There is no such thing as a moral or immoral book; books are well written or badly written.

Oscar Wilde, Picture of Dorian Gray, 1891

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Hồ Thanh Ái
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 41
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6271 / 110
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:36 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7 - Trở Về Nhà
a tuần đầu tiên ở Redmond có vẻ dài dằng dặc, nhưng học kỳ còn lại lại trôi qua nhanh như gió. Trước khi kịp ý thức được, các sinh viên Redmond đã thấy mình bị cuốn vào vòng quay của các kỳ thi trước khi nghỉ lễ, rồi thoát khỏi nó một cách vinh quang, dẫu nhiều hay ít. Vinh dự đứng đầu sinh viên năm nhất các môn chia đều giữa Anne, Gilbert và Philippa; thành tích của Priscilla rất tốt, Charlie Sloane lê gót mãi cũng qua được cầu, rồi tự an ủi mình một cách vênh váo cứ như anh ta luôn đứng đầu trong mọi môn học vậy.
“Tớ không tin nổi là giờ này ngày mai tớ sẽ có mặt ở Chái Nhà Xanh,” Anne thốt lên vào đêm trước khi quay về nhà. “Nhưng đó là sự thật. Và cậu, Phil ạ, sẽ ở Bolingbroke cùng với Alec và Alonzo.”
“Tớ cũng muốn gặp bọn họ lắm,” Phil thú nhận trong lúc nhấm nháp sô cô la. “Bọn họ là những cậu trai rất đáng yêu, cậu biết đấy. Tha hồ mà khiêu vũ, đi dạo, tiệc tùng đàn đúm liên miên. Tớ sẽ không bao giờ tha thứ cho cậu, Nữ hoàng Anne ạ, vì tội không chịu đến nhà tớ chơi vào dịp nghỉ lễ.”
“‘Không bao giờ’ đối với cậu chỉ là ba ngày thôi, Phil ạ. Cậu thật dễ thương khi mời tớ, và tớ cũng thích đi Bolingbroke lắm. Nhưng năm nay thì không được, tớ phải về nhà. Cậu không biết tim tớ khao khát điều đó đến nhường nào đâu.”
“Chẳng có gì hay ho ở đó đâu,” Phil coi thường đáp. “Ừ thì tớ nghĩ chắc cũng có vài bữa họp mặt đan lát, và những bà già lắm chuyện sẽ tha hồ lèm bèm trước mặt và sau lưng cậu. Cậu sẽ chết vì cô đơn mất, bé cưng.”
“Ở Avonlea sao?” Anne thấy hết sức thú vị trước lời nói của bạn.
“Còn nếu cậu đi với tớ, cậu sẽ có một khoảng thời gian không thể nào tuyệt vời hơn được. Bolingbroke sẽ điên lên vì cậu, Nữ hoàng Anne ạ, tóc của cậu, phong cách của cậu, và ôi, tất cả mọi thứ! Cậu thật khác biệt. Cậu sẽ thành công dữ lắm, và tớ sẽ dựa hơi cậu, ‘không phải hoa hồng nhưng ở cạnh hoa hồng’. Dù gì thì cũng đi với tớ đi, Anne ạ.”
“Bức tranh về những trò vui xã giao đó khá là hấp dẫn đấy, Phil ạ, nhưng tớ sẽ vẽ một bức tranh khác để cậu so sánh nhé. Tớ trở về nhà, một ngôi nhà kiểu trang trại miền quê cũ kỹ, từng được sơn xanh nhưng giờ đã phai màu, nhô lên giữa vườn táo trụi lá. Có một con suối phía dưới và một cánh rừng linh sam tháng Mười hai ở đằng xa, nơi tớ từng nghe tiếng đàn hạc vẳng lên dưới những ngón tay của gió cùng mưa. Cái hồ gần đấy mùa này đã chuyển màu xám xịt ủ ê. Có hai quý bà lớn tuổi bên trong căn nhà, một vừa cao vừa ốm, một vừa thấp vừa béo, và còn hai đứa nhóc sinh đôi, một thì ngoan ngoãn kiểu mẫu, một thì đến ‘quỷ sứ cũng phải sợ’, theo cách nói của bà Lynde. Căn phòng nhỏ trên lầu nhìn ra cổng vòm giăng mắc đầy những giấc mơ xưa, một cái giường nệm lông dày cộm tuyệt vời, đỉnh cao của xa hoa so với tấm nệm nơi nhà trọ. Cậu thấy bức tranh của tớ thế nào hả Phil?”
“Có vẻ chán đời lắm,” Phil nhăn mặt.
“Ồ, nhưng tớ chưa kể đến những thứ vô hình.” Anne dịu dàng tiếp. “Sẽ có tình yêu ở đó, Phil ạ, thứ tình yêu dịu dàng như nhất mà tớ chẳng thể tìm thấy được ở bất kỳ nơi nào khác trên cả thế giới này, tình yêu đang chờ đợi tớ quay về. Nó phải chăng đã khiến cho bức tranh của tớ trở thành một danh tác, dẫu màu sắc không được chói lọi lắm?”
Phil lặng lẽ đứng dậy, quăng hộp sô cô la qua một bên, bước tới bên Anne và choàng tay quanh người cô.
“Anne, ước gì tớ được như cậu,” cô trịnh trọng nói.
Tối hôm sau Diana đón Anne ở trạm Carmody, họ đánh xe về nhà dưới màn trời êm ả, sâu thẳm đính đầy sao. Chái Nhà Xanh tràn đầy không khí lễ hội khi họ đánh xe dọc theo lối vào. Cửa sổ nào cũng sáng đèn, ánh sáng xuyên qua màn đêm cứ như những đóa hoa đỏ rực đung đưa, đối chọi hẳn với cái nền sẫm màu của rừng Ma Ám. Và ở giữa sân là một đống lửa to đùng với hai bóng trẻ con đang vui sướng nhảy nhót xung quanh, một đứa hú lên ghê rợn khi chiếc xe ngựa rẽ vào dưới tàng bạch dương.
“Davy bảo đó là tiếng rú xung trận của mọi da đỏ,” Diana nói. “Tên nhóc giúp việc của ông Harrison dạy cho cu cậu, cu cậu tập luyện mãi để hú lên đón cậu về. Bà Lynde nói tiếng rú đó làm dây thần kinh của bà ấy tả tơi cả ra. Cậu biết không, cu cậu toàn lẻn đến sau lưng bà Lynde rồi bất thần hú lớn lên. Cu cậu cũng đòi bằng được phải thắp lửa để đón cậu. Cu cậu nhặt nhạnh củi khô suốt hai tuần liền rồi kỳ kèo bác Marilla xin đổ dầu hôi lên trước khi thắp lửa. Ngửi mùi thì tớ đoán bác Marilla đã đồng ý, dẫu bà Lynde cứ đinh ninh là Davy sẽ làm nổ tung chính cu cậu và tất cả mọi người nếu được phép thích làm gì thì làm.”
Lúc này thì Anne đã nhảy ra khỏi xe, Davy nồng nhiệt ôm chặt lấy đầu gối cô và cả Dora lúc này cũng bíu lấy tay cô.
“Đống lửa ngon lành quá phải không cô Anne? Để cháu chỉ cô cách cời lửa nhé, thấy tia lửa bắn lên không? Cháu đốt lửa mừng cô đấy, vì cháu rất sung sướng khi cô về nhà.”
Cửa bếp mở ra, thân hình mảnh khảnh của bà Marilla hiện ra tối sẫm giữa ánh sáng đằng sau. Bà thích đón Anne trong bóng tối, vì sợ khủng khiếp rằng mình sẽ òa khóc vì vui sướng - chính bà Marilla đây, con người nghiêm khắc luôn biết tự kiềm chế, luôn cho rằng biểu lộ cảm xúc thực sự ra ngoài thì chẳng phải phép chút nào. Bà Lynde ở ngay phía sau, phốp pháp, thân mật, chỉnh tề vẫn như mọi khi. Tình yêu chờ đợi Anne mà cô từng kể với Phil bao bọc lấy cô một cách ngọt ngào và tràn đầy chúc phúc. Cuối cùng, chẳng có gì so sánh nổi với những mối dây thân tình, bạn bè và Chái Nhà Xanh cũ xưa! Đôi mắt Anne lấp lánh như sao trời khi mọi người ngồi xuống bàn ăn tối nặng trĩu, má cô ửng hồng, giọng cười của cô trong trẻo như chuông bạc! Và Diana cũng ngủ lại qua đêm nữa. Ôi, y hệt như thời thơ ấu thân yêu! Và bộ đồ trà hoa hồng ngự trị trên bàn ăn nữa chứ! Với Marilla thì cơn bão tình thâm chỉ quét đến đó là dừng.
“Ta chắc cháu và Diana sẽ lại thì thà thì thầm suốt đêm chứ gì,” Marilla nói với giọng chế nhạo khi hai cô gái lên cầu thang. Sau mỗi lần để lộ tình cảm ra ngoài, lúc nào Marilla cũng xù lông lên như vậy.
“Đúng thế,” Anne vui vẻ đáp, “Nhưng cháu sẽ cho Davy đi ngủ cái đã. Cu cậu cứ nằng nặc đòi cháu.”
“Chứ còn gì nữa,” Davy nói lúc họ đi dọc theo hành lang. “Cháu muốn lại được đọc lời cầu nguyện với ai đó. Cầu nguyện một mình chán phèo.”
“Cháu có cầu nguyện một mình đâu, Davy. Chúa luôn ở bên cạnh lắng nghe cháu.”
“À, cháu có nhìn thấy Người đâu,” Davy phản đối. “Cháu muốn cầu nguyện với ai mà cháu có thể nhìn thấy được ấy, nhưng cháu không cầu nguyện với bà Lynde hay bà Marilla đâu, thế đấy!”
Tuy nhiên, sau khi chui vào bộ quần áo ngủ vải flanen xám, cu cậu chưa vội cầu nguyện. Nó đứng trước mặt Anne, di di hết chân phải đến chân trái, vẻ mặt lưỡng lự.
“Nào, bé cưng, quỳ xuống,” Anne gọi.
Davy chạy tới dụi đầu vào lòng Anne nhưng không quỳ.
“Cô Anne,” nó nói với giọng nghèn nghẹn. “Cháu chẳng muốn cầu nguyện tí nào. Cả tuần rồi cháu chả có hứng thú cầu nguyện. Cháu... cháu không cầu nguyện tối hôm qua lẫn tối hôm kia.”
“Vì sao vậy Davy?” Anne dịu dàng hỏi.
“Cô... cô sẽ không nổi khùng chứ?” Davy nằng nặc.
Anne nhấc thân hình bé bỏng trong bộ đồ flanen xám lên gối và đưa hai tay ôm lấy đầu cậu bé.
“Cô có bao giờ ‘nổi khùng’ khi cháu kể chuyện đâu nào?”
“Khôngggg, cô chẳng bao giờ như thế. Nhưng cô sẽ buồn, và thế còn tệ hơn. Cô sẽ buồn khủng khiếp khi nghe cháu kể, Anne ạ, và cô sẽ xấu hổ vì cháu, cháu nghĩ thế.”
“Cháu làm chuyện xấu gì hả Davy, đó là lý do mà cháu không cầu nguyện được sao?”
“Không, cháu đâu có làm chuyện gì xấu... vẫn chưa làm. Nhưng cháu muốn làm lắm.”
“Chuyện gì cơ, Davy?”
“Cháu... cháu muốn nói một từ bậy, cô Anne ơi,” Cố gắng hết sức, Davy cũng bật ra. “Cháu nghe anh giúp việc của ông Harrison nói tuần rồi, và kể từ đó, lúc nào cháu cũng muốn nói từ bậy đó, kể cả lúc đang cầu nguyện.”
“Vậy thì cứ nói đi, Davy.”
Davy kinh ngạc ngước khuôn mặt đỏ bừng lên.
“Nhưng cô Anne ơi, đó là một từ bậy khủng khiếp.”
“Cứ nói đi!”
Davy nhìn cô lần nữa vẻ không thể tin nổi rồi hạ giọng nói ra cái từ khủng khiếp đó. Ngay lập tức, nó lại dụi mặt sát vào người Anne.
“Ôi, cô Anne ơi, cháu sẽ không bao giờ nói từ đó nữa, không bao giờ. Cháu sẽ không bao giờ muốn nói từ bậy đó nữa. Cháu biết nó bậy, nhưng cháu không nghĩ rằng nó... nó... Cháu không nghĩ rằng nó tệ đến thế.”
“Không, cô không nghĩ cháu sẽ muốn nói lại, hay nghĩ về nó lần nữa. Và nếu cô là cháu, cô sẽ chẳng thèm chơi với anh chàng giúp việc của ông Harrison nữa đâu.”
“Anh ấy hú tiếng rú chiến tranh hay dễ sợ,” Davy lộ vẻ tiếc nuối.
“Nhưng cháu không muốn tâm trí cháu đầy những từ bậy, phải không Davy? Những từ sẽ hủy hoại đầu óc cháu và xua đuổi những gì tốt đẹp và nam tính?”
“Không đâu,” Davy mở to mắt cố quan sát tâm trí của mình.
“Vậy thì đừng có chơi với những người hay nói bậy nữa. Giờ thì cháu cảm thấy có thể cầu nguyện được chưa hả Davy?”
“Ồ, được rồi,” Davy hào hứng bò xuống quỳ gối, “Giờ thì cháu cầu nguyện được rồi. Giờ cháu chả sợ khi nói câu ‘nếu con chết đi trong lúc ngủ’ như lúc cháu vẫn còn muốn nói bậy nữa.”
Có lẽ Anne và Diana đã dốc hết bầu tâm sự cho nhau nghe vào đêm đó, nhưng chẳng có nguồn nào ghi chép lại những câu chuyện tâm tình của họ. Cả hai trông tươi tắn mắt sáng rực trong bữa sáng, chỉ có tuổi trẻ mới được như thế sau khi thức khuya lâu khủng khiếp để cười đùa và tâm sự. Tới giờ tuyết vẫn chưa rơi, nhưng khi Diana băng qua cây cầu gỗ cũ trên đường về nhà, những bông tuyết trắng bắt đầu phấp phới phủ xuống cánh đồng và rừng cây nâu ửng xám xịt trong giấc ngủ không mộng mị. Chẳng mấy chốc, những dốc núi và ngọn đồi đằng xa mờ dần và thoắt ẩn thoắt hiện qua tấm khăn choàng mỏng mảnh, cứ như mùa thu xanh xao đã tung một tấm voan cô dâu mờ ảo lên mái tóc, chờ đợi chú rể mùa đông. Cuối cùng thì họ cũng có được một Giáng sinh tuyết trắng, và đó là một ngày hết sức dễ chịu. Buổi sáng, thư và quà của cô Lavender và Paul đã đến nơi, Anne mở ra xem trong gian phòng bếp vui vẻ của Chái Nhà Xanh, nơi tràn đầy mùi thơm “ngon lành” như Davy hay vừa gọi vừa đánh hơi với vẻ ngây ngất.
“Cô Lavendar và ông Irving đã yên ổn trong căn nhà mới của bọn họ rồi,” Anne thuật lại. “Cháu chắc chắn là cô Lavendar đang hết sức hạnh phúc - đọc lời thư của cô ấy là biết rồi - nhưng còn có thêm lời nhắn của Charlotta Đệ Tứ nữa. Cô bé chẳng thích Boston chút nào và nhớ nhà khủng khiếp. Cô Lavendar nhờ cháu khi nào rảnh thì ghé qua Nhà Vọng để đốt bếp lò cho thoáng khí, đồng thời xem xem nệm ghế có bị mốc không. Cháu định rủ Diana đi cùng tuần sau, sau đó thì ghé thăm Theodora Dix vào buổi tối luôn. Cháu muốn gặp Theodora. Nhân tiện, Ludovic Speed có còn theo đuổi chị ấy không?”
“Người ta bảo vẫn còn,” bà Marilla đáp, “và anh chàng coi bộ vẫn cứ tiếp tục đường ta ta đi. Mọi người đã đầu hàng, không dự đoán nổi kết quả của cuộc tình này nữa.”
“Nếu ta là Theodora thì ta sẽ khéo léo thúc giục anh chàng, thế đấy,” bà Lynde lên tiếng. Không nghi ngờ gì, nhất định bà Lynde sẽ làm như vậy.
Còn có một bức thư viết tháu rất đặc trưng từ Philippa nữa, đầy thông tin về Alec và Alonzo, họ nói gì, họ làm gì, trông họ thế nào khi họ gặp cô.
“Nhưng tớ vẫn chưa quyết định được là nên cưới ai,” Phil viết. “Tớ ước gì có cậu đi cùng để quyết định cho tớ. Phải có ai đó làm chuyện này thôi. Khi tớ thấy Alec, tim tớ đập mạnh một phát và tớ nghĩ, ‘Chắc là anh ấy rồi.’ Và rồi khi Alonzo tới, tim tớ lại nhảy lên một phát nữa. Thế là chẳng căn cứ vào nhịp đập trái tim được nữa, dẫu lẽ ra nó khá là đáng tin theo tất cả những tiểu thuyết tớ từng đọc. Này, Anne, trái tim của cậu chắc sẽ chỉ đập mạnh trước mỗi mình Bạch Mã Hoàng Tử thôi, phải không? Tim của tớ chắc bị hư từ gốc rễ mất rồi. Nhưng tớ đã sống những ngày hoàn toàn tuyệt vời. Ôi, tớ ước gì cậu đang ở đây! Hôm nay tuyết rơi, tớ phát điên vì vui sướng. Tớ cứ sợ là sẽ có một Giáng sinh xanh, tớ ghét thể loại Giáng sinh đấy lắm. Cậu biết đấy, khi Giáng sinh chỉ là một ngày nửa xám nửa nâu buồn tẻ bẩn thỉu, cứ như đã cũ mấy trăm năm và bị trấn nước trong suốt thời gian ấy, thế mà như thế lại được gọi là Giáng sinh xanh! Đừng hỏi tớ tại sao. Cũng như Huân tước Dundreary từng nói, ‘có những thứ chẳng ai hiểu nổi.’
“Anne, cậu có bao giờ nhảy lên xe điện rồi phát hiện ra mình không đem tiền theo để trả tiền vé không? Tớ thì có, ngày hôm trước ấy. Thật khủng khiếp. Lúc lên xe thì tớ có một xu. Tớ nghĩ nó nằm trong túi áo khoác trái. Khi ngồi xuống thoải mái rồi, tớ mới lần tìm nó. Nó không có trong túi. Tớ sợ đến lạnh toát người. Tớ sờ vào túi bên kia. Cũng không có nốt. Một cơn lạnh khác lại ập tới. Rồi tớ sờ vào túi áo trong. Vô ích. Tớ chịu hai cơn lạnh cùng lúc.
“Tớ tháo găng ra, đặt lên ghế rồi mò tất cả các túi. Nó không có ở đó. Tớ đứng dậy, lắc lắc người rồi nhìn xuống sàn xe. Xe đầy nhóc người vừa coi nhạc kịch về, họ nhìn chằm chằm vào tớ, nhưng lúc đấy thì tớ còn tâm trí đâu mà để ý tới nữa.
“Nhưng tớ vẫn chẳng thể tìm ra tiền. Cuối cùng, tớ kết luận là tớ đã đút nó vào miệng và nuốt mất mà không biết.
“Tớ chẳng biết phải làm gì nữa. Tớ tự hỏi liệu ông soát vé có dừng xe lại đuổi tớ xuống trong sự nhục nhã đáng xấu hổ hay không? Liệu tớ có thể thuyết phục ông ấy rằng tớ chỉ là nạn nhân của thói đãng trí chứ không phải là một kẻ vô đạo đức dối trá đi xe chùa? Ôi, tớ ước ao giá như Alec hay Alonzo có mặt ở đó. Nhưng dẫu tớ có muốn thì bọn họ cũng không có mặt. Nhưng nếu tớ không cần thì bọn họ có mặt đủ cả tá. Và tớ chẳng quyết định được là nên nói gì khi ông soát vé đến thu tiền. Ngay khi óc tớ nảy ra một lời giải thích, tớ lại cảm thấy lời đó thật khó tin và phải sáng tác ra một lời giải thích mới. Dường như chẳng còn gì khác để làm ngoại trừ đặt lòng tin vào đấng tối cao, và giá trị an ủi của đấng tối cao với tớ thì cũng chỉ như với quý bà lớn tuổi trong cơn bão, được viên thuyền trưởng khuyên hãy đặt lòng tin vào Chúa, bà ta đã kêu lên, ‘Ôi chao, thưa thuyền trưởng, tình hình tệ hại đến thế rồi sao?’
“Vào đúng giây phút sinh tử ấy, khi mọi hy vọng đã vỗ cánh bay xa và ông soát vé đang chìa hộp tiền ra cho hành khách ngồi kế bên tớ, tớ chợt nhớ ra nơi tớ cất cái đồng xu đáng thương. Hóa ra tớ đâu có nuốt mất. Tớ nhu mì rút nó ra khỏi ngón trỏ trong găng tay và bỏ vào trong hộp. Tớ mỉm cười với mọi người xung quanh và cảm thấy thế giới thật tươi đẹp.”
Chuyến viếng thăm Nhà Vọng cũng là một buổi đi chơi đáng nói trong số những buổi đi chơi thú vị trong kỳ nghỉ. Anne và Diana lần theo con đường mòn trong rừng sồi để quay lại Nhà Vọng, cầm theo một giỏ đồ ăn trưa. Nhà Vọng đóng cửa kể từ đám cưới của cô Lavendar, nay được mở rộng tất cả cửa nẻo ra trong một khoảng thời gian ngắn để đón gió và ánh mặt trời, ánh lửa lấp lánh thêm lần nữa trong những căn phòng nhỏ nhắn xinh xẻo. Mùi hương từ bát hoa hồng của cô Lavendar vẫn còn phảng phất quanh đây. Thật khó mà tin rằng không còn thấy cô Lavendar lập tức nhẹ nhàng bước vào phòng, đôi mắt nâu lấp lánh đón mừng, và Charlotta Đệ Tứ, nơ xanh và nụ cười rộng mở, chạy tọt vào. Paul dường như cũng luẩn quẩn quanh đó với những điều tưởng tượng về chốn thần tiên.
“Tớ có cảm giác giống như một bóng ma đang quay lại viếng thăm mặt trăng thời xưa cũ,” Anne phá lên cười. “Chúng ta ra ngoài xem những tiếng vọng có ở nhà không đi. Cầm theo cái còi cũ ấy. Nó vẫn nằm sau cửa bếp đấy.”
Những tiếng vọng vẫn có ở nhà, bên trên dòng sông trắng, vẫn trong trẻo và đông đảo như thuở nào, và khi chúng đã dừng không đáp lại, các cô gái khóa trái Nhà Vọng lần nữa và ra về trong nửa tiếng giao thời hoàn hảo nối tiếp ánh hồng và vàng nghệ của buổi xế chiều mùa đông.
Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward - Lucy Maud Montgomery Tập 3 - Anne Tóc Đỏ Ở Đảo Hoàng Tử Edward