự hào theo dõi chàng khi chàng cứu sống cô bé. Victôria, Victôria! Em có biết rằng mỗi giây phút đời anh đều thuộc về em, hoàn toàn chỉ mình em! Anh sẵn sàng làm người hầu, làm nô lệ để quét sạch mọi trở ngại trên đường em đi. Anh sẵn sàng hôn đôi giày bé tí của em, dấu người trong xe ngựa của em và ném củi vào lò sưởi của em những ngày giá lạnh. Ném những cành củi vào lò sưởi của em, Victôria ạ.
Juhannes ngoái đầu nhìn quanh. Không ai nghe tiếng chàng. Chỉ một mình chàng đang ngồi với chính mình. Tay chàng cầm chiếc đồng hồ quý - nó vẫn chạy đều đều, tích tắc.
Cảm ơn, cảm ơn Chúa đã ban cho con ngày hôm nay! Chàng đưa bàn tay vuốt vuốt những tảng đá nhỏ phủ đầy rêu. Victôria không mỉm cười với chàng, không, nàng vốn không quen làm thế. Chỉ đơn giản là nàng đứng ở bến, má hơi ửng đỏ. Nếu chàng đem chiếc đồng hồ này tặng nàng, biết đâu nàng nhận cũng nên?
Mặt trời đã lặn, không khí không nóng nữa. Chỉ bây giờ chàng mới nhận thấy quần áo chàng ướt sũng; và nhẹ nhàng như ngọn gió, chàng chạy nhanh về nhà.
° ° °
Lâu đài ông chủ lại có khách, những khách quen từ thành phố, sẽ có nhảy và tiệc tùng vui vẻ, nên rơm phải nằm lại ngoài đồng. Có nơi thậm chí vụ cắt cỏ cũng chưa được bắt đầu. Nông dân phải bỏ việc đồng áng để đánh xe ngựa và chèo thuyền cho khách, để mặc cỏ khô thối. Còn căn phòng khách màu vàng trong lâu đài thì không bao giờ ngớt tiếng nhạc...
Vào những ngày này ông lão xay bột mì cho cối ngừng chạy và về nhà đóng cửa lại. Ông đã học được nhiều kinh nghiệm cay đắng: nhiều lần đám khách thành phố kéo đến từng toán đông ồn ĩ, và vì nghịch đã làm ông hỏng hàng bao bột. Dạo này đêm ấm và sáng, thế mà phải nghỉ không được làm việc. Ngày còn trẻ, quan chưởng ấn giàu có nổi tiếng một lần tới xem chiếc cối xay chạy nước của ông làm việc rồi ngứa tay vứt cả một bó lá cùng tổ kiến vào hòn đá nghiền bột. Quan chưởng ấn từ lâu đã già, nhưng Ôttô, con trai ông ta vẫn tiếp tục về đây chơi với gia đình ông chủ lâu đài, mà anh ta thì chuyện gì không dám làm? Người ta kể đủ chuyện về anh chàng này...
Kia, từ trong rừng có tiếng người kêu và tiếng vó ngựa vọng lại. Đó là đám khách trẻ tuổi đang cưỡi những con ngựa bị bắt phi nhanh đến toát mồ hôi. Họ phi tới nhà ông lão thợ xay và quất roi ngựa vào cửa. Tới đây đường chỉ một quãng ngắn, thế mà họ phải cưỡi ngựa mới được.
- Chào ông! Chào ông! - Họ tranh nhau nói. - Chúng tôi tới đây để thăm ông.
Thế mà ông lão phải nhẫn nhục vờ cười vui trước trò này của họ.
Đám người trẻ tuổi vội vàng cột ngựa rồi bắt chiếc cối xay làm việc.
- Trong cối không có lúa mì, - ông lão kêu to. - Các cậu làm hỏng cối tôi mất!
Nhưng tiếng cối chạy ầm ầm, không ai nghe rõ lời ông.
- Juhannes! - Ông lão lấy hết sức kêu to. Từ mỏ đá, Juhannes vội vàng chạy xuống.
- Chúng sắp làm những hòn đá nghiền của ta nát vụn! - Ông vừa nói vừa chỉ vào đám khách.
Juhannes thong thả bước về phía họ. Mặt chàng tái nhợt, hai bên thái dương gân xanh nổi lên. Chàng đã nhận ra Ôttô, anh con trai quan chưởng ấn, lúc này đang mặc đồng phục của học sinh trường võ bị. Ngoài anh ta còn có hai người trẻ tuổi nữa. Một người trong số đó mỉm cười với Juhannes, vì anh ta không muốn cãi nhau với chàng.
Juhannes không quát tháo cũng chẳng doạ nạt, chàng chỉ đi thẳng về phía trước, về phía Ôttô. Đúng lúc ấy chàng nhìn thấy hai phụ nữ đang phi ngựa từ rừng tới - một người là Victôria, mặc áo chẽn màu xanh, cưỡi con ngựa cái lông trắng của ông chủ lâu đài, Victôria không tỏ ra vội vàng; nàng dừng ngựa, đưa mắt nhìn tất cả mọi người với vẻ dò hỏi.
Juhannes quay người sang bên, leo lên đập rồi đóng khoá lại. Tiếng ồn lắng xuống và chiếc cối xay dừng hẳn. Ôttô quát:
- Ê, không được động vào đấy! Vì sao cậu cho cối ngừng chạy? Không được động vào, nghe không!
- Anh cho cối chạy đấy à? - Victôria hỏi.
- Vâng, anh đấy, - Ôttô cười đáp. - Tại sao nó không chạy nữa?
- Vì trong cối chẳng có gì để nghiền, - Juhannes hổn hển đáp. - Không có gì cả! Hiểu chưa?
- Cối trống rỗng, anh nghe chứ? - Victôria nhắc lại.
- Làm sao tôi biết được có hay không? - Ôttô cười, cãi lại. - à mà xin hỏi: Vì sao lại không có gì? Lẽ nào người ta chưa đổ lúa mì vào đó?
- Thôi, tất cả lên ngựa! - Một người trong số bạn của Ôttô lên tiếng để chấm dứt sự căng thẳng.
Rồi họ nhảy lên ngựa; trước khi phóng đi, một người còn xin lỗi Juhannes.
Victôria là người lên ngựa cuối cùng. Đã cho ngựa đi được mấy bước, nàng còn quay lại nói:
- Anh làm ơn xin lỗi ông cụ hộ chúng tôi nhé!
- Anh chàng sinh viên võ bị kia có thể tự xin lỗi lấy! - Chàng đáp.
- Vâng, đúng thế, nhưng dù sao... Anh ấy là người hay bày ra các trò này nọ... Hình như đã lâu lắm tôi không gặp anh, anh Juhannes ạ.
Juhannes ngước lên nhìn nàng, không dám tin vào tai mình - hay mình nghe nhầm chăng? Không lẽ nàng đã quên chủ nhật rồi, một ngày trọng đại của chàng?
Chàng đáp:
- Tôi nhìn thấy tiểu thư ở bến hôm chủ nhật.
- Ờ nhỉ, - Victôria nói ngay. - Hôm ấy may nhờ có anh giúp ông hoa tiêu. Có phải các anh đã tìm thấy cô bé không?
Juhannes đáp ngắn gọn, vẻ tự ái:
- Vâng, chúng tôi đã tìm thấy cô ấy.
- Hay có thể chỉ mình anh là người vớt được cô bé? - Nàng nói tiếp, như thể ý nghĩ này vừa mới xảy ra trong đầu. - Tôi hi vọng anh sẽ chuyển lời xin lỗi của chúng tôi tới bố anh. Chào anh.
Nàng mỉm cười gật đầu với Juhannes rồi phóng ngựa đi thẳng.
Khi Victôria biến khỏi tầm mắt, vừa cảm động vừa bị xúc phạm, chàng đi vào rừng. Đột nhiên chàng nhìn thấy Victôria đứng bên gốc cây, hoàn toàn chỉ một mình. Nàng đang khóc, tựa người vào thân cây và khóc.
Hay nàng ngã ngựa? Bị thương? Chàng lại gần và hỏi:
- Có chuyện gì xảy ra với cô chăng?
Nàng bước lại gần chàng, chìa tay về phía trước, mắt rực sáng. Nhưng rồi nàng đứng chững lại, hai tay lơ lửng trong không khí. Nàng đáp:
- Không có gì cả. Tôi chỉ cho ngựa về trước rồi đi bộ, thế thôi. Juhannes, anh đừng nhìn tôi như thế. ở đập, anh cũng đứng nhìn tôi thế này. Anh muốn gì ở tôi vậy?
- Tôi muốn gì à? Tôi cũng chẳng biết nữa... - Vất vả lắm chàng mới nói được.
- Tay anh thế nào ấy, - nàng nói sau khi đặt bàn tay mình lên khuỷu tay Juhannes. - Tay anh thật to, ở chỗ khuỷu này này. Mà anh phơi nắng mới nhiều làm sao, da sẫm hẳn lại.
Juhannes gỡ ra, định cầm tay nàng, nhưng khẽ nâng váy lên, nàng nói:
- Không, không, không có chuyện gì xảy ra với tôi cả. Tôi chỉ muốn đi bộ một chốc. Chúc anh ngủ ngon.
Tiểu Thư Victoria Tiểu Thư Victoria - Knut Hamsun Tiểu Thư Victoria