From my point of view, a book is a literary prescription put up for the benefit of someone who needs it.

S.M. Crothers

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Đê Quy
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 29
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:35 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 115
àn Toại, Mã Siêu mưu phản Tào Tháo
Trúc đài Tây viên
Mùa hạ ngày dài, đã qua giờ Dậu mà bầu trời vẫn một màu xanh biếc. Gió nhẹ thoảng qua, cỏ cây lay động, nước hồ trong xanh, hoa sen ánh nhật, tiếng chim hót líu lo trên cành hòa với tiếng bầy nhạn thi thoảng lanh lảnh vang lên - Đây chính là Tây viên Nghiệp Thành vừa mới sửa xong, được cải tạo mở rộng trên chỗ cũ của hồ Huyền Vũ, nghiễm nhiên trở thành lâm viên tư gia của Tào Tháo, quy mô không hề thua kém so với ngự lâm viên của hoàng gia.
Năm đó Tào Tháo cho đào hồ Huyền Vũ để luyện thủy quân, nhưng đám thủy quân được tôi luyện trên mặt hồ bình lặng không sóng này chỉ là thêu hoa dệt gấm, sau khi nhận được bài học thê thảm từ trận Xích Bích, không thể tiếp tục luyện binh theo kiểu cưỡi ngựa xem hoa như vậy nữa. Giữ lại hồ Huyền Vũ cũng chẳng có ý nghĩa gì, ông bèn sai người gieo trồng hoa sen, đổi thành hồ Phù Dung(*), cho sĩ nhân Nghiệp Thành chơi đùa ngắm cảnh. Lúc này Tào Tháo đang ngồi thuyền trên hồ, vừa thưởng lãm cảnh trí, vừa mải mê suy nghĩ. Con gái xuất giá, Tào Thực thành thân, những chuyện vặt vãnh này đều đã bố trí xong. Đổng Chiêu cũng không phụ sự ủy thác, mang chiếu thư từ Hứa Đô trở về, trong đó nói thiên tử niệm tình Tào Tháo bao năm chiến loạn có công cho triều đình, quyết ý tiếp tục tăng thêm phong ấp cho ông. Đương nhiên, chiếu thư này là cố ý cho người khác xem, ông muốn người trong thiên hạ đều biết, một lần thất bại không thể làm suy chuyển vị trí của Tào mỗ, những kẻ có mưu đồ khác tốt hơn hết là nên dẹp bỏ suy nghĩ đi! Nhưng như vậy vẫn hoàn toàn chưa đủ, Tào Tháo cần gấp rút tạo nên một trận thắng lớn để lấy lại uy tín, ông vẫn đang có một dự định thâm sâu khác...
Tào Phi, Tào Thực, còn cả vài duyện thuộc được mời đến du lãm Tây viên đều đang ở bên hồ cúi đầu chờ đợi. Đã không còn sớm nữa, còn có rất nhiều việc chưa làm, ai nấy đều mong Tào Tháo mau mau lên bờ. Nào ngờ Thừa tướng hôm nay thực là nhàn rỗi, dong thuyền đi chơi cả nửa canh giờ mới hết hứng trở về. Thuyền nhỏ vừa tấp vào bờ, Tào Phi và Tào Thực vẫn chưa kịp động thủ, Đổng Chiêu đã tranh lên trước, đỡ Tào Tháo lên bờ:
— Thừa tướng thấy chỗ này thế nào?
Tào Tháo lại quay đầu nhìn ra xa:
— Mặt nước ở góc tây bắc rộng rãi, sao không xây một tòa đình đài?
— Vâng. - Ký thất Lưu Trinh cười nói, - Lúc nãy đại công tử thi hứng chợt phát, ngâm rằng “Song cư tương quán khái, gia mộc nhiễu thông xuyên”(*), nếu như có thêm một tòa đài cao, đứng trên lầu ngắm cảnh thực còn gì bằng?
Ông ta là bậc văn nhân phong nhã, nhắc đến những chuyện này liền cao hứng. Đổng Chiêu thuận nước đẩy thuyền:
— Thực là trùng hợp, lúc cải tạo hồ Huyền Vũ tìm thấy một con chim sẻ bằng đồng, được điêu khắc rất tinh xảo, có vẻ là vật từ thời thượng cổ. Vậy sao không xây một tòa cao đài ở nơi tìm thấy vật này?
— Tuyệt, tuyệt lắm! - Lưu Trinh nức lời khen hay, - Cổ thư có nói thành Trường An “Thành tây có một đôi cửa khuyết, trên đó có một đôi chim sẻ bằng đồng, hót một tiếng ngũ cốc đơm bông, hót một tiếng nữa ngũ cốc chín vàng ươm.” Đây là điểm tượng trưng cho ngũ cốc được mùa, vạn dân an lạc, quả là điềm lành.
— Được. - Tào Tháo liếc đám nhi tử một cái, - Vậy giao cho các ngươi và Biện Bỉnh đi làm.
Tào Phi, Tào Thực mừng như mở cờ trong bụng, hai người cùng nghĩ giống nhau - Đây là một cơ hội tốt để thể hiện tài năng. Trong lòng đã nhấp nhổm muốn làm, bắt đầu trù hoạch hình dáng. Nhưng duyện thuộc Quốc Uyên đứng một bên lại có vẻ khó xử, chắp tay nói:
— Tại hạ có một việc thỉnh tấu Thừa tướng.
— Được, chuyện gì vậy?
Quốc Uyên cúi đầu đáp:
— Thừa tướng bình định Ký Châu đến nay đã năm năm, ban đầu đã phát giáo lệnh rõ ràng, phàm là điền địa Ký Châu mỗi mẫu tô thuế chỉ thu bốn thăng, nhằm an định lê dân, hạn chế thổ hào. Thế nhưng hai năm nay đã thêm rất nhiều khoản chi tiêu, phá thổ động công ngày tốn vạn lượng, nếu tiếp tục hoang phí như vậy chỉ e ngay cả lương thực của trung quân cũng không thể bảo đảm. Liệu có thể... tăng thêm thuế một cách vừa phải?
Ông ta ăn nói cẩn trọng, cái gọi là “thêm rất nhiều khoản chi tiêu” chính là khoản bồi thường cho gia đình các tướng lĩnh thương vong trong trận đại bại ở Xích Bích, cộng thêm cả khoản xây dựng, cải tạo thành trì mạc phủ nữa. Những chuyện này không mấy hay ho nên cũng không tiện nói rõ.
Kỳ thực Tào Tháo trong lòng đã có dự tính, hai năm nay chi tiêu quả có hơi nhiều, nhưng mấu chốt nằm ở việc thuế đồn điền của Ký Châu quá thấp. Năm xưa ông đoạt được đất đai từ tay Viên thị, cần phải ổn dịnh nhân tâm mới đặt tô thuế là mỗi mẫu bốn thăng, những tưởng đợi phương Bắc ổn định rồi xua binh nam chinh sẽ có thể bình định Giang Đông, đến lúc đó sẽ lại chỉnh đốn lại tô thuế một cách toàn diện, nào ngờ ăn một vố đau như vậy bên bờ Trường An! Trọng Trường Thống đã từng can gián “giảm tô thì dễ, tăng tô thì khó”, Tào Tháo nóng lòng hành sự nên không nghe theo. Lần này thì không ổn rồi, tiền không đủ chi chỉ có thể tăng thêm tô thuế - Thành trì mới tinh, lộng lẫy vừa xây xong, điều đầu tiên cần làm lại là ép bách tính tăng thuế, khó xử biết bao! Dân gian lại dị nghị thế nào đây?
Tâm trạng thoải mái của Tào Tháo thoáng chốc tiêu tan, nhưng cũng không than trách gì, chỉ nói:
— Đã như vậy thì thương lượng với triều đình một chút xem sao, cần tăng thuế thì vẫn phải tăng. - Lúc giảm thuế thì ông tự mình quyết định, khi tăng thuế lại lấy danh nghĩa của triều đình, đây gọi là việc lợi thì làm cho mình, còn để triều đình bị mang tiếng!
Đổng Chiêu đã quen nhìn sắc mặt Tào Tháo, thấy thần sắc ông thay đổi, bèn nói:
— Chúng ta đã đi được nửa ngày, trời không còn sớm nữa, nên về thôi ạ.
Tào Tháo gật đầu, dẫn mọi người trở về phủ, đi xuyên qua Tây viện mà không dừng bước, cứ như vậy đến thẳng Thính Chính đường ở Đông viện, bỗng trông thấy quân sư Tuân Du, Chủ bạ Ôn Khôi, Thương tào thuộc Cao Nhu đã chờ ở bên trong. Việc công còn chưa xong mọi người cũng không tiện giải tán, đều đứng chờ một bên, Ôn Khôi đưa qua một tờ biểu chương, nói:
— Tại hạ đã thảo qua theo lời dặn dò của ngài và chư vị Ký thất đại nhân, xin Thừa tướng xem qua.
Đất Sở có cái hiểm của sông núi vùng Giang Hán, sau này quy thuộc triều đình, nhưng trước kia cường thịnh, từng tranh hùng với Tần, Kinh Châu chính là đất cũ. Lưu trấn nam dùng sức dần đất ấy dã lâu. Sau khi thân vong, các con tranh quyền đoạt vị, mặc dù cuối cùng khó bảo toàn, nhưng cũng có thể kéo dài thời gian. Thanh Châu Thứ sử Tông, đức cao vọng trọng, trí sâu mưu rộng, xem thường vinh hoa, xem trọng nhân nghĩa, lợi mỏng đức dày, coi nhẹ cơ nghiệp vạn dặm, không bận tâm binh sĩ ba quân, mà một lòng trung chính, gìn giữ tiếng tốt, trên làm sáng công nghiệp của tiên công, dưới giữ vững phúc lộc không mục. Bào Vĩnh bỏ Tịnh Chầu, Đậu Dung dời năm quận cũng đều chẳng sánh bằng. Dẫu phong làm liệt hầu một châu cũng tiếc chưa xứng với người này. Vậy mà Tông còn gửi sớ xin về Kinh Châu, chức Giám sử tuy tôn quý, nhưng bổng lộc không nhiều. Nay chiếu theo lời sớ, bái Tông làm Gián nghị đại phu, Tham đồng quân sư.
