There is a wonder in reading Braille that the sighted will never know: to touch words and have them touch you back.

Jim Fiebig

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Diệu Hằng
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Hoang Tu
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1453 / 79
Cập nhật: 2019-06-15 23:32:03 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Quái Vật Trong Tầng Hầm
gài Benedict tỏ ra rất hứng thú. Điều này chẳng có gì là lạ. Thực tế thì, đôi khi, niềm vui thích của ngài khiến ngài ngủ gật ngay lập tức, bởi một chứng bệnh có tên là chứng ngủ rũ. Những triệu chứng đó hay xảy ra nhất khi ngài bị xúc động mạnh, và đặc biệt là mỗi khi ngài cười sảng khoái. Những trợ lý (đồng thời cũng là con gái nuôi của ngài) làm mọi việc để có thể bảo vệ ngài - ngài khó có thể bước đi hai bước mà không có Rhonda và Số Hai che chắn thật cẩn thận đề phòng ngài sẽ ngủ gật và đổ ngay tại chỗ - và ngài Benedict cũng tự bảo vệ chính mình bằng cách luôn luôn mặc một bộ quần áo len màu xanh lục (ngài khám phá ra tác dụng giảm đau của nó cách đây khá lâu rồi).
Tuy nhiên, ngủ gật bất thình lình là việc không thể tránh khỏi, và vì thế, mái tóc dày bạc trắng của ngài Benedict lúc nào cũng rối bù xù, và khuôn mặt thì lởm chởm râu và xước xát do dao cạo gây ra. (Ngài Benedict thường nói không có gì vui nhộn bằng hình ảnh bản thân mình trong gương, khi đôi mắt màu xanh lục nhạt và chiếc mũi dài gồ lên của ngài - cùng với hàng râu giả trắng bông do bọt cạo tạo ra - hệt như ông già Noel vậy.) Ngài cũng đeo những cặp kính chắc chắn nhất để tránh bị vỡ khi ngã. Nhưng khi nguy cơ xảy ra những cú ngã đã được ngăn chặn thì chẳng có gì lạ khi bắt gặp một ngài Benedict vui vẻ đang cố nhịn cười. Đó là khi ngài ngồi bên bàn ăn với Rhonda và lũ trẻ.
“Mục đích của bài thử thách,” ngài Benedict nói khi hai mép đang giật giật vì nén cười, “các cháu biết đấy, thiên về tư duy hơn là chiến thuật. Trên hết là, nó là một bài thử thách về hậu quả của hành động của người này tác người khác. Bác chắc chắn Sticky có thể kể lại mục đích của thế Tiến thoái lưỡng nan của Tù nhân, còn Rhonda và ta đã nghĩ cách để áp dụng trò chơi đó cho phù hợp với mục đích của chúng ta.” Đến đây ngài Benedict cho phép mình nở một nụ cười tươi rói và nói thêm, “Đúng như điều các cháu đã làm.”
Lũ trẻ, trước đó còn cảm thấy cực kỳ hài lòng khi chứng kiến phản ứng của ngài Benedict trước cách giải quyết của bọn chúng thì giờ bắt đầu cảm thấy băn khoăn. Chúng cảm nhận rằng đã bỏ sót điều gì đó mà đáng lẽ ra chúng không nên bỏ sót - nỗi lo lắng càng tăng lên khi Số Hai xuất hiện, cô lao vào phòng ăn như một cơn lốc. Nước da màu vàng nhạt thường thấy của người phụ nữ trẻ tối đi gần trùng với màu mái tóc xám của cô; và biểu hiện trên khuôn mặt thì đằng đằng sát khí. Nếu lũ trẻ không biết Số Hai từ trước, chắc có lẽ chúng sẽ nghĩ cô ấy sắp tống giam chúng mãi mãi mất.
“Nếu không nghĩ rằng,” cô Số Hai nói và chỉ ngón tay về phía lũ trẻ, “nếu không nghĩ rằng trò bịp bợm của các cháu sẽ ảnh hưởng đến cô Rhonda, các cháu sẽ làm gì? Các cháu giả vờ ra ngoài mà không được bảo vệ ư? Các cháu giả vờ trèo ra ngoài cửa sổ từ tầng ba ư? Các cháu... “ Cô ấy ngừng lại, bực dọc nhìn trừng trừng vào quả táo và nhai nó đầy hung bạo.
Từ chỗ ngồi của mình, Reynie cũng có thể nghe thấy tiếng hàm răng cô nhai nghiến ở đầu bên kia bàn ăn. Cậu ước rằng mình đã ngồi cách xa hơn nữa - tốt nhất là ngồi ở đâu đó từ thời quá khứ xa xôi. Những lời của cô Số Hai dội vào mặt cậu bỏng rát chẳng khác nào một cái tát. Cô ấy nói đúng. Cậu đã quá đắc chí với ý tưởng của mình đến mức quên không cân nhắc xem đó có phải là một việc làm đúng đắn hay không. Rhonda không có vẻ gì là thất vọng, nhưng trong những giây phút đầu tiên đó, chắc chắn chị ấy đã rất lo lắng - thực lòng mà nói, cậu có thể tin chắc điều đó - và nghĩ lại, cậu xấu hổ vò cùng.
“Bọn em xin lỗi ạ,” Kate thốt lên, rõ ràng cô bé cũng cảm thấy y như vậy. “Ôi, Rhonda, bọn em ngu ngốc quá! Lúc đó chuyện có vẻ rất vui, nhưng...”
“Thì đúng là vui thật mà,” Constance xen vào. “Chị hối lỗi không có nghĩa là chuyện đó không vui.”
“Constance nói đúng,” Rhonda nói với nụ cười dễ chịu. “Nhưng chị đánh giá cao lời xin lỗi của em, Kate ạ, và chị có thể thấy khuôn mặt cậu con trai cũng hiện lên sự hối lỗi nữa. Thật đấy, không sao cả đâu.”
“Không sao cả ư?” Số Hai cằn nhằn. “Khi mà mối quan tâm duy nhất của chúng ta là sự an toàn của chúng ư? Khi mỗi suy nghĩ và việc làm của chúng ta...”
“Số Hai,” ngài Benedict nhẹ nhàng nói, “ta đồng ý. Nhưng vì thời gian không còn nhiều, con vui lòng đi lấy bảng phân công nhiệm vụ được chứ? Chúng ta cần phải sắp xếp lại một chút.”
Cô Số Hai quay ngoắt người rồi vùng vằng đi vào bếp. Thậm chí tít từ xa bọn trẻ cũng nghe thấy âm thanh tra tấn khủng khiếp lên quả táo, mỗi miếng cắn chẳng khác nào một cái xẻng thọc xục vào nền đất sỏi. Reynie đoán chắc rằng ngài Benedict đang cho cô ấy cơ hội để bình tĩnh trở lại.
“Kế hoạch đầu tiên của chúng ta,” ngài Benedict nói với lũ trẻ, “là giải thoát các cháu khỏi nhiệm vụ làm bếp tuần sau, do đó phải dồn công việc làm thêm cho các cháu vào tuần này, coi như là kết quả của bài thử thách. Chúng ta muốn tạo ra những thử thách thật, các cháu thấy đấy, để tăng cường hiệu quả ấy mà, nhưng thực sự chúng ta không có dự định biến các cháu thành những nô lệ nấu nướng. Bằng cách này, Rhonda có thể nói sự thật cho các cháu, nếu không muốn nói là tất cả sự thật, và có lẽ là để ngăn không cho Constance nhìn ra trò lừa ở đây. Dù sao thì Constance cũng có thể hiểu ra điều đó, tất nhiên là vậy - ta nghĩ điều đó cũng rất đáng để điều tra. À, rất cảm ơn các cháu,” ngài nói khi cô Số Hai, lúc này đã dịu đi đôi chút, đang quay trở lại với bảng phân công nhiệm vụ.
“Tại sao chúng ta phải thay đổi lịch ạ?” Constance hỏi, khi thấy việc lập bảng phân công nhiệm vụ này thật tẻ nhạt. “Chúng ta không thể giữ nguyên thế được ạ?”
“Hôm nay là ngày làm việc vặt,” Rhonda nói. “Đó là lý do tại sao chúng ta chọn nó cho bài thử thách đặc biệt này. Dù sao thì chúng ta cũng cần phải phân công lại.”
“Cháu đã nghĩ rằng mọi thứ ở đây đang yên ắng một cách bất thường,” Sticky nói. “Ngày làm việc vặt - chà, ra là thế.”
Ngày làm việc vặt ngày mà tất cả những vị khách lớn tuổi của gia đình được rảnh rang đi mua sắm hoặc làm những điều họ yêu thích. Những phi vụ đột ngột đáng mong ước như vậy tràn vào Thành phố Đá khoảng hai hoặc ba tuần một lần, lúc nào cũng vào các ngày khác nhau và không bao giờ được thông báo trước. Người lớn nói rằng đó là vì lý do an ninh, và chắc hẳn là thế rồi, nhưng Reynie nghi ngờ rằng họ cũng rất sung sướng khi tránh được những lời cầu xin và van nài, vì lũ trẻ không bao giờ được phép tự mình đi bất cứ đâu.
Kate nhảy dựng lên. “Không cần phải lo lắng nhiều về bảng phân công đâu, ngài Benedict. Cứ để cháu làm thêm việc cũng được. Chuyện đó sẽ giúp cháu cảm thấy nhẹ nhõm hơn.”
“Cháu cũng thế ạ,” Reynie nói.
“Vâng... cháu cũng thế,” Sticky nói, cố tỏ ra nhẹ nhàng bất chấp cảm giác chán nản đang dâng đầy trong lòng. Dọn bếp với Kate mệt bở hơi tai - cậu phải làm việc như điên mới đuổi kịp được cô bé - và cậu thường tránh khỏi việc đó bất cứ khi nào có thể.
“Cả cháu nữa!” Constance líu lo, và tất cả mọi người quay lại nhìn cô đầy sửng sốt. Thấy vậy, Constance cười phá lên bởi tất nhiên là cô bé chỉ đang đùa vui thôi.
Điều hay ho khi phải làm bếp trong ngày làm việc vặt là số lượng bát đĩa bữa trưa giảm hẳn. Trừ ngài Benedict ra, ngài đã tuyên bố sẽ chịu trách nhiệm về Constance, tất cả những người bảo vệ cho lũ trẻ đều vắng mặt. Không có mặt những người nhà Washington, cô Perumal và mẹ cô, cả cha Kate là chú Milligan nữa, với nhiệm vụ bảo vệ những người bảo vệ khác khi họ làm nhiệm vụ của mình.
Nhưng điều tồi tệ khi làm bếp trong ngày làm việc vặt là sự thiếu vắng đến trống trải bầu không khí tuyệt vời trong nhà, bởi vì người bạn của chúng, Moocho Brazos - một thanh niên khỏe mạnh từng làm trong rạp xiếc, và quan trọng hơn, một đầu bếp tuyệt vời - cũng không phải làm việc vặt trong ngày hôm nay, điều đó có nghĩa là chỉ có súp và sandwich cho bữa trưa, và chẳng có món nướng nào trong lò hết.
“Không biết lúc này họ đang ở đâu nhỉ,” Kate nói trong lúc đưa một chiếc đĩa đã được rửa sạch cho Sticky trong khi chưa kịp lau chiếc trước đó.
“Mong là họ mua quà về cho bọn mình,” Constance nói vọng ra từ chạn bát đĩa, cô bé chỉ giả vờ bận rộn ở đó thôi. “Em còn định đưa cho họ cả bản danh sách cơ.”
“Biết đâu họ còn có những nhiệm vụ khác nữa,” Sticky nói trong lúc đang lau đĩa điên cuồng. “Mẹ tớ phải nói chuyện với ai đó về công việc bà có thể làm ở nhà. Nói đúng hơn là, các cậu biết đấy, ở đây - suốt từ tháng Chín đến giờ bà có được làm việc đâu.” Cậu cau mày với chiếc đĩa trong tay. “Xin lỗi, Kate, việc này với tớ mệt quá.”
Kate vui vẻ rửa lại đĩa trong khi Sticky (mặt bí xị) lại lấy tay áo lau trán. “Đừng lo, Constance!” Cô bé nói to. “Lúc nào họ chẳng mang đồ gì đó về cho tụi mình; phải không nào? Họ biết rằng đó là điều an ủi duy nhất của chúng ta khi bị kẹt ở đây trong khi họ được ra ngoài mà.”
Reynie, đang mang chồng đĩa sạch ra giá bát, chợt dừng lại nói. “Tớ cá rằng họ đã ăn trưa ở Quảng trường Thành phố Đá,” cậu nói với vẻ mặt thèm thuồng. “Có thể họ còn ngửi thấy cả hương vị mặn mòi của biển từ bến cảng ý chứ.”
“Cả mùi cá chết,” Constance nói to. “Và mùi xăng dầu nữa.”
Reynie nhún vai. “Cá chết và xăng dầu cũng tốt chán.”
“Nhắc đến họ tớ mới nhớ,” Kate nói, cười hớn hở, “không biết trông họ thế nào nhỉ?”
Lũ con trai cười rúc rích. Chúng đều biết rằng người lớn bắt buộc phải mặc kiểu cải trang khi ra ngoài. Với một mật vụ như Milligan, việc cải trang là rất bình thường - lũ trẻ đã khá quen với việc nhìn chú ấy biến hóa thành một người lạ - nhưng thật buồn cười khi hình dung ra bà Perumal thân yêu, hay anh Moocho Brazos lực lưỡng, râu ria rậm rạp, cải trang thì trông sẽ thế nào?
Việc sử dụng kỹ thuật hóa trang và các biện pháp an ninh khác đều rất quen thuộc với lũ trẻ, lúc nào chúng cũng tra hỏi về mọi chi tiết của những chuyến đi ra ngoài. Chúng thuộc mọi công việc thường làm, và thay vì tự mình ra ngoài, chúng thường tưởng tượng ra điều đó trong tâm trí.
Đầu tiên chú Milligan sẽ liên lạc với những lính gác riêng của mình - đó là một nhóm những nhân viên đáng tin cậy rải rác quanh địa bàn - để đảm bảo rằng họ không thấy bất kỳ điều gì đáng ngờ trong khu vực. Sau đó ông sẽ chuyển những chiếc hộp các tông và túi rỗng cho những người khác, và nói một từ như thường lệ với nhân viên bảo vệ trong sân về “một kế hoạch về những tài sản khác của ngài Benedict,” ông sẽ hộ tống số hàng đó đến một ngôi nhà nhỏ trên đường. Ngôi nhà này, với sân trước chật hẹp và cổng vòm vừa phải, trông có vẻ sạch sẽ và bảo quản tốt như các ngôi nhà khác, nhưng sự thực là bên trong ngôi nhà rất cũ nát. Ngài Benedict mua nó cách đây đã nhiều năm, không phải để ở mà để làm lá chắn cho cửa vào một đường hầm bí mật.
Chú Milligan sẽ nhấc những cánh cửa dưới tầng hầm ở hông ngôi nhà lên. Những cánh cửa này được làm từ gỗ mỏng, cắm nghiêng xuống đất và được đóng lại bằng một ổ khóa kim loại kiểu trượt đơn giản - loại cửa tầng hầm cho thấy đằng sau nó chẳng có gì ngoài mấy bình hoa quả bụi bặm và giày dép bỏ đi. Tuy nhiên, trong tầng hầm, còn có một cánh cửa khác, cánh này làm bằng kim loại, được khóa bằng một ổ khóa mà chú Milligan nói rằng, không thể phá được và chỉ có duy nhất một chiếc chìa khóa chú đang giữ có thể mở được. Cánh cửa này dẫn đến đường hầm bí mật - một lối đi chật hẹp, ẩm ướt xuyên qua một vài khu nhà và kết thúc bên dưới tòa nhà Thầy Tu, một tòa nhà văn phòng xám xịt và không có gì nổi bật trong thành phố.
Ở tòa nhà Thầy Tu, người lớn sẽ đi theo một cầu thang tối (ông Washington đỡ bà Washington còn Moocho vác chiếc xe lăn giúp bà) đến tận căn phòng chờ, họ mới thở lấy thở để và gỡ bỏ lớp vỏ ngụy trang. Phòng chờ được mở bằng một cánh cửa bí mật dẫn đến văn phòng của ngài Benedict, và bên trong bức tường của căn phòng đó có những lỗ bé tí cho phép Milligan đảm bảo rằng văn phòng hoàn toàn không có người (Ông không muốn họ bất thình lình va phải một người gác cửa sẽ kinh ngạc nhìn họ.) Cuối cùng, khi đã chắc chắn lối đi không có người, Milligan sẽ dẫn mọi người qua văn phòng, đi xuống cầu thang công cộng ít được sử dụng của tòa nhà Thầy Tu, rồi sau chót, họ đi ra khỏi tòa nhà bằng cửa chính.
Thật khó để tưởng tượng chính xác cảm giác của họ khi bước ra trung tâm mua sắm ở giữa khu thương mại Thành phố Đá. Có lẽ họ sẽ cười toe toét trước viễn cảnh của một ngày do. Hoặc có lẽ họ sẽ cảm thấy nỗi nhớ nhà da diết, nhớ lại những ngày họ chưa biết đến lão Curtain. Nhưng cũng có thể họ sẽ bận rộn với việc liếc ngang liếc dọc và hy vọng không bị ai chú ý. Chắc hẳn họ sẽ thấy rất khác lạ trong lớp hóa trang của mình.
“Các cậu có bao giờ lo lắng cho họ không?” Sticky thì thầm sau một chút lưỡng lự, khiến cả Reynie và Kate cùng nhìn cậu chằm chằm. Họ có thể nghe thấy tiếng Constance khua khoắng quanh chạn bát.
“Có đôi lúc,” Reynie thừa nhận. “Nhưng tớ tự nhắc nhở mình rằng chính quyền rất cảnh giác, và chưa có báo cáo nào về những hoạt động gần Thành phố Đá...”
“Và bố Milligan có thể nhận dạng được một Gã Số Mười cách đó cả dặm,” Kate bổ sung. “Và bố còn có thể làm hơn thế, nếu có chuyện đó xảy ra.”
Lũ con trai gật đầu, mặc dù trong lần đụng độ gần đây nhất với những gã tay chân của lão Curtain gần đây nhất, chú đã phải trị thương mất mấy tuần. Tuy nhiên hoàn cảnh lúc đó lại khác - lũ trẻ biết vì chính chúng đã ở đó - và chúng cũng tin tưởng vào bố của Kate như chính cô bé vậy.
“Cậu nói đúng,” Sticky nói. “Nếu có một đội bảo vệ thì họ sẽ an toàn thôi.”
“Đúng, họ sẽ ổn mà,” Reynie nói. “Tớ chắc chắn là họ sẽ ổn.”
“Tất nhiên là thế rồi,” Kate nói.
Tuy nhiên chúng nói mà không thực sự tin tưởng cho lắm, vì mặc dù người lớn đã đảm bảo rất an toàn, song câu hỏi vẫn còn để ngỏ là: Đích xác thì độ an toàn là bao nhiêu?
Kate kéo vòi nước vào bồn, và trong sự tĩnh lặng đầy bồn chồn, lũ trẻ nhìn theo dòng nước sủi bọt từ vòi nước tuôn ra.
Constance hiện ra từ chạn bát với một túi bánh quy bơ đã ăn hết một nửa, hai má phồng lên như má con sóc chuột. “Mọi người đang nhìn gì thế?” C nói đầy ngạc nhiên.
“Không có gì,” ngay lập tức những người còn lại đồng thanh, nhưng Constance lại cau có. Việc luôn được mọi người cố gắng bảo vệ làm cô bé tức điên. Tuy nhiên, họ không thể làm gì khác được, và lý do của họ cũng hoàn toàn hợp lý: Constance lúc nào cũng khó tính, nên khi đang lo âu một điều gì, cô bé trở nên cực kỳ khó chịu.
“Chúng ta ra ngoài đi,” Reynie nói và quay đi trước khi Constance kịp nhìn thấy mặt. “Chúng ta vẫn còn một ít thời gian trước khi giờ học chiều bắt đầu.”
Lũ trẻ rất thích được ở ngoài trời, nhưng để ra được đó là cả một vấn đề. Đầu tiên chúng phải xin phép người lớn, người này phải kiểm tra cùng với một người khác để xác nhận tín hiệu báo động; bởi vì tín hiệu được thay đổi gần như hàng ngày và tất cả các cửa chính và cửa sổ ở tầng dưới đã được chằng dây cẩn thận. (Mê cung dưới tầng một của ngài Benedict đã được sửa chữa thành căn hộ cho nhà Washington và nhà Perumal, và hệ thống báo động - với tín hiệu báo thẳng đến trụ sở cảnh sát và lính gác của chú Milligan - cũng hỗ trợ rất lớn cho việc phòng thủ). Sau đó chúng phải chờ trong khi người lớn hội ý với lính gác bên ngoài, và mãi đến lúc đó chúng mới được tận hưởng một chút khí trời.
Lũ trẻ thường thích chơi ở sân lớn, ở đó có nhiều chỗ chạy nhảy hơn, và nhất là khi Kate muốn chơi trò nhào lộn. Tuy nhiên khi ông Bane ở đó thì lại khác. Ông Bane là một nhân viên bảo vệ khó chịu, cộc cằn với mái tóc màu hoa râm. Dường như ông ta tin rằng trẻ con nên được nhốt trong hộp cho đến khi chúng thực sự trở thành người lớn. Khi ông Bane ở sân sau thì lũ trẻ ra chơi ở sân trước.
Hôm nay lại đúng là ngày ông Bane nghỉ việc, và ngay sau khi lũ trẻ chật vật với đống quần áo, mũ nón xong xuôi, Reynie cũng giúp Constance đeo găng tay xong (cô bé suýt khóc khi phải nhét các ngón tay đúng vào vị trí), cả lũ liền chạy ào ra khỏi cửa sau. Chúng gặp ngay cô Plugg, một nữ bảo vệ khỏe mạnh và to cao đang đi quanh trên thảm cỏ phủ đầy sương giá để giữ ấm.
“Chào các cháu,” cô Plugg gật đầu nói khi bọn trẻ bước xuống bậc cầu thang. Đầu cô to tướng và vuông vắn lạ thường, trông giống một khối gạch thì đúng hơn, và khi cô gật đầu, Reynie luôn có cảm giác lo lắng là nó đang chuẩn bị rời ra khỏi hai vai cô.
“Kate. Reynie. Constance. Ừm... Tacky? Cô xin lỗi, cô quên tên cháu mất rồi. Sticky ạ.”
“Đúng rồi!” Cô Plugg nói rồi đập các ngón tay vào nhau. “Chào cháu, Sticky. Cô hứa sẽ không quên nữa đâu.” Nhường lại sân chơi cho lũ trẻ, cô đứng vào vị trí canh gác trên đầu cầu thang, và không may làm sao, ở chỗ đó, Sticky có thể nghe thấy tiếng cô lẩm bẩm một mình “Sticky... Sticky... ừm. Tay lúc nào cũng táy máy cặp kính... nghịch vớ vẩn! OK, hay nghịch vớ vẩn. Tốt rồi. Mình đã nhớ.”
Bụng Sticky sôi lên như biểu tình phản đối khi bước ra khỏi bậc cầu thang. Cậu đã quá quen với việc ở bên các bạn, vậy nên giờ đây cậu cảm thấy chao đảo - và xấu hổ ghê gớm - khi nghe lỏm được người khác nói về mình. Hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh và nhìn theo làn khói cho đến khi nó tan loãng trong làn không khí lạnh, Sticky đưa ra một quyết định đột ngột và bí mật.
Trong khi đó, Kate chuẩn bị đặt cái giỏ xuống, nhưng Reynie đã kịp tóm lấy cánh tay cô. “Đừng chơi nhào lộn vội,” cậu thì thào, và nhìn về phía Sticky và Constance, cậu nói, “Bọn mình đi dạo một chút đi.”
Ánh nhìn của cậu không để sót một ai. Sticky và Constance lén lút ngoái lại nhìn còn đôi mắt Kate nheo lại khi cô bé buộc chiếc giỏ vào quanh hông và mở nắp phụ để thò tay vào giỏ dễ hơn. Cả lũ bước theo Reynie khi cậu đi vòng quanh sân.
Không ai nói gì. Một âm thanh duy nhất là tiếng bước chân lạo xạo của chúng khi dẫm lên lớp cỏ đã đóng băng. Khoảng sân được bao quanh bởi một bờ dậu có gai, bên dưới là một hàng rào kim loại cao nhọn đầu. Ở cuối sân, Reynie đứng nhón chân để ngó qua hàng rào, và nhìn thấy một con đường nhỏ bên trên. Rõ ràng có điều gì đó đã làm cậu hoảng sợ.
“Đoán thử đi!” Cậu thì thầm. “Ông Bane cũng không có mặt ở đây trong ngày nghỉ việc cuối cùng. Cậu nhớ chứ? Đầu tiên bọn mình quanh quẩn ở sân trong, sau đó bọn mình quay lại đây chơi bóng rổ còn gì.”
Constance nhún vai. “Vậy thì đã sao? Ông Bane có bao giờ ở đây trong ngày nghỉ việc đâu.”
Kate thở hổn hển không tin. “Em không thấy ngạc nhiên khi nói điều đó à?”
“Em chưa bao giờ nghĩ về chuyện đó cả!” Constance cao giọng nói. “Thậm chí em còn chưa bao giờ... “
“Suỵt!” Reynie nói và liếc mắt e sợ nhìn cô Plugg. “Được rồi, Constance. Mỗi người chúng ta đều có hàng tỉ thứ để lo. Nhưng nếu như điều em nói là đúng...”
“Đúng là thế đấy,” Sticky nói, tay đã kịp lần tìm chiếc khăn lau kính. Cậu khoanh tay lại trước ngực và nói. “Đúng ra tớ đã phải để ý chuyện đó. Ông Bane lúc nào cũng nghỉ vào một thời gian nhất định.”
“Đúng như em vừa nói!” Constance hớn hở nói. “Nhưng chuyện là thế nào cơ?”
“Chuyện không thể là do trùng hợp ngẫu nhiên được,” Reynie nói. “Bảo vệ làm việc theo một lịch trình xoay vòng, với những ngày nghỉ khác nhau trong tuần. Khó có chuyện ngày làm việc vặt nào cũng trùng với ngày nghỉ việc của ông Bane.”
“Đúng là rất khó,” Sticky nói và tính toán các con số trong đầu. “Thật ra là...”
“Ý của các cậu,” Kate xen vào trước khi Sticky kịp sa đà vào phần giải thích về tỉ lệ toán học, “là có chuyện gì đó đang xảy ra. Cậu nghĩ sao, Reynie? Có phải ngài Benedict không tin ông Bane không? Ngài không muốn ông ta phát hiện ra ngày làm việc vặt ư?”
“Ngày này cũng đâu có được tiết lộ cho những người canh gác ngôi nhà,” Sticky chỉ ra. “Tại sao lại phải cẩn thận hơn với ông Bane?”
“Có thể là vì ông Bane có tật thóc mách hơn người khác,” Constance góp ý.
“Biết đâu đấy,” Reynie nói. “Nhưng bọn mình cũng nên cân nhắc đến khả năng là ông Bane biết điều đó. Giả như ông ta biết được rằng ngày làm việc vặt sẽ rơi vào hôm nào, rồi ông ta xếp lịch để được nghỉ vào đúng hôm đó thì sao?”
“Làm thế nào mà ông ta phát hiện ra được?” Constance hỏi. “Và tại sao ông ta lại làm thế?”
Reynie lắc đầu. “Anh không biết. Nhưng anh có một linh cảm không hay chút nào.”
Điều này làm cho lũ trẻ cảm thấy cực kỳ khó chịu, chúng đứng yên lặng không nói gì suốt một lúc lâu, cố hình dung xem ông Bane có ý đồ gì không. Chúng chưa bao giờ có cảm tình với ông ta, nhưng cho đến bây giờ chưa có ai từng nghi ngờ rằng ông ta phản bội, hầu hết là vì chúng cho rằng ngài Benedict rất biết nhìn người, ngài sẽ không để một kẻ không đáng tin canh gác ngôi nhà đâu.
“Các cậu biết không?” Kate nói, khuôn mặt bừng sáng. “Nếu chúng ta để ý đến điều này thì chắc chắn là ngài Benedict cũng đã để ý. Biết đâu bác ấy là người đứng sau chỉ đạo thì sao? Vậy thì tí nữa bọn mình thử hỏi bác ấy xem, đừng đứng đây lo nghĩ linh tinh nữa. Bọn mình đang lãng phí thời gian tự do của mình đấy!”
Những người còn lại không được vô tư như Kate, nhưng cô bé nói đúng. Vậy nên lũ trẻ đồng ý không bàn luận đến chủ đề đó nữa, và sau một hồi, bọn chúng cũng bắt đầu gạt bỏ hết nỗi lo sợ của mình. Chúng còn có thể giả vờ tỏ ra nhiệt tình khi Kate huýt sáo gọi con Madge từ mái hiên xuống và giục chúng vuốt lông con chim.
Madge (tên đầy đủ là Nữ Hoàng) là một chú chim thông minh, nó rất quyến luyến Kate và khôn hơn rất nhiều so với các con chim ưng khác. Bọn con trai đã chỉ ra - theo cách nhẹ nhàng nhất có thể - rằng cái mỏ khoằm đầy dữ tợn và vẻ bề ngoài đầy lạnh lùng, nguy hiểm của loài chim ăn thịt đó khiến cho người ta không dám vuốt ve, song họ có thể tránh gặp nguy hiểm nếu giữ một khoảng cách vừa phải với nó. Nhưng vì sợ Kate bị tổn thương trước suy nghĩ đó và không muốn bị bỏ lại một mình nên bọn con trai cũng cố gắng tỏ ra thân thiện với Madge và Constance.
Ngày hôm nay ba đứa trẻ đã thành công trong việc chạm thử vào lông con chim và giả vờ khen ngợi nó trước khi đi xuống bậc cầu thang, sau đó tâm trạng chúng tốt hơn rõ rệt v trước đó nỗi sợ bị móng vuốt của con chim cào đã choán hết tâm trí chúng. Và khi nhìn Kate và Madge tập dượt những bài trình diễn, tinh thần chúng phấn chấn trở lại - những bài tập đó lúc nào cũng hấp dẫn kinh khủng.
Kate sẽ thổi còi, tạo ra những chuỗi âm thanh với những nốt cao độ khác nhau, và tùy thuộc vào đó mà con Madge hoặc là đậu lên cổ tay Kate (giờ đã được bảo vệ bằng một chiếc găng tay da thật dày) hoặc là bay vòng quanh sân, “đi săn” những mẩu thịt mà Kate lấy ra từ một cái túi được giấu kín trong giỏ và tung vào không khí. Madge sẽ lao xuống những miếng mồi ngon đó với tốc độ và sự chuẩn xác đến kinh ngạc khiến những khán giả nhí của nó chỉ biết nín thở và vỗ tay ầm ĩ (và thỉnh thoảng, cô Plugg không làm ngơ được cũng tham gia cùng). Rồi Kate sẽ tươi cười rạng rỡ, cúi chào cực kỳ điệu nghệ và cố làm ra vẻ “chuyện cũng bình thường thôi.”
Khi vầng mặt trời lấp ló sau một đám mây, Reynie, Constance cùng với đám bạn đang ngồi trên bậc cầu thang nói chuyện vui vẻ, Reynie bất chợt cảm thấy choáng váng trước suy nghĩ rằng khoảng thời gian bị giam cầm bí mật này của chúng, dù chúng có kêu ca oán thán thế nào đi chăng nữa, cũng rất có thể là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời lũ trẻ. Bởi vì ai có thể nói trước được rằng điều gì sẽ xảy ra khi tất cả những chuyện này kết thúc? Liệu gia đình chúng có quay trở lại nếp sống bình thường như trước được hay không?
Reynie lại bắt đầu cảm thấy cơn nhói đau quen thuộc. Ngay lập tức cậu nhận ra đó là nỗi cô đơn - một nỗi cô đơn được đoán trước - và đây không phải là lần đầu tiên cậu ai oán trước trí tưởng tượng quá ư phong phú của mình. Đã hàng trăm lần cậu cảm thấy nhói đau như vậy khi hình dung ra cảnh không được ăn sáng cùng các bạn - không có Kate líu lo đầy hăng hái vào bữa sáng, không có Sticky sửa cặp kính của mình và dịch thứ gì đó từ tiếng Pháp, không có Constance cố tranh món gì đó trên đĩa của cậu. Cậu dễ dàng hình dung ra bản thân mình sẽ bị bao quanh bởi những người lạ mặt và phải cố gắng kết bạn ở một nơi nào đó.
“Cậu sao thế?” Sticky huých nhẹ và hỏi. “Cậu đang lo lắng về chuyện gì đó phải không?”
Reynie nhận ra mình đang nhìn lơ đãng vào khoảng không vô định. Cậu lắc đầu. “Không, chỉ là... mơ mộng một chút thôi. Tớ không sao đâu, cảm ơn cậu.” Và cậu mỉm cười để chứng minh điều đó, thầm cười nhạo chính bản thân mình vì đã quá ủ ê. Không phải cậu đang ở đó với bạn bè mình đấy sao? Lo lắng thì được cái gì cơ chứ? Đng lúc này, Sticky cũng đang ngồi trên bậc cầu thang và kể lại một nghiên cứu từng đọc về “những hiệu quả tiềm năng của việc mơ mộng đối với đời sống tinh thần.” Phía dưới sân, Constance đang cố gắng buộc lại dây giày, hai tay vẫn đeo găng kín mít, còn Kate vẫn đang xoay tròn trên sân, hai tay giang rộng và ngước mắt dõi theo những con chim ưng yêu quý trên bầu trời.
Reynie tự chụp một bức ảnh trong đầu, và lưu nó lại.
Lặng yên quan sát trên đầu cầu thang, cô Plugg, giống như Reynie, cũng có chung những cảm xúc hỗn độn rất phức tạp. Cô vừa bị ấn tượng, vừa bị thu hút, lại vừa hết sức lo lắng. Trong hai tháng đảm nhiệm công việc này, cô chưa bao giờ có dịp làm việc ở sân sau mà có Kate chơi đùa với Madge như thế. Như tất cả các bảo vệ khác, cô cũng để ý thấy một con chim ưng làm tổ tít trên mái hiên, và biết rằng nó ít hay nhiều cũng “thuộc về” một trong số những đứa trẻ, nhưng cô không hề biết gì về khả năng của con chim - hay của cô bé - cũng như tình bạn khăng khít gắn bó giữa chúng. Và giờ đây, từ bậc thang cuối cùng, cô có thể nghe thấy cậu bé đeo kính (tên cậu bé là gì nhỉ? À phải rồi, hay nghịch vớ vẩn) - Sticky nói như một học giả về nghiên cứu nào đó cậu đã từng đọc, và cô quan sát thấy người bạn Reynie đang lắng nghe với sự chăm chú và hiểu biết thực sự trong lúc buộc lại dây giày cho cô bé con gàn dở.
Khung cảnh đáng yêu đến mức cô Plugg cảm thấy khó lòng phân tâm được - và chuyện này làm cô thực sự buồn phiền, vì cô Plugg là một bảo vệ mẫn cán, và nhiệm vụ của cô, theo như cô hiểu, là canh chừng người lạ mặt (đặc biệt là những người đàn ông ăn mặc chỉn chu, mang theo vali) và có bất kì động thái đáng ngờ nào. Nhiệm vụ của cô không phải là trố mắt nhìn một cô bé tóc đuôi gà đang huấn luyện chú chim săn mồi, cũng không phải nghe lén cuộc nói chuyện thông minh của hai cậu bé - tất cả những việc này hoàn toàn rất khác thường, nhưng chẳng có hành động nào là đáng ngờ cả.
Cô Plugg đã quen với những việc bất thường rồi. Ngôi nhà này là một ngôi nhà bất thường; công việc này cũng bất thường nốt. Có điều là cô gần như không được nghe bất cứ điều gì về những người trong ngôi nhà hết. Công việc và quá khứ của họ là một bí mật với cô, cũng như với hầu hết - nếu không phải là tất cả - những người bảo vệ khác. Theo như cấp trên của cô nói, nhiệm vụ của một bảo vệ không phải là đặt câu hỏi. Hỏi han chỉ thêm mất thời gian, bởi vì hầu hết các câu trả lời đều đã được phân cấp rõ ràng, và vì thế chúng không được phép đưa ra. Cô Plugg và những bảo vệ khác đã được nhắc nhở rằng những người s trong ngôi nhà này rất quan trọng bởi họ có liên quan trực tiếp đến thứ gì đó dưới tầng hầm.
Và theo như những gì mà các bảo vệ biết, thứ nằm dưới tầng hầm là một ngân hàng những máy tính lớn. Những chiếc máy tính hoạt động liên tục suốt ngày đêm, từ tuần này sang tuần khác để thực hiện nhiệm vụ bí mật của mình song gần như không phát ra tiếng động nào. Những nhiệm vụ được cho là bất tận, nhanh chóng và cực kỳ phức tạp, dù hầu hết các bảo vệ đều không biết đó là việc gì. Những chiếc máy tính đó nằm trong số những cỗ máy khác thường, mạnh mẽ và phức tạp nhất từng được phát minh và nói một cách khác, bảo vệ chúng là một phần nhiệm vụ trong công việc khác thường của cô Plugg.
Tầng hầm cất giấu những chiếc máy tính bất khả xâm phạm được điều chỉnh nhiệt độ thường xuyên, ngoại trừ một cầu thang bí mật được lắp đặt bên trong ngôi nhà. Đôi khi, các bảo vệ viện cớ để xuống tầng hầm thật nhanh, nhưng họ phải tuân theo những mệnh lệnh vô cùng hà khắc để không bao giờ có điều kiện chạm tới (hoặc thậm chí là nhìn thấy những chiếc máy tính ở khoảng cách quá gần). Những mệnh lệnh này là cực kỳ cần thiết. Nếu như có một con quái vật khổng lồ đang nằm ngủ dưới tầng hầm chỉ được thắp sáng lờ mờ, hay một sinh vật khỏe mạnh và thông minh hơn bất cứ một bảo vệ nào, thì không có thứ gì trên đời này có thể xúi giục họ liều đánh thức nó dậy, và bản năng của họ về những chiếc máy tính kia cũng y như vậy. Người duy nhất từng chạm vào những chiếc máy đó là ngài Benedict, người mà theo cảm nhận của cô Plugg giống như một người huấn luyện sư tử tốt bụng nhưng hơi ngớ ngẩn đang bước vào cái lồng khủng khiếp.
Các bảo vệ không biết cỗ máy đó trông như thế nào, hay nó làm công việc gì, nhưng không ít người hình dung nó như một thứ gì đó khổng lồ, nghều ngoào và hung tợn, với cặp mắt sáng quắc, vô số thiết bị kêu ù ù và tiếng gào rú chói tai chẳng khác nào âm thanh rền rĩ vang lên khi một chiếc cưa máy cắt thanh kim loại. Thậm chí, họ còn phỏng đoán rằng vẻ bề ngoài của nó còn man rợ và khủng khiếp hơn thế nhiều, có khi còn không thể hình dung ra nổi sự thực kinh hoàng của cỗ máy xa lạ đó. Họ chỉ biết rằng những chiếc máy tính này là đầu não của nó (và vì một số lý do khó hiểu nào đó, chúng phải được bảo vệ và giữ gìn), và trong căn phòng bị khóa chặt được canh gác trên tầng ba, ẩn giấu sau màn hình trang trí có một chiếc ghế bí mật - được cho là có mối liên hệ nào đó với cỗ máy khủng khiếp ấy.
Ít ra thì, đó là những điều mà các bảo vệ nghĩ là họ biết
Sự thật là bản thân chiếc ghế đã là một cỗ máy rồi. Trí tưởng tượng của những người bảo vệ đã đi chệch hướng - âu cũng là một nhầm lẫn có lý, bởi vì trí tưởng tượng của họ cũng chẳng có ích gì trong công việc của họ hết. Chiếc ghế đơn giản là ngự trị ở đó, yên tĩnh và lặng lẽ, đằng sau bức bình phong trong căn phòng ấm áp. Chẳng có gì đặc biệt cả. Cũng chẳng dọa nạt ai cả. Với chiếc mũ bảo hiểm bí mật màu đỏ gắn với phần tựa lưng, trông chiếc ghế giống một cái máy sấy tóc đời cũ - một đồ đạc kỳ cục trong nhà nhưng chắc hẳn là một thứ vô hại.
Đó chính là Máy Thì Thầm.
Và vào thời điểm này, dưới bàn tay của ngài Benedict, Máy Thì Thầm hoàn toàn vô hại.
Thực ra, dưới sự chăm nom của ngài Benedict, Máy Thì Thầm đã được cải tiến để có vẻ vô hại nhất có thể.
Thật không may, bất chấp những cố gắng và dự định của ngài Benedict, Máy Thì Thầm chẳng bao lâu nữa sẽ nhanh chóng vượt quá tầm kiểm soát. Khi điều đó xảy ra, số phận của biết bao con người sẽ bị kéo theo nó một lần nữa, chẳng khác nào lá cây cuốn theo dòng nước lũ. Và điều đầu tiên bị ảnh hưởng - đồng thời là một trong số những điều quan trọng nhất - là bốn đứa trẻ đang tận hưởng không khí trong lành dưới cặp mắt canh chừng của cô Plugg.
Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan - Trenton Lee Stewart Thế Giới Kỳ Bí Của Ngài Benedict - Tập 3 - Tiến Thoái Lưỡng Nan