I know every book of mine by its smell, and I have but to put my nose between the pages to be reminded of all sorts of things.

George Robert Gissing

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Diệu Hằng
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hoang Tu
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1453 / 79
Cập nhật: 2019-06-15 23:32:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 16 - Liên Lạc Bí Mật
rước cú nhảy bất ngờ, ngoạn mục của Kate, cả bọn phải nhảy chồm lên để túm lấy cô bé. Nhưng Kate đã cao chạy xa bay, và khi đứng túm tụm lại chỗ cánh cửa sổ mở, chúng đã trông hành động của cô bé. Vào giây phút cuối cùng, Kate lộn người và đá vào thành cửa sổ - đá vào một bên để tung người lên không, song song với bức tường, bay theo một đường cong đưa cô bé đến chỗ một ống nước kim loại. Kate bám vào đó bằng đôi tay chắc khỏe phi thường, rồi trượt theo đường ống đó xuống dưới đất, nhẹ nhàng như một con khỉ tụt cây. Nhưng Reynie và Sticky vẫn sợ hãi che mắt lại. Chúng có thể tin tưởng vào sự khéo léo của Kate, nhưng chúng chẳng có lý do nào để tin vào sự vững chắc của đường ống đó cả.
“Chị ấy xuống đến nơi rồi!” Constance thì thào làm cả
lũ thở phào nhẹ nhõm. “Chị ấy đang chạy qua các cửa kiểm tra!”
Điều đó khiến bọn con trai càng thêm phần lo lắng, nhưng chúng buộc phải nhìn theo. Cô bé đang lao qua cánh cửa thứ nhất rồi cánh tiếp theo, thử mở thật nhẹ nhàng, tĩnh lặng và cẩn trọng vì biết đâu có người đứng ở đầu bên kia. Sau vài lần thử một trong các cửa, cánh đối diện mở ra, và Kate biến mất.
Chúng theo dõi mảnh sân trống trơn một lúc, nhưng không thấy Kate xuất hiện nữa, nỗi buồn xen lẫn niềm hy vọng, chúng liền đóng cửa lại. Bọn con trai cố hết sức để tự sắp xếp lại tủ sách bị nghiêng. Vắng mặt Kate, chuyện này xem ra không dễ chút nào, làm trong yên lặng lại càng khó hơn, nhưng cuối cùng, với nỗ lực phi thường của mình, chúng đã dựng được tủ sách lên. Ít ra thì bây giờ, nếu có ai đó liếc nhìn vào phòng, họ sẽ không phát hiện ra ngay điều gì đó bất thường. Tất nhiên, nhìn kỹ thì họ sẽ phát hiện ra rằng đã bị thiếu mất một người.
Trong những phút căng thẳng tiếp theo, chúng đứng yên lặng ở giữa phòng, lắng nghe xem có những âm thanh la ó hay báo động gì không. Sau đó, ngay khi vừa chớm hy vọng, chúng liền nghe thấy đích xác những thứ nãy giờ mình đang tìm kiếm - những thứ mà chúng chẳng muốn nghe chút nào. Những tiếng la hét và va chạm từ xa. Tiếng điện đàm quang quác. Và tệ nhất là, có tiếng cười nói sang sảng của ai đó. Chúng nhìn nhau rồi nhìn ra chỗ khác, không muốn tin điều đó là sự thật, buồn bã không thốt nên lời.
Cuối cùng Constance cũng ngẩng đầu lên và thì thào, “Chúng đến rồi.”
Tiếng bước chân vang vọng trong sảnh chính, khóa được mở, cửa bật tung ra, và Kate ngã sóng soài vào phòng. Cô bé thở hổn hển và lảo đảo kháng cự, tóc cột đuôi gà tung xõa xượi và hai má đỏ phừng ng, nhưng dường như Kate không sao. Thực ra, vừa mới chạm xuống sàn nhà thì cô bé đã nhảy bật lên (nói đúng hơn là lao vào tấn công) McCracken - người vừa thẳng tay xô cô bé vào phòng. Hắn đã chuẩn bị sẵn tinh thần, và với một động tác khoác tay lơ đễnh, hắn xoay người Kate và lại dúi thẳng cô bé xuống sàn nhà. Lần này các bạn cô đã ôm được cô và giữ cô lại.
“Nào nào,” McCracken nói. “Ta tưởng chúng ta đã thống nhất về các thỏa thuận hòa bình rồi chứ?”
“Tôi chưa bao giờ đồng ý về chuyện gì như thế cả!” Kate quát lên, đầy kích động.
“Ừm,” McCracken nói khi lão Curtain cau có đi vào phòng từ đằng sau hắn. “Chắc chắn là bọn mày đã có vẻ đồng ý. Nhưng sau đó tao lại túm ngược chân bọn mày lên, nên có lẽ tao hiểu lầm chăng?”