Tờ biểu chương này là để tấn phong cho Lưu Tông, con trai của Lưu Biểu. Năm xưa Kinh Châu quy hàng, Kinh Châu mục Lưu Tông bị điều làm Thứ sử Thanh Châu, vốn là một chức quan hữu danh vô thực, mặc dù không thiếu thốn gì, nhưng chẳng khác nào giam lỏng. Nay đại bộ phận Kinh Châu đã thất thủ, Lưu Bị “biểu tấu” huynh trưởng của Lưu Tông là Lưu Kỳ làm Banh Châu mục, vị đại công tử đó nhận chức chưa đầy một năm đã chết, sự việc vô cùng kỳ lạ, nhưng có tin đồn rằng hắn ta chìm đắm trong tửu sắc, hại vào thân thể. Nhưng bất luận thế nào, kẻ thực sự đang khống chế Kinh Châu là Lưu Bị, ông ta thành hôn với em gái của Tôn Quyền, lại chiếm cứ bốn quận Trường Sa, Quế Dương, Vũ Lăng, Linh Lăng ở Giang Nam, dưới trướng có Gia Cát Lượng, Y Tịch thay ông ta chiêu hiền nạp sĩ, hiện đã có không ít sĩ nhân Tương Dương chạy đến phụng sự. Tào Tháo không biết làm sao, chợt nhớ đến Lưu Tông đang bị ghẻ lạnh, mặc dù ít tuổi bất tài, nhưng xét cho cùng cũng là con trai của Lưu Biểu, mới biểu tấu cho hắn làm Gián nghị đại phu, Tham thừa tướng quân sự, mong rằng có thể dùng hắn để giành lại lòng người Kinh Châu.
— Cứ như vậy đi, mau phái người gửi cho triều đình. Ngoài ra triệu tộc đệ của Sái Mạo là Sái Toản vào kinh, cho hắn một chức quan.
Tào Tháo vẫn không quên chiếu cố nhà họ Sái, lại hỏi Cao Nhu:
— Ngươi có việc gì?
Thương tào thuộc chính là chức phó của Thương tào duyện, thông thường không được trực tiếp bẩm tấu với Thừa tướng; ông ta đến đây ắt hẳn là có việc hệ trọng.
Cao Nhu bỗng nhiên quỳ sụp xuống đất:
— Tại hạ xin khẩn cầu thay cho Trường Xã Huyện lệnh Dương Bái! Người này tuy hành hình ép cung hại chết mạng người, nhưng mục đích là trừng trị đám hào cường điêu nô. Nếu ban tội chết cho ông ta, ngày sau liệu ai còn dám đòi lại công bằng cho bách tính?
Cao Nhu ban đầu là Thích gian lệnh sử, nay được điều nhiệm làm Thương tào thuộc, vốn không được quyền quản các vụ án nữa, nhưng vẫn không nhịn được phải bày tỏ lòng mình.
— Ngươi đứng dậy, nghe ta nói. - Tào Tháo khẽ thở dài, - Dương Khổng Cừ là một vị quan tốt, thanh liêm, trong lòng ta hiểu rõ. Năm xưa ta đến Lạc Dương phụng nghênh thiên tử, chiến loạn đói kém, quân đội thiếu lương, khi đó ông ta làm huyện trưởng huyện Nam Trịnh, đã hiến cho ta không ít lương thực, nhờ vậy mới gặp được thánh giá. Chưa cần bàn đến công lao, chỉ luận về tình riêng ta cũng đâu nỡ giết ông ta. Ngươi không nói thì ta cũng muốn giữ lại ông ta, nhưng có thể tránh tội chết, nhưng khó thoát nổi tội sống, giáng ông ta làm Tả hiệu(*), chịu vất vả một chút cũng được.
Cao Nhu vẫn cảm thấy bất mãn:
— Nhưng mà...
— Ta biết ngươi đang nghĩ gì, phải nhẫn nhịn một chút, Dương Bái phải nhẫn nhịn, ngươi cũng phải nhẫn nhịn, lão phu cũng phải nhẫn nhịn thôi! Hiểu chưa?
Tào Tháo hiểu rất rõ, nếu trị một vị quan như Dương Bái, ắt sẽ giúp cho những kẻ vơ vét xa hoa thừa dịp nổi lên, nhưng ông vừa mới thất trận thảm hại, ngưng tụ nhân tâm mới là quan trọng nhất. Quận Dĩnh Xuyên lại là quê hương của rất nhiều trọng thần, không trừng trị Dương Bái thì cũng khó ăn nói với họ. Xét cho cùng trăm ngàn cái sai cũng là tại ông, ai bảo ông bại một trận lớn như vậy?
Cao Như như đã hiểu ra, chầm chậm đứng dậy, không nói gì thêm nữa. Quân sư Tuân Du lại bẩm tấu:
— Có một bức thư do Yết giả bộc xạ Vệ Ký gửi từ Hoằng Nông đến Hứa Đô, lệnh quân lại sai người gửi đến, xin ngài xem qua.
Tào Tháo cũng không muốn xem, tựa vào bên án, chậm rãi gác tay. Ôn Khôi hiểu ý, vội vàng nhận lại bức thư, đọc to:
— Chư tướng tây phương đều là đám thất phu quật khởi, không có hùng tâm tráng trí tranh thiên hạ, chỉ mong an lạc trước mắt mà thôi. Nay triều đình đã ban tước hiệu, hợp với chí nguyện của họ, nếu như không có biến cố gì lớn, tất họ sẽ không thay đổi. Ngày sau sẽ dễ dàng định liệu. Nếu như xua binh vào Quan Trung, thảo phạt Trương Lỗ, Lỗ ở nơi thâm sơn cùng cốc, đạo lộ không thông, chư tướng tất sẽ nghi ngờ thủ thế; nếu chẳng may kinh động, địa thế hiểm trở lại gặp địch mạnh, chỉ e hậu quả khôn lường!
Việc mượn đường chinh phạt Hán Trung, Tào Tháo đã giao phó cho Chung Do, ngay cả rất nhiều người trong mạc phủ cũng không hề hay biết, nghe xong nội dung bức thư này ai nấy đều trợn tròn mắt. Cao Nhu đứng không vững, quỳ sụp xuống đất:
— Lời của Vệ Ký rất đúng, mong Thừa tướng suy xét! Muốn chinh thảo Trương Lỗ ắt phải định xong Quan Trung. Hiện giờ nếu cử binh, phía tây có Hàn Toại, Mã Siêu, chúng sẽ tưởng rằng Thừa tướng phát binh đánh chúng, khó tránh khỏi cơn phiến động tác loạn. Thừa tướng sao không thu lấy binh quyền của chư tướng Quan Trung trước? Nếu như bọn họ bất phục thì có thể thanh trừ, sau đó mới thảo phạt Trương Lỗ; còn như bọn họ quy phục, vậy ta có thể hợp binh nam hạ vây đánh Trương Lỗ, chỉ cần truyền hịch là có thể bình định Hán Trung.
Tào Tháo nhìn bộ dạng thành khẩn, hoảng hốt của ông ta, vừa tức vừa buồn cười: Đúng là một kẻ rất mực trung thành, tiếc là đầu óc không được thông minh.
Hòa Hiệp đứng ngay cạnh Cao Nhu, chứng kiến cảnh này bèn bước lên phía trước nói:
— Tại hạ có một chuyện không rõ, muốn thỉnh giáo Thừa tướng.
Tào Tháo đã hiểu rõ tính cách của Hòa Hiệp, chỉ cần tên quỷ xấu này hỏi thì ắt sẽ hỏi đến cùng, nghĩ đoạn bèn cười khà khà:
— Ngươi lại có câu hỏi gì định làm khó cho lão phu đây?
Hòa Hiệp rướn cái đầu như trái bí đao lên, dõng dạc hỏi:
— Tại hạ xin hỏi Thừa tướng, ngài định thảo phạt Trương Lỗ thật hay là có ý đồ gì khác?
Đúng là đi thẳng vào vấn đề: Tào Tháo cử binh tiến vào Quan Trung chỉ là mượn đường diệt kẻ khác, mục đích thực sự chính là ép Hàn Toại, Mã Siêu tạo phản, chỉ khi bọn chúng tạo phản ông mới có thể danh chính ngôn thuận hạ thủ, tiễu trừ đám thế lực phản phúc vô thường này. Ban đầu ông vẫn cân nhắc việc cố gắng thu lại binh quyền một cách nhẹ nhàng, nhưng trước đó không lâu lại nhận được mật báo từ phía nam, Chu Du sau khi đánh bại Tào Tháo ở trận Xích Bích cũng đang trù tính thảo phạt đất Thục. Dù cho Chu Du từ Trường Giang ngược dòng đánh lên không dễ dụng binh, nhưng nếu như hợp lực với Lưu Bị, rồi ngầm câu kết với chư tướng Lương Châu, vậy thì hơn một nửa thiên hạ trong nháy mắt sẽ trở thành kẻ thù. Để đề phòng hậu họa, Tào Tháo bắt buộc phải ra tay trước, đầu tiên phải giải quyết Hàn Toại, Mã Siêu mới có thể quay sang tiêu diệt Giang Đông. Tây chinh chẳng qua là để quét sạch hậu họa cho lần nam chinh tiếp theo, kỳ thực từ ngày trở về Nghiệp Thành, ông đã bắt đầu trù tính, sớm đã bí mật lệnh cho các tướng Chu Diệu, Quản Dung, Trương Thiệp, Lý Thứ ở Thanh Châu ngày đêm thao luyện thủy quân trên biển Bột Hải để làm quen với thực chiến trong điều kiện sóng gió. Cho đến giờ có thể thấy Chung Do đã làm rất tốt, không chỉ Hứa Đô đã nhận được tin mà ngay cả Vệ Ký ở Hoằng Nông cũng đã biết, chẳng bao lâu nữa, tin tức này ắt sẽ truyền khắp Quan Trung, xem ra ngày xuất binh không còn xa nữa.
Hòa Hiệp thấy ông chỉ cười mà không đáp, lập tức hiểu ra chân tướng, không tiếp tục truy vấn nữa, quay sang cúi người đỡ Cao Nhu dậy:
— Hiền đệ, việc này Thừa tướng đã sớm trù tính, ngài không cần phải nhiều lời nữa.
Tào Tháo chậm rãi đứng dậy, vẻ mệt mỏi:
— Chuyện này hôm khác bàn tiếp, cứ như vậy đi. Thứ sử Dương Châu Lưu Phục lâm bệnh qua đời, Thứ sử Lương Châu Hàm Đan Thương bị giết, hiện giờ chức quan vẫn khuyết. Ôn Khôi, lão phu định để ngươi làm Thứ sử Dương Châu.
Ôn Khôi giật nảy mình:
— Thừa tướng, tại hạ phạm phải lỗi gì, ngài không muốn tại hạ ở bên cạnh ngài nữa sao?
— Chớ có suy nghĩ lung tung. - Tào Tháo mặt mày tươi tỉnh đáp, - Ngươi thông minh nhanh trí, xử sự ổn thỏa, ta rất muốn giữ ngươi bên mình, nhưng chuyện ở Dương Châu quan trọng hơn những tạp vụ trong phủ, lão phu muốn dùng hết tài của ngươi đó thôi! Sách Thượng thư có câu: “Cổ quăng lương tai, thứ sự khang tai!”(*) Ngươi không cần lo lắng, Tưởng Tế sẽ đảm nhận chức biệt giá cùng ngươi. Người này túc trí đa mưu, các ngươi đồng tâm hiệp lực ắt có thể trong thì an định lê dân, ngoài thì chống được Tôn Quyền.
Kỳ thực, Tương Tế, Lưu Diệp là những lựa chọn không tồi cho vị trí tả quan của Dương Châu, nhưng họ đều là những cựu bộ ở Hoài Nam, quan hệ với Tào Tháo không đủ thân thiết. Từ sau khi nếm trải cuộc phản loạn của Ngô Lan, Lôi Bạc, Tào Tháo lại càng đa nghi hơn, Thứ sử của cả một châu chẳng khác nào cánh tay phải nên tất phải dùng đến người trong phủ, còn đám Tưởng Tế, Lưu Diệp còn cần phải quan sát thêm vài năm.
Ôn Khôi xuất thân từ Huyện lệnh, vào tướng phủ làm việc cũng đã nhiều năm, nay được phó thác trọng trách, nghĩ mình sắp phải rời xa Tào Tháo, bất giác nước mắt rơi lã chã:
— Tại hạ sắp đi, Thừa tướng hãy nhớ bảo trọng, không biết ai sẽ thay tại hạ nhận chức chủ bạ?
Tào Tháo bỗng đưa tay dứt khoát, chỉ vào giữa quần liêu:
— Ông ta!
Mọi người nhìn theo hướng tay chỉ của ông, đều cảm thấy bất ngờ, thì ra là Dương Tu, con của thái úy Dương Bưu. Năm đó Tào Tháo đưa anh ta vào phủ chỉ thuần túy để kiềm chế Dương Bưu, nào ngờ tên tiểu tử này nhanh nhẹn hoạt bát, biết nhiều hiểu rộng, lại được ông rất mực tin tưởng. Chức chủ bạ tuy không cao nhưng cũng được coi là cận thần, tiền đồ ngày sau vô cùng rộng mở. Đám duyện thuộc lần lượt nhìn với ánh mắt ngưỡng mộ, khiến cho Dương Tu cũng cảm thấy hơi xấu hổ. Nhưng ở một góc trong đại đường, hai vị công tử thì người sầu kẻ vui, Tào Thực mặt mày hớn hở, gật gù không ngớt, còn Tào Phi mặt mày u ám.
Bất luận người khác nghĩ thế nào, Tào Tháo luôn đắc ý với quyết định của mình:
— Cứ như vậy đi, Ôn Khôi ra ngoài làm Thứ sử Dương Châu, Dương Tu được bổ nhiệm làm chủ bạ. Còn Thứ sử Lương Châu thì...
Lời còn chưa dứt, Tuân Du đã nói xen ngang:
— Mấy ngày trước lệnh quân có thư gửi đến, đề nghị cho Vi Khang, con của Vi Đoan kế nhiệm chức Thứ sử. Trương Mãnh và Hàm Đan Thương tranh chấp sinh họa, đều do họ là người ngoài châu không am tường việc quân ở Quan Trung. Vi thị là vọng tộc đất Kinh Triệu, lệnh quân cho rằng vẫn nên dùng sĩ nhân Quan Trung thì ổn thỏa hơn...
Ông ta vừa nói vừa quan sát sắc mặt Tào Tháo, nói đến câu cuối giọng càng nhỏ lại.
Dùng nhầm Hàm Đan Thương là thất sách của Tào Tháo, Tuân Úc tiến cử Vi Khang rõ ràng là đối lập với ý kiến của ông. Nay điều Tào Tháo cần làm chính là diệt trừ chư tướng Quan Trung, vậy mà Tuân Úc lại muốn dùng người của Vi thị, đất Kinh Triệu làm Thứ sử. Ông lại liên tưởng đến thư can gián của Vệ Ký cũng do Tuân Úc chuyển đến, hẳn là ông ta có thái độ phản đối việc cử binh vào Quan Trung... Phản đối! Phản đối! Tất thảy đều phản đối! Con gái cũng đã gả, lẽ nào Tuân Văn Nhược vẫn một lòng một dạ nghĩ cho vị thiên tử bù nhìn kia ư?
Suy nghĩ của Tào Tháo càng lúc càng đi xa, bất giác nắm chặt tay lại, nhưng chỉ trong giây lát lại chầm chậm thả lỏng - Phải nhẫn nhịn! Chí ít bây giờ vẫn phải nhịn! Ông khẽ thở dài, đưa mắt nhìn Tuân Du:
— Lệnh quân muốn tiến cử Vi Khang, vậy quân sư có ý kiến gì không?
Tuân Du vội vàng cúi thấp đầu:
— Tại hạ chỉ nghe theo lệnh của Thừa tướng.
Hai nhà Tuân, Tào bất hòa, ông ta kẹp ở giữa đã đủ khó xử rồi, đâu dám tự tiện bày tỏ thái độ. Địa vị của vị đại quân sư này đã không còn như xưa nữa.
Tào Tháo từ từ ngồi xuống, nói giọng mập mờ:
— Đã như vậy thì cứ làm theo ý Lệnh quân. Lui ra cả đi... Hãy khoan! Vương Xán, Trần Lâm, Lưu Trinh, Nguyễn Vũ, Từ Cán, Ứng Sướng, Phồn Khâm, Lộ Túy, các ngươi ở lại.
— Vâng.
Ngoại trừ những người vừa được gọi tên, tất cả những người khác đều lui xuống cả. Tào Tháo lại nhìn hai đứa con trai, xua xua tay:
— Các con cũng ra đi.
— Con xin cáo lui.
Tào Phi, Tào Thực cùng nhau thi lễ, lui ra khỏi Thính Chính đường. Hai anh em nhìn nhau giây lát, dù không nói gì nhưng cả hai đều cảm thấy nghi hoặc: Trời đã tối rồi, phụ thân bảo đám người này ở lại mật bàn điều gì? Đó đều là những kẻ trứ danh nhờ tài văn chương thơ phú, lẽ nào phụ thân muốn cân nhắc, chỉnh sửa hịch văn? Lẽ nào có liên quan đến việc thiên tử tặng thêm phong ấp?
Tướng tinh đã rụng(*)
Tào Tháo dự định phát binh đánh Quan Trung, không chỉ để diệt trừ mầm họa, mà còn để phòng Chu Du tiến quân phạm vào đất Thục, sau đó câu kết với Mã, Hàn. Nhưng ông không biết cách đó ngàn dặm, sự tình đã có thay đổi - vị Chu Lang Giang Đông một đời mang hùng tâm tráng trí, ý chí ngút trời kia, tính mệnh đang như ngọn đèn treo trước gió.
