The smallest bookstore still contains more ideas of worth than have been presented in the entire history of television.

Andrew Ross

 
 
 
 
 
Tác giả: Dang Chi Binh
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 214
Phí download: 13 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4611 / 116
Cập nhật: 2023-03-29 02:21:49 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 38: Cái Giá Phải Trả Của “Người Hùng Điện Biên”…
ang sáng, trời bỗng tối sầm lại. Mới 2 giờ chiều mà như 6 giờ tối. Tôi dịch về phía cuối sàn, ngồi lên chiếc cùm, rõi mắt ra ngoài chiếc cửa sổ.
Một mảnh trời đẹp, dài theo mép cửa sổ, xám xịt nặng chĩu nước. Một làn chớp xanh lè nháng lên, kèm theo một tiếng nổ làm rung rinh cõi lòng. Rồi như tiếng đại bác liên hồi nổ, ầm ầm, ì ì chạy suốt từ phía này sang phía kia, rền vang trên bầu trời. Trong ngục tù tăm tối vắng lặng, một mình ngồi nghe sấm chớp rền rĩ, tôi cảm thấy thật cô đơn, heo hút, cách biệt với thế giới loài người. Nằm giữa lòng Hà Nội một năm rồi, mà không hề biết biến chuyển gì của Hà Nội.
Gió bắt đầu thổi mạnh, mưa bắt đầu rơi…..Đầu tiên là những hạt lộp độp trên mái ngói, sau đó là ào ào như trời đổ nước xuống. Không khí dịu hẳn lại. Ngồi nghe mưa gió ngoài trời, tôi nghĩ đến cuộc đời hẩm hiu, bất hạnh của mình cũng quay cuồng trong gió mưa của đời. Mưa gió của đất trời thì chóng qua đi, còn mưa gió của đời, thì ôi thôi, dài lê thê, biết bao giờ mới dứt?!…..
Tôi cứ ngồi bồng bềnh với giòng suy tưởng ngược xuôi. Tôi nhớ đến cũng một buổi chiều mưa rơi trên thành đô ngày nào…..Hôm ấy, để tránh một trận mưa, tôi nhào vào trú dưới mái hiên của một ngôi nhà bên đường Tú Xương. Cho đến lúc trời đã nặng hạt, từ một góc đường, một cô gái cũng đang đạp vội chiếc xe đạp, đến gần chỗ tôi đang trú. Cô hấp tấp dắt xe lên hè, chợt nhìn thấy tôi, cô lúng túng, nửa muốn vào, nửa muốn đi ra, trong khi trời đang đổ mưa ầm ầm. Vì lúng túng, cô đánh rớt chiếc cặp xuống vũng nước đang chảy ào ào ở mé đường…..Cuối cùng, cô đành vào mái hiên tôi đang trú, mặt ửng hồng, e ấp chả dám nhìn tôi.
Cô chừng 18, 19 tuổi, có mái tóc dài óng ả buông xõa sau lưng, bám lất phất những hạt mưa lóng lánh. Đôi mắt huyền long lanh rụt rè, càng làm tăng nét dịu hiền của bộ mặt. Trời càng mưa to, phố càng vắng. Mái hiên vừa hẹp lại vừa nhỏ, nếu cùng đứng ở giữa thì không ướt. Nhưng, vì không dám đứng sát gần nhau, nên cô đứng một phía và tôi đứng một phía. Cả hai đều bị mưa hắt, ướt từ đầu gối trở xuống. Cách nhau có hơn một thước, mà không ai dám quay lại. Mưa cứ rơi và hai người cứ đứng. Với cô ấy, tôi không hiểu thế nào, chứ lòng tôi thì thấy vấn vương, ngập ngừng, nhưng tôi chẳng biết và chẳng dám nói cái gì. Ngay quay lại nhìn, tôi còn không dám, huống chi mở miệng nói năng. Tôi cứ đứng bần thần ngơ ngẩn, tiếc là mình tại sao không đủ can đảm, ra nhặt ngay chiếc cặp cho cô ấy khi nãy!?
Đường trơn, phố nhỏ, mưa cứ rơi dầm dề. Gần một tiếng đồng hồ sau, mưa mới tạnh. Lúc tôi dẫn chiếc xe solex xuống đường, cô cũng dắt xe đạp đi ra, hai người đi về hai phía. Trước khi bước chân lên xe, tôi mới dám ngoái lại nhìn, như luyến lưu, như mất mát. Khi đó, cũng là lúc cô nghiêng nón nhìn lại, để rồi hai người đi về hai ngả cuộc đời. Chẳng bao giờ gặp nhau nữa, và cũng chẳng biết nhau là ai…..Bây giờ, cũng một trận mưa rơi, nhưng tôi đang ngồi trong ngục tối một mình. Tôi buông một tiếng thở dài không chủ định, như vĩnh biệt những đoạn đời đã qua…..
Tôi cứ ngồi đăm chiêu để hồn lửng lơ về đây đó, mưa đã ngừng lúc nào tôi cũng không hay. Mãi tới khi nghe tiếng cửa buồng xịch mở, tôi mới giật mình nhìn ra: Một người cao lớn, có bộ râu quai nón, đang ôm túm một cái chăn bộ đội mầu cứt ngựa lách cửa đi vào, theo sau là lão Tư. Tên Tư nhìn hết buồng một lượt, rồi ra đóng cửa lại.
Tôi và người mới vào gật đầu chào nhau. Để ghệ bọc chăn lên sàn xi măng, tay vẫn còn cầm túm bốn góc cái chăn, anh nhìn suốt lượt trong buồng. Cuối cùng, anh mở to mắt chăm chú nhìn hai cái cùm sắt to lù lù phía cuối sàn. Câu đầu tiên, anh nói với tôi:
- Hai cái cùm, trông ghê quá nhỉ! Có lẽ Hỏa Lò đây do thực dân Pháp xây lên, vì thế, chế độ ta giữ lại để làm lưu niệm, cho mọi người thấy sự tàn ác của đế quốc!
Tôi chưa hiểu anh là dạng thế nào, nên tôi chỉ cười, không trả lời. Anh lúi húi mở gói chăn ra, nào màn, nào quần áo, đặc biệt có cả cái điếu con, diêm và thuốc lào. Mọi thứ đều lộn xộn, có lẽ vừa bị khám xong, trước khi chúng cho anh vào buồng. Anh vừa sắp xếp các thứ lại, vừa hỏi tôi:
- Anh bị bắt lâu chưa?
Tôi nói thẳng:
- Một năm rồi!
Anh dướn mắt to lên, ngạc nhiên:
- Anh nói đùa đấy chứ? Làm gì mà một năm?
Tôi lại cười, hỏi lại anh:
- Còn anh?
- Mới ngày hôm nay. Bắt ở Vinh hồi sáng, đưa về đây ngay.
Trông anh có vẻ dữ tướng, thế mà trao đổi qua vài câu nói, kết hợp với thái độ lại tỏ ra hiền, cởi mở. Vì thế, tôi vồn vã:
- Anh bị bắt vì tội gì?
- Vượt tuyến!
Rồi anh ngửng lên, hất hàm:
- Còn anh?
Tôi nói như đùa:
- Cũng vượt tuyến!
Anh mở to mắt, ngửng lên nhìn tôi nữa. Để anh khỏi ngỡ ngàng, tôi tiếp:
- Nhưng từ Nam ra Bắc!
Anh càng ngạc nhiên hơn nữa, anh ngừng xếp dọn, quay hẳn người ra hỏi:
- Anh thích chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc?
- Không những tôi không thích, mà còn chống. Chứng cớ, tôi đang nằm trong nhà tù của họ.
Mặt anh cau hẳn lại, dáng băn khoăn:
- Như thế nghĩa là…?
- Nghĩa là, tôi là người của chính quyền Sài Gòn, đột nhập Hà Nội để hoạt động tình báo.
Anh có vẻ hân hoan ra mặt. Buổi tối hôm ấy, chúng tôi trao đổi tâm sự để biết sơ lược về nhau. Anh tên là Hoàng Hùng, 40 tuổi, quê ở Hải Phòng. Anh theo cách mạng từ ngày 19 tháng 8 năm 1945, Khi đó, anh 21 tuổi. Anh là bộ đội, năm 1958 chuyển ngành về Bộ Tài Chính. Năm 1959, anh lập gia đình và hiện có hai con, còn nhỏ.
Muốn được thêm sáng tỏ về anh, tôi hỏi tiếp:
- Như vậy, nguyên nhân và động cơ nào khiến anh vượt tuyến vào Nam?
Mặt hiện lên nét đăm chiêu, anh chậm rãi:
- Vấn đề nguyên nhân và động cơ phức tạp lắm. Thong thả tôi sẽ kể cho anh nghe, vì nó không phải bắt nguồn từ một điểm!
- Thế vì sao anh bị bắt?
Vẻ mặt anh buồn buồn:
- Chỉ vì một anh bạn muốn từ giã người yêu ở Vinh, nên câu chuyện bị lộ.
Tối hôm đó, tôi chỉ biết sơ về anh như vậy, và anh cũng tỏ vẻ háo hức muốn biết một vài nét về tôi cũng như về cả hội miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Anh Hùng lấy chiếc điếu con con, gói thuốc lào và bao diêm, quay sang tôi hỏi:
- Bình có hút thuốc lào không?
Thấy anh là một người vui vẻ cởi mở, tôi cũng thấy vui vui. Hơn nữa, anh là một cán bộ đã theo Cộng Sản tứ 1945, hẳn qua anh tôi sẽ hiểu thêm về Cộng Sản trong quá trình. Nghĩ như thế, nên tôi cũng tươi nét mặt:
- Tôi chưa hút thuốc lào bao giờ…..
Chợt tôi nhớ đã có lần hút ở nhà lão chủ tịch Phong ở Kỳ Phương. Nhưng tôi không đề cập tới chuyện đó, nói tiếp:
- Nhưng, để đỡ sầu, tôi sẽ hút thử…..
Nói xong, tôi chồm sang bên sàn của anh. Nhìn anh vê điếu thuốc lào cho vào nỏ điếu, dáng ngồi nghiêng nghiêng, làm râu quai nón xồm xoàm vì mấy ngày không cạo. Nét mặt rắn rỏi, nói lên anh là một con người đã có nhiều xông xáo trong gian khổ, hiểm nguy. Anh bật diêm, đưa chiếc điếu lên miệng. Nhìn ngọn lửa que diêm bập bùng nhỏ to theo điệu nhắp của từng nhịp hút “rẹt, rẹt, rẹt…..” Rồi cuối cùng, một tiếng rít dài và nhọn lanh lảnh như tiếng con dế cái hứng lòng gọi bồ trong đêm khuya, làm cho điếu thuốc chui tọt vào nõ điếu. Gân cổ căng lên, anh bỏ điếu xuống sàn, nhắm mắt, ngửa mặt lên trần, miệng tròn như chữ “O”. Từ đấy, như một ống khói tầu thuỷ chạy than, khói theo nhau tuôn ra, dẫy dọn, ngập ngừng lửng lơ bay lên trần nhà, rồi tan loãng vào không gian… Ngực anh phập phồng, hổn hển, mắt anh lơ mơ, đờ đẫn.
Ngắm anh, tôi chưa hút mà cũng thấy lơ ngơ, dập dờn. Tôi vê một điếu và bắt chước anh. Nhưng, khi kéo một hơi dài, tôi bị sặc, ho chảy cả nước mắt ra. Người cũng rần rật đê mê, ngây ngất bập bềnh như bơi trên biển sóng.
Mải chuyện trò rao đổi, tối hôm ấy, mãi khi chiếc loa “nghẹt thở”, chúng tôi mới đi ngủ. Anh nhìn sang, thấy tôi không có mùng mền, quần áo gì cả, anh ái ngại bảo tôi:
- Hai anh em nằm quay đầu ngược xuôi, chui vào mùng tôi ngủ đi, kẻo muỗi cắn chết!
Hơn một năm rồi, tôi đã chịu được, nhưng vì lòng mến anh, tôi cũng chui vào mùng ngủ chung. Chiếc sàn chỉ rộng 65 phân nên quá chật chội, trời lại nóng. Để khỏi ảnh hưởng đến giấc ngủ của anh, tôi nằm một lúc rồi chui ra ngoài, về sàn mình. Tôi lại mần mò làm thủ tục che muỗi như mọi khi.
Anh thấy tôi chỉ có cái gối làm bằng mấy bó cuống chổi, liền ném cho tôi cái vỏ ba lô, giọng thương cảm:
- Bình hãy lấy tạm cái này gối đỡ!
Lòng tôi len lén dâng lên một niềm xúc cảm. Tình nghĩa đùm bọc của người cùng một nước như ấp ủ hồn tôi. Trước khi chìm vào giấc ngủ muộn, tôi miên man nghĩ ngợi. Anh và tôi, trước đây đứng trong hai chiến tuyến đối lập. Vậy mà giờ đây, do những bối cảnh của cuộc đời, do những thực tiễn của đất nước đẩy đưa, lại gặp nhau trong một hoàn cảnh này, để rồi thể hiện lên như một chân lý về cái thiện mỹ của con người cùng chung một quê hương, một dân tộc. Điều đó, cho phép tôi hiểu và tin tưởng rằng, dù Cộng Sản dùng bất cứ hình thức nào, cũng không thể đổi thay được bản chất chân chính của con người… Từ suy tư ấy, trong đầu tôi lạo lóe lên một nét nữa: Một con người như Hoàng Hùng, với tội vượt tuyến, tại sao Cộng Sản lại đưa vào nằm với tôi, một tình báo của miền Nam?
Tôi hiểu, chúng làm việc gì cũng đều có nghiên cứu, nhất là những việc như thế này, lại càng cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn.
Tôi băn khoăn lý luận, phân tích, để ít ra dự đoán gần đúng như ý định của chúng. Nếu đúng như tôi dự đoán, việc chúng đưa Hoàng Hùng vào nằm với tôi có phần tốt cho tôi. Chúng đánh giá phần nào, tôi là một người tiến bộ theo hướng nhìn của chúng?
Tôi nhớ lại, trong một lần đi cung đã lâu, chúng có hỏi vì sao tôi lại thích xã hội chủ nghĩa. Lúc đó, tôi đã ngẫm nghĩ xem nói gì để chúng có thể tin được. Chúng đâu có phải tay mơ, dễ qua mặt chúng, muốn nói gì thì nói được đâu! Phải có biện chứng “lô gích”, hợp tình, hợp lý mới hòng làm cho chúng tin. Cuối cùng tôi đã nói với nội dung như sau:
- Tôi thích xã hội chủ nghĩa, không phải mới đây, mà đã từ xa xưa lắm rồi. Ngay từ lúc tôi còn là một cậu bé 10, 12 tuổi. Tôi đã đậu bằng Tiểu học với hạng Ưu ở Huyện nhà, dưới chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Những buổi đi cắm trại, những ngày hoạt động thiếu nhi, tôi thường được đi chơi với rất nhiều anh bộ đội. Các anh ấy cũng mến tôi, thường dẫn tôi đi chơi đây đó, có khi mang cả về đơn vị của các anh ấy. Nhiều anh bộ đội “Cụ Hồ” luôn ngự trị trong một góc trái tim nhỏ bé của tôi. Lớn lên, do cuộc mưu sinh, do những biến chuyển cuả đất nước, tôi ra Hà Nội, rồi vào Sài Gòn. Một phần, hình ảnh anh bộ đội vẫn chưa mờ nhạt trong tôi; phần khác, tư duy và kiến thức dần trưởng thành theo tuổi đời. Từ trước, tôi vẫn ngưỡng mộ, cảm phục các nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tôi hiểu họ là những người có nhiều kiến thức, uyên bác cổ kim. Họ tìm tòi, phát kiến ra nhiều tư tưởng sâu sắc, có lợi cho nhân quyền xã hội, có lợi cho thời đại mới của loài người. Họ là những người đi tiên phong, chỉ đường và hướng dẫn tư tưởng quần chúng. Sau những biến thiên của đất nước, hầu hết các nhà văn, nhà thơ nhà báo đều ở lại với chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, kể cả sau 1954. Còn ở miền Nam, chỉ có một số cá biệt. Như thế, phải chăng chế độ miền Bắc là đúng, là chính nghĩa? Từ những suy nghĩ đó, dù sau này, vì hoàn cảnh tôi phải làm việc cho chế độ miền Nam, tôi vẫn có một phương châm như kim chỉ nam: “Nếu tôi không làm gì có lợi cho chế độ xã hội chủ nghĩa, cũng dứt khoát không bao giờ làm hại”.
Đấy là lý do tôi nêu lên, khi chúng hỏi cung tôi. Rồi trong thực tế, với tên Hoàn, người chúng dùng làm “khổ nhục kế” với tôi. Tên Phạm Huy Tân, loại chó chết cơ hội chủ nghĩa, tôi cũng thường kể, hoặc nói những khía cạnh tiêu cực của chế độ Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo.
Vậy bây giờ, đưa Hoàng Hùng, một anh bộ đội lão thành, thích chế độ miền Nam, cho vào cùng buồng với tôi,một người của chính quyền miền Nam. Cộng sản, tính lợi dụng tôi làm ruỗng nát lòng mơ tưởng, của Hùng bằng những tư tưởng, mà chúng cho là tôi đã có?
Tôi nghĩ, chỉ có như thế, mới giải đáp thỏa đáng trường hợp Hùng và tôi giam chung với nhau.
Sáng hôm sau, anh Hùng dậy, sau khi hút thuốc lào, còn sờ và ngắm nghía cái cùm. Anh quay sang tôi:
- Tụi thực dân dã man thực. Cùm người ta thế này, thì chỉ có chết thôi!
Nghe anh nói, tôi cũng hơi băn khoăn. Một người Cộng Sản, hầu như cả cuộc đời chiến đấu, nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử trong hàng ngũ Cộng Sản, mà lại phát biểu như vậy ư? Không gì bằng thực tế sẽ trả lời anh! Anh còn ở xà lim này, chỉ ít ngày nữa anh sẽ nghe thấy tiếng cùm, tiếng khóa thôi. Nghĩ như vậy, tôi cũng chỉ nhìn anh, cười không nói gì.
Cửa con xoạch mở, mụ Hoa chỉ tay vào Hùng, bảo đi cung. Buổi trưa Hùng về, chiều lại tiếp tục đi cung, mãi 5 giờ mới về. Sau khi cửa đóng, Hùng quay lại tôi, giọng ngạc nhiên:
- Này, Bình này, sao nhiều tù thế nhỉ? Tôi đi qua sân trại chung, đầy tù?!
Ơ! Tôi mở to mắt ngạc nhiên nhìn anh:
- Tôi tuởng câu đó phải để tôi hỏi anh mới đúng chứ! Tôi là người của chế độ khác mới đến, anh phải giải thích cho tôi điểm đó mới phải. Vậy, trước đây anh nghĩ thế nào?
Nét mặt Hùng rất thành thật:
- Suốt cuộc đời, tôi ở bộ đội, đến khi chuyển ngành công tác ở Hà Nội. Thỉnh thoảng trên đường phố, tôi gặp dăm ba người mặc quần áo sọc, quét dọn ở đường, hoặc làm lao động nặng nhọc ở một khu vực nào đó, do một anh công an coi. Theo hiểu biết và quan điểm của tôi, dưới chế độ cách mạng, phải không có nhà tù nữa. Bời vì, khi cách mạng dựng ngọn cờ khởi nghĩa, đánh đuổi thực dân, tuyên bố phá nhà tù để xây trường học cơ mà. Nhưng bao giờ cũng vậy, trong một xã hội, tất yếu phải có người chưa tự giác cao, có lúc gây ra tội lỗi, sai phạm. Đó chỉ là nhất thời, vậy chỉ cần một số ngày giáo dục, một vài biện pháp bắt buộc lao động, cũng chỉ nhằm mục đích giáo dục con người. Nhưng, ngay những số này, cũng rất là hạn hữu.
Ngồi nghe anh lý luận, tôi càng khiếp sợ cho sự khéo léo, tinh vi của Cộng Sản. Một người như Hoàng Hùng mà cũng chỉ như một con ngựa kéo xe, hai bên mắt bị che kín. Chỉ được nhìn thẳng về phía trước, bảo đi là đi, bảo đứng là đứng. Tôi phải có trách nhiệm, lựa lời dần dần cho anh biết thực tế. Nhưng bây giờ tôi chỉ nói với anh một cách đơn giản:
- Thực tế sẽ hoàn toàn không giống như anh đã nghĩ đâu! Tôi tin rằng những ngày tới, anh sẽ hiểu biết nhiều hơn bằng những sự việc thực tế, và bằng mắt thấy tai nghe.
Anh về muộn, tôi đã lấy sẵn cơm nước vào cho anh. Ăn xong, tên Tư mở cửa. Từ sáng, anh chưa được rửa mặt, vì thế khi tên Tư sắp đóng cửa, Hùng tiến ra:
- Báo cáo đồng chí, cho tôi ra rửa sơ cái mặt?
Tên Tư quắc mắt nhìn Hùng:
- Từ nay, tôi cấm anh không được gọi tôi là đồng chí! Anh là một người tù, không ai là đồng chí với anh cả, nghe chưa!
Hùng mở to mắt ngạc nhiên, hai quai hàm bạnh ra, cuối cùng nuốt hận, Hùng chỉ nói:
- Xin lỗi, tôi quên!
Lúc vào ngồi, Hùng có nét đăm chiêu.
Qua một thời gian, tôi được biết rõ về Hùng như sau: Anh là con một gia đình giầu có ở Hải Phòng. Đang học Trung học thì tiếng súng ngày 19/9/1945 bùng nổ. Với bầu nhiệt huyết của người con trai Việt, chỉ biết yêu nước, yêu dân đơn thuần. Anh đã theo tiếng gọi của núi sông, thoát ly gia đình, cầm súng giết giặc để bảo vệ quê hương. Anh nhiệt tình hăng say học tập, chiến đấu nên ngay cuối tháng 12/1945 anh đã là Tiểu đội truởng trong Trung Đoàn Thủ Đô. Đơn vị anh đã giành giật với thực dân Pháp từng khu phố của Thủ Đô năm 1946. Cuối cùng, sau khi rút lui về chiến khu, anh đã nổ lực chiến đấu vào sinh ra tử bao nhiêu chiến trường. Hết ở đồng bằng, lại Đông Khê, Cao Bắc Lang. Biên chế đổi thay hết: Từ Sư ”312”, Sư Đoàn Đồng Bằng, tới Sư “320”, v.v… Cuối cùng là chiến dịch Điện Biên. Chính Đại Đội anh đã cắm lá cờ đỏ sao vàng lên nó hầm tướng De Castrie. (Ngay từ cuối 53 đầu 54, chính phủ, bộ quốc phòng Pháp đã gắn lon Thiếu Tướng cho De Castrie, bằng cách từ trên máy bay thả lon, xuống ngay chiến lũy Điện Biên).
Bao nhiêu bạn bè đồng lứa với anh lúc đầu, lần lượt nằm xuống hết cho quê hương. Còn sót người nào, ngày nay không là “D” Trưởng, cũng là “E” Phó. Bản thân anh, cao nhất cũng chỉ là “D” Phó, tức Tiểu đoàn phó. Mãi tới khi chuyển ngành năm 1958, anh cũng vẫn là “D” Phó. Chỉ vì, suốt quá trình, anh vẫn có cái đuôi là con tư sản. Do thái độ trong học tập, cũng như trong sinh hoạt tổ chức, anh càng bất mãn, nên đôi lúc cũng có thái độ bất cần.
Anh tâm sự:
- Bình thử tưởng tượng xem, những ngày họp đảng, họp tổ v.v… Ngay các chiến sĩ dưới quyền mình đi đâu cũng không thèm cho mình biết. Rồi cứ nhỏ to thầm thì chuyện này, chuyện kia. Mình có hỏi đến, chúng nó trả lời việc này đồng chí không nên biết. Mình là thằng chiến đấu chịu đựng biết bao gian khổ. Bao nhiêu lần tưởng tan xương nát thịt, may nhờ hồng phúc nhà mình, còn sống sót, thế mà bị đối xử phân biệt, Bình nghĩ có hận không?
Không phải một mình tôi, một số người nữa cũng bị như tôi. Cho nên, khi Sư đoàn tôi về tiếp quản Thủ Đô 10/10/1954, từ địa điểm xuất phát vùng Tây Bắc, trên đường về chúng tôi bắn phi đạn như mưa, gặp cây cối, núi rừng hai bên đường, đều bắn chơi. Tôi ngày càng chán chường, nên có những hành động tiêu cực, chểnh mảng trong học tập. Cũng như trong công tác. Mãi đầu 1958, tôi xin chuyển ngành mới được về công tác ở Bộ Tài Chính, làm phó phòng điều hành. Năm 1959, tôi lấy em gái một người bạn hiện nay là Tiểu đoàn trưởng. Ngay ở Bộ Tài Chính, hiện tượng đối xử phân biệt với tôi cũng vẫn thế. Bởi vậy, tôi đi làm là phải đi làm, nhưng làm sao hăng hái tích cực được nữa.
Trong số những bạn bè quen biết thời gian công tác ở Hà Nội, có một anh là sinh viên Văn Khoa năm thứ hai, thời trước 1954. Sau bị đuổi khỏi trường, ngày ngày lang thang cùng mấy người bạn làm sơn mài, mà vẫn đói rách không đủ ăn. Trong quá trình quan hệ, dọ dẫm, thử thách, khi hiểu về nhau, chúng tôi đã có lần nhen nhúm tư tưởng đi Nam. Chúng tôi tìm hiểu, nghe ngóng một thời gian, thấy rằng: Sài Gòn, cũng như Hà Nội trước 54, là một xã hội đầy dẫy thối nát, với toàn loại chính khách xôi thịt đớp hít, chỉ lo cho gia đình cũng như bản thân làm sao được “vinh thân phì gia”. Còn nói đến quê hương dân tộc, chỉ nói đến ở cái mồm. Nhưng, từ ngày cụ Ngô Đình Diệm về nước, Sài Gòn đã đổi khác. Cả cuộc đời cụ đã lo cho nước, cho dân. Cụ đem ấm no hạnh phúc lại cho người dân thực sự, vì vậy dân tin, dân yêu. Mọi người dân miền Bắc, khi Cộng Sản đến tuyên truyền đã không còn nghe theo lời chúng nữa. Vấn đề đã làm cho Bộ Chính Trị Trung Ương đảng điên đầu. Dân chúng thường thầm thì bàn tán, ít nhiều mang trong lòng niềm hy vọng hướng về Nam. Do đó, chúng tôi hoạch định một đường hướng, rồi quyết tâm ra đi, bỏ cả vợ con lại, khi nào về giải phóng hãy hay.
Từ đó, tôi lại tỏ ra tích cực trong công tác. Đồng chí Bộ Trưởng là bộ đội cũng chuyển ngành, có sự đồng cảm nên rất thương và tin tưởng tôi. Tôi thường được giữ một số giấy phép cấp cho cán bộ hàng tháng đi công tác, có đóng dấu và chữ ký sẵn của Bộ Trưởng. Tôi lấy 3 cái, điền tên của anh bạn và tôi vào công tác ở Vĩnh Linh, để giải quyết một số vấn đề về tài chính. Chúng tôi hẹn ngày, giờ ra đi. Khi tới Vinh, anh bạn còn vào gặp một người yêu ở đấy. Trong lúc từ giã yêu thương, thế nào đó, anh đã thổ lộ mọi chuyện với người yêu. Cô này lại là công an mật, nên khi chúng tôi lên xe vào Vĩnh Linh, công an đến xét hỏi giấy tờ và bắt về đây…..
Những ngày không đi cung, những buổi tối nằm không, tôi thường gợi chuyện anh. Anh cũng mến tôi, nên anh đã kể lại cho tôi nghe bao nhiêu trên đánh ly kỳ. Bao nhiêu câu chuyện ngộ nghĩnh của một số Tướng, Tá trong bối cảnh phức tạp của vùng núi rừng chiến khu Việt Bắc.
Anh Hùng, thường ngày vẫn đi cung liên tục, đôi khi cũng có ngày không gọi. Anh rất thích nghe chuyện miền Nam. Anh tỉ mẩn hỏi giá từng ký gạo, cân thịt bò, cho đến rau cỏ và những sinh hoạt thông thường của xã hội miền Nam. Tôi chỉ cần trung thực kể lại cho anh nghe những điều gì tôi biết. Nhiều cái anh không thể tưởng tượng được. Nhưng sự thật bao giờ cũng có hồn, có giá trị nội tại của sự việc. Vì thế, ngồi nghe tôi nói, anh càng tỏ chán chường ghê sợ đời sống lầm than, cơ cực như con vật của đồng bào miền bắc. Tôi thường kể cho anh nghe một vài nét diễn tiến chính, của xã hội từ ngày cụ Ngô Đình Diệm về nước. Tuy vậy, tôi chưa dám nói những điều gì sâu sắc của cá nhân mình, cũng như của chế độ miền Nam. Tôi định rằng, chưa vội, hãy dần dần tùy theo điều kiện. Mục đích, giúp anh nhận chân rõ được bản chất, của từng sự việc và phần nào thực trạng, của đất nước.
Những lúc anh đi cung, anh thường để diêm và thuốc lào mời tôi hút tự do. Bấy giờ, mỗi ngày tôi hút 3 điếu, và cũng chính do anh Hùng mà tôi đã biết, hút thuốc lào từ đó. Mấy bữa nay đi cung về, hình như có nhiều điều suy nghĩ căng thẳng, anh ít nói hẳn đi. Tối, anh thường mắc mùng đi ngủ sớm, kêu nhức đầu. Tôi hiểu anh đang gặp khó khăn, sự việc của anh có điều căng thẳng. Do ý thức tế nhị chưa muốn đi sâu vào sự việc của anh. Tôi tính mai kia dần dần sẽ lựa lời thăm hỏi, để nhân đó phần nào góp ý giúp anh chăng.
Anh vào đây đã được ngót một tháng rồi, vợ con anh vẫn chưa được gặp. Chiều nay, cũng như mọi khi, tôi đang ngồi buồn bâng khuâng suy nghĩ, chờ anh đi cung về, để biết diễn tiến cung kẹo của anh. Bát cơm của anh tôi đã lấy vào, vẫn lạnh lẽo chơ vơ trên cái cùm ở cuối sàn anh. Cửa mở, anh Hùng đi cung về, tôi thấy anh lách cửa vào, mặt đỏ dừ, hai môi mím chặt. Tôi chưa kịp hiểu và có thái độ gì, đã thấy tên Tư mặt hầm hầm rút chốt cùm. Y bảo Hùng chuyển bát cơm từ chỗ cái cùm lên phía đầu nằm, rồi y nhấc nửa trên cái cùm lên, trong khi Hùng mặt tím bầm, ngồi ghệ ở sàn. Tên Tư quát:
- Bỏ chân vào!
Hùng lừ lừ nhấc một chân cho vào. Tên Tư quát tiếp:
- Bỏ cả chân kia nữa!
Mặt Hùng lại biến sang đỏ. Tôi hiểu anh bị một áp lực nào đó, kìm hãm ghê lắm. Không nói năng gì, anh bỏ nốt chân kia.
Tôi chưa hiểu nguyên nhân nào khiến tên Tư có vẻ căm hận Hùng. Y nhấc cao chân, rồi đạp mạnh vào nửa cái cùm trên, cho dập mạnh xuống. Sắt trên sắt dưới dập mạnh vào nhau, đồng thời người của Hùng cũng giật lên một cái. Tôi nhìn chỗ cùm, thấy một giòng máu đang rỉ chảy từ trên cùm xuống sàn. Tôi hiểu rằng, khi Hùng cho chân vào, chân đã to, anh lại vô ý để bắp chân nằm bè ra mép lỗ. Vì vậy, khi hai nửa cùm dập lại, thì bắp chân anh bị dập đứt. Tên Tư, coi như không thấy, ra chốt cùm rồi đóng khóa cửa lại.
Hùng không nói một lời, mắt nhắm nghiền, nằm ngửa, mặt lại tím bầm.
Tôi suy nghĩ, tội vượt tuyến đâu đến nỗi cùm như vậy! Có thể, do sự phẫn uất của một người đã hiến dâng cả một đời cho chế độ, bây giờ lại bị đối xử không ra gì, nên anh Hùng đã thể hiện thái độ căm phẫn nào đó đối với chúng chăng? Tôi cũng không ngờ sự việc, đã trả lời cho câu hỏi của anh, khi mới vào xà lim này, về “cái cùm của thực dân Pháp”, lại quá đầy đủ như vậy. Giòng máu từ chân anh đã đọng lại, nhưng anh vẫn nằm yên. Tôi thấy không đành lòng, bước xuống để một tay lên vai anh:
- Anh Hùng! Hãy cố gắng gượng ngồi dậy, ăn tí cơm đã!
Anh chỉ lắc đầu, không nói một lời, thái độ tỏ vẻ đừng quấy rầy anh. Tôi hiểu, anh lớn tuổi hơn tôi nhiều, anh đang có những suy nghĩ quyết liệt của đời anh. Tôi phải tôn trọng những phút riêng tư thiêng liêng ấy, thong thả sẽ nói chuyện với anh sau. Tôi về chỗ mình, cũng buồn, nghĩ thương cho một đời của anh. Bao nhiêu công lao sinh tử, để rồi bây giờ là đây?
Cửa con xoạch mở! Mặt tên Tư. Y đóng cửa con lại, mở cửa lớn. Đứng ở giữa cửa, y quát to:
- Anh có ăn cơm không?
Hùng vẫn cứ nghiến răng, nhắm mắt nằm yên. Tên Tư, quay sang tôi gằn giọng:
- Mang bát cơm ra ngoài!
Tôi thấy rất ngại ngần, nhưng mình là tên tù, tôi đành chậm chạp cầm bát cơm đưa ra. Y đóng cửa đến “xầm” một cái.
Tiếng chiếc loa lại léo nhéo vang lên, hết giờ làm việc. Tôi về sàn ngồi, lòng cũng không yên. Ngồi mãi, rồi tôi cũng nằm xuống nhắm mắt, nghĩ ngợi miên man. Đến chừng 6 giờ chiều, giọng ồm ồm của anh Hùng bỗng vang lên:
- Bình! Hãy mắc giúp tôi cái màn!
Tôi ngồi dậy, quay sang anh. Anh nói mà mắt vẫn nhắm nghiền. Tôi lục cái màn của anh trên đầu sàn, tìm mấy cái lỗ ở trên tường loay hoay mắc màn cho anh. Tôi hơi lúng túng, hơn một năm ở xà lim, vì không có màn nên cũng chẳng để ý. Tường không có đinh, chỉ có những lỗ nhỏ. Những người trước đã khoét lỗ vào tường, lấy sợi dây nhỏ, thắt nút thành một cục rồi nhét vào lỗ và lấy cơm phết chặt, khô đi rất cứng, chắc. Còn đầu sợi dây, bẻ một đoạn chổi thanh hao chừng 2, 3 phân buộc lại, thành cái khuy để mắc màn. Mãi tôi mới mắc xong màn cho anh. Tôi cũng hất đuôi màn, che hết cả chân anh.
Mọi khi cũng giờ này, trước khi đi ngủ, tôi bắn một điếu thuốc lào cho say sưa rồi đi nằm. Nhưng bữa nay, anh đang trong tình trạng như thế, tôi cũng chẳng còn lòng dạ nào để say sưa. Ngồi mãi một mình cũng buồn, mới 8 giờ tối. Tôi cũng chuẩn bị những thủ tục che muỗi của tôi để đi ngủ.
Tôi nằm, nhưng không sao ngủ được. Tôi nghĩ đến chân anh Hùng to, tuy người anh khỏe, nhưng làm sao nằm ngửa mãi được. Tôi hiểu rằng, anh cũng không bị cùm lâu đâu, nhiều lắm cũng chỉ một tuần. Chân anh quá to, anh sẽ khó xoay sở để ỉa đái dễ dàng như tôi được. Hơn nữa, tôi biết anh cũng không thể chịu đựng được lâu. Tôi cứ nằm trằn trọc vơi đầy bao nổi niềm về cuộc đời, về đất nước. Thân anh Hùng đã vậy, thân mình cũng tái tê trăm ngả thương đau. Tiếng loa tắt ngấm đã lâu, có lẽ cũng hơn 11 giờ rồi.
Tôi bỗng nghe tiếng khìn khịt, như tiếng một con gà bị cắt tiết. Tôi vội nằm xoay người lại, liếc sang màn anh Hùng. Dưới ánh đèn 40 watts ở giữa trần, tôi cố căng mắt nhìn qua lần vải thưa của chiếc màn, đã ngả mầu vàng của anh. Tôi thấy mờ mờ một mầu đỏ xậm lan to dần chỗ ngực, trên lần vải áo “may ô” anh vẫn mặc. Tôi hiểu, anh qua phẫn uất và chán chường cảnh đời lầm than, khổ đau của anh, nên anh tự tử. Tôi cho rằng, có thể anh có một cái đinh, thọc mạnh vào mạch máu; hoặc, anh ghé răng cắn những mạch máu ở cổ tay. Chứ trong xà lim, lấy cái gì ra để tự tử được!
Tôi cũng suy nghĩ, dù sao trước đây, trong những năm tháng miệt mài hăng say lập công với Cộng Sản, ít ra anh Hùng cũng đã làm ngã gục nhiều người lính chiến, mang trong mình dòng máu Quốc Gia chống Cộng Sản. Vậy, cần để anh thấm thía những sai lầm anh đã làm, để anh thấm đậm hơn “chính nghĩa bịp bợm” của cái gọi là “cách mạng nhân dân” mà anh đã từng phục vụ. Từ ý nghĩ đó, tôi vẫn nằm yên như ngủ say.
Nhưng, những tiếng phì phì như tắc nghẹn của anh, đã làm tôi lại phải mở mắt liếc sang. Giòng máu đỏ đã loang ra đến ngoài màn, chảy xuống nền nhà thành một vũng. Tôi không thể nằm được nữa rồi. Ngồi bật dậy, tôi bước chân xuống đất, chồm sang bên sàn anh. Tôi nhấc màn lên. Máu đỏ lòm, ướt đẫm chiếc áo may ô và một khoảng chiếc chăn bộ đội. Mắt anh vẫn nhắm nghiền, mặt anh xám ngoét. Tôi xúc động, lay lay tay anh:
- Anh Hùng! Tại sao anh làm thế? Anh không được chết, người đáng chết là tôi đây này. Anh còn phải sống vì trách nhiệm với vợ anh, con anh, và cần sống để nhìn rõ được nhiều sự thật, mà trước đây mơ hồ.
Anh vẫn nằm im, không nói gì với tôi cả. Không làm sao được nữa, tôi vội đứng lên sàn, ngửa mặt ra ngoài phía cửa sổ, gào to:
- Báo cáo cán bộ, buồng 2 có người tự tử!
Im lặng. Bên ngoài chỉ có tiếng gió rì rào của đêm thâu. Tôi lại gào lên lần nữa. Vẫn im lặng. Lần này, tôi cho miệng ra sát cửa sổ. Mới mở miệng hô “Báo Cáo…” Chưa hết câu, cửa con đã xoạch mở. Giọng một người lạ:
- Cái gì?
Chắc gì đã nhìn thấy vũng máu còn đỏ xậm dưới nền nhà, dù vậy tôi vẫn nói và chỉ tay sang phía màn anh Hùng:
- Anh này tự tử…
Tiếng chìa khóa lẻng xẻng mở cửa. Một người lạ mặt mặc thường phục, tôi chưa thấy bao giờ, khẩu súng ngắn đeo trễ một bên hông. Y vào, nhấc cái màn, rồi y nhìn xuống hai cái chân ở trong cùm cũng có máu đã đen xậm. Y vội vàng ra, đóng cửa lại. Khoảng 5 phút. Hôm nay, tôi mới lại thấy mặt tên Thế, cái tên khốn nạn đã đánh tôi khi tôi mới vào xà lim năm ngoái. Y còn đang mặc quần đùi, cởi trần.
Chúng rút cùm, nhấc hai chân anh Hùng ra, và giật cái màn xuống. Ngoài cửa đã có cái băng ca bằng gỗ. Tên mặc thường phục, hất chân của anh Hùng ra. Bây giờ tôi mới nhìn rõ, tay trái của anh: cổ tay và khủy tay đều rách nát, đầy máu. Trên cổ anh, ngay chỗ yết hấu, mấy cái bong bóng máu to nhỏ bám ở vết cắt vẫn phập phồng. Tên Nhiễm đã tìm thấy, giơ lên một lưỡi “lam” mỏng. Tên Nhiễm cầm hai tay anh Hùng, tên Thế hai chân, khênh ra ngoài cửa. Tới cửa, quay lại tôi Nhiễm nói:
- Tất cả những vật dụng gì của anh ấy, anh bỏ ra!
Tôi thu gọn hết, cả cái điếu con, diêm và thuốc lào. Trong lúc quá vội vàng, nên thứ gì của anh Hùng tôi cũng vơ gọn lại. Sau này, tôi tiếc cái điếu và thuốc lào mãi.
Buồng tanh ngòm! Tôi đề nghị tên Nhiễm cho tôi lấy một bô nước dội. Sau khi thấy y gật đầu, tôi chạy ra làm 3 bộ nước dội lên sàn và dưới nền. Xong việc, chúng đóng cửa và khóa ngay, lúc đó đã 12 giờ đêm. Tôi lấy chổi quét nước trên sàn xuống, rồi quét nền cho nước chảy xuống một cái lỗ nhỏ dưới nền nhà, chỗ sát tường phía đầu nằm. Đêm đã khuya, vắng lặng, trong buồng vẫn sặc lên mùi tanh của máu! Từ đó, tới lúc có tiếng loa, tôi cứ thấp thỏm không làm sao ngủ được. Chẳng hiểu anh Hùng sống hay chết!
Tôi đoán rằng, trong lúc chúng khám, khi anh mới vào Hỏa Lò, anh vẫn giấu được một lưỡi “lam” chắc để cạo râu. Vì là tôi vượt tuyến, đâu chúng khám kỹ như khám tôi. Tôi cứ triền miên nghĩ ngợi, hết ngả nọ đường kia, chợt nhìn đến cái vỏ ba lô anh cho tôi mượn để gối đầu, vẫn còn đây. Hồi đêm vì quá khẩn cấp và căng thẳng, tôi quên khuấy đi. Ngày mai, tôi sẽ báo cáo cán bộ để trả lại anh. Với miền Bắc, đó cũng là một tài sản quý giá. Một ý nghĩ nữa lại lóe lên trong óc tôi. Để biết rõ anh ra sao, cứ để 2, 3 ngày nữa hãy báo cáo. Như vậy, trong thời gian đó, nếu cán bộ đến hỏi cái ba lô, có nghĩa anh Hùng không sao cả, nên đã nhờ cán bộ đến lấy lại. Ngược lại, nếu mấy ngày nữa, không thấy gì, tôi báo cáo trả mà cán bộ cầm đi, anh Hùng cũng vẫn còn sống. Tuy rằng không chắc chắn lắm, nhưng như vậy cũng ang áng đoán được sự việc.
Mấy hôm sau, tôi thật là thèm thuốc. Thèm thuốc, lại nhớ đến anh Hùng. Một buổi, sau khi tôi trả bát xong, lúc tên Tư sắp đóng cửa, tôi cầm cái ba lô, tiến ra trước mặt y:
- Báo cáo cán bộ! Anh Hùng, mấy hôm trước nằm ở đây, thấy tôi không có cái gì gối đầu, anh đã cho tôi mượn để gối. Đêm hôm anh ấy tự tử, vội quá tôi quên trả, xin gửi cán bộ để trả lại cho anh.
Y nhìn cái vỏ ba lô bằng vải bộ đội, cũng đã cũ, một phía túi đã rách, đoạn thủng thẳng:
- Thôi, cho anh!
Tôi lộ vẻ băn khoăn:
- Thưa ông, cái này của anh Hùng, chắc gì anh đồng ý cho tôi?
Y hất tay đuổi tôi vào, vừa đóng cửa vừa nói:
- Tôi nói cho là cho! Đừng nói nhiều!
Cửa đóng rồi, tôi vẫn đứng cầm cái ba lô ngẩn ngơ, bần thần. Như vậy, anh Hùng đã chết thật rồi ư? Vợ anh, con anh ở đâu, có biết gì không? Anh Hùng ơi! Còn bao nhiêu điều nữa tôi định nói với anh, và cũng còn bao nhiêu điều nữa tôi muốn hỏi anh. Thế mà, anh đã vội vàng bỏ hết, bỏ cả vợ dại con thơ, để ôm một mối uất hờn, oan nghiệt ra đi…..
Tự nhiên, tôi buông một tiếng thở dài nhè nhẹ, lê thê như lời than vãn não ruột, cho một kiếp người vô nghĩa.
Chuyện của anh Hùng làm cho tôi hàng tuần lễ, đêm nào cũng thấp thỏm ngủ không yên. Thỉnh thoảng, những lúc giật mình thức giấc, tôi lại liếc sang sàn bên. Hình ảnh anh Hùng nằm thẳng cẳng, hai mắt nhắm nghiền, hai chân trong cùm, máu me bê bết như mới vừa đây…..
Thép Đen Thép Đen - Dang Chi Binh Thép Đen