Những gì làm bạn đau khổ sẽ dạy bạn nhiều điều.

Benjamin Franklin

 
 
 
 
 
Tác giả: Dang Chi Binh
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 214
Phí download: 13 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4611 / 116
Cập nhật: 2023-03-29 02:21:49 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 37: Chết… Hụt
ã vào hè, thời tiết càng ngày càng oi nồng và muỗi. Xà lim 2 thật nhiều muỗi, có lẽ vì cửa sổ to, lại thấp nên muỗi nhiều vô kể.
Phải nói rằng, tôi kiệt sức một phần vì cùm, nhưng còn một phần nữa vì muỗi. Tôi thường lấy ngày làm đêm, lấy đêm làm ngày. Suốt đêm, tay cứ phải cầm áo xua đuổi muỗi. Rồi những lúc mệt mỏi quá thiếp đi, tay chân lại đầy lên nốt muỗi. Ở xà lim 3 vậy mà ít muỗi hơn. Có lẽ vì cửa sổ nhỏ, lại ở mãi tít tận trên cao, cho nên các chú muỗi cũng khó vào. Những người ở buồng khác hầu như đều có màn. Những lúc tắm giặt đem quần áo ra chỗ nhà vãng lai phơi, thỉnh thoảng tôi thấy có màn phơi. Cụ thể, hai người ở chung với tôi trước đây là Hoàn và Tân, họ đều có màn cả. Hơn nữa, những buổi đêm tối, chỉ có buồng tôi có tiếng động, đập và đuổi muỗi; các buồng kia im vắng, có chăng chỉ là tiếng kêu rên ban đêm. Như thế, cả xà lim này, ban đêm, chỉ có mình tôi phải đón nhận tất cả các con muỗi. Ôi khổ cực thân tù: “Mùa Đông rét mướt, mùa Hè muỗi bu!”.
Có thể vì cơ thể tôi không còn chất để chống đỡ, lại do người tôi bẩn thỉu, cứt đái, hôi hám, cho nên những nốt muỗi cắn dần dần trở thành ghẻ, ngứa ngáy bắt gãi suốt ngày đêm. Từ nhỏ tới lớn chưa hề bị ghẻ lần nào, chưa biết ghẻ là gì, bây giờ ghẻ suốt cả người, nhất là ở háng, nách, kẽ tay, kẽ chân, trông như hủi. Ngứa ngáy quá tôi không chịu nổi nữa, tôi báo cáo với lão Tư để xin thuốc ghẻ.
Tôi phải báo cáo nhiều lần, một hôm mụ Dậu mới xem tôi. Đã lâu không gặp tôi, con mắt mụ nhìn tôi như đượm một chút ngạc nhiên, một chút xót xa cho một người chóng tàn lụi như vậy. Mụ cho tôi một chai thuốc, nhưng tôi chỉ được để ở ngoài chỗ đuôi suốt cùm, phía sàn bên. Hàng ngày khi được mở cùm ra lấy cơm, tôi phải báo cáo cán bộ, tranh thủ đứng đấy bôi, rồi để lại chỗ cũ. Chúng sợ tù tự tử. Uống thuốc ghẻ không chết, nhưng làm cho chúng mất công. Vì điều kiện chữa và bôi như thế, nên ghẻ không thể khỏi được.
Đã gần 30 ngày cùm hai chân rồi mà tôi vẫn không được gọi đi cung. Bây giờ, hai chân tôi cứ cắn nhức ở trong xương. Hàng ngày ra lấy cơm, tôi không thể đi nhanh được nữa. Tôi lặc lè những bước đi rất khó khăn, vừa đau nhức, vừa như không nhấc nổi hai chân. Dần dần hai mu bàn chân của tôi tự nhiên sưng múp lên. “Nam túc, nữ mục”. Tôi nhớ các cụ già nói thế. “Đàn ông chân phù, đàn bà mắt phù”, đó là triệu chứng của sự chết! Chuyến này, chắc tôi phải chết. Chúng chả cần phải bắn tôi. Nếu bắn, chết ngay đâu có khổ. Nhưng ở đây, chúng bắt tôi chết dần, chết trong quằn quại, ngắc ngoải, khổ đau; bắt tôi phải nhìn cái chết đến dần dần.
Tôi hiểu lòng dạ chúng như vậy. Là người Công Giáo không được tìm cách tự tử. Nhưng, dù muốn tự tử trong tư thế này, tôi cũng không có cách gì tự tử được cả. Anh có gan đập đầu vào tường không? Hay chỉ dang dở, để rồi không chết dược mà lại sống mang bệnh thần kinh? Vả lại, tâm lý con người, trừ trường hợp cá biệt, còn nói chung, dù biết là sắp chết, trong lòng vẫn níu kéo từng giây, từng phút để sống.
Phải nói, tư tưởng của tôi bây giờ cũng suy sụp lụi tàn rồi. Chân thì nhức buốt, người lại rã rượi ngứa ngáy như điên, tôi không còn đâu tinh thần để phấn đấu nằm xuống,ngồi lên cho mạch máu lưu thông nữa. Tuy thâm tâm tôi hiểu rằng, càng chán nản tiêu cực như vậy, càng đi nhanh đến chỗ chết. Ngay cả khi lấy cơm ăn, tôi cũng phải bò ra, vì không đi được nữa. Có lần, tên cán bộ thấy tôi chậm chạp quá lâu, mất nhiều thì giờ của hắn, hắn kéo tôi vào buồng, để rồi cả bát cơm canh đổ ra đất. Tôi phải bò theo để bốc, nhặt vào, chỉ còn một chút cơm với mấy cọng rau. Chỉ vì, y không dám sờ vào người tôi, sợ bẩn, sợ ghẻ; y cầm vai áo của tôi mà kéo nên mới đổ như vậy.
Có lẽ y đã nhìn thấy tôi như thế này, vừa mất thì giờ của y, đồng thới tôi sẽ chết, nên y đã bao cáo thế nào đó, chiều hôm ấy, tên Lê vào. Lê phải mở cửa buồng to ra, mà vẫn đứng ở mép cửa, chắc hẳn vì cái buồng hôi thối lắm rồi. Y nói vẻ dìu dịu:
- Tại sao anh ngoan cố không chịu thành khẩn khai báo?
Tôi nói giọng hổn hển vì mệt và pha lẫn một chút niềm xúc động.
- Tôi…khai hết rồi, nhưng…các ông ấy không tin.
Cửa đóng rồi, tôi nằm xuống. Tôi nằm, cảm thấy dập dờn như đi trên thuyền. Tai cứ nghe những tiếng lùng bùng, o o, tôi chưa bao giờ thấy cơ thể mình như vậy. Có lẽ, tôi sắp chết, chết đêm nay.
Đã 43 ngày rồi, cơ thể không còn sức chịu đựng nữa. Hai chân tôi cứng đơ ra. Tôi muốn lùi người xuống để cho cái chân co lại một chút, nhưng tôi chống tay mà không còn sức để lết. Tay tôi rủn ra, yếu đuối quá! Tôi bằng lòng chết, không thắc mắc gì nữa. Xin Chúa hãy cho con chết! Cho con chết đêm nay, con xin cảm tạ Chúa! Bây giờ muỗi cứ đốt, tao không tiếc chúng mày nữa. Đàng nào thì máu tao cũng thành tro bụi, đất cát, vậy chúng mày cừ dùng đi…Tôi cũng không còn cảm thấy ngứa ngáy nữa. Tôi lịm đi…
Tới khi có ai đó kéo tôi dậy. Tôi mở mắt ra, thấy một ông mặc áo “blouse” trắng, đang cầm tay tôi tiêm. Tôi nhìn. Tôi không còn nằm xà lim nữa, mà nằm trên một cái giường gỗ. Tôi cố cúi nhìn xuống hai chân. Hai chân tôi không còn trong cùm mà giạng ra ở cuối giường. Như thế, chúng đã tháo cùm tôi từ bao giờ. Đây là đâu? Tôi tự hỏi. Sao tôi không hề biết gì cả? Tôi đoán đây là tên Huệ, y tá, có lần tên Tân nói với tôi về y. Để y tiêm xong, tôi hỏi y với giọng còn run run xúc động:
- Thưa ông, đây là đâu ạ?
Mặt y tươi tỉnh nhìn tôi:
- Bệnh xá!
Rồi y hạ thấp giọng, tình cảm:
- Đêm qua, tôi tưởng anh đi luôn rồi. Anh có một sức sống kỳ diệu!
Vừa nói, y vừa đứng dậy, cầm khay thuốc sang phòng bên.
Tôi nằm, miên man nhớ lại lần lượt; chiếu tối hôm qua, tự nhiên tôi thấy người như nhẹ nhàng, không còn cảm giác đau đớn và ngứa ngáy nữa… Rồi, không biết làm sao, tôi như thấy mình về lại Sài Gòn. Tôi gặp mẹ tôi. Người còn cho tôi một cuốn sách chữ vàng rất dầy, và nói: “Đây là một cuốn sách quý lắm!”… Như vậy, chắc là tôi đã xỉu đi. Rồi một cán bộ nào đó, vô tình đi kiểm tra các buồng, thấy tôi như vậy, nên đã gọi người và xin lệnh đưa tôi xuống bệnh xá. Âu đây, cũng là cơ trời, số của tôi chưa chết được!
Nghĩ tới đây, tôi lại thấy người bắt đầu ngứa ngáy. Tôi thử nhấc hai chân, thấy hơi nằng nặng, nhưng được. Tôi lựa thế, cố gắng ngồi dậy. Tuy hơi khó khăn, nhưng tôi ngồi dậy được, và tôi bắt đầu gãi. Chỗ tôi nằm là một căn buồng nhỏ, chẳng có ai.
Bỗng cửa mở, tôi thoáng nhìn ra một căn phòng rộng ở bên cạnh, có nhiều giường cá nhân, trên đó, lố nhố một số người gầy như những bộ xương đang nằm. Mụ Dậu vào, mắt mụ sáng lên nhìn tôi:
- Hôm qua, tôi tưởng anh chết rồi!
Tôi nhìn mụ bằng con mắt cám ơn. Tôi thoáng có ý nghĩ, làm cách nào xin được thuốc ghẻ? Thấy mụ định đi ra, tôi đánh bạo lên tiếng:
- Thưa bà, ghẻ tôi ngứa lắm. Xin bà cho tôi thuốc…?
Mụ vừa gật đầu, vừa đi ra. Thái độ của mụ tỏ vẻ tích cực giúp tôi chữa ghẻ.
Mót giải, nhìn quanh, tôi thấy một cái bô ở góc buồng, tôi cố gắng tụt xuống và chậm chạp lê bước đến chỗ cái bô. Tôi cảm thấy khỏe hơn ngày hôm qua, hôm kia nhiều. Mấy bữa đó, tôi không còn đi được. Như thế, có thể nhờ được tiêm thuốc nên tôi hồi sức.
Tôi trở về giường. Hai chân tôi vẫn sưng múp, nặng chình chịch. Tôi mệt mỏi nằm xuống, đúng lúc đó tên Huệ mở cửa đi vào, theo sau là một anh tù hình sự, bưng một tô cháo, khói bay nghi ngút. Huệ đưa cho tôi một lọ thuốc ghẻ.
Thấy có vẻ dễ chịu, tôi hỏi:
- Thưa ông, tôi được ở đây bao lâu?
Vẻ mặt đắn đo, y dè dặt:
- Tôi không rõ, nhưng chắc vài ngày.
Tôi hỏi, vì tôi sợ trở về xà lim lại bị cùm. Tôi cố ăn hết bát cháo nấu muối. Mồ hôi vã ra và tôi thấy nhẹ hẳn người.
Không có điều kiện tắm, tôi gãi mạnh những nốt ghẻ cho bong vảy. Trong buồng không có ai, tôi cởi hết quần áo ra bôi, bôi đi bôi lại. Tôi tích cực bôi, mong mấy ngày cho khỏi, vì sợ rằng về xà lim, tôi lại bị cùm, không thể chữa được.
Chiều hôm đó, khoảng 4 giờ tôi lại được một tô cháo nóng nữa. Tôi vừa ăn xong, tên Lê- Phó Giám thị vào buồng với tên Bằng. Y nhìn tôi với vẻ mặt dễ chịu:
- Anh có thấy không, đáng lẽ anh đã chết đêm qua rồi, nhưng lòng nhân đạo của đảng đã cứu sống anh. Đảng và cách mạng đã đưa sự sống trở về cho anh. Anh phải ghi ơn đó suốt đời anh. Tôi đã cho lệnh y tế bồi dưỡng anh một tuần cơm cám. Để đáp lại công ơn cứu tử này, anh hãy dốc lòng thành thật khai báo. Đời anh còn dài, anh sẽ có ngày được hưởng lượng khoan hồng của đảng và nhà nước, trở về xã hội làm lại cuộc đời.
Tôi thấy y cứ nói đi nói lại, vẫn loanh quanh chỉ có thế, vì vậy, để cho qua chuyện, tôi chậm chạp từng lời:
- Trong nơi sâu kín của trái tim này, tôi xin biết ơn đảng và cách mạng, trực tiếp là các ông.
Tôi vừa nói, vừa để tay lên ngực. Với một giọng gia ơn, tên Lê tiếp tục:
- Tôi thông cảm điều kiện sức khỏe của anh, tôi đã đề nghị trên tạm thời tha cùm cho anh. Ngay chiều nay trở lại xà lim, anh hãy suy nghĩ cho sâu, quyết tâm từ bỏ những tội lỗi sai lầm trước đây bằng cách khai báo hết mọi âm mưu thủ đoạn làm hại nhân dân, làm hại cách mạng của bè lũ Mỹ Diệm với đảng và nhà nước. Chỉ có một con đường duy nhất đó, anh mới được hưởng lượng khoan hồng của đảng.
Nó nói, mặc nó nói, tôi cũng chẳng chú ý nghe. Điều tôi chú ý lắng nghe nhất là ba chữ:”Tạm tha cùm”. Chỉ nghe ba chữ này, tôi thấy người tự nhiên nhẹ hẳn đi, như có một nguồn sinh lực ở đâu tràn vào cơ thể. Tên Lê và tên Bằng đã đi rồi, tôi vẫn ngồi yên. Hồn tôi vẫn rung rinh nhảy múa, có cảm giác như một phiến đá nặng nề hằng ngày đè chĩu trên vai, nay được hất xuống rồi, dù rằng tạm bợ.
Khoảng 5 giờ chiều, trại chung đã vào hết, tên Bằng vào bảo tôi đi theo y về xà lim. Mùa Hè, lúc này mặt trời chưa đi ngủ, ánh nắng nghiêng nghiêng phản chiếu từ những bức tường nhà trại chung, làm cho cảnh vật sáng lên một mầu vàng ửng. Dăm con chim sẻ ríu rít trên cành bàng, như chia xẻ với nỗi hân hoan đang tràn ứ trong lòng tôi. Nhìn những chiếc lá bàng đang thời kỳ con gái mơn mởn, sau những ngày Đông giá khẳng khiu khô cằn, tôi liên tưởng tới đời mình, mới vừa từ cõi chết trở về, để rồi lại tiếp tục bì bõm lặn lội trong đường hầm đen tối; đâu đã được thảnh thơi đùa rỡn với gió chiều như những chiếc lá bàng kia.
Tên Bằng dẫn tôi về xà lim II, nhưng lại mở cửa đưa tôi vào buồng số 2. Như thế càng gần cổng trại chung, càng gần chiếc loa lắm mồm hàng ngày. Thấy tên Bằng hôm nay có vẻ dễ chịu tử tế, tôi khẩn khoản:
- Thưa ông, tôi có cái bó chổi dùng làm gối để ở buồng số 4, xin ông bớt chút công mở cửa cho tôi lấy…?
Y ngơ ngác, không hiểu, tôi phải nói thêm:
- Đó là những cái cuống chổi thanh hao đã cùn, tôi không có gối, nên đã buộc, bó với nhau làm gối. Vừa rồi xuống bệnh xá, tôi còn để lại buồng số 4.
Y chạy lại mở cửa con buồng 4. Tôi thấy y hỏi gì người bên trong. Như vậy, buồng 4 lại có người mới rồi. Một lúc, y trở lại bảo tôi:
- Vào nhà tắm xem sao?
Tôi vội chạy sang buồng 8 ngay đối diện. Tôi đã nhìn thấy cái “gối” của tối ướt nhẻm, vất ở một xó sàn, hãy còn dính đầy phân. Thôi đành! Tôi vội vàng mở vòi nước, đập đập cái “gối” xuống nền cho phân trôi đi, vẫy khô, rồi nhanh nhẹn chạy vào buồng. Như vậy là hôm nay y đã dễ dãi với tôi nhiều rồi.
Cửa đóng. Căn buồng này không được sạch, nhưng đã có cái chổi thanh hao, tôi cảm thấy khoáng đãng tự do thoải mái. Chân tôi, tuy chưa được nhanh nhẹn, nhưng từ nãy, do sự hoan hỉ ở trong lòng, tôi cứ thích lăng xăng làm việc. Tôi quét sạch hai sàn, dưới nền, hốt hết vào cái bô. Chai thuốc ghẻ vẫn nằm trong túi, tôi lại cởi hết quần áo tích cực diệt ghẻ.
Đêm hôm đó, để chống muỗi, với hai bộ quần áo, mặc một bộ, bộ còn lại, tôi lấy cái quần mặc dài xuống dưới cho hai ống quần phủ che kín hai bàn chân, thắt giải rút ở ngay đầu gối, còn chiếc áo thì trùm lên mặt, cho hai tay lên đầu luôn. Trời nóng, mồ hôi ra ướt đẫm, đắp như vậy khó thở, nhưng còn hơn là để muỗi cắn. Mới được tha cùm, tâm tư còn nhiều sôi nổi, lại thêm mấy ngày thoa thuốc ghẻ, bớt ngứa, đêm hôm ấy, tôi ngủ một giấc thật thoải mái tự do.
Hôm sau, lại là ngày tắm giặt, tôi cào hết mọi mụn ghẻ, về buồng bôi thuốc, ghẻ đỡ đi rất nhiều. Chỉ 3 ngày sau, người tôi lại sức hẳn. Hàng ngày, tôi loanh quanh trong buồng ung dung, nhàn hạ. Tôi tò mò cố đọc những giòng chữ nhỏ, những người tù trước đã ghi vào tường bằng một cọng thép hay một cái đinh”.
- Trần Minh Châu, tức Cập. Vụ án tình báo 1958.
Tôi chẳng hiểu “Trần Minh Châu” là ai, chẳng hiểu “vụ tình báo” này từ 1954 cài lại, hay mới ở miền Nam ra như tôi bây giờ. Rồi một vài hàng chữ nữa rất mờ, nói đến “…vụ án chiếc ấn vàng của Bảo Đại…”. Phần do trình độ, người viết chữ nguệch ngoạc, phần vì đã lâu ngày rồi, chữ mờ, tôi cố gắng nhưng không thể đọc hết được, dù viết rất nhiều. Tôi chỉ thấy ghi 1957… Một vài vụ vượt tuyến…
Tôi đang ngồi tỉ mẩn, mò mẫm tìm tòi, đọc những hàng chữ ghi trên tường, cửa con xoạch mở. Mụ Hoa chỉ tôi!
- Đi cung!
Từ ngày tôi bị cùm do chấp pháp, để đến nỗi phải bò và suýt chết, trong lòng tôi căm lắm. Vì thế, tôi đã chủ trương sẵn. Khi ra tới phòng cung, tôi thấy lại vẫn là tên Nhuận và Thành. Mặt tôi rất lạnh lùng. Không chào hỏi, tôi cứ ngồi vào chiếc ghế đã dành sẵn cho can phạm. Tên Nhuận nhìn tôi, giọng đạo đức giả:
- Dạo này anh có khỏe không? Sao anh gầy thế?
Tôi cũng nhạt nhẽo:
- Cảm ơn ông, tôi bình thường!
Tên Thành nói với giọng ra vẻ tình cảm:
- Chúng tôi bận việc, lâu lắm không gặp anh. Hôm nay, chúng tôi vào thăm anh. Tôi tin rằng với thời gian lâu như vậy, chắc anh đã biến chuyển tốt. Vậy, hôm nay anh có cần gì nói với chúng tôi không? Chúng tôi sẽ đáp ứng những ý kiến mới của anh!
Thấy chúng không hề nói gì đến việc cùm kẹp tôi cả, tôi cần nói ý cho chúng biết là từ nay đừng nói gì đến “chính nghĩa” nữa:
- Thưa các ông, từ ngày các ông ra lệnh cùm tôi hai chân, nếu không do một sự may mắn tình cờ, làm sao tôi sống để mà nghĩ với ngợi…
Cả hai tên đều mở to mắt, ra vẻ ngạc nhiên. Tên Thành vội vàng:
- Hả? Anh bị cùm hai chân à? Ai nói với anh là chúng tôi cùm anh?
Đúng là Cộng Sản! Tôi tin là chúng biết hết mọi diễn tiến suốt thời gian cùm tôi, cho tới khi bọn chúng phải đưa tôi xuống bệnh xá để cứu sống. Thế mà, bây giờ chúng lại ra vẻ ngạc nhiên như không hề biết gì cả. Thật là trắng trợn! Tôi càng suy nghĩ, tôi càng thấy chúng lòng lang, dạ sói mà lại cố che giấu dưới bộ mặt từ bi, nhân hậu. Tôi thấy nóng người lên, chẳng biết sợ nữa, nhìn thẳng vào mặt chúng, tôi trả lời:
- Tôi ân hận là đã thành thật khai báo hết với các ông!
Tên Nhuận đứng giỗ dậy, đập bàn, chỉ ty vào mặt tôi:
- Anh láo! Anh trả lời trước cán bộ nhà nước như vậy hả?
Tôi vẫn ngẩng đầu, cứng rắn:
- Tôi tin tưởng các ông là chính nghĩa, nên tôi đã ngày đêm moi óc, nhớ lại hết mọi sự việc để khai báo với các ông. Ra ngoài Bắc, tôi cũng đã không hoạt động gì cho bè lũ Mỹ Diệm; thế mà giờ đây các ông lại dùng những hình thức tra tấn khai thác của thực dân, Đế quốc đối với tôi. Để rồi tôi, một thanh niên khỏe mạnh, không chịu nổi với bao nhiêu ngày đêm hành hạ, đến nổi phải bò đi. Rồi cho tới khi, thấy rằng tôi sẽ không sống được nữa, các ông mới tạm tha.
Tôi giơ hai tay và vạch hai chân ra:
- Đây, các ông xem, hai bàn chân tôi vẫn còn sưng phù, đầy ghẻ lở. Tôi đề nghị các ông cho lệnh bắn tôi đi, tôi cảm tạ các ông!
Tên Nhuận cười nhạt, tên Thành vẫn ngồi yên. Một lúc, tên Nhuận nói lớn tiếng:
- Chúng tôi đã nói, chúng tôi không cho lệnh cùm anh! Để chúng tôi sẽ hỏi các đồng chí bên trại giam xem thế nào. Chúng tôi muốn cùm anh, chúng tôi sẽ nói thẳng, chứ cần gì phải giấu anh. Còn anh muốn chết? Sẽ được chết! Loại người như anh, cũng không để sống làm gì. Anh đã ăn nhiều bơ thừa sữa cặn của Mỹ và tay sai. Bơ thừa, sữa cặn đã thấm vào xương vào tủy anh rồi, nên anh mới dốc một lòng, một dạ hại dân, hại nước. Anh đã quyết tâm là một tên bán nước, để anh sống làm gì, hại cơm nhân dân!
Tôi không chịu dược nữa rồi. Tôi nói với sự phẫn uất căng đầy:
- Tôi nói với các ông là, tôi, một thanh niên, giòng máu Việt Nam đang cuồn cuồn chảy trong cơ thể này. Với luơng tâm và danh dự: Nếu nước Việt Nam yêu quý này có giặc ngoại xâm, tôi sẽ là một trong những người lính đứng hàng đầu, cầm súng chiến đấu với kẻ thù, để bảo vệ cho giải giang sơn gầm vóc này. Tôi sẽ sẵn sàng chết cho quê hương, không phải vì tiền, cũng không phải vì danh vọng. Tôi không ưa gì người Mỹ, và tôi cũng chống đối đến cùng tất cả những kẻ nào muốn thống trị đất nước tôi, xâm phạm vào chủ quyền độc lập của mảnh đất hình chữ “S” này!…
Tôi thấy cả hai đứa đều tím mặt lại. Trong cái thế này, tôi nghĩ phải xoa dịu chúng, vì vậy tôi nói thêm:
- Tôi là một người yêu nước với cả tâm hồn tôi, có chăng chỉ là tôi đã yêu…lầm!
Dù gì, hai tên cũng thấy tôi đang nói lên những lời từ trái tim đang sục sôi bầu nhiệt huyết. Chúng không thể phủ nhận được điều đó, vì thế tên Thành mỉm cười nói giọng dàn hòa:
- Anh yêu nước như thế là tốt! Vậy, tại sao anh không chịu nói hết với cách mạng, mọi âm mưu thủ đoạn Mỹ Diệm giao cho anh, ra ngoài miền Bắc này?
Tôi lợi dụng câu nói của y để đẩy đưa:
- Chính vì thế, không phải đợi đến bây giờ các ông hỏi. Tôi đã thấy có trách nhiệm ngay từ lúc đầu, tôi đã khai báo ngay âm mưu, ý đồ của địch giao cho tôi.
Các ông đã hiểu rõ lòng tôi, vậy từ nay, tôi đề nghị đừng dùng những từ bán nước, hại dân đối với tôi.
Hai đứa cười không trả lời. Một lúc sau, tên Nhuận hỏi với giọng nửa đùa, nửa thăm dò:
- Này tôi hỏi thực anh, anh còn điều gì không đồng ý với xã hội chủ nghĩa nữa, khiến anh không chịu khai hết sự thật? Tôi đã hỏi cung nhiều rồi, nhưng tôi chưa thấy ai khó khăn như anh cả. Người ta ai ai cũng vậy, khi đã thấy được ánh sáng chính nghĩa, đều thành khẩn khai báo mọi chi tiết. Chỉ riêng anh cứ khư khư ôm mãi.
Rồi y tươi nét mặt thổi và dụ dỗ:
- Anh biết không, chúng tôi suy nghĩ về anh rất nhiều, chúng tôi muốn giải quyết thất tốt cho anh. Người như anh về với cách mạng thật có lợi cho nhà nước. Đối với đảng, gỗ cong có việc cong, gỗ thẳng có việc thẳng. Biết đâu, anh hoạt động cho kẻ địch, vì phi nghĩa nên không thành công, còn hoạt động cho cách mạng, với tài của anh, anh lại chả gặt hái được nhiều kết quả có lợi cho nhân dân?!
Tôi cười và nói cho qua chuyện:
- Cảm ơn các ông, các ông nói đùa vậy. Tôi là một kẻ quê mùa lại còn trẻ, có biết gì đâu mà các ông nói là tài. Bây giờ thân tôi đã bị bắt, đã có tội với cách mạng, tôi chỉ biết ăn năn đền tội; ngoài ra, tôi không có một ý nghĩ gì khác.
Trước khi chúng cho tôi về, tên Nhuận còn cố ra vẻ thân mật:
- Bình về suy nghĩ kỹ nhé! Chúng tôi sẽ giải quyết rất tốt cho anh!
Tôi lặc lè theo tên Bằng về xà lim, vừa cười thầm trong bụng cho cái trò hề rẻ tiền của chúng. Về mặt gì khác, tôi có thể còn ngây thơ chưa hiểu chúng, chứ về mặt này, tôi không còn lạ gì tim đen của chúng cả. Chẳng qua chúng đã dùng đủ mọi cách rồi mà không có kết quả. Bây giờ, chúng lại đưa mồi ra nhử. Tôi luôn xác định rõ, không mơ hồ: Chấp pháp với bị can (người còn đang trong thời gian thẩm tra khai thác, chưa thành án), cũng có thể ví như người câu cá với con cá, hai ranh giới, hai quyền lợi đối nghịch nhau. Mơ hồ miếng mồi, đớp vào, không lên bờ vào giỏ đợi chờ làm thịt, thì cũng rách mõm, toạc môi.
Hôm nay, đã mồng 5 tháng 6 rồi. Đang độ giữa Hè, trời nóng như nung. Tôi được thả cùm đã hơn nửa tháng. Hai bàn chân tôi sau một tuần ăn cơm cám, đã rút lại. Những nốt ghẻ do tôi tích cực bôi thuốc đã thành sẹo. Còn một vài mụn nữa đã đóng vảy đen, hết ngứa, chắc cũng gần khỏi. Như thế, tôi đã ra miền Bắc được một năm lẻ tám ngày, và bị bắt vào Hỏa Lò 20 ngày nữa thì tròn năm. Bây giờ chỉ còn khổ vì nóng và muỗi. Hai cái thật mâu thuẫn nhau. Nóng cỡi trần, vén quần cao lên như quần đùi để ngủ thì đỡ nóng. Nhưng muỗi nhiều quá. Ăn đã triền miên không đủ no, đêm mà để nhiều muỗi hút máu, sớm muộn cũng bị bệnh. Vậy, lại phải mặc áo, che kín người, chân tay, mặt mũi. Thế mà, vì ngủ mệt, trở mình, chỗ nào hở ra, sáng dậy lại thấy đầy nốt muỗi. Quần áo đêm nào cũng ướt đẫm mồ hôi, thật hôi hám! Thôi đành, thân tù mà! Người ta vẫn nói: “Thằng tù, thằng hủi, thằng bổ củi, thằng đốt than” mà lại!
Thép Đen Thép Đen - Dang Chi Binh Thép Đen