Sau trận Xích Bích, Chu Du và Tào Nhân kịch chiến tại Giang Lăng, hai bên đọ sức hơn nửa năm, cuối cùng kết thúc với việc Tào Nhân bỏ thành trì lui về Tương Phàn. Liên quân Tôn, Lưu thắng một trận lớn, nhưng điều này không có nghĩa là thiên hạ đã hoàn toàn vô sự, xét cho cùng Tào Tháo vẫn hùng cứ phương Bắc, một lần chiến bại có thể khiến cho nội bộ bất an, nhưng sớm muộn cũng sẽ khôi phục lại thực lực. Quân Tào lui về giữ Tương Phàn, nhìn bề ngoài thì lui một bước lớn, nhưng trên thực tế là chặn yết hầu lên phía bắc. Tương Dương, Phàn Thành cách nhau qua một con sông, tạo thành thế ỷ dốc, chỉ nửa bước thôi cũng rất khó vượt qua, ở mặt Hợp Phì cũng có Trương Liêu, Lý Điển tinh binh mãnh tướng phòng thủ, Giang Đông vẫn chưa đủ thực lực khiêu chiến với Tào Tháo, Tôn thị nếu muốn phát triển thì bắt buộc phải tìm đường khác.
Tồi tệ hơn, kẻ từng cúi đầu cầu cứu là Lưu Bị căn bản không cam chịu khuất phục dưới trướng kẻ khác, cũng đang mở rộng thực lực. Sau trận chiến, Tôn Quyền cũng từng thủ kết mối hữu hảo với ông ta, gặp đúng lúc vợ của Lưu Bị là Cam thị bệnh chết, Tôn Quyền bèn gả em gái cho Lưu Bị làm chính thất phu nhân, sau đó dưới sự hòa giải của Lỗ Túc, ngầm chấp thuận để ông ta công chiếm bốn quận Giang Nam. Nhưng cuộc hôn nhân chính trị giữa hai nhà Tôn, Lưu cuối cùng lại thất bại, Tôn thị mới hơn hai mươi tuổi, còn Lưu Bị đã ngũ tuần, tuổi tác không tương hợp. Cộng thêm vị Tôn phu nhân này từ ngày xuất giá đã mang theo hơn trăm thân binh, tì nữ, đám người đó lúc nào cũng coi Lưu Bị là kẻ chịu ơn, kiêu căng ngạo mạn, coi thường phép tắc. Tôn phu nhân thì tính tình tiểu thư, phàm chuyện gì cũng mưu lợi cho nhà mình, nghiễm nhiên trở thành tai mắt do Giang Đông phái đến, khiến cho Lưu Bị lúc nào cũng phải đề phòng.
Nhưng đây không phải là căn nguyên chính dẫn đến mâu thuẫn, vấn đề nằm ở việc Lưu Bị ngay từ đầu đã muốn duy trì thế lực độc lập, Tôn, Lưu bắt tay với nhau chỉ là kế sách tạm thời, kẻ địch chung vừa mới lui bước, mâu thuẫn giữa hai bên bắt đầu hiện rõ. Lưu Bị chiếm cứ Nam Quận ở Giang Bắc, nhưng Tôn thị trước sau vẫn không nỡ từ bỏ đất Giang Lăng hiểm yếu, Lưu Bị liền xây dựng thành Công An ở Dầu Giang Khẩu làm đại bản doanh. Rõ ràng, hai nhà Tôn, Lưu đều đang nghĩ cách mở rộng địa bàn, Tôn Quyền bắc phạt gặp nhiều khó khăn, con đường tây tiến lại bị Lưu Bị chặn mất, xét về mặt vị trí địa lý thì vô cùng bất lợi. Còn Lưu Bị lại phát triển rất nhanh chóng, đặc biệt là sau cái chết của Lưu Kỳ, ông ta vừa dung hợp các bộ thuộc cũ và mới, vừa chiêu hiền nạp sĩ, những nhân sĩ Kinh Châu như Mã Lương, Phan Tuấn, Trần Chấn, Liêu Lập, Tông Dự, Trương Tồn, Tập Trinh đều đến dưới trướng của ông ta. Thậm chí Lưu Bị còn “dâng tấu triều đình”, biểu tấu Tôn Quyền làm Xa kỵ tướng quân, lĩnh Từ Châu mục, dụng ý rất rõ ràng: Bắc phạt Tào Tháo là việc của ngươi, còn về phía tây đừng có mưu đồ gì!
Chu Du, Lỗ Túc và cả Cam Ninh từ lâu đã có ý muốn men theo bờ sông tiến lên chiếm lấy đất Thục, há lại chấp nhận sự phân công như vậy? Để thay đổi cục diện bị động, Giang Đông liên tiếp điều sứ giả đi giao thiệp việc mượn đường chinh phạt đất Thục, bất đắc dĩ từ vị thế là bề trên khi cho Lưu Bị địa bàn, giờ lại trở thành chiếu dưới khi phải nhờ cậy ông ta. Lưu Bị năm lần bảy lượt khất lần không chịu, cuối cùng Tôn Quyền lại phải tự mình viết một phong thư, lời lẽ vô cùng khéo léo: “Giặc gạo Trương Lỗ chiếm cứ Ba Thục, Hán Trung, làm tai mắt của Tào Tháo, mưu đồ Ích Châu, Lưu Chương không thể tự thủ, nếu Tào Tháo công đoạt được đất Thục thì Kinh Châu tất sẽ không một ngày an yên. Nay ta muốn công chiếm Lưu Chương trước, tiếp theo thảo phạt Trương Lỗ, nhất thống Ngô Sở, khi đó có mười Tào Tháo đến cũng không phải lo nữa.” Lại hứa hẹn rằng hai nhà cùng dốc sức chinh phục Hán Trung, ngày sau thành công sẽ chia chác thỏa đáng, Lưu Bị mới miễn cưỡng bằng lòng.
Trong thời gian đó, Chu Du vẫn đồn binh ở Giang Lăng, tận mắt chứng kiến sự phản phúc của Lưu Bị, trong lòng nhẫn nhịn quá đủ. Sau khi hay tin giao thiệp đã ổn thỏa, ông ta lập tức trở về diện kiến Tôn Quyền, kể lể chi tiết kế hoạch dụng binh, sau đó gấp rút quay về Giang Lăng chuẩn bị điều binh. Nhưng vừa đến Ba Khâu, lại có tin tức từ tiền phương truyền về, Lưu Bị một lần nữa đổi ý, nhất mực nói rằng mình và Lưu Chương đều là tông thân nhà Hán, không cho phép kẻ khác chinh phạt, đoạn phái thêm binh mã đến bên bờ Trường Giang, ra vẻ nhất quyết chặn đường, không cho ai qua.
Trong trận Xích Bích, chư tướng Giang Đông anh dũng chiến đấu, nhưng cuối cùng lại chỉ nhận được nửa quận Giang Hạ và một tòa thành Giang Lăng ở Nam Quận, còn phần lớn Kinh Châu đều bị Lưu Bị cưỡng chiếm, lại còn chặn đứng đường tây tiến, đúng là com cóp cho cọp nó xơi! Chu Du muốn đánh Lưu Bị, nhưng lại sợ Tào Tháo ngư ông đắc lợi, vì vậy đành phải lui binh, quá phẫn uất thành ra sinh tâm bệnh. Vốn tưởng rằng tĩnh dưỡng ở Ba Khâu vài ngày là ổn, nào ngờ bệnh ngày càng trầm trọng, chỉ sau nửa tháng, vị Mỹ Chu Lang vang danh thiên hạ đã không thể cứu vãn.
Kỳ thực Chu Du ủ bệnh đã lâu, từ khi ông ta nhận lệnh cứu nguy đến nay chưa được một ngày nào an nhàn, kịch chiến Xích Bích, truy kích Tào Tháo, công chiếm Giang Lăng, lao lực liên miên. Lại cộng với việc Kinh Châu đang xảy ra ôn dịch, ông ta sức lực mệt mỏi nên đã cảm nhiễm, chỉ gắng gượng qua ngày nhờ ngọn lửa nhiệt huyết khai cương lập nghiệp mà thôi. Nay sự nhiệt tình đã cháy cạn, ngọn lửa sinh mệnh cũng vì thế mà tắt theo...
Một ngày đầu đông, bên bến sông vắng vẻ tiêu điều, bầu trời mờ mịt âm u, đám lau cỏ hai bờ đều đã héo úa, từng hồi gió đông lạnh buốt lùa qua xào xạc. Chu Du giờ chỉ còn da bọc xương, lay lắt nằm trên giường, âm thầm nhìn ra bờ sông cảnh tượng thê lương - Sự quấy nhiễu của con ma bệnh khiến thân thể ông ngày một gầy mòn, lại thêm nước da trắng tuyết, quả thực trông như thiên nhân. Những kẻ bệnh đã đến hồi tận thường không chịu nổi thời tiết này, nhưng Chu Du vẫn cố gắng gượng, ông muốn trong thời khắc cuối cùng được nhìn ngắm lại dòng Trường Giang, nơi mà ông đã lập bao công tích và luôn lấy làm tự hào.
Các tiểu tướng Tống Khiêm, Công Tôn Dương đều đứng hầu bên cạnh, mặt mũi ai nấy đau buồn, sầu thảm; ngay cả tiểu đồng của Chu Du mắt cũng ngấn nước, không biết đã khóc thầm bao nhiêu lần. Còn Chu Du vẫn nằm im không động đậy, âm thầm nhẫn chịu nỗi đau trong thời khắc cuối cùng này.
Trên mặt sông mênh mông bỗng xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ, mặc dù bơi ngược dòng nhưng vẫn vút đi nhanh như tên bắn, không lâu sau tấp vào bờ trước mặt mọi người. Võ liệt đô úy Lăng Thống từ trong mui thuyền nhảy phốc lên, quỳ sụp trước mặt Chu Du, giọng hớt hải:
— Đô đốc cố đợi thêm mấy ngày, chủ công đã triệu Đan Dương thái thú Tôn Du, không lâu nữa ngài ấy sẽ đến Ba Khâu thay ngài lãnh binh.
Tôn Du là con của Tôn Tĩnh, thúc phụ của Tôn Quyền, hiểu rõ thời cuộc, tính tình cẩn trọng. Chu Du khẽ thở dài:
— Chỉ sợ rằng ta không chờ được nữa... Đồng nhi, hãy chuẩn bị đi...
Tiểu đồng biết ông muốn viết di thư, lúc này nghe Chu Du dặn dò như vậy, cũng không dám buồn bã nữa, vội vàng lấy bút mực giấy lụa ra. Chu Du cố định thần lại, đọc rõ ràng từng chữ: Du tài trí tầm thường, năm xưa được ơn tri ngộ của Thảo Nghịch Tướng quân, nên đêm ngày đau đáu, mong hoàn thành trọng trách, thống lĩnh binh mã, chí chấp cung thương, dốc sức tham chiến. Trước định Ba Thục, sau lấy Tương Dương, việc này đã định, ắt giành thắng lợi. Nhưng không may bất cẩn, mắc phải bạo bệnh, đã chữa trị đến nay, vẫn không thể cứu vãn. Nhân sinh hữu tử, phần số ngắn dài, thần không tiếc nuối, chỉ hận chí lớn chưa thành, phụ lại sự ủy thác của chúa công. Như nay Tào công hùng cứ đất bắc, bờ cõi chưa một ngày yên ổn, Lưu Bị ở trong đất ta, tựa như nuôi hùm dưỡng cọp, việc trong thiên hạ chưa biết bao giờ mới kết thúc. Lỗ Túc trung liệt, hành sự cẩn trọng, có thể thay Du. Kẻ sắp chết thường nói lời trung, mong chúa công tiếp nạp, Du thác cũng cam lòng!
Tiểu đồng cố dằn sầu thảm viết xong, đưa cho Chu Du xem qua. Nhưng Chu Du chẳng còn tâm tư nào để xem nữa, chỉ cố lắc lắc đầu rồi nằm gục xuống giường. Chu Công Cẩn năm xưa tranh cường hiếu thắng là thế, dám dùng ba vạn quân Giang Đông kháng cự hơn mười vạn đại quân, như nay mệnh đã sắp hết mà chí lớn chưa thành, các tướng Lăng Thống, Tống Khiêm đều bất giác đưa tay lên che mặt - Họ không tiện khóc thành tiếng trước mặt ông, chỉ đành thầm chảy nước mắt.
Chu Du ánh mắt thẫn thờ nhìn lên bầu trời, khi nãy dặn dò di thư dường như ông đã ý thức được một số chuyện. Chu Du và Lỗ Túc là bạn chí giao, cũng đều là tâm phúc của Tôn Quyền. Nhưng sau khi đắc thắng Xích Bích, một số việc làm của Lỗ Tử Kính thực sự khiến ông cảm thấy không vui. Đầu tiên ông ta ngầm cho phép Lưu Bị cưỡng chiếm bốn quận Giang Nam, kết quả chẳng khác gì ném bánh bao thịt cho chó, không lấy lại được địa bàn nữa. Sau đó, việc kết thân với Lưu Bị, cũng do Lỗ Túc âm thầm trợ giúp, khi Lưu Bị qua sông đón Tôn phu nhân, Chu Du và Lã Phạm đều chủ trương cưỡng ép ông ta lưu lại Giang Đông, cuối cùng vẫn là Lỗ Túc kiên quyết thả người. Tiếp đến là chuyện của Bàng Thống gần đây. Bàng Thống, tự Sĩ Nguyên, là một nhân sĩ Tương Dương, túc trí đa mưu, lại thông hiểu quân tình, được ẩn sĩ Kinh Châu Bàng Đức khen là “Phượng Sồ”, tề danh với “Phục Long” Gia Cát Lượng, khi Tào Tháo nam hạ ông ta đã đến Giang Đông lánh nạn, vốn dĩ muốn xuất sĩ dưới trướng Tôn thị. Thế nhưng người này cậy tài ngạo mạn, đặc biệt tỏ thái độ khinh mạn đối với Chu Du, khiến Tôn Quyền rất không hài lòng, kiên quyết không dùng. Nhân vật bậc ấy Tôn Quyền không dùng thì thôi, cho ông ta chết già ở Giang Đông cũng được, vậy mà Lỗ Túc lại chủ động tiến cử ông ta cho Lưu Bị. Bàng Thống đi một chuyến liền được Lưu Bị trọng dụng, chỉ trong một năm đã liên tiếp thăng chức, từ một Huyện lệnh lên thành Quân sư trung lang tướng, ngồi ngang hàng với Gia Cát Lượng, trở thành cánh tay đắc lực của Lưu Bị - Lỗ Túc rốt cuộc đang giúp ai?
Đối với chuyện đó, Chu Du quả thực không hiểu, thậm chí từng oán trách Lỗ Túc, những ngày qua ông lại đang lo lắng việc cử binh phạt Thục. Giờ ông ốm nặng, có lẽ không thể chỉ huy quân đội tung hoành thiên hạ được nữa, vào thời khắc sắp kết thúc của cuộc đời, cuối cùng ông cũng có thể tĩnh tâm, hiểu được suy nghĩ của Lỗ Túc.
Những việc trong thế gian không thể dự liệu, phàm là con người cũng chỉ có thể tính hết chuyện của người, chứ không thể biết thiên mệnh, kế sách toàn vẹn đến mấy kỳ thực cũng chỉ là tạm thời, việc đến chân vẫn cần phải tùy cơ hành động. Cố nhiên Chu Du sớm đã có chiến lược lấy Kinh Châu, mưu đoạt đất Thục, tiếp theo đó phân chia thiên hạ, nam bắc đối đầu với Tào Tháo, nhưng hiện giờ xem ra đã không thể nữa rồi. Kỳ thực bắt đầu từ ngày Tào Tháo nam hạ, Tôn, Lưu liên minh, Lưu Bị đã dự tính trở thành một thế lực tồn tại độc lập. Bình tâm nghĩ lại, mặc dù trận Xích Bích đại thắng, nhưng những trận chiến sau đó cũng không dễ, Chu Du và Tào Nhân giằng co gần một năm tại Giang Lăng, còn Tôn Quyền công chiếm Hợp Phì cũng bất thành, cuộc phản loạn của Lôi Bạc, Ngô Lan cũng nhanh chóng bị dập tắt. Lưu Bị mặc dù chiếm được bốn quận Giang Nam dưới sự ngầm cho phép của Tôn thị, nhưng trong tình thế binh lực Tôn thị đang cần gấp, nếu không phải ông ta hạ thủ cưỡng chiếm bốn quận thì Lưu Ba do Tào Tháo phái đến cũng được dịp nghỉ ngơi, chỉnh đốn binh mã bốn quận để tác oai tác quái, chỉ e Chu Du sẽ lâm vào tình cảnh nam bắc thọ địch. Lúc đó còn có thể lấy Giang Lăng sao? Còn có thể ép Tào Nhân lui về Tương Dương không?
Tuy Chu Du ép được Tào Nhân lui binh, nhưng ngoài Giang Lăng mà ông ta đích thân lấy được ra, đại đa số các thành trì ở Nam Quận đều rơi về tay Lưu Bị, sĩ nhân Kinh Châu cũng muốn tận sức vì Lưu Bị hơn, tại sao lại như vậy? Lý do rất đơn giản, trước đại chiến Xích Bích, Lưu Bị đã góp sức không nhỏ dưới trướng Lưu Biểu, còn Tôn thị lại là kẻ thù của Kinh Châu hơn mười năm nay. Ngay trước khi đối địch với Tào Tháo, Giang Đông còn giết chết Thái thú Giang Hạ là Hoàng Tổ, bên thân bên thù tự nhìn khắc biết, cần gì phải tranh đoạt lòng người Kinh Châu với Lưu Bị? Cục thế thiên hạ ngày nay bắc mạnh nam yếu, nếu không thể gấp rút an định Kinh Châu, vậy thì địa bàn này sớm muộn cũng bị Tào Tháo gặm nhấm, chớ quên các gia tộc lớn như Sái, Khoái đều đã ngả về phía Tào Tháo. Trong tình thế này, Lưu Bị chiếm Kinh Châu cố nhiên đụng chạm đến lợi ích của Tôn thị, nhưng chí ít còn tốt hơn để rơi vào tay Tào Tháo. Lưu Bị giống như ngọa hổ bàn cứ Kinh Châu, dẫu biết rõ rằng ông ta sẽ hạn chế sự phát triển của Giang Đông, nhưng lại không thể hạ thủ. Liên minh Tôn, Lưu tan rã đều không đem lại điều gì tốt đẹp với cả hai nhà, ngược lại sẽ khiến Tào Tháo ngư ông đắc lợi, kể cả Giang Đông tiêu diệt được Lưu Bị, thứ thu về cũng chỉ là cục thế hỗn loạn của Kinh Châu, cùng với đó là việc một mình đối mặt với sự uy hiếp của Tào Tháo.
Kinh Châu nêu đã không thể định được, Tôn, Lưu lại không thể trở mặt, vậy thì việc mưu đoạt Ích Châu liệu nắm chắc được bao nhiêu phần đây? Tạm chưa bàn đến địa thế hiểm trở ở Tam Hiệp, lộ đạo gập ghềnh của đất Thục, kể cả quân Giang Đông có thể thuận lợi đánh vào đất Thục, chỉ cần Lưu Bị muốn thì bất cứ lúc nào cũng có thể cắt đứt con đường tiếp viện từ Giang Đông đến Ích Châu. Khi đó tướng sĩ tiền tuyến liều mạng chém giết cũng để làm gì? Huống hồ Lưu Bị hiện giờ đang trong thế kháng cự, quân Ngô càng không thể tiến binh. Không còn nghi ngờ gì nữa, Lưu Bị cũng đang mưu phạt Ích Châu, mặc dù chưa chắc ông ta đã có thực lực cưỡng chiếm đất Thục, nhưng sớm muộn cũng có thể chờ cơ hội, nên sẽ không đời nào cho Tôn thị cơ hội...
Chu Du dần dần ngộ ra, Lỗ Túc không hề hồ đồ, thậm chí ông ta còn thực tế hơn mình. Ông ta hiểu rõ mối quan hệ dựa vào nhau để sinh tồn giữa hai nhà Tôn, Lưu, muốn cố gắng duy trì sự hòa hảo dù chỉ là vẻ ngoài hiện nay, không cho Tào Tháo có cơ hội hạ thủ, sau đó định dùng thủ đoạn mềm mỏng ép Lưu Bị giao trả Kinh Châu. Lỗ Túc có sách lược riêng, ông ta cũng đang chờ đợi thời cơ.
Đây đúng là ý trời, đúng là tạo hóa. Chẳng ai có thể dự liệu được, nhưng cục thế thiên hạ đã đi đến bước này, không còn cách nào khác. Khi Chu Du chửi Tào Tháo là “Hán tặc” trước mặt quần thần, có bao nhiêu kẻ trong phe chủ hàng nói rằng ông ta hành xử ngược lẽ trời, không biết thiên mệnh. Nhưng đến ngày hôm nay, Chu Du đã dần dần tin vào thiên mệnh, thế cục Kinh Châu đã đến nước này, còn cả hùng tâm tráng chí chưa kịp thi triển của ông ta, tất cả lẽ nào không phải là ý trời sao... Nghĩ đoạn, khóe mắt Chu Du bỗng tuôn trào hai dòng lệ nóng.
Lăng Thống thấy ông đau lòng, bất giác phủ phục xuống đất, giọng run rẩy:
— Đô đốc xin đừng đau lòng, mạt tướng thề sẽ đoạt lại Kinh Châu, báo thù cho Đô đốc!
— Không... - Chu Du run rẩy đôi môi, - Hiện giờ vẫn chưa phải lúc, bây giờ các ngươi phải chú ý nhất cử nhất động của Lưu Bị. Nếu chúa công không thể lấy được đất Thục, vậy để Lưu Bị lấy cũng được, kể cả Lưu Bị có không lấy được thì cũng phải để Lưu Chương tự thủ, tuyệt đối không được để rơi vào tay Tào Tháo. Lưu Bị đoạt được thì còn có thể hiệp lực chống Tào, nhưng nếu Tào Tháo đoạt được, thì Giang Đông của ta nguy rồi...
Lăng Thống vừa khóc vừa nói:
— Lẽ nào chúng ta chỉ biết nhìn tên giặc tai to mở rộng thanh thế sao?
— Đương nhiên không thể... Nếu như hắn ta lấy được đất Thục, vậy phải ép hắn giao nộp Kinh Châu...
— Dư hổ mưu bì(*) há lại dễ dàng? - Lăng Thống lau nước mắt nói, - Nên giao thiệp đòi lấy hay là phát binh thu phục?
— Số trời mênh mang, khó có thể đoán được... Ta không theo nổi nữa, đó là việc các ngươi và Tử Kinh phải làm... - Chu Du bất nhẫn ngẩng đầu nhìn trời, miệng lẩm nhẩm não nề, - Trời không giúp ta... Trời không giúp ta... Ba Khâu! Ba Khâu! Đáng buồn thay! Đáng cười thay!
Hai năm trước Tào Tháo tan tác trốn chạy, vứt thuyền lên bờ ở ngay nơi này, không ngờ vị tướng quân đắc thắng ngày ấy hôm nay cũng mất mạng ở đây. Ông muốn được gặp Tôn Quyền lần cuối, muốn dặn dò Lỗ Túc một số việc nữa, muốn được gần gũi giây lát với ái thê Tiểu Kiều, muốn phò tá chúa công khai mở đế nghiệp... nhưng tất thảy đều không thể nữa rồi.
Giữa tầng không bỗng có một bóng hồng nhạn bay qua, nó ngân giọng hót thánh thót, sảng khoái biết bao, nhưng nháy mắt đã vụt biến mất...
Năm Kiến An thứ mười lăm (tức năm 210 sau Công nguyên), Chu Du lâm bệnh mà chết khi mới ba mươi sáu tuổi.
Cha hiền con thảo
Người chết đã chết rồi, còn kẻ sống vẫn phải nhọc tâm khổ trí, chính vào lúc Chu Du ôm hận mà chết, Hàn Toại cũng triệu tập một buổi mật bàn. Hay tin Tào Tháo muốn thảo phạt Trương Lỗ, các bộ quân Quan Trung và Lương Châu đều rục rịch hành động, giao lại binh quyền rồi thần phục hay là liều chết một trận, trong tình thế này mọi người bắt buộc phải đồng lòng nhất trí, vì thế Hàn Toại mới triệu tập mọi người cùng thương lượng đối sách. Thế nhưng, hiện đang là thời khắc nhạy cảm, thủ lĩnh các bộ quân đều không tiện manh động, đám Trình Ngân, Lương Hưng, Hầu Tuyển, Mã Ngoạn đều phái tâm phúc đến dự bàn, chỉ có Dương Thu tự mình đến; còn Mã Siêu do phụ thân ở trong triều nên không được mời.
Không khí trong đại trướng vô cùng trầm lắng, Hàn Toại đã chuẩn bị sẵn rượu thịt, nhưng chẳng ai ăn nổi, cũng không có ai chủ động cất lời. Bất luận thế nào, địa bàn cũng do mọi người vất vả cực nhọc thu được, dù cho bọn họ vẫn đấu đá lẫn nhau, vẫn thường chém giết, nhưng rốt cục cũng thuộc cùng một thế lực. Nếu phải giao lại binh quyền, quy hàng Tào Tháo, nửa đời người chém giết há lại trắng tay; còn nếu phản kháng đến cùng, thế lực của Tào Tháo quá mạnh, trừ phi mọi người đồng tâm hiệp lực hạ quyết tâm liều chết mới không đến mức bi quan. Nhưng ai chủ trì việc này?
Mọi người đều nhìn Hàn Toại không nói, nhưng Hàn Toại cũng không tỏ thái độ rõ ràng. Ông ta tung hoành mấy chục năm trời, từng trải đã nhiều, nên hiểu những kẻ đang ngồi đây có suy nghĩ gì - Tất cả bọn họ đều không cam tâm giao lại binh quyền, nhưng lại không có gan đứng lên hô hào, họ hy vọng ông ta sẽ có chủ trương. Nhưng chọn kẻ chủ trì đâu có dễ vậy, mặc dù đều nhất trí kháng Tào, song ai cũng có mưu tính riêng, một khi bắt đầu giao chiến mà ai lo phận nấy, vậy cục thế tất sẽ thảm bại, đến lúc đó đám người kia quỳ gối đầu hàng Tào Tháo là xong, nhưng kẻ chủ trì cầm đầu sẽ có kết cục ra sao?
Nói rằng đến đây hội bàn, nhưng thực chẳng khác nào thăm dò. Hàn Toại thăm dò thành ý của họ, họ cũng đang thám dò quyết tâm của Hàn Toại. Im lặng hồi lâu, Dương Thu bèn mở lời trước:
— Mọi người đừng ngồi thừ ra đấy nữa, chúng ta vừa ăn vừa bàn, chớ phụ lại sự khoản đãi của lão tướng quân. Việc này cũng không cần phải suy nghĩ nặng nề, xét cho cùng đó chỉ là truyền ngôn thôi, Thừa tướng cũng chưa định ngày giờ xuất binh cụ thể. Hôm nay chúng ta cứ chuyện trò thoải mái, sau khi trở về mọi người thương lượng với tướng quân của mình, quyết định thế nào thì lại nói rõ ràng với lão tướng quân. Cứ ngồi không thế này giải quyết được gì chứ?
Dương Thu thế lực dù nhỏ, nhưng xét cho cùng cũng cao hơn một bậc so với bọn họ, mọi người không dám phản bác, lần lượt cầm chén rượu lên:
— Phải phải phải... kính lão tướng quân.
Hàn Toại đưa mắt nhìn Dương Thu một cách rất đỗi hài lòng, trong lòng thầm nghĩ: Hắn thế lực nhỏ, nhưng lại dám tự mình đến dự bàn, khá hơn nhiều so với đám rùa rụt cổ kia. Ban đầu ta còn có chút coi thường, giờ mới thấy hắn là kẻ có chí khí. Đúng là ngày dài mới thấu lòng người.
Rượu vừa vào đến bụng, tự nhiên có người cất lời:
— Theo tôi thấy, chúng ta đều lo hão thôi, Tào Tháo muốn thảo phạt Trương Lỗ, chưa chắc đã làm gì chúng ta. Hoảng hốt gì chứ?
Lời ấy vừa dứt đã có kẻ phản bác:
— Ông nghĩ đơn giản vậy? Nếu như lão Tào xua binh qua Đồng Quan, hạ lệnh bắt tướng lĩnh các nhà không được đem theo binh mã đến trướng của hắn báo cáo, lúc đó chúng ta có đi hay không?
— Không sai. - Có người phụ họa, - Kể cả Thừa tướng thực sự thảo phạt Trương Lỗ, đến khi an định Quan Trung, quay trở lại tất sẽ dọn dẹp chúng ta, cái này gọi là mượn, mượn gì ấy nhỉ.
Đại đa số tướng lĩnh Lương Châu đều là những kẻ thô kệch, bụng không chữ nghĩa. Một tướng lĩnh tuổi độ trung niên ngồi cạnh Hàn Toại nói:
— Mượn đường diệt Quắc.
Người này chính là Thành Công Anh, một nhân sĩ ở Kim Thành, Lương Châu, từng đọc qua ít nhiều sách vở. Hàn Toại vốn cũng xuất thân là người đọc sách, do thế sự vô thường mới đi vào con đường cát cứ, vì vậy ông ta nhìn Thành Công Anh bằng con mắt khác.
— Thành Công huynh, huynh có cao kiến gì không?
Dương Thu không màng thân phận, mang theo vò rượu tự rót đầy chung rượu cho Thành Công Anh.
— Không dám, làm phiền ngài rồi.
— Ây dà, đều là huynh đệ một nhà cả, sao phải giữ phép tắc như vậy? - Dương Thu hào sảng ngồi vào chỗ, vừa nhai đùi dê vừa nói, - Chúng ta đều là người thẳng thắn, muốn được nghe cao kiến của ngài.
Thành Công Anh thấy hắn cung kính với mình như vậy thì lấy làm đắc ý:
— Chư vị thứ cho ta nói thẳng, tướng quân của các vị rốt cuộc đang suy tính điều gì? Nếu muốn đánh, chúng ta liều mạng cùng đánh. Nếu không muốn đánh, thì mau ngoan ngoãn quy hàng Tào Tháo. Như nay đánh không dám đánh, hàng cũng không chịu hàng, chỉ muốn lão tướng quân đây xuất đầu lộ diện trước. Nếu thua các ngài đều có thể đầu hàng, nhưng còn bọn ta thì sao? Huống hồ con trai của lão tướng quân vẫn đang ở Hứa Đô, đây là đang đặt cược tính mạng của hai thế hệ, há có thể đơn giản như vậy? Ta có ý thế này: Ai dám đánh thì gọi tướng quân của mình đến đây cắt máu ăn thề, đừng có hòng chạy trốn; còn người nào không dám đánh thì mau cút khỏi đây, chớ dập dòm ăn ở hai lòng!
Những câu này đã nói thay cho nỗi lòng của Hàn Toại, không khí lại tĩnh lặng hồi lâu, tâm phúc do Thành Nghi phái đến mới lên tiếng:
— Ngài nói đúng, thực sự không nên làm khó lão tướng quân. Nhưng chúng tôi cũng có chỗ khó xử, Hàn lão tướng quân đức cao vọng trọng, binh khỏe ngựa tốt, không phải là giả, chúng tôi cũng thừa nhận. Nhưng có ai không biết Lương Châu do hai nhà Hàn, Mã cùng nhau làm chủ, chớ quên trong tay Mã gia còn có hai vạn binh, thái độ của Mã Nhi như thế nào còn chưa biết! (Mã Nhi là tên hí xưng do đám người này đặt cho Mã Siêu). Nếu như đại quân của Tào Tháo đến, chúng ta xông lên trận tiền, hắn ở phía sau đột kích sào huyệt của chúng ta, vậy thì tất cả đi tong! Lão tướng quân chọc giận được hắn, chứ chúng tôi há có thể chọc giận.
Đây quả thực là một vấn đề, hai nhà Hàn, Mã đều có con tin ở trong triều, nhưng con tin của Hàn Toại là con trai, con tin của Mã Siêu thì lại là Mã Đằng và hai con trai đều ở trong triều, Mã Siêu liệu có thể hạ quyết tâm? Việc này vẫn không thể trực tiếp thương lượng với Mã Siêu, vạn nhất hắn không theo, vậy thì tin tức bên này đều sẽ lộ hết. Chỉ cần hắn gửi một bức thư đến Hứa Đô, chỉ e bên này chưa kịp động thủ đã bị gán tội mưu phản. Hơn nữa hai nhà Mã, Hàn cũng từng có hiềm khích, năm xưa triều đình bổ nhiệm Hàn Toại là Trấn Tây Tướng quân ở Tây Lương, còn Mã Đằng là Chinh Tây Tướng quân, hai người tuy kết làm huynh đệ khác họ, nhưng dần dần bất hòa, bộ thuộc gây hấn lẫn nhau, Hàn Toại thậm chí còn giết chết người vợ trước của Mã Đằng. Sau nhờ có Tư lệ hiệu úy Chung Do, Lương Châu Thứ sử Vi Đoan khuyên giải mới ổn thỏa, hiện giờ hai nhà tuy hòa thuận ngoài mặt, nhưng vẫn ngầm đối đầu.
Thành Công Anh không biết nói gì hơn, những kẻ khác cũng im lặng, Hàn Toại ngồi sau soái án, mặt không tỏ rõ thái độ, Dương Thu thì uống hết bát này đến bát khác, cuộc hội bàn lại một lần nữa rơi vào khó xử.
Đúng vào lúc này, bỗng nghe thấy tiếng hỗn loạn phía bên ngoài, ngay sau đó rèm trướng được vén lên, có hai kẻ vừa cãi vã vừa xô đẩy xông vào. Một kẻ là tên lính canh cửa tay cầm trường mâu, còn một kẻ khoảng ngoài ba mươi tuổi, mặt mũi hung tợn, thân thể cao lớn, lưng hùm eo gấu, đầu đội khôi bạc, người mặc giáp bạc, vai khoác chiến bào màu trắng, trên tay cầm một thanh bội kiếm - Đó chính là Mã Siêu!
Trong khoảnh khắc mọi người ở trong trướng vẫn đang kinh ngạc, lưỡi kiếm của Mã Siêu đã vung lên, xuyên thẳng vào tên lính, khiến hắn gục xuống chết ngay tại chỗ. Người ngồi gần cửa trướng nhất là Tưởng Thạch, bộ tướng của Hàn doanh, trông thấy tình cảnh này liền đứng phắt dậy, định quyết chiến với Mã Siêu, nhưng kiếm còn chưa kịp rút ra, hắn đã lĩnh trọn một cú đạp vào ngực ngã chổng vó, rượu thịt mâm bàn văng tung tóe.
Lũ người toan hò nhau xông lên, Mã Siêu giơ lưỡi kiếm nhuốm máu lên thét lớn:
— Chớ động đậy! Ta có lời cần nói, kẻ nào dám cản, đừng trách ta vô tình!
Những kẻ có mặt đều mang theo đao kiếm bên người, nhưng chẳng ai nhanh tay bằng Mã Siêu, nếu rút kiếm đứng dậy, chỉ e tính mạng cũng không thể bảo toàn, ngay cả Tưởng Thạch cũng nằm mọp dưới đất không dám động đậy. Ngoài trướng cũng hò hét ầm ĩ, binh sĩ của Hàn doanh đang đối đầu với mấy chục tên thân binh do Mã Siêu mang đến, chẳng kẻ nào dám động thủ trước, trong ngoài đều nhìn nhau hằm hè.
Mã Siêu lạnh lùng nhìn một lượt xung quanh, cuối cùng ánh mắt dừng ở Hàn Toại:
— Hàn tướng quân thật hứng chí, uống rượu mua vui với mọi người, cớ sao không mời ta một chén?
Hàn Toại nặn ra một nụ cười, không buồn đáp lời, chỉ giơ tay lệnh cho đám binh sĩ lui ra, đem theo xác của tên lính khi nãy, bộ hạ của Mã Siêu cũng trở về vị trí.
Mã Siêu tay cầm kiếm sắc, lừ lừ tiến đến, hai mắt nhìn chằm chằm Hàn Toại. Mọi người trông thấy tình hình này đều sợ toát mồ hôi hột, nhưng Hàn Toại vẫn ngồi vững như bàn thạch, điềm tĩnh nói:
— Yên tâm đi, hắn không dám giết lão phu. Chỉ một nhúm quân này mà dám xông vào đại doanh của ta, dù có giết được ta, hắn liệu có thể sống mà thoát ra không? Hơn nữa chư vị đều ở đây, giết ta thì dễ, nhưng nếu đắc tội với các bộ quân Lương Châu, ngày sau liệu hắn còn muốn tung hoành nữa không?
Lời của Hàn Toại không sai, Mã Siêu quả thực không dám động đến Hàn Toại, giả như chuyện ngày hôm nay chỉ cần có nửa phần sơ suất, hắn sẽ lập tức trở thành kẻ thù chung của cả Lương Châu, tiếp bước Trương Mãnh. Hắn nhìn chằm chằm Hàn Toại, từ từ tra bội kiếm vào bao, gật đầu nói:
— Không sai, ta không thể giết ngài. Vừa nãy chúng tướng bất phục, vậy hãy cứ đến giết ta đi.
Lần này đến lượt Hàn Toại không biết nói gì.
Mã Siêu cười nói:
— Cha ta nhận chức cửu khanh trong triều, giết ta có khác gì tạo phản! Ta không dám làm hại ngài, nhưng lão tướng quân ngài cũng không dám giết ta chứ?
— Hà tất phải động đao động thương, đã đến đây rồi, hãy ngồi xuống cùng uống.
Hàn Toại vừa nói vừa đặt một cái bát rộng lên soái án, Dương Thu hiểu ý bước đến rót đầy rượu.
Mã Siêu cũng không khách khí, ngồi xuống ngay bên soái án của Hàn Toại cười nói:
— Hôm nay hai nhà Mã, Hàn đều ở đây, chư vị có lời nào muốn nói?
Mọi người đều thở phào nhẹ nhõm, nhưng không biết Mã Siêu đến đây là thù hay bạn, nên chẳng ai dám nhiều lời, chỉ nhao nhao kính rượu:
— Chúng ta xin kính rượu Mã tướng quân...
— Đừng khua môi múa mép nữa! - Mã Siêu đập tay lên soái án, khiến bát rượu nảy lên rồi lăn lông lốc, - Cha ta gửi liền ba phong thư, nói rằng Tào Tháo đã lệnh cho Chung Do chuẩn bị lương thảo quân giới, Thượng thư lệnh Tuân Úc can gián bất thành, không biết khi nào sẽ phát binh. Lần này chinh phạt Trương Lỗ là giả, tước binh quyền, địa bàn của chúng ta mới là thật, chư vị đã như trứng để đầu đẳng mà vẫn có tâm tư ngồi đây nói vòng vo hay sao?
— Lời này quả không sai! - Dương Thu chớp lấy cơ hội, hỏi giọng sang sảng, - Chúng ta hãy thẳng thắn với nhau, ta chỉ hỏi tướng quân một câu, ngài có tham gia hay không?
— Tham gia! - Mã Siêu buột miệng nói ngay.
Hàn Toại cầm bát rượu nốc cạn, hạ giọng nói:
— Tướng quân chớ có manh động, đừng quên lệnh tôn và lệnh đệ vẫn đang ở Hứa Đô, ngài nỡ từ bỏ sao?
Mọi người đều muốn hỏi câu này, chẳng ai đoán được lời của Mã Siêu là thật hay giả, nhất thời mọi ánh mắt đều dồn về phía hắn.
Mã Siêu lại nói:
— Kẻ có người thân làm con tin trong triều há chỉ có mình ta, tướng quân của các vị chẳng phải cũng có sao? Con trai của Hàn tướng quân chẳng phải cũng ở đó sao? Các ngài từ bỏ được, sao ta lại không từ bỏ được?
Thành Công Anh nói:
— Nghĩa phụ tử là tình chí thân trong thế gian, tướng quân không sợ mang tiếng ác ngoảnh mặt với cha mình sao?
Mã Siêu cười nhạt nói:
— Từ cổ chí kim những kẻ làm nên đại sự đều không màng tiểu tiết, Ngô Khởi giết vợ để cầu làm tướng, Nhạc Dương ăn canh nấu từ thịt con, Hàn Tín chịu cái nhục luồn qua háng, Quang Vũ Đế nhịn nỗi hận bị vua giết thân huynh. Chúng ta sinh trong thời loạn, bao năm chém giết mới có tấc đất nương thân, há có thể dâng cho kẻ khác? Họ Mã ta sáng nghiệp không dễ, đã từng kinh qua chinh chiến, tuyệt đối không thể vì một người mà phá bỏ cơ nghiệp cho con cháu. Ta cũng không giấu gì, cha ta đã nói rõ trong thư, nếu như phải động binh với Tào Tháo, thì tùy theo ý ta mà làm, không cần phải niệm tình riêng làm gì. Ta chính là đang phụng lệnh phụ thân mới làm như vậy!
— Lời này là thật? - Hàn Toại bán tín bán nghi.
Mã Siêu chắp tay đáp:
— Trận Quan Độ khi xưa, nếu như chúng ta không tọa sơn quan hổ đấu, chắc gì Tào tặc đắc thắng? Thế mà lão tặc lại giữ thân quyến của chúng ta làm con tin, người Quan Đông không thể tin lão nữa. Giờ Mã Siêu ta nguyện từ bỏ phụ thân, coi tướng quân là cha, tướng quân cũng nên từ bỏ nhi tử, coi Mã Siêu ta là con trai...
Ngay cả những câu từ cha bỏ con cũng có thể nói ra, Hàn Toại lúc này mới thực dạ tin tưởng. Dương Thu nhân cơ hội xen vào:
— Mọi người đã nghe thấy chưa? Mã tướng quân đã quyết định rồi, còn các ngài thì sao? Rốt cuộc tham gia hay không?
Mọi người lập tức hưởng ứng:
— Đương nhiên tham gia, chỉ cần nhị vị tướng quân dẫn đầu thì làm gì chúng tôi cũng tham gia!
— Chúng ta cộng lại có mười vạn đại quân, sao lại không dám kia chứ?
— Chỉ cần hai vị tướng quân cất lời, chúng tôi nguyện xả mạng đi theo bậc quân tử!
Mọi người trong lòng yên tâm, lúc nãy còn trầm mặc không nói, bây giờ liền nhao nhao cất lời.
Hàn Toại gật gật đầu, khẽ giơ tay tỏ ý bảo mọi người im lặng:
— Đã như vậy thì, chúng ta...
— Khoan đã! - Hàn Toại chưa kịp nói xong, có người đã xông vào trong trướng, quỳ sụp xuống đất, - Chuyện này tuyệt đối không thể!
Ai nấy đều giật mình quay lại, thì ra là Diêm Hành, ái tướng dưới trướng Hàn Toại - Người này võ nghệ xuất chúng, lại có mưu lược, từng được Hàn Toại cử đi bái kiến Tào Tháo, được triều đình bổ nhiệm làm Kiền Vi thái thú. Có điều, quận Kiền Vi ở Ích Châu, hắn không thể đến đó nhận chức, nên chỉ là một tước suông mà thôi. Vì cha của hắn cũng đang làm con tin ở Hứa Đô, nên hắn không được tham gia lần hội bàn này, nhưng hắn ở bên ngoài nghe trộm động tĩnh, thấy có vẻ không ổn bèn xông vào.
— Ngươi đứng dậy rồi nói.
Hàn Toại mến võ dũng của hắn, thế nên không hề tức giận.
— Vâng. - Diêm Hành đứng dậy nói. - Các vị xin hãy tự hỏi lòng mình, triều đình đại Hán nào có bạc đãi chúng ta? Chúng ta gặp thời loạn nên mới buộc phải làm giặc, hiện giờ có thời cơ tốt này, vừa có thể hưởng vinh hoa phú quý, vừa có thể duy trì cơ nghiệp dài lâu cho con cháu, há có thể vứt bỏ sự an lành mà đi vào hiểm lộ?
Mọi người không biết trả lời ra sao, Mã Siêu cất giọng mỉa mai:
— Lời xàm ngôn này có thể lừa được ai chứ? Thế nào là an lành, thế nào là hiểm lộ, chẳng qua vì cha ngươi làm con tin trong triều, ngươi không nỡ cả gan làm liều, tưởng rằng ta không biết ư? Những kẻ lòng không chí lớn như ngươi làm nổi trò trống gì? Mau đến Hứa Đô tìm cha ngươi đi, chớ có lởn vởn khiến ta chướng mắt.
— Hừ! Nghịch tử phản cha, quả không biết nhục! - Diêm Hành mắng một câu, đoạn chắp tay quay ra nói với Hàn Toại, - Mạt tướng theo chúa công hơn mười năm nay, một lòng trung thành trời đất chứng giám, há có thể vì việc tư mà vứt bỏ lòng trung? Chúa công xin hãy suy xét!
Hàn Toại cũng rất khó xử, sâu thẳm trong lòng ông ta vẫn muốn đánh cược một ván, nếu không ông ta cũng không sốt sắng mở rộng thế lực như vậy. Nhưng những lời Diêm Hành nói câu nào cũng có lý nên không tiện đáp lại, ông ta quay đầu liếc Thành Công Anh. Thành Công Anh cắn răng hạ quyết tâm, gật gật đầu, Hàn Toại hiểu ý, trả lời:
— Hôm nay chư tướng đều đã đồng lòng, đó là ý trời. Ý ta đã quyết, ngươi không cần phải nói nữa.
Diêm Hành thấy họ đồng tâm, có nói nhiều cũng vô ích, thở dài thườn thượt, bước ra ngoài trướng. Nhưng mấy câu nói của hắn như một lời cảnh tỉnh, mọi người dù vẫn quyết ý đánh nhưng quyết tâm đã không còn vững như trước nữa.
Duy có Mã Siêu vẫn rất mực tự tin:
— Mọi người không cần phải sợ, chúng ta có mười vạn binh mã thì sợ kẻ nào chứ? Tự bảo vệ mình có xá gì, đại trượng phu phải mưu sự cao xa, chúng ta phải đánh qua Lạc Dương chiếm lấy Trung Nguyên, cùng tranh thiên hạ với Tào Tháo! Ngay cả Tôn lang ở Giang Đông cũng làm được, tại sao chúng ta lại không làm được?
Chí hướng của hắn không chỉ dừng lại ở việc cát cứ một phương nữa.
— Đúng, Mã tướng quân nói đúng! - Dương Thu trước sau đều hùa theo phụ họa.
Nhưng Hàn Toại lại suy xét rất nghiêm túc:
— Đây không phải trận nhỏ, việc chuẩn bị lương thảo, điều động binh mã không thể ngày một ngày hai là xong. Cụ thể nên sắp xếp thế nào, ý của hiền điệt ra sao?
Dường như ông ta thấy gọi “tướng quân” không đủ thân thiết, nên chuyển sang gọi là “hiền điệt”.
Mã Siêu vui vẻ uống cạn bát rượu, thuận gió đưa thuyền nói:
— Thúc phụ không cần phải lo, ta có một kế có thể thành công.
— Lời thật không truyền qua sáu tai. - Mã Siêu phục xuống ghé sát tai Hàn Toại thì thầm, - Phụ tử ta có hai hảo bằng hữu, chính là Thái Nguyên và Lam Điền...
Hắn nói rất nhỏ, mọi người không nghe thấy bèn vừa ăn vừa uống. Dương Thu liền cầm vò rượu, nhanh nhảu rót đầy bát rượu cho hai người, nhân cơ hội đó ghé tai nghe lỏm...
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 8 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 8 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 8