Nếu bạn đã cố gắng hết sức mình thì bạn sẽ vẫn thanh thản ngay cả khi gặp thất bại.

Robert S. Hillyer

 
 
 
 
 
Tác giả: Dang Chi Binh
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 214
Phí download: 13 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4611 / 116
Cập nhật: 2023-03-29 02:21:49 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 30: Nguời Mong Không Gặp Người Gặp Không Mong
ề tới Hà Nội đã 5, 6 giờ chiều. Trời đã lành lạnh buổi đầu Đông. Khi xe vào cổng Hỏa Lò, trời đã chập choạng. Vào phòng, sau khi mở khóa, tên Thành mở cặp lấy ra hai gói thuốc lá “Trường Sơn” và một bao diêm:
- Đây là tiêu chuẩn tiền ăn đi đường 2 ngày của anh, còn thừa 5 hào, tôi bỏ thêm hai hào để mua cho anh.
Tôi sáng mắt cám ơn. Tên Thành thật tâm lý. 7 hào bạc, bất cứ nó mua cho tôi thứ gì cũng không quý bằng thuốc lá. Tôi thấy trong lòng hân hoan hẳn lên. Một số ngày sắp tới như được hứa hẹn có một người bạn hiền, thật chung thủy, gắn bó, chia sẻ, an ủi thông cảm với tôi trong những lúc đắng cay cùng khổ của một kiếp …tù.
Tên Bằng dẫn tôi về xà lim, vẫn trở về buồng cũ, buồng số 5 xà lim III. Giờ này, tên Nhiễm trực đã nghỉ, vì thế tên Bằng mở cửa buồng. Trong buồng, ngoài bộ quần áo sọc cũ của tôi, bây giờ đã có chăn chiếu. Thật là mừng! Đã cuối tháng 11, trời lạnh nhiều, các cán bộ ở Hỏa Lò đã thay đổi quần áo mùa Đông. Sau khi cùm xong, tên Bằng ra khóa cửa lại.
Trong lòng còn đang mải mê niềm hân hoan với thuốc lá, với chăn chiếu, tôi quên bẵng không báo cáo với tên Bằng là chiều nay, tôi chưa ăn cơm. Thật là lú lẫn đáng trách. Từ 11 giờ sáng, ăn hai nắm xôi, mỗi nắm 2 hào ở Vinh, tới bây giờ chả có gì trong bụng cả. Tôi lục đục trải chiếu, cái cùm hôm nay thật lạnh buốt. Đói, lạnh thế này không thể ngủ được. Hơn nữa, mất suất cơm lúc này là cả một vấn đề. Tôi phải dũng cảm! Khi đó, chắc khoảng 7 giờ. Tôi lựa thế đứng một chân xuống nền, cố với miệng ra gần cửa nhỏ, tôi hô to:
- Buồng số 5 báo cáo cán bộ!
Một lần, im lặng. Hai lần, rồi lần thứ ba, vẫn im lặng. Tôi thấy ngần ngừ, nhưng cái bụng bắt buộc tôi phải dũng cảm tiến lên. Tôi cố hô thật to một lần nữa. Vừa hô được nửa câu thì cửa sổ nhỏ xịch mở, làm tôi giật mình. Chắc rằng, tôi hô từ nãy, y đã từ đâu mò đến, khe khẽ nghe ngóng, tôi đâu có biết, y quát:
- Báo cáo cái gì?
Tiếng la của một người lạ, tôi không nghe giọng quen. Tôi dõng dạc:
- Báo cáo ông, chiều nay tôi chưa được ăn cơm.
Y gằn giọng:
- Sao không được ăn cơm?
- Tôi đi từ Hà Tĩnh mới về, từ sáng tới giờ chưa ăn.
Cửa sổ nhỏ đóng lại. Chừng 15 phút sau, cửa sổ lại mở. Lần này là tên Bằng. Y còn hỏi:
- Anh chưa ăn cơm à?
Tù bây giờ vào hết trong buồng rồi. Y đi mươi phút, có lẽ xuống bếp. Một lúc sau, y mở cửa, đưa vào cho tôi một bát đầy cơm, với một bát con có ít muối trắng. Y nói có vẻ dìu dịu:
- Canh không còn, anh ăn với muối vậy.
Tên này mắt lồi, trông dữ tướng, vậy mà tử tế tệ. Tôi mừng hết chỗ nói. Bát cơm gấp rưỡi mọi khi. Chẳng cần đũa, dùng 10 chiếc đũa trời cho mà tuyệt vời. Vừa ăn, vừa ngẫm nghĩ, nếu mình không dũng cảm lên tiếng, cứ do dự ngại ngần, làm gì có cơm ăn. Vậy trong cuộc đời, nhiều khi phải liều mới đạt kết quả. Hôm nay, tôi thấy lòng vui hẳn lên. Nhiều cái may, thuốc lá này, chăn chiếu này, bây giờ lại bát cơm đầy. Thế mới biết, hạnh phúc của con người chẳng có tiêu chuẩn quái nào cả. Vì thế, Cộng Sản đã triệt để lợi dụng khía cạnh này, để du hoặc lòng người.
Khoảng 15 phút sau, tên Bằng trở lại mở cùm, tôi đem bát ra trả và múc gáo nước. Theo quy định ở xà lim, không được để bát trong buồng. Cùm xong, tôi loay hoay tính toán.Cái chân trong cùm lạnh quá, mình sẽ chiếu cố đặc biệt cho nó. Tôi lồng hai ống một chiếc quần cũ lại, lựa luồn lách vào lỗ cùm, vừa lót, vừa cuốn cho cái chân ngăn cách với sắt. Trải chiếu ra, nằm vẫn buốt lưng, tôi phải gấp lại làm tư, chỉ lót từ mông đến vai. Tôi mặc hai áo, lấy chăn cuộn để hai chăn giáp chéo sang nhau ở dưới lưng (như vậy cũng như nằm lên hai lượt chăn). Nằm xuống, thấy tương đối dễ chịu, tuy sờ hai vai và từ đùi trở xuống vẫn lạnh, nhưng với mức độ lạnh thế này vẫn chịu được. Chỉ còn cái đầu, không có cái gì để gối lên một tí. Khó khăn đẻ ra sáng kiến! Lục lọi, tìm tòi trong óc, cuối cùng tôi nhớ tới mấy bó cuống chổi thanh hao, vẫn thường cọ rửa thùng phân, dựng ở mé tường chỗ vòi nước. Để ngày mai, tôi tính cả một kế hoạch, cho làm sao để có “một chiếc gối đầu”.
Mỗi sáng, tôi được 5 phút làm vệ sinh với những động tác sau: chạy lẹ đem bô đổ vào một cái lỗ chỗ đi ỉa; chạy về mở nước đổ tráng lần một, lần hai cho chổi vào cọ sơ, đổ; tranh thủ rửa hai cái tay, vuốt lên mặt mấy cái, rồi ôm bô vào. Ngày mai, tôi sẽ bỏ rửa tay, rửa mặt, để rửa hai đoạn cuống bó chổi thanh hao, vì các buồng họ làm vội, nhiều khi còn vướng những cục phân nhỏ vào những chạc cành phía trong. Tháo một cái lạt, tất cả đút vào bô, đậy nắp, vào buồng là ổn.
Đêm ấy, tôi nằm ngủ tương đối dễ chịu, những chú muỗi đành đứng ngoài khóc. Mùa Đông, càng lạnh càng ít muỗi. Thật là kỳ cục. Giá đổi lại mùa Hè ít muỗi, mùa Đông nhiều muỗi, tôi hạnh phúc biết bao!
Sáng hôm sau, kế hoạch đã tính kỹ, tôi cứ thế thực hiện. Khi vào buồng, tôi gỡ ra, tỉ mẩn bó lại thành một bó tròn đường kính độ 5 phân, dài chừng 20 phân. Tuy là chổi cọ thùng phân, nhưng tôi rửa kỹ nên chỉ hôi mà không thối. Còn ướt quá, tôi cố với người dựng vào phía trong của gầm sàn, tối nay sẽ ráo.
Một lúc, mụ Hoa vào gọi đi cung. Hôm nay lên, tôi gặp tên Nhuận và một tên lạ mặt. Sau một vài câu hỏi xã giao thường lệ, tên Nhuận mở cặp:
- Hôm nay, để thấy được sự thành khẩn của anh với cách mạng, chúng tôi sẽ hỏi anh một số vấn đề.
Y có chừng 20 cái ảnh đen trắng, loại hình 4×6 mà ai mới bị bắt cũng phải chụp để làm hồ sơ. Y đưa từng cái một, hỏi tôi có biết ai không. Trong khi đưa ảnh cho tôi xem, cả hai đứa đều theo dõi nét mặt và ánh mắt của tôi.
Kể cả 20 tấm ảnh gầy ốm, chứng tỏ là ảnh người tù. Tôi không biết một ai. Những dù cho có biết, tôi cũng tảng lờ ngơ ngác không biết. Qua một số thái độ, cách hỏi, cách đưa ảnh, tôi đã ngửi thấy vấn đề. Tôi hiểu trong số 20 tấm hình này, sẽ có từ một đến vài cái là ảnh của những người từ miền Nam ra, nằm trong một màng lưới tình báo nào đó của Sài Gòn đã bị bắt ở miền Bắc. Số còn lại, hầu hết là ảnh của tù hình sự, hoặc của tù nhân không liên quan đến tình báo. Những người trong tình báo của Sài Gòn bị bắt, hoặc còn ở một trại giam tỉnh nào đó, hay ở ngay trong Hỏa Lò, nhưng giam riêng biệt nên không biết nhau. Có rất nhiều điều chúng không biết, chúng cần thẩm tra. Vậy, đây cũng chỉ là một trong những phương pháp chúng thăm dò.
Tùy theo sự hiểu biết, cũng như quan điểm của những người đã bị bắt, biết đâu, do vô tình, hoặc do thành khẩn, thấy ảnh người quen, nói quen. Chúng sẽ tìm hiểu, điều tra quen ở đâu? Trường hợp nào? Bao nhiêu lần? Đã thấy làm những gì? Hay đi với ai? Thường đến chỗ nào? Thường đi xe gì? Mặc quần áo gì? v.v… Từ đấy, chúng có thể phanh phui ra những điểm mà đối tượng kia còn dấu, hoặc xác nhận chiều hướng chúng có thể tin. Chúng sẽ lấy người này thọc người kia, lấy người kia lại thọc người này. Vì những sự kiện tù nhân khai xảy ra ở trong miền Nam, chúng không thể nắm được trong việc thẩm tra, nên chúng chỉ còn dùng những cách như vậy. Với tôi, những trò đó, đừng hòng. Nhiều khi tôi lại tương kế tựu kế, làm cho chúng rối mù thêm, đưa chúng vào cái mối tơ vò cho chúng tha hồ gỡ. Thời gian ở Hỏa Lò, cũng như sau này đi trại trung ương, tôi thấy chúng thường đột xuất diễn cái trò ấy. Tôi biết, chúng đã đưa ảnh của tôi đi những nơi nào đó mà quá trình khai báo có trùng hợp một không gian, một thời gian, v.v… để chúng nghi người đó có thể biết tôi.
Kỳ này, có khi 2, 3 ngày mới gọi cung. Lúc chúng truy tôi điểm này, lúc điểm khác, lúc sự việc này chưa rõ, lúc việc kia là vô lý, nói láo, v.v…
Trời bước sang tháng 12 càng lạnh dữ, lúc đó cũng là tháng 11 Âm lịch. Một chăn, một chiếu nhưng nằm trên đá và sắt, về mùa Đông bụng càng đói ghê gớm. Không có “ca lô ri” để chống lạnh, suốt đêm hầu như tôi không ngủ được, cứ ngồi co ro. Bốn lượt chiếu, hai lượt chăn mà cái lạnh của sàn xi măng vẫn thấu lên lưng không nằm được. Lúc này tôi, ngày đêm, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới ăn thôi. Nghĩ đến bất cứ cái gì cũng thèm chảy nước dãi ra. Mà quái làm sao, bất cứ nghĩ gì, rồi dần dần cuối cùng lại ra chuyện ăn. Nhiều lần tôi đã giận khùng ngay chính với tôi, tại sao lại chỉ nghĩ đến ăn cho nó thèm. Tôi cương quyết dứt khoát bắt óc tôi không được nghĩ đến ăn nữa. Tôi nghĩ đến một anh bạn thân là Nguyễn Văn Nhượng, anh học khóa 10 Thủ Đức. Cuối tuần, tôi lên trường đón anh xuống Sài Gòn, đi chơi khắp thành phố, để rồi xuống chợ Ông Tạ ăn bún chả, thế là cứ nuốt nước miếng ừng ực. Thậm chí, tôi nghĩ đến những ngày còn nhỏ ở Hà Nội, tôi và một người bạn đạp xe vào Hà Đông, rồi chùa Trầm chơi, ghé vào một quán quê bên đường ăn hai gói xôi đậu đen, nước miếng lại chảy ra đầy mồm. Đôi khi từ một cuộc duyệt binh, một đám đánh nhau, một buổi tập võ…nhưng thế nào rồi cũng đến chỗ ăn.
Ôi! Thằng Marx đã phát hiện ra cái huyệt của thời đại, cái huyệt của con người, nên nó đã nghiên cứu viết tập “Tư Bản Luận”. Học trò của tên Marx chỉ cần nghiên cứu thực nghiệm, lại nghiên cứu bổ sung, cuối cùng sao cho thật tinh vi hết cỡ, làm thế nào đó để khi nó thọc vào huyệt là con người dúm lại, dù người đó là ai, chỉ trừ không phải là… người.
Những ai chưa từng bị đói, dứt khoát không thể cảm nhận hết được cái đói đã đành, nhưng kể cả những người đã đói hàng tháng, hàng năm mà còn có một cứu cánh tinh thần như ta sắp hết án, trở về sẽ no; vợ sắp ra tiếp tế cho ta, sẽ có bữa no; tội của ta không có gì, sắp được tha, sẽ no. Ngoài biển khơi, cố gắng chịu đựng vào bờ, sẽ no, v.v… Những người đó vẫn chưa cảm nhận hết cái ghê gớm của đói nên hãy còn có tính cương cường, danh dự, tư cách… Chỉ có những ai đã đói triền miên, năm này qua năm khác, ngửng nhìn khắp 4 phương trời, không còn một hy vọng gì có một ngày sẽ no, lúc đó mới thấy được cái ghê gớm của cái đói ở mức độ nào. Sau này, những thiên tới sẽ có nhiều sự việc, nhân chứng sinh động về vấn đề trên.
Mùa Đông, thường suốt ngày âm u, không có mặt trời. Trong buồng ngồi nhìn chiếc cùm còn không rõ, ở bên ngoài chắc trời âm u xám xịt, như lòng tôi lúc này. Từng đợt, từng đợt gió mùa Đông Bắc theo nhau tràn về, gây lên cái lạnh tái tê. Gió ào ào luồn qua khung cửa sổ bé tít mãi trên trần, gió lách qua những khe hở của những viên ngói trên mái tạo nên những âm thanh vi vu, rên rỉ, nghe càng thê lương ảm đạm trong chốn ngục tù. Những đầu ngón chân, ngón tay của tôi không hiểu sao sưng lên ngứa buốt không chịu nổi. Tôi không hiểu, tôi mắc bịnh gì? Quái lạ! Từ nhỏ tôi không thấy bệnh này, nó sưng đỏ mọng lên, nhức buốt suốt đêm ngày. Nhất là về đêm, nó nhức tôi không thể ngủ được. Tôi cứ ngồi gục đầu xoa nắn ngón chân, ngón tay, lòng hoang mang lo sợ không biết là bệnh gì. Đêm thâu vắng lặng, chỉ nghe có tiếng gió gầm gừ lồng lộn ngoài trời. Lâu lâu, chiếc cửa sổ con lại xịch mở. Tôi ngửng lên, cửa đóng lại. Tôi hiểu đây là cán bộ tuần tra ban đêm, cứ một hoặc hai tiếng lại mở cửa sổ kiểm soát. Sao mà trời già cũng cay độc, toa rập với lũ người khát máu, hành hạ trăm chiều những kiếp người cùng khổ lầm than! Nỗi niềm chảy dài mãi vào đêm thâu tịch mịch. Lúc này, chắc hẳn cũng 2, 3 giờ đêm. Đột nhiên, cửa nhỏ lại xịch mở. Tôi ngửng lên, qua ánh sáng mờ mờ của ngọn đèn điện trên trần, tôi chỉ thấy một cái mũi và hai đốm mắt long lanh. Lần này, cửa không đóng lại ngay. Một giọng nói phụ nữ chưa bao giờ nghe: “Sao anh không nằm xuống ngủ?”
Giữa cảnh âm u, vắng lặng, giọng hỏi han như chứa đựng tình người cảm thông. Tôi trả lời trong một chút xúc động:
- Không hiểu sao ngón chân và tay tôi sưng đỏ lên và buốt lắm, tôi không ngủ được.
Tôi giơ cả mười ngón tay ra chỗ sáng gần cửa sổ. Giọng nói nho nhỏ như tiếng thì thào:
- Anh bị cước đấy!
Tôi chợt nhớ ra ngày xưa khi còn bé, nghe người ta nói trâu bị cước chân, khi đã long móng thì chết. Thế mà các móng chân của tôi, tôi cảm thấy nếu mình kéo mạnh, cũng sẽ bong ra, bởi quanh rìa móng chân mọng đỏ lên như có nước, chỉ vì cơ thể thiếu chất dinh dưỡng, không có sức đề kháng, vì thiếu quần áo và chăn ấm, vì phải nằm trên cái lạnh của sắt và đá, vì thiếu một ngọn lửa… Nghĩa là, nếu tôi chỉ cần có một trong những thứ trên, chân tay của tôi sẽ không bị như vậy.
Cửa sổ vẫn mở. Vẫn hai đốm mắt long lanh và chiếc mũi lúc rõ, lúc mờ. Im vắng nặng nề. Hai thái cực, hai trận tuyến nhưng có cái chung cùng là … con người.
Giọng nói êm êm lại cất lên:
- Mai anh báo cáo y tá, xin một tí nước muối rồi ngâm chân tay anh vào.
Ôi, người này không phải thường xuyên ở Hỏa Lò rồi. Nếu như vì lý do nào đó, anh chết thì thôi, chứ làm gì có chuyện cho nước muối để ngâm chân! Hơn nữa, muối lại là điều tối kỵ trong xà lim. Hoặc, có thể người đó cũng hiểu như vậy, nhưng trước cảnh này phải nói thế cho qua chuyện. Dù sao, giọng nói ấy, hai đốm mắt ấy như ẩn tàng một tình người chân chính, cũng vuốt ve phần nào cõi lòng lẻ loi, cô đơn heo hút đang tràn ngập lòng tôi.
Cửa đã đóng rồi. Người đã đi rồi. Chỉ còn tiếng gió gào trên mái. Tôi chợt nhớ đến một bài ca: “Mùa Đông gió, lạnh lùng, gió lạnh lùng. Chim thôi bay, ngoài mưa gió… hãi hùng. Gió hú chi cho thêm đau lòng người chiến sĩ… Trong đêm trường…”
Gió vẫn lồng lộn thét gào, xà lim vẫn âm u, vắng lặng. Tôi thiếp dần vào đêm kinh hoàng.
Bẵng đi 5, 6 ngày không gọi cung. Hôm nay tên Bằng mắt lồi lại gọi. Khi mở cùm, cả bàn chân tôi cũng mọng đỏ lên, vô cùng nhức buốt. Tôi cho chân xuống, xỏ vào đôi dép Thái Lan cũng thấy đau. Tôi đứng dậy, cố gắng khập khiễng đi như người què. Tên Bằng hỏi giọng thờ ơ:
- Chân anh sao thế?
Tôi trả lời nhát gừng:
- Chẳng hiểu sao ngón chân, ngón tay của tôi sưng buốt.
Mỗi bước chân tôi đi như dẫm vào đống mảnh sành. Tôi cố gắng khật khưỡng. Có thể vì máu nóng dồn xuống chân, mặt khác, các mạch máu và những tế bào chân, trước nằm im, bây giờ chuyển động, vì vậy tôi thấy đỡ đau buốt dần.
Hôm nay, tên Bằng lại chỉ đường sang phía dẫy nhà bên kia sân của giàn nho. Dẫy này, tôi chưa hề bao giờ tới. Tên Bằng dẫn tôi đến một căn buồng lớn ở đầu dẫy. Vào buồng, tôi thấy 6, 7 người ngồi. À, đây là phòng giám thị trại, vì tôi thấy Thượng úy Trì, Phó giám thị, người miền Trung, ngồi ở một ghế cạnh “buya rô” lớn, trên có rất nhiều hồ sơ và một là cờ đỏ sao vàng nhỏ.
Ngồi ghế chính giữa là một tên chừng 45 tuổi, mặc một cái áo “vét tông” gần cạnh đấy, là tên Đức và một số người lạ nữa mặc đồ dân sự.
Trong phòng treo một ảnh Hồ Chí Minh lớn ở chính giữa tường, cùng với nhiều khẩu hiệu: đảng, tổ quốc, cách mạng, v.v… đỏ loẹt cả văn phòng. Trước buya rô, vẫn chiếc ghế đẩu chơ vơ của tội nhân. Tên Đức chỉ tay bảo tôi ngồi. Xong, hắn nói tiếp, vẻ trang trọng, đưa mắt về phía người mặc áo “vét”…
- Đây là Đồng Chí Hồng, Trưởng phòng “44”, Phòng chấp pháp Chính trị. Đồng chí có nhã ý gặp anh. Vậy, anh có điều gì cần, cứ đề bạt.
Tên Hồng cười xã giao:
- Anh có khỏe không? Anh có cần gì, tôi cho phép anh phát biểu.
Tôi nghĩ bụng: Tôi cần gì ư? Một điều mà tôi cần, nếu anh mà thực hiện, anh không còn chỗ ngồi này đâu! Tôi liếc nhìn tấm ảnh Hồ Chí Minh lớn treo trên tường, phía sau lưng y. Tôi chăm chú nhìn vào đôi mắt chó sói của tấm ảnh. Con ngươi vàng ửng như đang đong đưa đổi màu nhìn tôi. Tự nhiên hai mắt tôi nóng rát lên như có lửa, làm cho hai con ngươi của tấm hình như thu nhỏ lại, cụp xuống. Một ý nghĩ ngắn gọn: “Tôi cần cái đầu của người trong tấm hình kia!”. Cuối cùng, tôi nói:
- Xin cảm ơn ông, tôi không cần gì cả. Chỉ đề nghị ông giải quyết sớm sự việc của tôi.
Y cười nửa miệng:
- Anh không chịu khai báo sự thật. Anh không khai báo tốt thì giải quyết sớm thế nào?
Tôi hiểu, điều chính là nó muốn xuống nhìn trực tiếp con người của tôi mà thôi. Còn, chỉ là những câu nói phất phơ.
Giữa lúc ấy, tôi thoáng thấy một bóng người đi vào cửa, phía ngang chéo sau lưng tôi. Tôi quay lại nhìn ra, một người mặc quần áo nâu cũ và một tên công an áo vàng đi phía sau. Tên công an lùi ra. Tên Đức đứng dậy chỉ cho người áo nâu đến một chiếc ghế dài cạnh tường ngồi, quay mặt về phía tôi và buya rô. Người áo nâu dáng to khỏe, nhưng nước da xám tái, đi chân đất, gấu quần nâu lua tua rách mướp.
Khi tôi vừa thoáng quay ra cửa nhìn, tim tôi hơi bóp lại. Người áo nâu cũng nhìn thoáng tôi. Phản xạ cấp thời, tôi chỉ thấy bộ mặt quen quen. Khi người áo nâu vào ngồi ghế nhìn tôi, và nhìn các người ngồi ở bàn giấy, tôi đã nhận ra.
Chắc rằng lúc đó mắt tôi phải đờ đẫn vì ngạc nhiên. Tôi không thể tưởng tượng nổi con người tiều tụy, khúm núm, rụt rè, lấm lét ngồi gần tôi kia là
…Trung Úy Nghĩa. Con người mà hình ảnh đó đã in sâu trong óc tôi, đẹp trai, khỏe mạnh ngang tàng, hiển hách một thời của Bình Xuyên 1954-1955 bây giờ là đây.
Không khí im lặng, không ai nói một lời. Tôi biết chúng đang bám sát thái độ của Nghĩa và tôi. Chừng 3 phút sau, tên Đức ra hiệu, tên công an bên ngoài vào dẫn Nghĩa ra. Sau đó, chúng nhìn tôi như hỏi bằng ánh mắt. Tôi cúi đầu xuống, im lặng và suy nghĩ với bao nhiêu hỗn loạn trong đầu.
Nghĩa là một người trước đây 8 năm tôi thù hận. Suốt 8 năm trường, sau khi Bình Xuyên tan hàng rã đám, tôi đã nhờ bạn bè và chính tôi cố ý đi tìm Nghĩa để trả mối hận thù mà Nghĩa vẫn biệt vô âm tín. Ai ngờ đâu, chỉ vì một sự thử thách vô tình của tôi với tên Lê Văn Hoàn, bây giờ tôi mới được gặp Nghĩa trong cảnh ngộ này. Phải nói, tôi không ngờ được, mà cả ngay Nghĩa cũng không thể biết trước được, có một ngày chúng tôi lại gặp nhau, trong cái giây phút chết lòng. Lòng tôi dâng lên một chút ân hận giầy vò. Dù muốn hay không, giờ đây Nghĩa cũng là một chiến hữu của tôi. Người chiến hữu cùng trong một cảnh ngộ sa cơ, rơi vào tủi cực của cả một kiếp người. Càng hình dung đến hình ảnh tiều tụy của Nghĩa lúc nãy, lòng tôi càng xáo trộn vừa tình thuơng yêu chiến hữu, vừa lòng ân hận lay lắt, đã xóa tan hoang mối hận thù lâu dài, vẫn nằm trong một ngách nhỏ của con tim.
Thấy tôi cứ cúi đầu, tên Đức lên tiếng:
- Thế nào, anh có nhận ra ai không?
Tôi chậm chạp:
- Dạ… Nghĩa Bình Xuyên…
Tên Đức vừa cười nhạt, vừa hỏi tiếp:
- Anh thấy thế nào?
Tôi có vẻ hí hửng:
- Tôi không ngờ!…
Y bóng gió đe dọa:
- Anh sẽ còn gặp nhiều chuyện không ngờ nữa!
Rồi y đứng dậy:
- Thôi, bây giờ cho anh về!
Một người ngồi ghế phía sát cửa đi ra một lúc, mụ Hoa rảo bước vào. Tôi theo mụ về xà lim.
Trên đường về, đầu tôi đầy những suy nghĩ, tính toán nên quên cả đôi bàn chân sưng buốt. Cứ tập tễnh bước đi mà lòng nặng trĩu tơ vò.
Tôi nghĩ, Nghĩa ở trong một toán biệt kích, hoặc đi cá nhân như tôi. Nghĩa đã ra Bắc từ lâu, và cũng bị bắt từ lâu, hiện đang ở trong một trại giam Trung Ương nào đó để lao động cải tạo. Có thể trước đây, Nghĩa không khai báo đến thời gian ở Bình Xuyên. Bây giờ, mãi 1962, tôi mới ra, do một sự vô tình tôi đã nói đến Nghĩa ở đó. Như vậy, chúng cho rằng Nghĩa còn che giấu nhiều vấn đề. Vì thế, Nghĩa bị lấy về Hỏa Lò để điều tra lại và cho tôi trông thấy, nhưng không cho hai bên nói chuyện với nhau. Vậy là chúng đã gián tiếp đe dọa cả Nghĩa và tôi: “Các anh còn những điều gì nữa mà chưa khai, thì các anh tự liệu”. Bất cứ một ai, khi đã ở trong tay chúng rồi, điều chúng đã biết mà anh không khai, chỉ còn một cách là anh tự tử ngay đi mới thoát. Tôi nghĩ, Nghĩa đang lo sốt vó, và có thể đang oán hận tôi nữa, nếu Nghĩa không hiểu quán triệt sự việc. Ngược lại, tôi chả có cái cóc khô gì phải lo cả. Nghĩa có biết gì về tôi đâu. Còn giai đoạn ở Bình Xuyên, tôi đã khai thật. Câu chuyện đó không tiền, khoáng hậu đối với cuộc đời hoạt động của tôi mà.
Thép Đen Thép Đen - Dang Chi Binh Thép Đen