“Cô không lãng phí chút thời gian nào đúng không, quý cô Wetherall?” Lão Curtain xen ngang. “Ta phải nói là một chút thời gian cũng không, nhưng với ta thì thời gian thật là quý giá. Ta còn có nhiều việc phải làm!” Vừa nhảy xuống xe, ông ta tiến thẳng đến chỗ bọn trẻ đang túm tụm lại với nhau. “Ta có nói là bất kỳ sự náo động nào cũng bị trừng phạt không nhỉ?” Ông ta nói, tay đang đeo đôi găng bằng bạc.
“Được thôi!” Kate gào to, cằm vênh lên thách thức. “Làm cho xong đi rồi còn quay trở lại với công việc quý giá và bẩn thỉu của ông!”
“Tất nhiên rồi,” Curtain nói, lấy khuỷu tay huých Kate ra xa, rồi túm lấy cánh tay Reynie.
Reynie cảm thấy như thể bị sét đánh. Mọi thứ lóe lên màu đỏ trắng rồi tan ra, như thể căn phòng vừa bị nổ tung, và cơn đau buốt tim như trào lên từ tất cả các tế bào của cậu cùng một lúc - từ mặt, tay, cho đến cả ngón chân - và rồi cậu ngã sóng soài ra sàn. Khi cơn đau giảm đi và mắt cậu định thần trở lại, Reynie nhận ra những khuôn mặt quen thuộc của các bạn bên cạnh và thấy Kate đang khóc thút thít.
“Như thế không công bẳng!” Cô quát lên đầy căm giận qua làn nước mắt. “Reynie không cố trốn thoát! Ông không nói...”
“Ta mới là người q định xem chuyện gì công bằng, chuyện gì không,” Curtain lạnh lùng nói. “Tất cả các ngươi phải nhớ cho kỹ điều đó. Đặc biệt là cô, cô Wetherall ạ. Nếu công việc của ta mà còn bị gián đoạn lần nữa, ta sẽ trừng phạt tất cả các ngươi.” Ông ta nhảy lên chiếc xe lăn và xoay nó đi. “McCracken, bảo S.Q. đến và gặp tôi ở chỗ làm việc. Hình như tôi phải nhắc cậu ta cách khóa một cánh cửa.”
“Thật nực cười,” McCracken nhíu lông mày lại, “cửa vẫn khóa khi chúng tôi đến mà.” Hắn nhìn Kate băn khoăn. “Mày có thực sự thông minh đến mức khóa nó lại sau khi ra ngoài để tránh bị nghi ngờ không?”
“Một con khỉ mới nghĩ như thế, McCracken ạ,” Curtain giận dữ nói. “Có lẽ sau này ta nên thuê khỉ thì hơn - chắc chắn là chúng không thể làm những chuyện tồi tệ hơn thế này. Lát nữa anh cử cho tôi một bảo vệ ở hành lang để đề phòng bất trắc.” Nói xong Curtain lao ra khỏi phòng, và McCracken dứ dứ ngón tay trước mặt lũ trẻ tỏ vẻ không tán thành, rồi khóa cửa lại và đi theo ông ta.
Kate phải mất một lúc lâu mới bình tĩnh lại. Cô bé cứ xin lỗi Reynie liên tục và xỉ vả Curtain hết lời trong lúc bạn bè cô đang cố gắng bảo cô im lặng. Phải đến khi Reynie cố nở một nụ cười gượng gạo và đặt một ngón tay lên môi, Kate mới bình tĩnh trở lại. “Được rồi,” cô bé nói và gạt nước mắt. “Xin lỗi. Tớ sẽ yên lặng. Tớ đã gây ra đủ chuyện rồi.”
“Không phải là cậu,” Sticky nói qua hàm răng nghiến chặt. “Mà là bọn chúng.”
“Cậu ấy nói đúng đấy,” Reynie nói. “Đó không phải là lỗi của cậu. Tất cả bọn mình đều muốn cậu đi mà, đúng không nào? Vậy nên đừng tự dằn vặt bản thân nữa. Dù sao thì tớ cũng thấy tốt hơn rồi. Cậu biết nó sẽ không kéo dài mà.”
Kate vẫn còn nhớ cơn đau kéo dài bao lâu - trước đây lão Curtain đã từng sử dụng những chiếc găng tay đó với cô bé - và nếu trí nhớ còn tốt thì lúc này Reynie có lẽ vẫn cảm thấy buồn nôn và choáng váng nhưng cậu vẫn cố tỏ ra dũng cảm. Cô bé gật đầu và không nói gì thêm, thay vào đó tự làm mình bận rộn bằng cách buộc lại tóc. n hận về những điều đã xảy ra chẳng có ích gì, nhưng cô bé vẫn cảm thấy tồi tệ khủng khiếp.
“Chuyện gì đã xảy ra ngoài đó thế?” Constance hỏi
“Bọn mình ở trong một khu liên hợp,” Kate lầm bầm. “Có tường cao bao bọc khắp xung quanh, và chúng đã đặt dây thép gai lên trên đó. Sharpe phát hiện ra chị trước khi chị kịp tìm cách ra ngoài.”
Kate không muốn kể cho lắm, nhưng tất nhiên là những đứa khác cứ đua nhau hỏi nên chẳng mấy chốc cô bé đã kể cho chúng nghe mọi chuyện. Cô lẻn qua vài hành lang mà không thấy một bóng người nào, sau đó chạy ra một cánh cửa phía bên ngoài và thấy mình đang ở một chỗ giống như một công trường xây dựng bị bỏ hoang. Ở đó có rất nhiều đống gạch vụn và đất đá to, cả những thiết bị đã bị bỏ đi nữa, tất cả đều bị bao quanh bởi những bức tường cao chót vót. Không may thay, cô bé bị phát hiện ra ngay lập tức, và mải miết chạy thoát thân đến mức không có thời gian xem xét cẩn thận, nhưng rõ ràng là khu liên hợp đang trong quá trình bị hủy bỏ hay nâng cấp. Hoặc là đã bị bỏ đi rồi - không có công nhân ở đây, và mọi thứ trông cứ như một bãi tha ma vậy!
“Cứ như một pháo đài hay căn cứ quân sự ấy,” Kate nói. “Tớ không biết. Tớ đã cố gắng tìm một khe hở trong bức tường đó. Một phần phía sau khu liên hợp trông có vẻ như sắp đổ - tớ nghĩ ở đó từng có tai nạn; có một cái cần trục khổng lồ ở gần đó - nhưng chẳng có cái lỗ nào đủ to để một con thỏ chui qua cả. Và có một cánh cổng ở đằng trước, cao ngang bức tường, trên nóc có dây thép gai và được bọn Gã Số Mười canh gác, nhưng tớ có ý tưởng là tớ có thể đâm thủng nó với chiếc Salamander, ngoại trừ việc tớ lo sợ là hàng dây thép gai sẽ rơi xuống đầu mình.”
“Chờ chút,” Reynie nói. “Lúc đó cậu lái chiếc Salamander ư?”
“Tớ sắp. Trong lần chạy đầu tiên, tớ thấy nó đậu ở một nhà xe lớn, nên tớ quay ngược lại tìm nó sau khi nghĩ ra vụ cánh cổng. Tớ không chắc mình có đi qua cổng bằng chiếc xe đó được không, nhưng tớ nghĩ mình sẽ có thời gian để quyết định việc đó sau khi đánh cắp Salamander, miễn là tớ có thể đến được chỗ nó. Chuyện đó hóa ra lại rất dễ. Bọn Gã Số Mười không tỏ ra vội vàng gì, chúng chỉ bao quanh tớ, đi tản bộ rất thoải mái và nhẹ nhàng thôi, như thể đang bao vây tớ - các cậu biết chúng làm thế nào rồi đấy - có khoảng bảy tám tên ở đằng sau. Nhưng chúng đã để mở một lối đi vào nhà xe đó, và tớ phi thẳng vào đó...” Vẻ mặt Kate đầy phẫn nộ. “Tớ cá là các cậu có thể đoán được ai đang ngồi trong đó, chờ tớ.”
“McCracken,” những đứa khác nói.
Kate gật đầu. “Hắn đang quỳ xuống nấp nên tớ không thể nhìn thấy hắn qua thành xe. Nói chung là tớ nhảy lên cánh tay hắn. Điều tốt đẹp duy nhất là chúng không buồn khám xét người tớ nữa. Tớ vẫn còn dây và dao đây này.”
“Có nhiều chuyện tốt đẹp hơn thế mà,” Reynie nói. “Chí ít thì bây giờ bọn mình cũng có thể biết mình đang ở đâu.”
“Bọn mình có thể ư?”
“Chà, có lẽ là Sticky có thể, đúng không?” Reynie nói.
“Chắc chắn rồi, ít nhất thì bọn mình có thể thu hẹp phạm vi lại,” Sticky nói, mặc dù cậu có vẻ không biết tại sao đó lại là vấn đề. “Chỉ có một vài nơi trong Thành phố Đá phù hợp với miêu tả của Kate - các khu liên hợp đang được cải tạo thì hết ngân sách. Việc các công trình bị treo là một vấn đề lớn mà lúc nào báo chí chẳng nhắc đến.”
“Tất nhiên rồi!” Kate nói, vẻ mặt bừng sáng lên trông thấy.
“Và từ âm thanh của nó,” Sticky nói tiếp, “tớ nghĩ chúng ta đang ở trong một nhà tù. Cậu có tình cờ trông thấy những tháp canh không?”
“Có! Sharpe đang ở trên một tháp canh thì phát hiện ra tớ và gọi những tên khác đến! Ổ, sao tớ lại không nhận ra đây là một nhà tù nhỉ? Một nhà tù thực sự ấy!” Kate đảo mắt và khịt mũi vui vẻ. Khi mà chúng phát hiện ra điều gì đó, cảm giác tội lỗi của cô bé cũng vơi đi nhanh chóng. (Một số người sẽ cảm thấy tội lỗi khi nhanh chóng trở lại vui vẻ như thế, nhưng vì bản chất của Kate là luôn vui vẻ và hào hứng nhìn về phía trước thay vì ủ ê nhớ lại chuyện cũ, suy nghĩ đó thậm chí còn không xuất hiện ở cô bé.)
“Tớ đoán là cậu bị phân tâm do lo sợ bị bọn Số Mười tóm,” Reynie mỉm cười và nói. “Dù sao thì ở Thành phố Đá cũng không có quá nhiều nhà tù trong bán kính một giờ lái xe, đúng không? Sticky, có phải là nhà tù Solipse không? Tớ chắc chắn là đã từng đọc về nhà tù đó.”
Sticky lắc đầu. “Tớ ước là chuyện chỉ đơn giản như vậy. Nhà tù Solipse và Third Island đều được dự kiến sẽ cải tạo lại toàn bộ. Những tù nhân tạm thời bị chuyển đi đâu đó trong khi công việc được tiến hành. Phòng giam và các nhà phụ của tòa nhà sẽ bị phá hủy và xây lại.”
“Thôi đừng vòng vo tam quốc nữa,” Constance nói. “Chúng ta đang ở cái nào? Anh có nhìn thấy bức ảnh nào về chúng ở đâu đó không? Chắc chắn là cả hai không có những tòa nhà to như thế này, với bốn mặt đều chạy quanh một cái sân sau bé tí tẹo.”
“Thực ra, đó mới là vấn đề,” Sticky nói. “Cả hai nhà tù đều được xây theo một dự án, và chúng đều được cải tạo theo một dự án mới giống nhau. Các tòa nhà quản lý sẽ được để lại trong khi mọi thứ khác sẽ bị đập đi và xây lại. Anh nghĩ chúng ta đang ở trong tòa nhà quản lý của một trong những nhà tù đó - nhưng không biết là nhà nào.”
“Trời!” Kate nói. “Bọn mình ở gần thế á!”
“Nhưng bọn mình chưa xong việc đâu,” Reynie nói. “Nhà tù Solipse ở phía bắc của Thành phố Đá phải không, Sticky? Và Third Island ở phía tây?”
“Đúng rồi,” Sticky nói.
“Vậy thì tớ biết bọn mình đang ở đâu rồi,” Reynie nói. “Và hơn nữa - tớ có một kế hoạch!”
Constance nghi ngờ về kế hoạch của Reynie và về mọi chuyện, trong khi những đứa khác thì rất lạc quan. Không phải Constance đã nói mình có thể nghĩ ra ý tưởng gì đó khi có đủ hứng thú sao? Và bây giờ chính là lúc cô bé có thể hứng thú hơn cả, khi đang bị nhốt trong một nhà tù và chỉ biết chờ lão Curtain thực hiện những hành động xấu xa nhất?
“Phải, nhưng có quá nhiều thông tin cần liên lạc,” cô bé nói bằng giọng trầm, đầy lo lắng, “và em vẫn chưa tập được gì
“Nào, Constance!” Kate nói và cười toe toét “Chuyện sẽ tuyệt lắm đấy! Như Reynie đã nói, mọi chuyện sẽ hoàn hảo! Chúng ta có thể báo cho ngài Benedict biết bọn mình đang ở đâu, nhưng Curtain không hay biết gì về chuyện đó! Ngài Benedict sẽ lại có lợi thế - chính là sự bất ngờ!”
Reynie không muốn chỉ ra rằng khi bốn đứa đang bị giữ làm con tin, ngài Benedict vẫn sẽ phải giải quyết một tình huống cực kỳ khó khăn. Điều tốt nhất bây giờ là kích thích sự tự tin của Constance. Thực ra, đó là lý do tại sao cậu triệu tập “cuộc họp chính thức” của Hội. Nhìn vẻ bề ngoài, có vẻ như ngồi thành một vòng tròn trên sàn nhà chẳng khác gì những lần chúng làm trước đó. Nhưng Reynie hy vọng nó sẽ nhắc cho Constance nhớ lại những thành công mà chúng đã làm được trong quá khứ, sự sắp xếp cùng phong thái quen thuộc sẽ giúp Constance bình tĩnh trở lại.
“Chà, được rồi, nhưng em không thể hình dung ra nó được,” Constance nghi ngại nói. “Khi em ở thư viện, em chỉ nhìn chằm chằm vào mã số ở gáy sách. Ngài Benedict nói có lẽ hình ảnh truyền đi dễ dàng hơn, nên em đã thử làm thế. Nhưng ở đây không có gì nhiều để nhìn...”
“Bọn anh sẽ giúp em,” Reynie nói, và những đứa khác đồng thanh nhất trí. Nhóm bắt đầu phác ra cách tốt nhất để Constance có thể liên lạc với ngài Benedict về tình huống hiện tại của mình. Dù sao thì ngài ấy không thể lập một kế hoạch giải cứu ở một nhà tù khác được. Ngài ấy cần biết rằng chúng đang bị giam giữ ở nhà tù Third Island, điều mà chúng sẽ không biết được nếu Reynie không nhớ đến ánh mặt trời chói chang chiếu thẳng qua cửa kính của xe tải. Mặt trời, tất nhiên, là mọc ở đằng đông; vì thế có thể suy ra chúng đang đi về phía tây.
Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng đang ở nhà tù Third Island. Thật may là Sticky và Kate cũng đã hiểu khá rõ nơi này. Kate có thể mô tả kỹ hơn rất nhiều về những thứ Constance nhìn thấy bên ngoài, và Sticky giải thích rằng nhà tù đặt trên một hòn đảo (hòn đảo thứ ba tính từ vịnh, vậy nên nó mới có tên là Third Island - đảo thứ ba) dọc theo phần rộng nhất của bờ sông Thành phố Đá.
“Cóên quan gì giữa người đàn ông này và những hòn đảo cơ chứ?” Constance đảo mắt nói.
“Nó có ý nghĩa chiến thuật cả đấy,” Reynie nói. “Nhà tù có một vị trí có thể phòng thủ được, và nếu có chuyện gì diễn ra ngoài ý muốn, ông ta có thể cắt điện và dùng chiếc Salamander để trốn bằng đường sông.”
“Cậu có thực sự nghĩ rằng ông ta có thể cắt điện lần nữa không?” Kate hỏi.
“Chẳng có lý do gì để không làm thế cả. Ông ta vẫn có gián điệp trong chính phủ, và ông ta sẽ cho Máy Thì Thầm hoạt động sớm thôi. Tớ cá đó là việc ông ta đang cố gắng tập trung làm.”
“Chắc chắn rồi,” Sticky nói. “Ông ta sẽ muốn chạy lại tất cả những phần mềm máy tính trước để xem ngài Benedict đã thay đổi những gì, và đảm bảo là...”
“Dừng lại, dừng lại!” Constance làu bàu. “Mọi người đang làm đầu em loạn hết lên rồi đấy. Em chỉ cần tập trung vào nơi chúng ta đang ở và những điều chúng ta biết chắc, đúng không?”
“Phải,” Reynie đáp. “Anh nghĩ chúng ta nên làm thế này cho đơn giản. Em nên cố gắng bảo cho ngài ấy những điều bọn mình biết - tập trung vào những chi tiết quan trọng nhất - và để an toàn, có lẽ em nên gợi ra càng nhiều hình ảnh càng tốt. Như một chiếc đèn neon nhấp nháy chữ ‘Third Island’ ấy, có thể là...”
“Và có thể là ba đứa bọn mình đang đứng nhìn ra từ đằng sau song sắt nhà tù nữa,” Kate gợi ý.
“Nhưng chuyện đó có thể gây nhầm lẫn,” Sticky nói. “Tớ chắc chắn là ngài ấy biết các phòng giam ở đây đều đã bị phá hủy rồi.”
“Phải, nhưng như thế dễ hình dung mà,” Kate lập luận.
“Tớ biết như thế dễ hình dung,” Sticky nói. “Ý tớ là để nói rõ, bọn mình nên...
Constance nhíu mày suỵt suỵt rồi nhìn ra cửa. “S.Q. đấy!”
Quả nhiên sau đó ổ khóa xoay, cánh cửa mở toang và S.Q. Pedalian bước vào phòng với một tô nhựa lớn bỏng ngô. Anh ta đóng cửa lại. “Trước khi các em nói điều gì, các em nên biết rằng việc nói chuyện với anh sẽ khiến các em bị trừng phạt. Ngài Curtain đã nói điều đó với anh rất rõ - rất rõ ấy - và trách nhiệm của anh là báo cáo lại nếu các em làm thế. Nên là đừng nói. Cũng không có những chuyện mạo hiểm nữa. Garrotte được giao vị trí ở tiền sảnh và sẽ chạy vào nếu anh kêu lên.”
S.Q. đặt cái tô lớn lên sàn nhà và nhìn nó đầy hối lỗi. “Anh e rằng nó hơi ỉu một chút, và không có bơ. Nhưng ngài Curtain nói dinh dưỡng không phải là điều quan tâm chính của chúng ta lúc này. Ngài chỉ muốn các em không kêu gào vì cái dạ dày trống rỗng của mình thôi.” Lần đầu tiên, S.Q. ngẩng lên và nhìn lũ trẻ. “Các em cũng biết, anh không hề ác cảm với các em vì những điều xảy ra trên hòn đảo này. Từ đó, anh đã nghĩ về chuyện đó rất nhiều, và anh nhận ra lúc ấy các em rất sợ hãi. Nếu anh mà là các em, anh cũng sẽ lừa mình như thế thôi. Không phải là anh có thể tự lừa được mình đâu, tất nhiên rồi - ý anh là, không lừa được nếu không có... thôi cho qua đi. Ý anh muốn nói là anh không cảm thấy nặng nề gì. OK? Đừng trả lời nhé!”
Từ biểu hiện bồn chồn của S.Q. lũ trẻ có thể thấy anh ta nói thật, rằng anh ta sẽ báo cáo lại nếu chúng chỉ nói một từ với mình. Tuy nhiên, anh ta có vẻ lưỡng lự không muốn đi, và cứ đứng bần thần ở đó, bên cạnh tô bỏng ngô, lấy mũi giày đẩy nhẹ vào nó như thể đang động viên cho lũ trẻ ăn đi vậy. Cuối cùng, anh đành lặng lẽ thở dài quay đi.
“Kate,” Reynie nói nhanh, “tớ hy vọng S.Q. nhận ra là bọn mình cũng không có ác cảm gì với anh ấy cả. Ý tớ là, tớ hy vọng anh ấy biết rằng chúng ta hiểu anh ấy chỉ đang cố làm những điều đúng đắn.”
“Chắc chắn rồi, Reynie,” Kate đáp, ngay lập tức hiểu ý. “Bọn mình luôn luôn hòa hợp với anh ấy mà, đúng không?” Cả Sticky và Constance (bằng những giọng khá ngượng nghịu và e dè) vội vàng đồng ý.
S.Q. đang lắng nghe chăm chú liền quay lại với mỉm cười. “Cảm ơn,” anh ấy nói. “Nhân tiện, ta muốn nói các em thật thông minh.”
“Sticky,” Reynie nói (mặc dù cậu đang khẩn nài nhìn về phía S.Q.) “Tớ không biết liệu S.Q. có thể nói cho bọn mình biết chuyện gì đang xảy ra không. Tớ cá là anh ấy có thể hiểu được việc bị giam giữ trong đây và không rõ lý do tại sao nó chán nản đến thế. Như anh ấy đã nói, bọn mình rất sợ hãi.”
S.Q. có vẻ băn khoăn. “Anh không biết... Ý anh là, chủ của anh không nhấn mạnh rằng...”
“Cậu nói đúng đấy, Reynie,” Sticky nói, “anh ấy quả là tốt bụng.”
S.Q. ấn một khớp ngón tay vào môi và liếc ra phía cửa. “Anh nghĩ rằng sẽ không sao nếu chỉ - chà, nói thật là chuyện rất đơn giản. Như các em biết nếu các em không bị những bản báo cáo hiểm độc đánh lừa, ngài Curtain chỉ muốn ổn định lại đất nước. Ngài muốn bảo vệ nó! Nhưng có những người có quyền lực trong chính phủ không quan tâm - họ chỉ muốn nắm giữ quyền lực của mình, không cần biết chuyện đó có hại cho mọi người khác như thế nào.”
“Có phải là lão Curtain chỉ đang cố giúp đỡ hay không?” Constance ngờ vực hỏi. Sau đó, khi thấy vẻ mặt hoảng hốt của các bạn, cô bé nói nhanh, “Em đang hỏi Reynie!” và hơi tuyệt vọng cô bé nói tiếp, “Nào, Reynie? Đó có phải là điều anh nghĩ không? Reynie? Có phải không, Reynie?”
“Anh không biết, Constance ạ,” Reynie đáp. “Có thể là thế.”
S.Q. bình thản nói, “Anh đảm bảo với các em là ông ấy đang làm thế. Và ông ấy có một vài người bạn trong chính phủ hiểu được điều này. Đó là lý do tại sao họ được sắp xếp gặp gỡ những nhà tư vấn giỏi nhất cho chính phủ để có một cuộc họp bí mật với ngài Curtain vào chiều nay. Họ sẽ tìm ra cách để đảm bảo tất cả các thành phố đều có một nguồn năng lượng an toàn và ổn định. Nhờ có sự hiểu biết của ngài Curtain, các tua-bin thủy lực có thể được xây dựng, các mạng lưới điện được nâng cấp và cải thiện rõ rệt, các hệ thống mới được lắp đặt - hãy tin anh, mọi chuyện sẽ trở nên tốt đẹp hơn rất, rất nhiều với mọi người. Và một khi những người có chức vụ cao thấy những điều ngài Curtain thực sự muốn làm - những điều trước nay ngài đang cố gắng làm - chà, họ sẽ thay đổi suy nghĩ và ủng hộ cho ngài. Ngài sẽ không còn bị coi là một tên tội phạm nữa.” S.Q. ngừng lại, sau đó nói thêm, “Và cả anh cũng thế.”
Lũ trẻ nhìn nhau băn khoăn. Chúng không ngờ rằng những “người bạn” kia thực ra lại là gián điệp - và rằng ngay chiều nay lão Curtain sẽ sử dụng Máy Thì Thầm để lấy những bí mật có giá trị từ những nhà tư vấn mà gián điệp của ông ta mang đến. Và sau đó ông ta sẽ xóa hết mọi trí nhớ của họ về sự việc không hay ho đó, và không có ai là người khôn ngoan nữa.
“Reynie,” Kate nói, “tớ vẫn không hiểu tại sao lão Curtain lại cần đến bọn mình.”
“Ồ! Điều đó quả là phức tạp,” S.Q. nói. “Thậm chí ngay cả anh cũng thấy điều đó thật khó hiểu. Nhưng nó có nghĩa với những người - những kẻ ngu ngốc và xấu xa - đang cố hủy hoại cơ hội của lão Curtain. Ngài bị ép buộc phải dùng một số biện pháp bất thường để xử lý tình huống này. Thực sự ngài chỉ có một yếu điểm, và ngài Benedict có thông tin mà ngài có thể giải quyết được yếu điểm đó - nhưng ngài Benedict lại rất xấu xa và không muốn giúp đỡ - nên ngài Curtain phải dùng đến các em. Anh không biết tại sao, nhưng điều quan trọng là mọi chuyện sẽ rất tốt đẹp nếu các em làm đúng theo lời ngài nói.”
“Constance,” Reynie nói. “Anh không biết S.Q. có thực sự, hoàn toàn tin vào chuyện đó không?”
Khuôn mặt S.Q. sầm lại trước câu nói đó. Một lúc lâu anh đứng yên, mắt liếc hết bên này sang bên kia như thể đang tìm câu trả lời - hay tìm sự an ủi - ở các góc phòng. “Anh phải đi rồi,” anh đột nhiên nói và đi nhanh ra cửa. “Garrotte hẳn sẽ băn khoăn không biết anh làm gì mà lâu thế!”
Reynie, quên mất, suýt nữa thì gọi tên anh ta. Và sau đó S.Q. ra khỏi cửa, và chúng đều nghe thấy tiếng ổ khóa xoay.
Thời gian trôi đi thật nhanh. Đến chiều, khó ai có cơ nội ngăn cản sức mạnh của Constance nữa.
Lúc này mọi chuyện dường như phụ thuộc vào khả năng truyền ý nghĩ của Constance đến đầu óc của ngài Benedict, rõ ràng và chính xác, qua không biết bao nhiêu dặm. Không ngạc nhiên khi cô bé cảm thấy bị áp lực. Cô bé đã một lần cản trở được Máy Thì Thầm, nhưng cuộc chiến đó yêu cầu cô bé phải ngoan cường cưỡng lại; lòng dũng cảm và quyết tâm đã giúp cô bé. Nhưng lần này thì khác, nhiệm vụ phức tạp hơn rất nhiều.
Chưa bao giờ Constance làm việc cật lực trong một thời gian dài đến thế. Nhiều phút trôi qua, rồi hơn một giờ, cô bé vẫn miệt mài làm việc. Và dường như tất cả những việc cô bé làm là nằm trên sàn nhà, hai mắt nhắm nghiền. Các bạn cô biết là cô đang gửi đi gửi lại suy nghĩ của mình, rồi “nghe” xem có câu trả lời nào không. Reynie, Kate và Sticky vẫn yên lặng tuyệt đối, thở nhẹ hết sức có thể và cố gắng (nhất là với Sticky) để không gãi chỗ ngứa hay duỗi chân. Chúng biết khả năng tập trung của Constance là điều quan trọng hơn cả, rằng số phận của chúng, và thực ra là số phận của tất cả những người thân yêu của chúng, phụ thuộc vào thành công của Constance.
Vì vậy chúng hoang mang tột độ khi thấy Constance bắt đầu ngáy ngủ.
“Constance!” Chúng gào lên hoảng hốt “Constance! Tỉnh dậy!”
Constance ngồi dậy, sau đó nhíu mày và dụi mắt. “Sao thế? Có chuyện gì thế? Có chuyện gì à?” Bỏ hai nắm tay xuống, cô bé để ý thấy vẻ mặt lo lắng của các bạn và nói, “Ồ. Em đoán là em đã ngủ quên...”
“Constance, sao mà em làm thế được?” Kate lắc đầu nói.
“Em không biết. Em không nhận ra là em đã ngủ. Em đã gửi tin nhắn đến hàng trăm lần, và mỗi lần em nghĩ có thể em nghe thấy ngài Benedict nói gì đó với em. Nhưng chuyện rất rối ren và yên lặng, em không nghe được một từ nào, và theo như em biết đó là trí tưởng tượng của em làm chuyện đó. Đúng không? Ý em là, nếu điều mà ta muốn hơn tất cả mọi thứ là nghe thấy tiếng ai đó trong đầu mình...” Cô bé ngáp và duỗi chân tay. “Nhưng em không tin nổi là em đã ngủ quên. Em đã mệt lử cho đến khi - ồ!”
“Ồ gì cơ?” Reynie hỏi.
“Em nhớ ra rồi, Constance nói, nhắm mắt lại và đặt đầu ngón tay lên thái dương. “Em có một hình ảnh trong đầu, và nó dễ chịu đến mức khiến em thấy vô cùng thoải mái...” Cô bé mở mắt ra. “Em nghĩ em đã quá mệt đến mức chỉ cần nghỉ ngơi trong một giây thôi cũng giúp em tỉnh táo.”
“Chuyện đó cũng xảy ra với anh khi anh ở trên xe tải,” Reynie nói. “Hình ảnh đó là gì?”
“Là ngài Benedict và mọi người. Tất cả mọi người trông rất buồn cười, họ mặc những bộ quần áo ngớ ngẩn, và tất cả đều cười thật tươi với em.” Constance mỉm cười. “Nhưng hay hơn là, tất cả đều đang cầm bánh - bánh của anh Moocho Brazos. Thực sự là em có thể ngửi thấy chúng.”
“Nghe như em đang mơ vậy,” Sticky nói.
Constance cân nhắc nói. “Có lẽ vậy. Đó đúng là một hình ảnh ngớ ngẩn hiện lên trong đầu em.”
Tuy nhiên, Reynie lại rất hứng khởi. “Constance,” cậu nói nhanh, “em có nghĩ đó là thông điệp của ngài Benedict không?”
“Ồ! Em không biết... Em nghĩ có thể lắm!” Cô bé bặm môi nghĩ ngợi. “Nếu vậy, em không hiểu được ý ngài ấy là gì. Có lẽ ngài ấy chỉ muốn em cười và cảm thấy tốt hơn... có lẽ đó là cách tốt nhất mà ngài ấy nói với em rằng mọi chuyện sẽ ổn. Dù sao thì đó cũng là cảm giác mà nó mang lại cho em.”
Reynie vặn vẹo hỏi tiếp như thể cậu chưa hề bị thuyết phục. Constance nói “mọi người” nghĩa là những ai? Những bộ quần áo ngớ ngẩn đó là gì? Và làm sao cô bé biết đó là bánh của Moocho Brazos? Constance thản nhiên đáp rằng “mọi người” nghĩa là chú Milligan, Rhonda, Số Hai; rằng những bộ quần áo đó là những bộ ngụy trang buồn cười - ria mép giả lớn, áo khoác dài, và mũ nón; và rằng tất nhiên những cái bánh đó được làm bởi Moocho Brazos vì còn ai làm chúng được nữa chứ?
“Tuy nhiên đúng là hình dáng của chúng rất lạ,” Constance ngẫm nghĩ nói. “Chúng được nướng theo hình chữ s.
“Như chữ S ư?” Sticky hỏi. “Để làm gì?”
“Làm sao mà em biết được? Có lẽ nó tượng trưng cho cái gì đó - có thể là sự an toàn hay sự an ninh (Save or Sacrifire). Như em đã nói, hình ảnh đó làm em cảm thấy tốt hơn. Có lẽ nó dùng để mang lại cho em cảm giác an toàn như ở nhà.”
“Tuy nhiên, giả sử rằng đó không phải chỉ là một giấc mơ,” Kate nói và nhìn Reynie xem cậu nghĩ gì về điều đó.
Reynie xoa cằm. “Em có chắc đó là hình ảnh duy nhất em nhìn thấy không, Constance? Không có từ nào đi cùng với nó à?”
“Ổ chắc chắn là có rồi, có hàng đống ấy chứ, nhưng em không thể nói cho anh biết chúng đến từ ngài Benedict hay là từ em. Tất cả đều rất lộn xộn và đó đều là những từ em tự nghĩ - tất cả những thứ về kế hoạch của lão Curtain, về nhà tù, về những gián điệp đưa những tư vấn viên đến đây, nói chung là tất cả những thứ mà em đã cố gửi đến ngài Benedict, chỉ có điều chúng là các mảnh nhỏ và đoạn ngắn thôi. Đôi khi đó là giọng của em và đôi khi là giọng ngài Benedict. Em không biết nữa - nếu ngài ấy đang cố nói với em điều gì đó thì ngài ấy làm không được tốt lắm.”
Constance đột nhiên thấy mình đói ngấu, và trong khi Reynie và những đứa khác thảo luận xem hình ảnh đó nghĩa là gì, cô bé tống cả nắm bỏng ngô vào miệng.
Sticky và Kate càng nói càng không chắc lắm hình ảnh đó là từ ngài Benedict. Ngược lại, Reynie lại tin rằng nó đúng là từ ngài ấy; cậu cảm thấy hình ảnh đó có ý nghĩa gì đó, nhưng cậu không giải thích được tại sao. Và thậm chí nếu là từ ngài Benedict thật, thì chúng do ngài ấy cố ý gửi hay chỉ là Constance cố lắp ráp lại từ những suy nghĩ của ngài ấy? Thêm vào đó, nếu ngài ấy cố ý gửi nó đi, thì có lẽ nó đã mất đi một số chi tiết phụ trong quá trình di chuyển. Vậy là dù hình ảnh đó rất ám ảnh, nhưng cũng khó có thể giúp bọn trẻ điều gì.
“Có lẽ bọn mình nên nghỉ một lát,” Constance nói khi chúng đã mệt lử vì thảo luận về điều đó (và cô bé đã chén no một bụng bỏng ngô). Mí mắt cô bé đã bắt đầu sụp xuống. “Chỉ nghỉ một tí thôi” - cô bé ngáp - “nghỉ một phút trong lúc chúng ta nghĩ thêm về điều này. Em thấy mọi người đều mệt mỏi rồi...” Và không nói gì thêm nữa, cô bé cuộn người lại và thiếp ngủ ngay tức khắc.
Sticky nhìn cô bé ghen tị. “Ước gì mình làm được như vậy!”
Reynie lắc đầu. “Tớ nghĩ sự căng thẳng đã làm con bé quá mệt. Con bé không quen làm việc quá sức, các cậu biết mà!”
“Đấy là cách nói giảm thôi,” Kate nói và kiểm tra cái tô bỏng ngô đang trống trơn.
Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan - Trenton Lee Stewart Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan