Những nỗ lực của bạn chỉ có thể đơm hoa kết trái nếu bạn quyết không bỏ cuộc.

Napoleon Hill

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Diệu Hằng
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hoang Tu
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1453 / 79
Cập nhật: 2019-06-15 23:32:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 11 - Bẫy, Manh Mối Và Những Chuyện Có Thể Xảy Ra
ũ trẻ bò từ tầng hầm lên một vùng bóng tối nhấp nháy ánh đèn màu xanh. Một viên cảnh sát trẻ măng đứng bên cạnh chiếc xe tuần trên vỉa hè đang cố gắng sử dụng chiếc điện đài nhưng vô ích. Khi điện mất, chú Milligan nói, chú đã đưa quân hàm cho viên cảnh sát này và trưng dụng chiếc xe. Chú biết mình phải quay trở về ngôi nhà n
gay lập tức, nhưng chú đang ở đầu kia của Thành phố Đá - tận khu Quarryside - và vì đèn giao thông không hoạt động nên đường phố loạn hết cả lên. Thậm chí sử dụng xe cảnh sát với đèn nháy xanh và còi hụ (không nói đến vỉa hè và sân trước), chú cũng phải mất đến hai mươi phút.
“Tất nhiên là ta đã tắt còi khi đến gần,” chú Milligan nói, “nhưng sự cẩn trọng đó cũng không cần thiết - bọn chúng đã đi rồi. Ta chỉ cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy chúng chưa đưa các con đi cùng. Cảnh sát Williams, đây là những đứa trẻ mà tôi đã nói.”
Viên cảnh sát trẻ run rẩy bỏ bộ đàm xuống. Anh ta cười gượng gạo với lũ trẻ, chúng không thể không để ý đến khuôn mặt xanh xao khác thường của anh ta. “Rất vui... rất vui khi các cháu… ừm...”
Chú Milligan vỗ vai anh ta.
“Cậu nên ngồi xuống, anh bạn ạ. Cậu sắp xỉu đến nơi rồi.”
Viên cảnh sát cảm ơn bằng cách ngồi sụp xuống chiếc xe tuần của mình, và chú Milligan dẫn bọn trẻ qua cửa chính rồi nói. “Ta e là việc lái xe của mình không phù hợp với anh ta cho lắm. Hoặc có lẽ là việc ta mô tả những Gã Số Mười, ta nghĩ anh ta nên biết về chúng, vì chúng có thể ở đây khi đến nơi.”
Khi chú Milligan dẫn chúng đi quanh hông nhà, chú xâu chuỗi các sự việc mà mình biết được trong vài phút vừa rồi. “Chiếc đèn pin của con có những mảnh vỡ, Kate ạ,” chú nói và chiếu đèn của mình xuống cỏ, “và chỗ lún trên đất kia chính là nơi chiếc vali của gã đó rơi xuống, và ở chỗ này” - chú chiếu ánh sáng vào chỗ cỏ bị giày xéo - “là nơi cô Plugg đã vật lộn với gã đó ít nhất là một phút. Các con biết đấy, ở trường cô ấy từng là một đô vật mà, rất nổi tiếng đấy. Rõ ràng là cô ấy đã cảm nhận được hắn đang cố với lấy chiếc vali - các con có thể thấy hắn vẫn cố để với lấy nó, nhưng cô Plugg cứ kéo hắn về phía sau.”
Lũ trẻ - những người không chứng kiến vụ việc - chỉ biết gật đầu. Chú Milligan dẫn chúng ra đằng sau ngôi nhà. “Cuối cùng hắn đập chiếc vali vào mũi cô ấy khiến cô bất tỉnh ngay tại chỗ. Nhưng cô ấy sẽ ổn thôi - cô ấy khỏe chẳng kém gì chúng đâu. Cô ấy tỉnh dậy khi ta đến đây và cứ khăng khăng đòi hỗ trợ mặc dù vẫn còn đang chếnh choáng và đau đầu khủng khiếp. Ta đưa cô ấy vào bên trong để tìm các bảo vệ cửa căn phòng bí mật. Thật không may, họ sẽ được đưa đi sớm thôi, với nhãn chống sốc và khăn tay. Nếu có sự can thiệp của các vali, ta sẽ phải sơ cứu trước.”
“Bố vẫn chưa vào trong ạ?” Kate hỏi.
Chú Milligan nhướng một bên mày. “Bố vừa mới đến, Kate ạ. Có lẽ con sẽ ngạc nhiên khi biết rằng các con là ưu tiên hàng đầu của bố.”
Họ đi vào sân sau, nơi vết bánh xe sâu hoắm của chiếc Salamander chạy thẳng đến chân cầu thang. Ở bên kia sân, hàng rào sắt bị sập nằm bẹp trên hàng rào uốn cong nhăn nhúm, các thanh chĩa ra của nó chọc thẳng qua những khe hở của hàng rào, vẫn còn đang rung rung và đong đưa. Lũ trẻ cảm thấy bối rối trước một sinh vật bị đè ngã ngửa ra đất bởi một sức nặng khủng khiếp, và khi chúng kể cho chú Milligan về những điều mình chứng kiến, âm thanh sột soạt và những chuyển động nảy lên của cọc rào trong đêm vẫn làm chúng nhảy dựng lên và nhìn chăm chú.
“Công nghệ triệt tiếng ồn cho chiếc Salamander ư?” Chú Milligan nhíu mày bối rối. “Ta không thích phải nói ra điều này, nhưng đó là một sáng tạo tuyệt vời. Trong bóng tối, không có ánh sáng hay tiếng động - nó thật hoàn hảo cho một cuộc đánh úp hay trốn chạy trên sông.
“Trên sông ấy ạ?” Kate hỏi.
“Salamander vừa đi được trên cạn vừa đi được dưới nước, và con sông Thành phố Đá chỉ cách đây vài dãy nhà. Chỉ có các con hẻm và các lô đất nằm giữa chúng và lối thoát thôi. Và một hai hàng rào an ninh gì đó, nhưng các con biết Salamander không phải là thứ biết sợ các hàng rào.”
Một cửa sổ mở ra phía trên đầu họ, và cô Plugg gọi vọng xuống báo rằng các bảo vệ đều ổn cả - chỉ bị mệt rã rời vì các nhãn chống sốc thôi - nhưng cô vẫn chưa thấy ông Bane đâu.
“Thật là ngạc nhiên,” Sticky lầm bầm.
“Còn việc này nữa,” cô Plugg nói thêm bằng giọng lo lắng sâu sắc. “Ồ, tôi khó có thể...” Khuôn mặt của người phụ nữ tội nghiệp, bị đóng khung bởi ô cửa sổ, trông vuông vức chẳng khác nào chính ô cửa sổ đó. “Chiếc ghế đã bị phá hủy! Chiếc ghế đặc biệt trong phòng bí mật ấy! Tôi rất tiếc, anh Milligan ạ. Chúng tôi thật vô dụng...” Cô nói rồi tránh ô cửa sổ, không muốn nghe những lời an ủi hay tha thứ từ Milligan.
Chú Milligan bối rối quay lại nhìn lũ trẻ.
“Phá hủy ư? Chúng đã phá hủy Máy Thì Thầm ư?”
Lũ trẻ cũng bối rối chẳng kém gì. Chúng nghĩ rằng Máy Thì Thầm đã bị đánh cắp - rằng thậm chí ngay bây giờ, chiếc Salamander, cùng Máy Thì Thầm và các máy tính của nó, đã xuống sông để đến cảng Thành phố Đá, nếu không thì cũng đi về phía thượng nguồn đến một điểm nào đó để chuyển đến lão Curtain.
“Cháu muốn tin vào điều đó,” Reynie lắc đầu nói. “Cháu thực sự muốn - nhưng cháu không tin.”
“Đi cùng ta nào,” chú Milligan nói, rồi cả lũ theo chú vào nhà, đi cầu thang bí mật xuống tầng hầm, nơi ánh đèn pin của chú chiếu sáng một đống hỗn độn, tối tăm và tơi tả gồm những chiếc máy tính đã bị chảy ra một n
Kate huýt sáo đầy kinh ngạc. “Chúng đốt máy tính ư? Làm thế ích gì! Tại sao ông ta không mang chúng đi nhỉ?”
“Ông ta mang đi rồi,” Reynie nói.
“Nhưng những máy tính này...”
“Đây không phải là máy tính của Máy Thì Thầm. Nếu phải thì bọn mình đã ho như điên rồi.”
“Đúng vậy!” Kate rên rỉ và khịt mũi. “Không có khói!”
“Vậy đây là một cái bẫy,” Sticky nói. “Nhưng tại sao Curtain lại làm thế?”
Chú Milligan càu nhàu. “Để khiến chính quyền tin rằng Máy Thì Thầm không còn tồn tại nữa, nên nó sẽ không gây ra mối đe dọa nào nữa.”
“Không ạ, cháu biết điều đó rồi,” Sticky nói. “Ý cháu là, tại sao Curtain lại làm việc xấu xa đó? Nếu chúng ta có thể khẳng định rằng những chiếc máy tính đó chưa bị phá hủy thì tất cả mọi người đều có thể.”
Reynie lầm bầm và đưa tay lên đầu. “Ai là người duy nhất thường sử dụng Máy Thì Thầm? Ai là người duy nhất sắp mất quyền kiểm soát đối với nó?”
“Ngài Benedict,” Sticky thì thầm như thể không muốn ai nghe thấy.
Reynie bắt đầu đi lại nhưng không có không gian nên cậu ngồi phịch xuống chân cầu thang. “Vậy là cả vụ này đã được dàn xếp từ đầu rồi,” cậu tức tối nói. “Người duy nhất có thể đảm bảo rằng những chiếc máy tính này không thuộc bộ máy của ngài Benedict, nhưng ngài ấy sẽ bị nghi ngờ vì tội phá hoại chúng - để trả thù, tớ cho là vậy, trừ khi họ nghĩ ra được lý do nào đó lố lăng hơn. Họ sẽ không tin bất kỳ điều gì ngài ấy nói đâu. Sự thật sẽ biến mất cùng Máy Thì Thầm.”
“Nhưng những Gã Số Mười thì sao?” Kate
Chú Milligan lắc đầu. “Những kẻ côn đồ có mối thù truyền kiếp với ngài Benedict và ta. Chúng không nhất thiết phải là những tên trộm. Đó là điều người ta sẽ nói. Họ nói rằng ngài Benedict đã chộp lấy cơ hội này để làm lý do, như một sự che đậy cho hành động ngài đã làm. Có thể họ còn nghĩ ra rằng chính ngài đã dàn xếp vụ này.” Chú quỳ xuống và tập hợp bọn trẻ lại gần. “Nghe này, đây là cách để biến vụ này trở nên phức tạp hơn, và ta cần các con làm đúng những điều ta dặn. Các con có làm được không?” Chú cười và nói thêm, “Một lần này thôi?”
Chúng gật đầu. Chú Milligan bặm môi và nhìn chúng ngờ vực.
“Chúng con làm được,” Kate quả quyết.
“Cảm ơn các con,” chú Milligan nói. “Được rồi. Ngài Benedict và những người khác sẽ quay trở lại bất cứ lúc nào, người của ta sẽ tập hợp thành một đội, và chắc chắn là ngài Gaines và đội của ông ta cũng sẽ đến nữa. Cả nơi này sẽ vô cùng hỗn độn, với những đôi tai nghe ngóng ở khắp nơi, và các con không được nói bất cứ điều gì - không nói gì hết - trừ khi các con hoàn toàn chắc chắn rằng các con ở một mình với người của chúng ta.”
“Chúng con không bị thẩm vấn ạ?” Reynie hỏi.
“Các con có thể nói ta yêu cầu các con không được nói với ai. Điều đó sẽ ngăn họ lại lúc này,” chú Milligan nói. Khi chú nói, họ nghe thấy tiếng cửa xe đóng sầm lại và những giọng nói quen thuộc vang lên đầy kích động trong sân, và hai còi hụ vang lên từ xa đã bắt đầu hú to hơn. “Các con cần phải đi ngay. Sẽ không có ai trợ giúp đâu. Quân của ta và ta phải tìm ra dấu vết chiếc Salamander nếu chúng ta có thể, nên ta không thể ở lại cùng các con được. Trong thời gian đó, những Gã Số Mười vẫn đang đi lảng vảng tìm Constance, và có thể con bé sẽ dẫn chúng về thẳng đây. Và ta không thể để toàn bộ quân ở lại để bảo vệ các con tuyệt đối được.”
“Đưa chúng con đi cùng có nguy hiểm không bố?” Kate hỏi, cô bé thích được đối mặt trực tiếp hơn là trốn đi đâu đó mà không hề hay biết chuyện gì đang xảy ra.
“Tất cả mọi chuyện bây giờ đều mạo hiểm cả, bố e là vậy, nhưng việc nhất là chuyển các con đi, càng sớm càng tốt.”
“Còn bố mẹ con thì sao ạ?” Sticky bắt đầu.
“Họ sẽ đồng ý với ta. Dù sao thì ta cũng sẽ chuyển họ đi nữa. Nhưng điều chúng ta muốn trước nhất là các con tránh được nguy hiểm. Trong thời gian đó, Kate, đây là chìa khóa mở cánh cửa an toàn trong tầng hầm - nếu chúng ta bị nguy hiểm một lần nữa, các con sẽ có chỗ trú ẩn an toàn hơn.”
Chú Milligan phải hét lên câu cuối, vì tiếng còi hú đã vang lên ngay bên ngoài. Và tiếng om sòm chúng gây ra còn kéo dài một lúc lâu nữa, điều này biến những cuộc gặp gỡ trên sân của người lớn và trẻ con đầy tiếng hét ầm ĩ và các cử chỉ điệu bộ. Chỉ có bà Perumal - người gặp vấn đề về tai - là có vẻ không bị ảnh hưởng bởi những tiếng om sòm; bà đứng yên lặng xoa đầu Reynie, trong khi tất cả những người khác bịt tai lại và vò tóc. Cảnh sát và đặc vụ khoa chân múa tay ở khắp nơi; cư dân trong khu vực đổ ra đường ngó nghiêng; và ở tít trên cao chú chim Madge khích động bay lượn vòng quanh, giấc mơ đi săn chim bồ câu của nó bị cắt đứt ngang chừng một cách thô bạo.
Sau đó, đột nhiên, tất cả các còi xe cảnh sát tắt phụt và tiếng gầm rú của ngài Gaines vang vọng khắp hiện trường: “Vậy lúc đó ngài ở đâu, Benedict? Ngài nói cho tôi xem!”
Tiếng quát tháo vang lên từ sân sau - nơi ngài Benedict đã tập hợp lại cùng một số người khác để kiểm tra hiện trường. Câu trả lời của ngài bé quá không nghe thấy được và tiếng ồn ào, huyên náo ở sân trong lại nổi lên, tuy lần này có cường độ thấp hơn. Nhà Washington, nhà Perumal, và cả Moocho Brazos nữa - những người không tìm được Constance - đang tấn công bọn trẻ dồn dập bằng những câu hỏi và sự lo lắng về những điều đã xảy ra. Nhưng lũ trẻ, theo sự chỉ đạo của chú Milligan, né tránh các câu hỏi để trả lời sau, vì trên sân vẫn còn rất đông các đặc vụ, cảnh sát và những bảo vệ đang bị sốc.
Rhonda xuất hiện ở cửa trước với một chiếc đèn lồng. “Nào mọi người, nhanh lên,” cô nói và vẫy tay ra hiệu các gia đình vào trong. “Chúng ta phải sắp xếp một số chuyện.”
Cuộc thảo luận diễn ra bên ánh đèn lồng trong phòng giải lao, cách xa những đôi tai thám thính. Rhonda nói, trong vòng một tiếng nữa, một chiếc xe chống đạn sẽ đến và đư ngài Benedict cùng lũ trẻ đến đồn cảnh sát. Những người lái xe là người có thể tin cậy được; họ là những lính gác hàng đầu, được chính chú Milligan tuyển chọn. Một khi lũ trẻ đã được đưa đến nơi an toàn, các lính gác đó sẽ quay trở lại đón người lớn.”
“Tại sao lại là sở cảnh sát?” Cô Perumal hỏi.
“Dù sao thì ngài Benedict cũng phải đến đó,” Rhonda nói. “Chuyện đó đã được giải thích rõ ràng với chúng ta rồi. Chống cự chỉ tốn thêm thời gian thôi, và chúng ta không thể bỏ phí một giây nào hết. Chúng ta cũng không thể dùng nhiều hơn hai lái xe hay tin tưởng được bất cứ ai ngoài lính của chú Milligan cả. Sở cảnh sát khá an toàn và không xa lắm. Thậm chí nếu có tắc đường thì tất cả mọi người chúng ta cũng sẽ ở đó trong một vài tiếng nữa.”
“Thế còn Constance thì sao ạ?” Reynie hỏi.
Rhonda xoa xoa hai bên thái dương. “Con bé không ở nơi mà chúng ta hy vọng sẽ tìm thấy. Số Hai và chị sẽ ở đây để phòng con bé quay về, và Milligan sẽ tổ chức một cuộc tìm kiếm mới sau khi chú xác định được phải tìm Salamander ở đâu. Chú ấy sợ việc đó không thể thực hiện được - việc qua sông ấy - nhưng phải cố gắng thử. Nếu có bất kỳ cơ hội nào…”
Đến đây Rhonda tự ngăn mình lại, nhưng Reynie nhận ra rõ ràng cô đang khá tuyệt vọng. Tuy vậy, cô vẫn cố nặn ra một nụ cười khi chĩa đèn pin và bảo mọi người đóng gói đồ đạc để đi qua đêm. “Chỉ mang những gì thật cần thiết thôi,” cô nói trong lúc đi nhanh ra ngoài, “và gặp nhau tại đây trong vòng một tiếng nữa.”
Lũ trẻ khăng khăng nói rằng chúng muốn lên lầu để nói chuyện riêng với nhau. Trong lúc leo lên cầu thang tối om để đi vào bóng tối đen như mực bên trên, chúng thì thầm về giọng nói sợ hãi của Rhonda. Hóa ra đây không phải là cách tốt nhất để tăng thêm lòng dũng cảm, và trước khi chúng đi được nửa cầu thang, Reynie và Sticky đã muốn quay trở lại. Thậm chí Kate cũng có cảm giác nhột nhột đằng sau gáy, như thể cô bé đang bị theo dõi vậy. Kate chiếu đèn vào một số góc tối trống rỗng, sau đó cau mày đi tiếp trong lúc hai cậu con trai túm chặt lấy ngực và thở hổn hển.
“Tớ có cảm giác không thoải mái,” Kate nói khi chúng đã lên đến đầu cầu thang bọn mình nên đi cùng nhau khi thu dọn đồ đạc.”
“Nếu cậu muốn,” Reynie nói trong lúc quệt lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi vào áo sơ mi, và Sticky phát ra âm thanh yếu ớt nghe như tiếng thì thầm tán thành.
“Nhưng trước hết hãy xem qua phòng bí mật cái đã,” Kate nói rồi lao đi trước khi hai cậu kịp trả lời. Hai cậu liền vội vã đi theo ánh đèn lắc lư của Kate.
Trái với dự đoán của bọn trẻ, tiền sảnh vẫn nguyên vẹn, không có dấu vết ẩu đả, nhưng kỳ lạ là cửa phòng không ai canh giữ và bị mở toang. Điều tra nhanh cho thấy Gã Số Mười đã chiếu tia laser vào hai ổ khóa của cánh cửa. Chỉ cần vặn nắm đấm và đẩy mạnh một cái là xong. Và trong phòng, bên trên màn hình trang trí bị lật nhào có một chồng thiết bị trông có vẻ như trước đây chúng thuộc về Máy Thì Thầm.
“Nếu bọn mình không biết rõ từ trước,” Kate thì thầm trong lúc chiếu đèn pin lên đống hỗn độn đó, thì tớ sẽ nghĩ đó chính là Máy Thì Thầm.”
Sticky thở dài. “Cậu không ước đó chính là nó à? Lúc đó cả cơn ác mộng này sẽ kết thúc thay vì bắt đầu đấy.”
Từ “ác mộng” gợi cho Reynie nhớ đến Constance, ở đâu đó trong thành phố, chắc chắn lúc này cô bé đang nhìn chằm chằm vào bóng tối như thể cô vừa thức dậy từ những giấc mơ khủng khiếp.
“Các cậu có nghĩ con bé vẫn còn bối rối không?” Kate hỏi, rõ ràng là đang nghĩ y như Reynie.
“Có lẽ vậy,” Reynie nói. “Hoặc có lẽ con bé đã hết cảm giác đó rồi và đang ước giá như mình không tỉnh táo trở lại.”
“Không biết liệu con bé có biết rằng Gã Số Mười đang đi tìm nó không,” Sticky nói.
“Tớ không chịu nổi khi nghĩ đến điều đó,” Reynie nói và lắc đầu. “Ra khỏi đây thôi.”
Trong yên lặng buồn bã, bọn trẻ tìm đường ra sảnh chính nơi có các phòng ngủ. Chúng đến phòng con trai trước. Kate xoay nắm đấm cửa và lùi lại khi nghe thấy giọng một người trong phòng rên rỉ, “Cái gì thế? Ai vậy?”
“Đó là ông Bane,” Reynie tức tối nói, và sau khi nhận thấy cậu nói đúng, Kate mở toang cửa ra và chiếu đèn pin vào.
Ông Bane ngồi ở giữa sàn nhà, mắt nheo lại trước ánh đèn sáng rực, trên mặt lộ vẻ bối rối và sợ hãi. Ông ta cố gắng lấy một tay che mắt. “Có phải tôi vừa nghe thấy tiếng Reynie không? Là cháu phải không, Reynie?”
“Ông đang làm gì ở đây?” Kate hỏi, vẫn không hạ đèn xuống.
“Và cả Kate nữa,” ông Bane nói, mắt nheo lại, đầu quay đi tránh ánh sáng. Ông ta lấy áo khoác bên cạnh mình và giơ nó lên để chắn ánh đèn. “Cháu hạ cái đèn xuống được không? Đầu ta đang nhức lắm.”
Kate chiếu đèn thêm vài giây nữa - để chắc ăn - rồi mới hạ xuống và lại hỏi ông Bane đang làm gì ở đây.
“Ta... ta không biết. Chắc là họ đã lôi ta vào đây,” ông Bane nói và nhìn quanh như thể bây giờ mới thấy lần đầu tiên. “Ta... ừm, các cháu nhìn thấy ta trong sân sau. Ta cực kỳ ngạc nhiên, ta xin lỗi khi nói điều này. Ta rất bối rối và nghĩ rằng cô Plugg đã chạy vào nhà. Tuy nhiên khi ta vào đến nơi thì cô ấy không ở đó. Sau đó ta nghe thấy tiếng các bảo vệ phòng đặc biệt hét lên nên ta chạy lên đây để giúp. Ta chạy theo tiếng động ở sảnh này. Trời tối quá, và trong lúc vội vã ta lao thẳng vào một người đàn ông có một hàng lông mày.”
Bọn trẻ liếc nhìn nhau.
“Hắn đang lao ra từ phía cháu,” ông Bane nói với Kate. “Hắn nhấn một cái khăn tay vào mũi ta. Chắc hẳn là nó có chất gì đó khiến ta ngất đi và vừa mới tỉnh lại. Khi ta nghe thấy tiếng các cháu ở ngoài cửa, ta cứ tưởng các cháu là bọn chúng. Nhưng rõ ràng là chúng đã đi rồi, nếu không các cháu đã không thể đi lang thang trong bóng tối.” Ông Bane lồm cồm bò dậy. “Giờ thì có chuyện gì xảy ra vậy? Những người khác thế nào rồi? Ta bị ngất bao lâu rồi?
“Tốt hơn là ông nên xuống dưới nhà báo cáo,” Reynie nói. “Người ta tìm ông nãy giờ đấy.”
“Chà, các cháu có quá nhiều câu trả lời đúng không?” Ông ta lạnh lùng nói, khịt mũi đi qua chúng rồi dò dẫm xuống sảnh mà không có đèn pin. Chúng chiếu đèn pin sau lưng ông ta để chắc chắn là ông đã đi, sau đó vào phòng lũ con trai.
“Ông ta nói dối,” Reynie nói và đi thẳng ra phía cửa sổ.
“Tất nhiên là ông ta nói dối rồi,” Sticky nói. “Ông ta đang cố che giấu việc mình là một kẻ hèn nhát. Tớ cá rằng ông ta đã chạy thẳng lên đây và trốn ở một nơi an toàn.”
“Tớ không biết,” Kate nói. “Tại sao lại phải nói dối bọn mình? Trước đây ông ta chẳng thèm bỏ ra lấy hai giây nói với bọn mình cơ mà? Sao bây giờ lại nói? Có lẽ Crawlings đã làm ông ta bất tỉnh thật, và ông ta vẫn còn chếnh choáng nên suy nghĩ không được bình thường.”
“Hay ông ta đang hy vọng càng nói với nhiều người, cơ hội được người khác tin càng tăng lên,” Sticky nói.
Reynie lén lút nhìn theo ông đi từ ngôi nhà đến chỗ sân sau, nơi ngài Benedict, ngài Gaines và một vài người khác đang nói chuyện đầy căng thẳng và kín đáo. Ánh đèn pin chiếu khắp sân và con đường tối đen phía trước trông như những con đom đóm trong một đêm mùa hè vậy. Ông Bane bắt đầu giải thích rất sống động, giọng ông vọng lên khung cửa sổ thành tiếng lầm bầm than vãn và khó hiểu. Ông lại bồn chồn kéo khóa áo hết lên lại xuống sau khi đã mặc áo khoác vào.
“Nói cho tớ biết,” Reynie thì thầm, “các cậu nghĩ lúc nào là thời gian phù hợp nhất để cởi áo khoác ra - ngay trước khi các cậu chạy vào bên trong để tìm những kẻ đột nhập hay ngay sau khi các cậu tỉnh lại trong bóng tối và nghĩ rằng có lẽ chúng đang ở ngoài cửa?”
“Áo khoác ông ta đã bị cởi ra, đúng không?” Sticky hỏi.
“Ở trên đây rất nóng,” Reynie nói. “Có lẽ ông ta đã nóng phát ngốt. Và tớ cho rằng bọn mình đã làm ông ta hoảng sợ. Bọn mình đi rất nhẹ nhàng ngoài hành lang. Nếu không tớ cá là ông ta đã mặc nó trở lại trước khi bọn mình nhìn thấy.”
“Chà, vậy thì có gì mới?” Kate nói. “Bọn mình đã biết là không thể tin tưởng ông ta được rồi mà.”
Reynie cảm thấy mình đã để lỡ điều gì đó, nhưng khi cậu cố gắng tập trung, trong đầu cậu lại cứ hiển hiện dãy chữ số lạ lùng đó. Cậu quyết định chờ một lát và thử lại - đôi khi câu trả lời lại nảy ra trong đầu khi cậu nghĩ đến một vấn đề khác - và trong thời gian đó, cậu và Sticky vội vàng thu dọn đồ đạc. Sau đó cả bọn đi vào phòng Kate.
Không lấy gì làm lạ, cửa phòng vẫn mở vì lúc trước Kate chỉ khép hờ, cô quét nhanh ánh đèn qua một lượt và nhận ra căn phòng trống rỗng. “Có lẽ ông ta đã nói thật về Crawlings,” cô nói trong lúc đi ra chỗ cửa sổ, “thậm chí nếu ông ta nói dối về những chuyện khác. Dù sao thì tớ cũng đã thấy Crawlings chạy ra khỏi ngôi nhà, và bọn mình đều nghe thấy hắn nói với Garrotte về hướng bọn mình chạy. Chắc hắn đã trông thấy bọn mình từ cửa sổ này.” Cô bé quay trở lại giường và kéo một túi du lịch nhỏ từ gầm giường ra.
“Chúng đi tìm bọn mình,” Sticky nói. “Bọn mình đã biết điều đó rồi mà.”
“Phải, nhưng có phải là chúng biết nên tìm phòng nào trước không?” Kate nói trong lúc vuốt chiếc ga trải giường. “Chúng chạy theo tụi mình cách có mấy giây.” Theo thói quen, Kate liếc nhìn xung quanh để tìm những đồ khác dọn dẹp. Thậm chí trong bóng tối Kate cũng thấy tấm thảm bị nhăn, một mẩu giấy lộn, và một chiếc đèn đứng trên sàn nhà mà Sticky đã làm đổ bằng chiếc túi của mình.
“Tớ xin lỗi,” Sticky nói khi cô bé dựng lại cái đèn (và đặt túi của cậu ra chỗ sảnh). “Vậy cậu nghĩ là chúng chạy thẳng lên đây ư? Cậu nghĩ là ông Bane nói cho chúng ư?”
“Tớ không biết còn ai khác...” Kate ngừng lại. Reynie đang nhìn cô chằm chằm. “Sao thế, tớ nói sai gì à?”
Reynie chiếu đèn pin vào mẩu giấy trong tay cô bé. “Cái gì thế, Kate?”
Kate ngạc nhiên nhìn xuống. “Cái này á? Ồ, là một mẩu giấy lộn tớ nhặt được trên thảm thôi mà. Tớ định vứt nó đi...” Cô bé ngước lên nhìn lần nữa và đột nhiên mắt cô mở to. “Nhưng, này, có phải tớ...”
“Đã trải thảm phẳng phiu rồi đúng không? Đúng vậy. Bọn tớ đứng ngay đây và nhìn cậu làm mà.”
“Vậy là có ai đó...”
“Crawlings!” Sticky nói. “Có nhớ McCracken luôn than phiền là hắn ta rất bất cẩn không?”
Kate chiếu đèn pin vào tờ giấy. “Chỉ có một số ở đây thôi. 2100. Và có một chữ giống chữ “h” ở đằng sau nữa...”
Reynie lại chỗ thùng giấy lộn. Trong đó còn có một vài mẩu giấy nữa. “Hắn đã xé cái gì đó ra và vứt nó đi.”
“Và trong bóng tối hắn đã không nhận ra là mình đã làm rơi một mẩu,” Kate nói.
Reynie ghép các mẩu giấy trên thảm lại với nhau. Một số mẩu là từ một phong bì đã bị xé ra bằng một chiếc dao mở thư (“Có nhớ những chiếc dao mở thư đó không?” Sticky thì thầm và rùng mình) và ở mặt trước hiện lên chữ cái C, và bọn trẻ nghĩ nó là chữ viết tắt của Crawlings. Những phần còn lại là 1 lời nhắn: “Đến điểm hẹn và tìm Abbot Edifice 2100 hrs.”
“Tớ nghĩ tớ hiểu chuyện gì đã xảy ra rồi,” Reynie nói. “Gã Số Mười mang theo những lời chỉ dẫn được bịt kín - để mở trong những trường hợp nhất định, có lẽ vậy, hoặc là ngay khi chúng đến đây.”
“Nghe hợp lý đấy,” Sticky nói. “Lão Curtain biết chúng không thể sử dụng bộ đàm hay điện thoại, và ông không tin ai nên không để bất cứ người nào biết được toàn bộ kế hoạch trước đó của mình.”
“Ông ta cẩn thận quá đến mức câu chữ cũng mập mờ,” Kate nói. “Tớ biết ‘2100 hrs’ là chín giờ, nhưng ở đâu cơ chứ? Và ‘Abbot Edifice’ là ai hay cái gì? Đó là một người hay một địa điểm?”
Sticky nhăn trán. “Có vẻ như là cả hai. Một edifice là một tòa nhà, và một abbot là cấp trên của một tu viện hay...”
“Từ từ thôi,” Kate nói. “Một abbey là một kiểu nhà thờ, đúng không?”
“Có thể,” Sticky đáp và chậm rãi nói. “ ‘Abbey’ thường ám chỉ một nữ tu viện hoặc một tu viện dưới sự giám sát của một abbess - Mẹ Bề trên hoặc một abbot - Cha trưởng tu viện. Nhưng đôi khi nhà thờ nằm trong những nơi đó cũng có thể được gọi là abbey.”
“OK!” Kate nói. “Vậy là chúng sẽ gặp lại vào chín giờ tại một nữ tu viện hoặc một tu viện…”
“Chắc chắn là một tu viện rồi. Tờ giấy nói là Abbot - Cha trưởng tu viện chứ không phải Abbess - Mẹ Bề trên.”
“Vậy thì là một tu viện, và chúng sẽ tìm kiếm một trong số các tòa nhà,” Kate nói. “Nhưng tu viện nào và tòa nhà nào mới được?”
“Đợi tí!” Reynie nói và nhảy dựng lên. “Một tu viện là nơi các thầy tu ở, đúng không? Vậy có phải một cha trưởng tu viện cũng là một thầy tu không? Lão Curtain không chỉ nói mập mờ và ông ta còn sử dụng các từ mã hóa nữa!”
“Tất nhiên rồi!” Sticky nói. “Vậy Abbot Edifice là mật mã của...”
“Tòa nhà Thầy Tu!” Kate gào lên.
“Nhưng tại sao lại tìm kiếm ở đó?” Reynie nói, mắt đảo qua đảo lại. “Trừ khi... OK, lão Curtain chắc hẳn biết ngài Benedict có mối liên hệ nào đó với tòa nhà Thầy Tu. Vậy thì có thể - nếu mấy Gã Số Mười không tìm được những thứ chúng cần ở đây...”
“Thì những chỉ dẫn của lão Curtain sẽ đưa chúng đến đó,” Kate liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường (may mà nó chạy bằng pin) và nói thêm, “trong mười lăm phút nữa! Chúng ta phải báo cho Milligan!” Rồi cô bé l ra khỏi phòng.
Reynie và Sticky cố chạy theo, nhưng Reynie vấp phải cái túi Sticky để ở hành lang, khiến Sticky theo ngay sau cũng vấp phải cậu, nên đến khi chúng xuống được tầng dưới, Kate đã đang đứng đợi chúng rồi, chân sốt ruột giậm lên giậm xuống. “Bọn mình muộn mất rồi. Bố đã đi với lính của bố rồi!”
“Thế còn ngài Benedict thì sao?” Reynie nói. “Hay Rhonda hay cô Số Hai cũng được?”
“Họ bị các nhân viên vây quanh rồi, cả ông Bane cũng đang ở ngay đó nữa - à, ồ, bọn mình không còn thời gian để làm việc này nữa! Sẽ mất rất nhiều thời gian để kéo ngài Benedict ra một chỗ, nhưng nếu Gã Số Mười đang tìm kiếm thứ gì đó quan trọng thì bọn mình phải đến đó trước!”
Việc nhận ra Kate muốn tự đến tòa nhà Thầy Tu khiến Reynie thảng thốt giật mình. Nhưng trước khi cậu kịp nói rằng ý tưởng đó điên rồ đến thế nào, Kate đã giơ lên chiếc chìa khóa mà bố Milligan đưa cho.
“Tớ có thể đi bằng lối đi bí mật! Chúng sẽ không phát hiện ra tớ đâu, tớ sẽ kiểm tra các lỗ nhìn lén trước - và nếu chúng ở đó, tớ có thể theo dõi chúng!”
“Oa, từ từ đã nào, Kate,” Sticky nói. “Chúng ta cần phải...”
Nhưng Kate chẳng thể từ từ. Cô bé đã lao ra cửa chính trước khi Sticky kịp nói hết câu.
Reynie nói, “Nếu bọn mình không thể ngăn cậu ấy lại...”
“Tớ hiểu,” Sticky nói và chạy theo. “Bọn mình cũng sẽ phải đi cùng.”
Khi hai đứa đến được cửa chính, Kate đã chạy được nửa sân trong và đang hướng ra cổng. Chạy song song cùng cô bé (mặc dù chẳng có ai chạy vững) là cô Plugg đang trông khá rũ rượi. Cảnh sát đã ra ngoài để xua người dân vào nhà, và các bảo vệ bị choáng của căn phòng bí mật cũng đang ngồi trên các bậc cầu thang. Dường như không ai băn khoăn xem cô Plugg và cô bé kia
“... nói là cô phải đứng canh gác ở sân,” Kate nói khi hai cậu đuổi kịp cô. “Và chúng ta cần phải trật tự nữa...”
“Chúng ta ư?” Cô Plugg quay sang và thấy Reynie và Sticky bên cạnh. “Ồ, xin chào, các cháu...”
“Vậy nên cô đừng gọi xuống để hỏi xem chúng cháu có ổn không,” Kate vẫn thao thao bất tuyệt, và khi lông mày của cô Plugg nhíu lại, cô bé nói nhanh, “Xin lỗi cô Plugg, cháu sẽ giải thích sau, nhưng chúng ta phải nhanh lên! Ô tô sẽ đến đây trong vòng nửa tiếng nữa đấy!”
“Nửa tiếng nữa.” cô Plugg nhắc lại và xem đồng hồ. Lúc này họ đã sang bên kia đường và đang chạy đến cửa tầng hầm.
Sticky nhìn Reynie như van xin cậu dừng mọi người lại, và Reynie cũng muốn làm thế lắm, nhưng cậu không thể làm gì hơn Sticky được cả. Tất cả những gì có thể làm là nói sự thật với cô Plugg về điều Kate thực sự muốn làm. Nhưng sau đó thì sao? Bối rối, tranh luận, rồi trì hoãn; những Gã Số Mười có thể đến đó trước, và sau đó chúng cũng mất đi cơ hội duy nhất để ngăn chặn Curtain. Reynie không thể chịu được điều đó. Vậy nên mặc cho tiếng chuông cảnh báo đang vang lên trong đầu và sự phản đối đang cào lên trong bụng, cậu tặc lưỡi và chạy xuống tầng hầm.
“Rất vui khi các cậu đi cùng,” Kate thì thầm, “nhưng các cậu biết đấy, tớ không thể chờ các cậu được. Tớ cần phải chạy thật nhanh.” Kate kẹp đèn pin vào nách, chỉ nó vào cánh cửa kim loại và tra chìa khóa vào ổ. “Nếu tớ gặp rắc rối khi mọi người đến đó, mọi người có thể chạy nhanh về đây để nhờ cứu viện.” Cô bé quay lại để trấn an trong lúc cánh cửa mở toang. “Nhưng đừng lo, tớ sẽ không sao đâu.”
“Đợi đã!” Sticky vừa nói vừa nhảy lên túm lấy tay cô bé. Tuy nhiên, cậu bị trượt - cô bé đã chạy được mấy bước xuống lối đi bí mật - nhưng cô dừng lại và quay người chờ đợi. “Đèn pin của cậu! Nhớ tắt nó đi trước khi cậu đến phòng chờ - nếu trong văn phòng mà tối thì ánh đèn sẽ chiếu qua các lỗ nhìn trộm đấy!”
“May mà cậu đã nghĩ ra điều đó,” Kate nói. “Cảm ơ
Rồi cô bé bỏ đi.
Chúng đã biết đến lối đi này cách đây hơn một năm, nên hai cậu con trai đi vào đường hầm ẩm ướt, chật hẹp và tối tăm mà không hề run sợ. Ánh đèn pin lập lòe của chúng không chỉ quét lên tường mà còn lên cả trần nhà nữa khiến một vài con nhện và rết phải chuồn vào chỗ trú.
Reynie lo lắng hỏi: “Sẵn sàng chưa?”
“Chưa sẵn sàng lắm,” Sticky nói, “nhưng cậu không cần bận tâm nhiều điều đó đâu.”
Hai đứa cùng đếm đến ba, hít một hơi thật sâu, và chạy vào bóng tối theo chân Kate.
Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan - Trenton Lee Stewart Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan