Sự khác biệt giữa cơ hội và khó khăn là gì? Là thái độ của chúng ta! Trong mỗi cơ hội có khó khăn, và trong mỗi khó khăn đều có cơ hội.

J. Sidlow Baxter

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Diệu Hằng
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hoang Tu
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1453 / 79
Cập nhật: 2019-06-15 23:32:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 10 - Bóng Tối Bao Trùm
gài Benedict chỉ ngủ chừng một phút. Chú Milligan không bao giờ để ngài ngã xuống sàn nhà, chú đưa tay giữ lấy ngài trong khi Rhonda vội vã xuống báo cho Số Hai. Sau đó như một con rối bỗng nhiên biết cử động, ngài Benedict khịt mũi và dựng người dậy để đứng thẳng lên. Vừa mới mở mắt, ngài đã hỏi ông Bane rất cặn k
, tuy nhiên câu trả lời của ông ta rất đơn giản:
Sau khi đá bóng quanh sân một hồi - có lẽ là để tránh nghi ngờ - Constance đã “vô tình” đá nó chui qua hàng rào, và ca thán về bùn và cỏ ướt mà cô bé phải trườn qua hàng rào để lấy lại quả bóng. Khi thấy cô bé không xuất hiện, ông ta đã gọi mấy lần và nghĩ rằng cô bé rất cứng đầu. Cô bé nổi tiếng cứng đầu mà, đúng không? Ông ta không bao giờ nhận ra rằng khổ người nhỏ bé của Constance cho phép cô bé làm điều mà hầu hết mọi người không làm được - người giữa các cọc sắt bên trên hàng rào - hay không nhận ra rằng cô bé đã dự định làm điều đó. Tại sao cô bé lại muốn rời khỏi vòng an toàn của cái sân cơ chứ?
“Chuyện xảy ra khi nào?” Ngài Benedict hỏi cụt lủn. Lúc này ông đang ở lối đi tiến ra phòng ăn cùng với ông Bane hối hả đi bên cạnh và ba đứa trẻ theo sau. (Chú Milligan đã rời đi sau khi trao đổi nhanh chóng và kín đáo với ngài Benedict.)
“Tôi lên đây khi biết cô bé đã đi rồi,” ông Bane đáp.
“Không, lúc con bé trườn qua hàng rào ấy?” Ngài Benedict dừng lại trước phòng ăn và nhìn người đàn ông bằng ánh mắt sắc sảo. “Hãy chắc chắn về những điều ông nói, ông Bane ạ. Tôi thấy đầu gối nhuốm bùn của ông chứng tỏ ông đã quỳ xuống để nhìn bên dưới hàng rào, tuy vậy có thể nói rằng ông đang nói năng rất thận trọng. Bây giờ ông nên bỏ tất cả những lời bào chữa của mình đi và nói cho tôi biết sự thật dù ông có muốn hay không. Ông đã chờ bao lâu trước khi ông đi kiểm tra? Năm phút? Hay là mười?”
Ông Bane nuốt vào. Ông ngang ngược nhìn ngài Benedict, nhưng chỉ trong giây lát, rồi nhìn đi chỗ khác. “Chính xác là khoảng mười phút.”
Ngài Benedict nhìn ông ta chằm chằm để đánh giá câu trả lời. “Đáng tiếc là tôi tin ông. Ông Bane, ông sẽ để ý là tôi không hỏi ông đã gọi Constance to như thế nào. Bây giờ tôi không có thời gian để nghe ông quanh co và phản đối đâu. Ông đã lơ là nhiệm vụ, và tôi... “ Đến đây ngài Benedict lưỡng lự. Ngài hít một hơi, liếc nhìn lũ trẻ và với giọng ít lạnh lùng hơn, ngài nói, “Tôi nghĩ rằng ông nên hối tiếc về điều đó.”
Ông Bane nhìn lên, hàm giật giật. Ông ho khù khụ và nói. “Tất nhiên là vậy rồi. Thực lòng tôi rất hối tiếc.” Ông ta chẳng có vẻ gì là hối tiếc cả, Reynie nghĩ, nhưng trông ông như thể đang cố làm ra vẻ thế.
“Cho đến hôm nay, ông đã hoàn thành tốt nhiệm vụ,” ngài Benedict kiên quyết nói. “Tôi sẽ ghi nhớ điều đó khi tôi nói chuyện với cấp trên của ông.”
“Cảm ơn ngài,” ông Bane nói với giọng tẻ nhạt.
Ngài Benedict gật đầu. “Còn bây giờ, ông vui lòng báo cho cô Plugg biết chuyện vừa xảy ra, còn tôi sẽ nói chuyện với các bạn của tôi một lát.”
Ông Bane đi ra, và ngài Benedict - sau khi đã nghe thấy tiếng bước chân ông ta trên bậc cầu thang - dẫn lũ trẻ vào phòng ăn. Như đã sắp xếp riêng từ trước, cô Số Hai và Rhonda đã tập hợp tất cả mọi người trong ngôi nhà (không bao gồm bảo vệ), và họ đều đứng gần nhau, nói chuyện đầy kích động. Mỗi gương mặt đều hằn rõ vẻ lo lắng. Cô Perumal và mẹ kéo Reynie lại gần ngay khi họ nhìn thấy cậu; nhà Washington cũng làm tương tự thế với Sticky. Moocho Brazos vẫy tay với Kate và đứng bên cạnh, đặt một bàn tay khổng lồ lên vai cô bé như để bảo vệ. Ngài Benedict giơ tay lên để mọi người chú ý, và tất cả mọi người yên lặng ngay lập tức.
“Mọi người đã biết chuyện vừa xảy ra,” ngài Benedict nói, lời nói của ngài nhẹ nhàng và nhanh nhẹn. “Constance đã bỏ trốn và bây giờ đang bị nguy hiểm. Milligan đang liên lạc với các lính gác và những cơ quan mà chúng ta tin tưởng, nhưng tôi muốn bắt đầu cuộc tìm kiếm ngay bây giờ. Không được để lỡ một phút giây nào.” Ngài chỉ tay về phía bàn ăn, nơi Rhonda và cô Số Hai đã trải ra một tấm bản đồ rộng. “Chúng ta sẽ chỉ định các khu vực cho bất kỳ ai ở đây sẵn sàng hỗ trợ việc tìm kiếm. Tôi phải nhắc mọi người rằng bất kỳ ai rời khỏi ngôi nhà cũng đều có nguy cơ gặp nguy hiểm.” Ngài dừng lại để mọi người cân nhắc. “Bây giờ xin thứ lỗi vì sự thẳng thừng của tôi, nhưng không còn thời gian để nhã nhặn nữa. Ai sẽ tham gia?”
Mọi cánh tay trong phòng đều giơ lên, kể cả lũ trẻ.
“Cảm ơn mọi người,” ngài Benedict nói. “Các cháu, tất nhiên, sẽ phải ở trong nhà.” (Những người lớn gật đầu quả quyết trước câu nói này, và lũ trẻ hạ tay xuống, biết rằng không có thời gian để tranh cãi nữa.) “Những người còn lại sẽ được chia thành các nhóm tìm kiếm như sau: Cô Perumal, Moocho Brazos và ông Washington sẽ đi với Số Hai - nhóm này đi bộ. Bà Perumal, bà Washington, và tôi sẽ đi cùng Rhonda bằng ô tô riêng.”
Người lớn tụ tập quanh bàn, nơi ngài Benedict mỗi tay cầm một bút chì mau lẹ khoanh các vành đai trên bản đồ trong lúc Số Hai và Rhonda nói về chiến lược tìm kiếm của mình Reynie, Sticky và Kate đứng bên kia phòng nhìn đầy bất lực.
“Cậu có biết tại sao ngài ấy lại tách bố mẹ tớ thành hai nhóm không?” Sticky thì thầm.
“Lý do giống như việc ngài tách mẹ và bà ra,” Reynie dứt khoát nói. “Nếu như có chuyện gì xảy ra với một trong số họ, chúng ta vẫn còn một người bảo vệ.”
Mắt Sticky mở to. Cậu đưa ánh mắt lo ngại về phía bố mẹ.
“Họ sẽ ổn thôi,” Kate nói trấn an. “Tớ cá là ngài Benedict đã biết rằng họ sẽ lo về điều đó nên bác chỉ quan tâm đến vấn đề trước mắt. Chuyện đó không có nghĩa là ngài ấy đang thực sự lo lắng.”
Sticky gật đầu, gần như bị thuyết phục, nhưng các ngón tay của cậu xoắn lại đến phát bực, và lần này cậu không cưỡng lại việc lau kính được nữa.
Sau khi đã thống nhất các phương án, các nhóm tản ra. Lũ trẻ được ôm hôn đến mức vai chúng như bị bóp chặt, hai phút sau chỉ còn chúng ở nhà.
Chưa bao giờ ngôi nhà lại vắng vẻ đến thế. Ba đứa trẻ đứng cạnh cửa sổ phòng ăn, nhìn ra sân trong và đường phố ngoài xa. Nhanh thôi, chúng tự nói với mình, chúng sẽ nhìn thấy Constance quay trở về qua cánh cổng và nóng nảy bắt cô Plugg cho mình vào nhà. Hoặc chiếc xe ô tô đi vào, đem theo cả Constance với hai tay cáu kỉnh khoanh trước ngực. Nhưng sau hai mươi phút nhìn chằm chằm vào đó, chúng chỉ thấy một vài khách bộ hành hay xe cộ và cô Plugg ở trong sân đi đi lại lại, thỉnh thoảng nói vào bộ đàm. Trong thời gian đó, bóng tối cứ trải dần ra. Chẳng bao lâu nữa là trời sẩm tối.
Cuối cùng, Sticky đề nghị lũ trẻ lên phòng của cậu và để Reynie quan sát đằng sau. “Ít ra thì đó cũng là một sự thay đổi,” cậu nói, và với cái gật đầu ủ rũ, lũ trẻ đi lên tầng ba. Vì ngôi nhà bỗng dưng trở nên yên lặng khác thường, nên tiếng bước chân của chúng nghe ầm ầm trên bậc cầu thang.
Khi Reynie và Sticky đứng cạnh cửa sổ nhìn xuống sân sau (nơi ông Bane cùng cô Plugg vừa đi đi lại lại vừa nói vào bộ đàm), Kate bận bu với việc dọn dẹp phòng cho họ. Căn phòng của hai cậu con trai không hẳn là một bãi chiến trường, nhưng so với phòng Kate nó thực sự là một mớ hổ lốn: giường ngủ luộm thuộm, tất vương vãi khắp sàn nhà, mặt bàn chỗ nào cũng có báo, sách, giấy viết, và bất cứ thứ gì mà các cậu móc ra khỏi túi vào mỗi cuối ngày. Kate thấy biết ơn đống lộn xộn đó; cô bé tha thiết mong có việc gì đó để làm. Về phần mình, hai thằng con trai vui mừng vì sự lăng xăng dọn dẹp của Kate giúp phá tan sự yên lặng đầy căng thẳng. Mọi người đang cực kỳ lo lắng và ai cũng cố giấu điều đó.
“Không biết con bé đi hướng nào,” cuối cùng Sticky nói. Cậu chỉ tay ra làn đường đằng sau hàng rào. “Cả hai hướng đều có thể giúp con bé trốn ông Bane.”
“Tớ không chắc đó là vấn đề,” Reynie nói. “Cậu có cảm giác là ông Bane biết con bé đi đâu không? Và ông ta để con bé làm điều đó ấy?”
“Tớ có nghi ngờ ông ta ở một vài điểm.” Kate nói trong lúc dùng chiếc dao nhíp đa dụng Thụy Sĩ của mình để nhặt những chiếc tất bẩn và tung chúng vào một cái giỏ mây. “Nhưng tớ không biết điểm nào.”
“Tớ cũng thế,” Sticky nói, “nhưng sau đó ngài Benedict nói đến hai đầu gối lấm bùn của ông ta, vậy rõ ràng là ông Bane đã cố gắng tìm con bé, đúng không? Tớ không thích ông ta, nhưng nếu ngài Benedict đã có ý nghi ngờ...”
“Hai đầu gối lấm bùn chỉ là trò che mắt thôi!” Reynie nói, khó có thể kiềm chế nỗi thật vọng trong giọng nói. Cậu cảm thấy muốn đá vào thứ gì đó. “Các cậu không thấy à? Ông ta rất quỷ quyệt. Ông ta biết ngài Benedict sẽ để ý đầu gối của mình nên ông ta cũng chẳng buồn nói ra điều đó nữa - điều đó sẽ là quá hiển nhiên.” Cậu lắc đầu. “Và tớ không tin ngài Benedict đã tin tưởng ông ta. Ngài chỉ giả vờ thế thôi. Các cậu có thấy cái cách ngài liếc nhìn chúng mình không?”
Reynie thấy mình đang xiết chặt rìa bậu cửa sổ đến mức các ngón tay cậu đau nhói. Cậu nới lỏng nắm tay và cứ nhìn chằm chằm xuống sân sau, tránh ánh mắt của Sticky. Cậu chắc chắn là việc nhìn bạn mình sẽ khiến cậu quát nhặng xì ngậu hoặc khóc òa lên. Cậu bỗng cảm thấy bức bối ngột ngạt, nên giật mạnh áo khoác đến mức suýt nữa thì làm hỏng chiếc khóa.
“Cậu nói đúng,” Sticky nói sau một thoáng yên lặng. Trong giọng nói của cậu có tiếng run run, và cậu cũng đang tránh tia nhìn của Reynie.
“Tất nhiên là thế rồi,” Kate nói khi đang ngồi vuốt phẳng những nếp nhăn trên ga trải giường. Cô bé nhảy lộn qua tay vịn và rơi xuống đất nhẹ như một chú mèo con. Cô vẫn chuyển động nhẹ nhàng và nhanh nhẹn như mọi lần, như thể cô chẳng có mối bận tâm gì trên đời này, nhưng đây đơn giản chỉ là cách Kate thường xuyên di chuyển. Giọng cô nghiêm nghị hết sức có thể. “Vậy các cậu có nghĩ là ông Bane nói dối về việc con bé bỏ trốn không? Các cậu không nghĩ là có ai đến đưa con bé đi à? Có vẻ như ngài Benedict cũng không nghĩ như vậy. Dù sao thì ngài ấy cũng đã chia các đội đi tìm kiếm.”
“Không, tớ nghĩ là ông ta nói thật - ít nhất là về những chi tiết cơ bản - và tớ chắc là ngài Benedict tin ông ta.” Reynie liếc xuống hình ảnh đi đi lại lại của ông Bane - người đang chà xát tay để chống lại cái lạnh của buổi chiều tà, rồi cậu quay lại, mặt hiện rõ nỗi kinh hãi. “Tớ khá chắc là con bé đã bỏ đi. Con bé rất đau khổ và lại ngốc nghếch nữa. Thực ra, nghĩ đi nghĩ lại thì việc xảy ra với Pressius đã khiến con bé cảm giác tồi tệ không kém gì trí nhớ được hồi phục của nó.”
“Ê, đúng đấy,” Sticky nói. “Một số kẻ đáng ghê tởm làm việc cho lão Curtain đã có ý định đưa con bé đi đúng không? Chuyện này cũng tương tự như thế. Nhưng lần này con bé có bạn bè. Con bé có chúng ta. Vậy các cậu có nghĩ là...”
“Có lẽ con bé sẽ để lại một lời nhắn!” Reynie gào lên, và cậu chạy lại chỗ cái bàn, nơi Kate đang chuẩn bị dọn dẹp. Các bút viết và bút chì đã được xếp vào một chiếc cốc, báo đã được gấp và xếp lại gọn gàng. “Cậu nói đúng,” Reynie nói khi lật qua lật lại các trang báo, “lần này con bé có bạn bè, và có lẽ, biết đâu đấy...”
“Tớ không thấy cái nào cả,” Kate nói, ước sao mình thấy. “Nhưng cậu nên kiểm tra lại cho chắc.”
Reynie kiểm tra kỹ lưỡng mọi thứ, và cả Sticky nữa. Nhưng chẳng có lời nhắn nào. Tuy vậy, khả năng đó vẫn tồn tại, và chúng quyết định tìm khắp ngôi nhà - bắt đầu từ phòng Constance, mặc dù Kate không thấy một lời nhắn nào khi dọn phòng. Lần này chúng lục soát cả ngăn kéo của Constance. Nhưng chúng chỉ thấy rất nhiều vỏ kẹo, bốn năm chiếc bánh nướng đã mốc và một vài tập thơ (Sticky đọc lướt trong vòng hai phút) mà không thấy lời nhắn nào hết.
Kate kiểm tra tủ quần áo. Vừa mới mở ra cô đã đập trán và rên rỉ. “Sao tớ lại không để ý cơ chứ? Chiếc áo mưa đỏ trước đây của con bé đã biến mất rồi! Cả đôi bốt nữa! Nó không chỉ cáu điên lên mà còn chuẩn bị sẵn để ra đi nữa! Nếu tớ nhận ra điều đó thì bọn mình đã kịp cản nó rồi...” Kate yên lặng, đau đớn nhìn mắc quần áo trống trơn trong tay.
“Đừng tự đổ lỗi cho mình,” Reynie nói. “Bọn mình đã không tìm ra bất cứ manh mối nào, nhớ không? Bọn mình không hề biết là con bé đã lên kế hoạch bỏ trốn.”
“Cậu sẽ để ý thôi. Thậm chí nếu chúng ta không tìm ra manh mối.”
“Có thể có, có thể không,” Reynie nói. “Nhưng bọn mình làm những việc khác nhau, đúng không? Đó là lý do tại sao bọn mình là một nhóm mà.”
“Tớ cho là vậy,” Kate nói rồi cố nở một nụ cười gượng. “Ý tớ là đúng. Dù sao thì cũng bỏ qua chuyện đó đi. Tớ chỉ buồn vì toàn bộ chuyện này thôi và đứng đây không giải quyết được gì. Bọn mình tìm lời nhắn đi.”
Nhưng chẳng thấy lời nhắn nào hết. Chúng đã kiểm tra tất cả những nơi nào có thể, và đôi khi cả những nơi khó có thể nữa, thu được cả đống giấy lộn. Chúng tìm suốt hơn hai tiếng đồng hồ. Nhưng chẳng thấy gì hết.
Cũng chẳng thấy tăm hơi các đội tìm kiếm đâu và đã quá giờ ăn tối lâu lắm rồi. Lấy táo từ chạn bát, bọn trẻ đi qua phòng ăn (chiếc bàn ăn trống rỗng như đang chế nhạo chúng) và đi lên lầu, hy vọng là phòng của con trai đủ ấm cúng để xua đi không khí vắng vẻ trong nhà.
Hóa ra đó mà một hy vọng hão huyền: Reynie không thể không nghĩ đến khoảng trống trong ngôi nhà ở tầng bên dưới. Vì lý do nào đó, cậu hình dung mình như đang ở trong tổ quạ trên một con tàu, cách xa mặt biển hiểm nguy. Cảm giác cô đơn, sợ hãi, yếu đuối mạnh đến nỗi cậu khó có thể nuốt được ngay cả miếng táo bé nhất. Và cậu chỉ ăn được hai ba miếng khi cảm giác sợ hãi đó tăng lên gấp bội - vì đột nhiên, không cảnh báo trước, đèn điện phụt tắt.
Reynie nghe thấy tiếng Kate mở nắp giỏ. Ngay sau đó ánh đèn pin của cô bé quét quanh phòng, chiếu thẳng vào mặt Sticky (đang cứng lại vì sợ hãi) và rồi đến khuôn mặt của Reynie. Cậu nheo mắt và lấy tay che lại.
“Hai cậu ổn chứ?” Kate hỏi, cô bé đã đi đến chỗ cửa sổ.
“Lần... lần gần đầy nhất...” Sticky nói. Giọng cậu như hụt hơi.
“Tớ biết” Reynie nói. Làm sao chúng có thể quên được lần mất điện gần đây nhất? Hai tên tay sai của lão Curtain đã đột nhập vào ngôi nhà và bắt cóc lũ trẻ. Người duy nhất ngăn cản được chúng là chú Milligan. Nhưng lần này chú Milligan không ở đây.
“Không hẳn là riêng nhà chúng ta,” Kate tuyên bố. “Cả dãy phố đều bị mất điện.”
“Chuyện đó cũng tốt đấy chứ,” Sticky nói đầy hy vọng. “Đúng không? Chắc là sự cố đường dây, hoặc là vấn đề trong khu vực.”
Hai cậu lại chỗ cửa sổ cùng Kate. Quả đúng là vậy, cửa sổ của các ngôi nhà xung quanh tối im. Chỉ có một vài ô là lấp ló ánh đèn hoặc đèn pin.
“Có vẻ như trời tối hơn so với dự tính,” Sticky nói.
Reynie đang nhìn chằm chằm lên trời, nơi những ngôi sao đầu tiên đang tỏa sáng lấp lánh hơn bất kỳ lần nào mà cậu nhớ - ít nhất là trong thành phố - và cậu nhận ra lý do cho những cảm giác lo âu trong lòng. Cậu ép mặt vào cửa kính và nhìn sang khu trung tâm.
“Không chỉ là khu chúng ta ở thôi đâu. Là cả Thành phố Đá đấy.”
“Cả thành phố ư?” Sticky than vãn. “Cả... cả...” Cậu tưởng tượng bóng tối bao trùm khắp mọi nơi, như thể thứ mực đen kịt đang đổ tràn ra từ một lọ mực không đáy vậy.
“Nhìn sang trung tâm mà xem,” Reynie nói. “Thường thì đứng ở đây các cậu có thể thấy nóc của một số tòa nhà.”
Sticky không dám nhìn, còn Kate thấy Reynie nói đúng. Nơi đúng ra phải có ánh sáng tỏa ra từ tầng thượng của các tòa cao ốc ở Thành phố Đá giờ chỉ còn bóng tối.
Từ đằng xa có tiếng còi báo động hú vang; một vài con chó bắt đầu sủa ầm ĩ. Sau đó họ nghe thấy tiếng ông Bane và cô Plugg hét lên qua lại với nhau từ hai phía đối điện của ngôi nhà. Ông Bane đứng ở cầu thang hậu đang nói gì đó về bộ đàm của mình, hình như nó đã ngừng hoạt động. Cô Plugg hét lại rằng cái của cô cũng bị hỏng.
“Bộ đàm của họ hỏng ư?” Sticky nói. “Ồ không, chuyện này thật bất thường. Có điều gì đó lạ kỳ ở đây.”
Chúng nghiêm nghị nhìn nhau.
“Tôi không nghe được cô!” Ông Bane hét lên, rồi chạy nhanh sang mặt tiền của ngôi nhà.
Ông ta vừa mới chạy qua góc nhà thì Reynie thấy thứ gì đó trên đường. Một đống gì đó to lớn, tối om, tối hơn cả bóng đêm đang di chuyển. Bóng đen đó nhẹ nhàng di chuyển trên đường giống như kiểu một chiếc ô tô, nhưng nó lớn hơn rất nhiều. Mà không giống như một ô tô, nó hoàn toàn yên tĩnh.
“Kate!” Reynie rít lên. “Cậu có-”
“Tớ thấy rồi!” Kate chĩa đèn pin ra bóng tối. Khi đến được làn đường, tia sáng đã khuếch tán khá rộng, nhưng nó đã soi đúng vào một hình dáng quen thuộc.
Sticky thở ra nghe như tiếng rít. Cậu giơ tay ra tìm cánh tay Reynie và thấy cậu ấy cũng đang túm lấy tay mình.
“Không hay rồi,” Kate nói.
Chiếc Salamander chở đầy những Gã Số Mười.
Bọn trẻ chuồn ra khỏi phòng, Reynie vẫn còn nhìn thấy hình ảnh khủng khiếp hằn in trong tâm trí: những gã đàn ông lịch lãm với những chiếc vali đứng trên một chiếc xe bọc thép giống như các doanh nhân đứng trên một con tàu.
“Đi ra cửa chính đi!” Kate nói và nhét vào tay Sticky chiếc đèn pin. “Tớ sẽ thông báo cho bảo vệ của căn phòng đặc biệt!”
Hai cậu bạn còn không kịp tranh luận. Hấp tấp và vấp ngã trong hoảng loạn, họ chiếu đèn pin lung tung lên tường, trần nhà, rồi lại chiếu xuống sàn nhà. Hai cậu vội nhảy cách bậc xuống cầu thang. Từ bên trên họ nghe tiếng Kate hét lên với những bảo vệ của phòng đặc biệt (họ sửng sốt đến mức Kate phải nhắc lại hai lần) và rồi khi hai cậu nhảy qua những bậc thang cuối cùng, họ cảm thấy một cơ thể lao sầm vào họ trong bóng tối - Kate đang trượt xuống theo tay vịn cầu thang. Cô bé cắn bút chiếu sáng trong miệng, cho đến khi hai cậu đến được bậc cuối cùng thì Kate chĩa cái bút vào bàn phím báo động gần cửa chính.
Đèn báo động đã tắt. Các ngón tay của Kate lướt trên các phím, nhưng không thấy âm thanh tít tít quen thuộc. “Hệ thống báo động hỏng rồi,” cô nói, miệng vẫn ngậm chiếc bút chiếu sáng.
Không báo động, không bộ đàm, không điện đóm. Không người giúp đỡ.
Cửa mở toang và cô Plugg xuất hiện. “Có chuyện gì thế? Cô nghe thấy tiếng hét!”
“Những kẻ xấu đang ở trên đường!” Sticky hổn hển. “Những kẻ rất xấu xa!”
Khuôn mặt cô Plugg cứng lại. “Quay trở lại bên trong đi và khóa cửa lại. Chúng ta sẽ...”
Nhưng Kate và hai cậu con trai khiến cô ngạc nhiên khi chúng lao xuống các bậc thang bên ngoài, nơi ông Bane đang đứng với tâm trạng khó chịu. Ông bồn chồn kéo khóa áo khoác lên xuống liên tục và nhìn chằm chằm khắp xung quanh. Cô Plugg quay người và ré lên, “Cô nói là đi vào trong cơ mà! Không an toàn đâu! Ông Bane, lạy Chúa, túm chúng lại đi!”
Ông Bane dừng việc kéo khóa, nhưng ông chỉ chớp mắt nhìn cô Plugg như thể là chẳng hiểu điều gì xảy ra.
“Trong nhà mới không an toàn!” Reynie hét lên. “Đây là một cái bẫy, cô Plugg ạ! Cô cũng nên chạy đi! Không ai ngăn được chúng đâu!”
Mắt cô Plugg mở to khi cô hiểu ra điều Reynie đang nói. Nhưng cô kiên quyết lắc đầu. “Không... không, cô không thể trốn được. Ba cháu chạy đi. Tìm một chỗ trốn. Cô sẽ...”
“Yên lặng!” Kate rít lên, và trong bầu không khí yên lặng đột ngột, họ nghe thấy những tiếng bước chân nặng nề vang lên ở phía hông nhà đang di chuyển ra phía trước. Có một người đàn ông đang chạy ngoài kia.
Trước khi những người khác kịp hiểu họ đang nghe thấy tiếng gì, Kate đã tóm lấy chiếc đèn pin trong tay Sticky và - nheo mắt lại, tính toán cẩn thận - ném nó về phía góc nhà. Chiếc đèn bay gần hai mươi mét trong không khí, lộn hết đầu này đến đầu kia và đáp xuống góc nhà đúng lúc Gã Số Mười đến. Sau tiếng rắc thật to là tiếng la hét inh tai, hắn đánh rơi chiếc vali và loạng choạng lùi về phía sau khuất khỏi tầm nhìn, đưa tay lên ôm đầu.
“Nào, ông Bane!” Cô Plugg hét lên và nhảy qua các bậc thang. “Đi theo tôi!”
Lũ trẻ lao bổ ra phía cổng. Khi Kate mở cửa ra, Reynie ngoái lại nhìn thấy cô Plugg mất hút sau phía hông nhà. Ông Bane nhìn theo cô ấy chằm chằm, tay vẫn cứng đơ trên khóa áo. Reynie nhìn đi chỗ khác, cố không nghĩ chuyện gì sắp xảy ra. Đối mặt với một Gã Số Mười, thậm chí hắn đang bị choáng đi chăng nữa, cô Plugg cũng không có cơ hội.
“Bây giờ bọn mình đi đâu?” Kate nói trong lúc lao ra con đường tối mịt.
“Tầng hầm,” Reynie thở hổn hển rồi chỉ tay về phía ngôi nhà nhỏ phía bên kia đường.
Kate lao đi như tên bắn, cô bé phi qua sân đến chỗ cửa tầng hầm, kéo thanh chắn bằng kim loại và nhấc một cánh cửa lên vừa kịp lúc hai cậu bạn đến nơi. Sticky cúi đầu đi xuống bậc cầu thang tầng hầm tối om trong khi Reynie dừng lại quan sát xem chúng có bị ai theo dõi không. Sân nhà lúc này trống trơn, nhưng trong nhà có tiếng quát tháo và đổ vỡ...
Sau đó Kate xô mạnh cậu vào cánh cửa kim loại và nhảy vào ngay sau cậu rồi kéo cửa xuống. Reynie vấp phải các bậc cầu thang và va vào Sticky ở bậc cuối, hai cậu ngã chổng kềnh ra sàn tầng hầm.
“Đừng rên rỉ nữa,” Kate thì thầm trong lúc hai cậu con trai lồm cồm bò dậy. “Tớ thấy Crawlings và Garrotte đi ra khỏi cửa chính.”
Hai đứa kia lập tức yên lặng. Trước đây chúng đã đối mặt với những Gã Số Mười này nên có thể hình dung ra chúng rất dễ dàng. Gã Garrotte mặt dơi, râu ria lồm xồm, gã Crawlings gầy khẳng khiu, hói đầu, hay liếc mắt dâm dật và khuyết một bên lông mày. Chỉ cần đứng ở đây nghĩ về chúng cũng đủ làm cho hai cậu con trai rùng mình.
Kate chiếu đèn pin về phía cánh cửa kim loại dẫn đến lối đi bí mật. “Tớ không cho là bố Milligan bất cẩn đến mức...”
Dò dẫm tìm đường qua bóng tối, Sticky thử đẩy cánh cửa. “Không,” cậu chán chường nói, “cửa khóa rồi.”
“Vậy thì bọn mình nên hy vọng là chúng không tìm bọn mình.”
Ngay lúc đó giọng Garrotte vang lên từ đằng xa: “Lũ nhóc chạy theo hướng nào rồi? Mày có nhìn thấy không?”
“Ồ, thật là đáng xấu hổ,” Kate thì thầm, với tay ra lấy cái giỏ.
“Ở chỗ nào đó hướng kia,” Crawlings đáp, sau đó là tiếng chân rầm rập trên vỉa hè. Gã Số Mười đang băng qua đường. “Làm việc vào một đêm như thế này thật tuyệt, đúng không? Những ngôi sao đẹp thật, trời lại còn mát mẻ nữa chứ. Cứ như là đầu xuân vậy.”
“Thì đúng là đầu xuân còn gì,” Garrotte cười lớn. “Mày có thể thôi ngủ đông được rồi đấy, chiến hữu ạ.”
Thật thoải mái và tự nhiên, giọng của những Gã Số Mười vang lên mỗi lúc một to và rõ ràng khi chúng bước vào trong sân
Kate lại ngậm đèn pin vào mồm; hai cậu con trai chỉ nhìn thấy mặt cô bé trong ánh sáng mờ mờ. Cô bé đang nheo mắt trước những chiếc khóa gắn thanh kim loại vào gỗ và ước lượng khoảng cách giữa chúng. Sau đó cô nhấc cục nam châm lên và tim Reynie đập loạn xạ khi cậu nhận ra điều Kate đang cố làm.
Với sự tập trung cao độ nhất, Kate đặt cục nam châm tì vào cửa tầng hầm. Sau đó, như một tên trộm đang phá một két sắt, cô bé nhướng hai hàng lông mày, ép tai vào cánh cửa gỗ mỏng manh và trượt cục nam châm lên xuống... Cô bé đã nghe thấy tiếng cô cần. Rất bình tĩnh, thận trọng và chậm rãi, Kate trượt cục nam châm dọc cánh cửa gỗ.
Chúng lại nghe thấy tiếng Crawlings một lần nữa. “Nhìn kìa, Garrotte! Một cái hố ẩn nấp hoàn hảo cho những con thỏ bé nhỏ đang sợ hãi!”
Những bước chân nặng nề và một tiếng cằn nhằn đầy thất vọng. “Gần như là hoàn hảo, bạn hữu ạ. Mày có thấy cái khóa được chốt ở bên ngoài không?”
“À!”
“Tao nghĩ là bọn mình nên quay trở lại và hỗ trợ mấy thằng kia,” Garrotte thở dài nói. “Tuy nhiên ngài vẫn thấy tiếc và sẽ vui lòng hơn nếu có được mấy đứa nhãi đó.”
“Nghĩ tích cực một tí đi, Garrotte! Kế hoạch khác của ngài có thể sẽ thành công. Và biết đâu chúng ta sẽ tìm thấy con nhóc hay nhặng xị trước cả Benedict ấy chứ! Dù sao thì con bé đó mới là mục tiêu lớn nhất...”
Giọng của lũ Số Mười nhỏ dần khi chúng rút đi.
“Vậy là chúng vẫn chưa bắt được con bé,” Sticky thì thầm. “Ít nhất thì đó cũng là một tin.”
“Nhưng chúng đang truy tìm con bé,” Kate nói. “Và không phải là Curtain đã có vài kế hoạch khác để túm chúng ta ư?”
“Đúng vậy,” Reynie nói. “Nhưng các cậu cũng biết lúc này được chuyển lên chiếc Salamander rồi - Máy Thì Thầm và tất cả các máy tính của nó. Vậy thì Curtain còn cần bọn mình làm gì nữa? Ông ta cần trao đổi lấy thứ gì?”
Chúng suy nghĩ về những câu hỏi trên và nhiều câu hỏi không thú vị khác nữa trong vài phút, đôi lúc thì thầm, đôi lúc ngồi yên lặng trong bóng tối. Chúng không dám ngó qua cửa tầng hầm cho đến khi chắc chắn rằng những Gã Số Mười đã đi. Sau một vài tiếng xung đột, không thấy âm thanh nào vang lên từ phía ngôi nhà của ngài Benedict nữa, nhưng chúng biết rằng chiếc Salamander yên lặng đến kỳ quái vẫn đậu trên đường.
“Tớ chưa từng nhìn thấy thứ gì khủng khiếp hơn chiếc xe lăn của lão Curtain, chúng lăn về phía bọn mình mà không gây ra bất kỳ tiếng động nào,” Kate thì thào. “Nhưng chiếc Salamander còn vượt trội hơn tất cả những cái khác. Nó gợi cho tớ nhớ đến một con cá sấu đang lướt đi trong hồ.”
“Rõ ràng ông ta đã cải tiến công nghệ hủy tiếng ồn,” Sticky trầm ngâm. “Và tất nhiên là cả công nghệ phá vỡ tín hiệu nói chung nữa.”
“Công nghệ phá vỡ tín hiệu ư?” Kate hỏi.
“Ồ phải,” Sticky đoán. “Hạ gục hệ thống điện của cả Thành phố Đá là một chuyện - tất nhiên là ông ta sẽ cần các điệp viên ở những vị trí phù hợp, và có lẽ là một hai chương trình máy tính có hại nào đó, nhưng với lão Curtain, nó không thể khó đến mức đó. Tuy nhiên, về việc liên lạc thì sao? Cả việc điện đàm không làm việc nữa? Với việc đó, các cậu cần một số công nghệ cực kỳ phức tạp, những thứ có sức mạnh phi thường.”
“Đó là sở trường của ông ta mà,” Reynie nói. “Năng lượng, các tín hiệu vô hình, các dạng thức sóng...”
“Cả sự tởm lợm nữa,” Kate nói. “Và điên cuồng nữa...”
Kate cứ tiếp tục nói nhưng Reynie chẳng để lọt tai chữ nào, vì đột nhiên cậu đang trải nghiệm điều kỳ lạ nhất. Ngay lập tức cậu bắt đầu cảm thấy sợ hãi tột độ - sợ hơn cả lúc vừa rồi - như thể là trong bóng tối có những hiểm họa mới mà trước đó cậu không hề nhận thức được. Cậu thấy tim mình đập
“Kate,” cậu hít thở và ngắt lời cô bé, “cậu có thể chiếu đèn pin quanh tầng hầm được không?”
Giọng cậu đầy run rẩy và nghiêm trọng, và Kate nhanh chóng chiếu sáng mọi ngóc ngách xung quanh. Tầng hầm trống rỗng.
“Có chuyện gì thế?” Kate hỏi trong lúc tắt đèn để tiết kiệm pin.
“Không có gì,” Reynie nói, trái tim vẫn còn nặng trĩu. “Không có gì, chỉ là - một cảm giác lạ thôi.”
Tuy nhiên, ngay cả khi cậu nói, cảm giác đó vẫn cứ tăng lên, và rồi không biết từ đâu, một chuỗi số và chữ hiện ra trong đầu cậu. 133 N292. Cái gì thế nhỉ? Đây có phải là một ký ức không? Nếu vậy thì về cái gì? Có phải một loại mật mã không? Reynie lắc đầu, cố gắng xua nó đi, nhưng dãy chữ số đó vẫn cứ lơ lửng trong đầu cậu, không hề thay đổi, sáng lung linh như thể được chiếu sáng bằng đèn nê-ông. Từ khi thực hiện những phiên làm việc với Máy Thì Thầm, cậu chưa từng trải qua điều này bao giờ.
Ồ không, Reynie nghĩ, mồ hôi lạnh bắt đầu túa ra. Ồ không, không phải là Máy Thì Thầm.
Cậu cố gắng trấn tĩnh lại và suy nghĩ thật rõ ràng. Chắc chắn không phải là Máy Thì Thầm gây ra chuyện này. Có vẻ như lão Curtain không ngồi trong chiếc Salamander nên không ai có thể làm được chuyện này - dù sao thì đến bây giờ vẫn chưa có ai làm được. Không... không, nó chắc hẳn phải là một ký ức, một điều gì đó rất quan trọng mà cậu từng để ý ở đâu đó. Nhưng ở đâu cơ chứ? Và tại sao nó lại quan trọng đến thế? Reynie bắt đầu bình tĩnh lại một chút để tâm trí tập trung suy nghĩ. Chuỗi chữ số đó lúc này đã khá quen thuộc, nhưng có lẽ chỉ vì nãy giờ cậu đã làm quen với nó mà thôi.
“Reynie?” Sticky gọi. “Cậu vẫn còn cảm giác đó à? Cậu làm tớ sợ đấy.”
Reynie không có cơ hội trả lời, vì mặc dù cả ba đứa không nghe thấy tiếng bước chân đang đến gần, nhưng giọng một người đàn ông đột ngột vang lên trong cùng tầng hầm với
“Đừng tấn công ta khi ta mở cửa đấy nhé, Kate,” giọng nói vang lên, và Reynie nghĩ mình có thể ngất đi vì nhẹ nhõm.
Đó là chú Milligan.
Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan - Trenton Lee Stewart Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan