Hãy xem mỗi trở ngại là một cơ hội.

Tiến sĩ Wayne Dyer

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 38
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:30 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 102
ãi truất Tam Công, khôi phục chế độ cũ
Tôn thị phục thù
Mùa xuân năm Kiến An thứ mười ba (năm 208 sau Công nguyên), trong lúc Tào Tháo huấn luyện quân trấn thủ, quận Giang Hạ ở Kinh Châu trải qua một trận chiến khốc liệt chẳng kém gì ở núi Bạch Lang - Tôn Quyền cuối cùng đã đánh hạ huyện Tây Lăng, giết được kẻ thù là Hoàng Tổ.
Đối với Kinh Châu mục Lưu Biểu, việc giữ vững Giang Hạ có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bởi vì Giang Hạ nằm tại nơi giao nhau giữa hai con sông Hán Thủy và Trường Giang, là cửa ngõ phía đông của Kinh Châu. Một khi nơi này thất thủ, quân địch có thể ngược dòng sông Hán Thủy đánh vào trung tâm Kinh Châu, hoặc cũng có thể bày binh trên mặt sông, cắt đứt mối liên hệ giữa hai miền nam bắc. Do vậy, Lưu Biểu đặc biệt cắt cử Hoàng Tổ làm Thái thú Giang Hạ, đồn trú tại Hạ Khẩu (nơi sông Hán Thủy và sông Trường Giang gặp nhau, còn gọi là Tam Giang Khẩu, thuộc huyện Tây Lăng), trấn giữ phía đông. Hoàng thị là vọng tộc ở Giang Hạ, các danh thần triều trước như Hoàng Hương, Hoàng Quỳnh, Hoàng Uyển đều xuất thân từ dòng họ này, Hoàng Tổ cũng là một người trong họ. Lưu Biểu giao trọng trách cho ông ta, tất nhiên vì muốn lợi dụng uy danh của Hoàng thị tại đất này, song mặt khác còn vì một nguyên nhân quan trọng hơn là Hoàng Tổ và Tôn Quyền có mối thâm thù. Năm xưa, huynh đệ Viên Thiệu, Viên Thuật chống Đổng Trác không thành, từ đó sinh ra bất hòa, hai bên đều dùng kế giao hảo với người ở xa, đánh lại kẻ ở gần nhằm kiềm chế đối phương. Viên Thuật kết minh với Công Tôn Toản, đánh chiếm Ký Châu, còn Viên Thiệu thông đồng với Lưu Biểu, hạn chế quân Nam Dương. Khi đó, cha của Tôn Quyền là Tôn Kiên đi theo Viên Thuật, nhận lệnh thảo phạt Lưu Biểu, đoạt lấy Tương Dương, trước sau luôn chiếm được lợi thế, không ngờ lại bị Hoàng Tổ ám toán tại núi Hiện Thủ, trúng tên mà chết. Từ đó mở màn cuộc đối đầu kéo dài suốt bao năm giữa Tôn thị và Hoàng Tổ.
Thù giết cha không đội trời chung, hành động đầu tiên của Tôn Sách sau khi lập nghiệp tại Giang Đông là xuất quân đánh Giang Hạ, khiến liên quân của Hoàng Tổ và Lưu Huân bị tổn thất nặng nề, song vẫn không lấy được huyện Tây Lăng. Về sau, Tôn Sách bị ám hại, nhiệm vụ báo thù được giao lại cho Tôn Quyền. Bởi vậy, Tôn Quyền đã hai lần đem quân xâm phạm Giang Hạ vào các năm Kiến An thứ tám và Kiến An thứ mười hai, tuy có chiếm được lợi thế trên chiến trường, nhưng không lần nào làm lung lay được thành trì của Hoàng Tổ. Hai lần vô công trở về, bá quan văn võ Giang Đông bắt đầu lời ra tiếng vào, Trương Chiêu, Trương Hoành đứng đầu quân liêu kiến nghị tạm gác lại việc tây tiến để vỗ về người dân trong cõi. Tuy nhiên, Tôn Quyền hạ quyết tâm, thề phải báo thù cho bằng được nên chỉ cho tướng sĩ nghĩ ngơi hai tháng, rồi lại đích thân dẫn quân đánh Giang Hạ. Chu Du làm Đô đốc tiền bộ, hàng tướng Kinh Châu là Cam Ninh dẫn đường, Tần Tùng và Lỗ Túc làm tham mưu, Lăng Thống và Lã Mông làm tiên phong, các tướng Hàn Đương, Tưởng Khâm, Chu Thái, Đổng Tập, Trần Vũ, Tống Khiêm đều theo quân, thủy quân và bộ quân cùng ngược dòng Trường Giang, ồ ạt tiến vào Tam Giang Khẩu.
Hoàng Tổ nhận được tin liền bí mật sắp xếp, phái đại tướng Tô Phi bố trí binh mã xung quanh thành trì, mặt khác lệnh cho Đô đốc thủy quân Trần Tựu bày bố chiến thuyền trên sông, cho hai chiến hạm lớn trấn ở cửa sông, giăng ngang xích sắt, lắp sẵn cung cứng, phong tỏa nghiêm ngặt. Binh sĩ của Tôn thị thấy vậy không hề tỏ ra nao núng, vẫn hăng hái chiến đấu, Lã Mông dẫn quân cảm tử chèo thuyền con luồn vào giữa hàng vạn quân địch, chém đầu Trần Tựu. Đổng Tập mạo hiểm xông lên trước màn mưa tên, vung đao chém đứt dây xích chắn ngang mặt sông. Trong khi đó Lăng Thống dẫn đầu một đội quân leo thang mây, đánh vào được trong thành Tây Lăng, bắt sống Đô đốc bộ quân Tô Phi. Hoàng Tổ thấy quân mình thất thế liền một mình cưỡi ngựa bỏ trốn, bị một tiểu tốt tên là Phùng Tắc đâm chết.
Lưu Biểu biết tin thì vô cùng kinh hoàng, vội điều Lưu Bị đang đóng quân tại Tân Dã tức tốc cứu viện Giang Hạ. Nhưng khi Lưu Bị đến nơi, Tôn Quyền đã sớm rút quân, mang theo của cải, quân nhu, lương thảo, chiến thuyền tích trữ tại Tây Lăng cùng với dân chúng và binh sĩ xin hàng, chỉ để lại một tòa thành trống không, ngổn ngang bừa bộn...
Quân Giang Đông thắng trận trở về, giơ cao thủ cấp của Hoàng Tổ, ca khúc khải hoàn, vui sướng nhảy nhót. Hai cánh quân thủy bộ cùng tiến về, dọc đường diễu võ dương oai, dường như chưa hết hả hê. Thanh thế ấy thật giống với Việt Vương Câu Tiễn đã từng hùng cứ Giang Đông dưới thời Xuân Thu. Phía sau đại quân, của nả, quân nhu cướp được nhiều không kể xiết, phải dùng những chiến thuyền che kín mặt sông thu được của Giang Hạ mới chở hết; hàng tốt và bách tính bị trói bằng dây thừng nối thành từng hàng, cũng phải đến hai ba vạn người.
Nhưng giữa những tiếng huyên náo, có một người trẻ tuổi từ đầu đến cuối không nói năng gì. Người đó hai mươi sáu tuổi, trắng trẻo khôi ngô, mũi thẳng miệng ngay, mắt sáng như sao, răng trắng môi đỏ, tai to ngực ưỡn, lưng dài eo nhỏ. Đáng chú ý nhất là anh ta có đôi mắt đen thẫm ánh lên tia sáng màu xanh, thăm thẳm và bí ẩn tựa như nước sông mùa thu, chòm râu mới dài vểnh lên trên, hơi có màu đỏ tía. Anh ta mình mặc áo giáp vàng, đầu đội mũ đâu mâu màu bạc, khoác chiến bào bằng gấm xanh, cưỡi một con bạch mã hiên ngang dẫn đầu bộ binh. Người nào không biết e khó có thể đoán ra vị tướng quân trẻ tuổi, anh tuấn tiêu sái ấy chính là chủ nhân của Giang Đông: Tôn Quyền, tự Trọng Mưu.
Đi sóng hàng với anh ta còn có hai vị quan văn, một người tóc đốm bạc, dáng vẻ quắc thước là mưu sĩ Tần Tùng, tự Văn Biểu, đi theo Tôn Sách từ buổi mới gây dựng Giang Đông. Còn người kia chỉ khoảng ngoài ba mươi, tướng mạo đoan chính, thần sắc kiên nghị, là tâm phúc Lỗ Túc, tự Tử Kính của Tôn Quyền mới được cất nhắc. Hai người họ dường đã nhận ra Tôn Quyền có tâm sự nhưng không nói câu gì, chỉ yên lặng đi cạnh.
Đúng lúc đó, có mấy kỵ sĩ vượt lên từ phía sau, đi đầu là Trung lang tướng Tưởng Khâm. Tưởng Khâm cùng với mãnh tướng Chu Thái là người quận Cửu Giang, ban đầu chỉ là hộ vệ bên cạnh Tôn Sách, về sau từng trải sa trường, lập nhiều công lao nên trở thành những tướng lĩnh có uy tín trong quân. Ông ta người cao ngựa lớn, tướng mạo dữ tợn, tính khí nóng nảy, từ mãi đằng xa đã gào to:
— Xin chúa công dừng bước! Mạt tướng có lời muốn nói.
Tôn Quyền quay ngựa ghì cương, cả đội quân lục tục dừng lại. Tưởng Khâm ra roi thúc ngựa chạy tới gần, nhảy xuống quỳ sụp trước mặt Tôn Quyền, hai đầu gối nện mạnh xuống đất, nghe “phịch” một tiếng.
— Ngươi có ý gì vậy? - Tôn Quyền ngạc nhiên nhìn ông ta, - Có chuyện gì cứ đứng lên rồi nói.
— Mạt tướng không đứng dậy! - Tưởng Khâm rất cố chấp, - Chúa công thu binh vào lúc này, mạt tướng không phục! Khẩn cầu ngài quay lại đánh tiếp, đoạt lấy Giang Hạ...
Ông ta chưa nói hết câu, các tướng Hàn Đương, Đổng Tập, Lã Mông, Cam Ninh đã đuổi tới nơi, người nào người nấy vẻ mặt lo lắng:
— Tưởng tướng quân, ông làm gì vậy? Còn không mau đứng lên!
Tôn Quyền giơ tay lên ngăn:
— Các ngươi chớ xen vào, cứ để ông ta nói hết đã.
— Chúa công, lẽ nào ngài quên mấy lần đánh Giang Hạ, chúng ta đã hi sinh bao nhiêu tướng sĩ rồi sao? - Tưởng Khâm nói giọng đầy căm phẫn, - Thù của tiên chủ không cần mạt tướng nói nhiều, nhưng tới lệnh huynh lúc lâm chung cũng nói, nỗi hận lớn nhất trong đời là chưa đoạt được Giang Hạ, tự tay đâm chết kẻ thù! Nay chúng ta thắng trận, giết được Hoàng Tổ, vạn lần không nên vứt bỏ thành trì mà đi, nó được đổi bằng biết bao nhiêu sinh mạng của con em Giang Đông! Chỉ bắt bớ dân chúng, vơ vét tài vật mà trở về thì chúng ta có khác gì bọn thổ phỉ? Ngài làm vậy sao có thể an ủi vong linh của lệnh tôn, lệnh huynh và tướng sĩ tử trận...
Nói đến đây, võ phu này tức giận đến nỗi mắt hổ ứa lệ, liên tục đấm xuống đất. Nhưng Tôn Quyền lại chẳng hề động lòng trước những lời lẽ khảng khái ấy, quét mắt nhìn khắp chúng tướng, nhẹ nhàng hỏi:
— Các vị cũng nghĩ như ông ta sao?
Lời này thốt ra, chư tướng đều im lặng. Mặc dù họ muốn ngăn Tưởng Khâm làm trái ý của Tôn Quyền, nhưng trong lòng cũng bất bình về hành động thu binh lần này. Im lặng một lúc, Đô úy Vương Du là Đổng Tập mở miệng trước:
— Tưởng Công Dịch nói cũng không phải không có lý, song... - Ông ta là người Giang Nam chính gốc, chưa đến ba mươi tuổi, dáng người nhỏ bé gầy gò nhưng rất tài cán, nói đặc giọng người Ngô, nhỏ nhẹ dễ nghe, một khi xung trận lại là người anh dũng thiện chiến. Ông ta ngày thường có gì nói ấy, thẳng thắn bộc trực, hôm nay lại ngập ngừng.
— Hàn lão tướng quân, ngài nghĩ sao?
Tôn Quyền chắp tay với Hàn Đương. Hàn Đương không phải người Giang Nam, quê nhà ở mãi quận Liêu Tây, U Châu. Từ thuở trẻ ông ta cùng với Trình Phổ, Hoàng Cái đã đi theo Tôn Kiên đánh dẹp quân Khăn Vàng, thảo phạt Đổng Trác, nay ngoài năm mươi tuổi, là một trong những tướng quân dày dặn kinh nghiệm nhất. Ngay cả huynh đệ Tôn Quyền cũng phải đối đãi với ông ta bằng lễ trưởng bối. Hàn Đương nghe Tôn Quyền hỏi đích danh mình, vuốt vuốt chòm râu bạc, cung kính đáp:
— Mạt tướng chẳng qua chỉ có cái dũng của kẻ thất phu, may được hai đời Tôn tướng quân chiếu cố, không dám vọng ngôn bàn đến đại sự. Tất cả đều do chúa công sắp xếp, mạt tướng chỉ biết nghe theo.
Ông ta đã ngần ấy tuổi, phải ăn nói ý nhị, không thể lỗ mãng như hậu bối được. Tuy rằng lời ông ta nói chẳng khác nào chưa nói, nhưng chưa chắc đã không có ý ngầm tán thành với Tưởng Khâm.
— Lão tướng quân quá khiêm tốn rồi.
Tôn Quyền cười nhạt, có vẻ đã nhận ra ý tứ trong lời nói của ông ta.
— Chúa công, mạt tướng cũng có lời muốn nói!
Một người cao lớn bước ra từ giữa đám người, lưng hổ eo sói, mũi nhọn miệng rộng, hai mắt sáng rực như mắt chim ưng, xem chừng cũng chỉ mới ngoài hai mươi tuổi. Những người khác đều mặc giáp trụ ngay ngắn, chỉ có anh ta không đội mũ sắt, áo giáp xộc xà xộc xệch, chiến bào bị vắt lại, nhét vào sau lưng; không biết là để làm đẹp hay muốn khác người, anh ta còn đeo một chuỗi chuông nhỏ trên cổ, khẽ cử động là phát ra tiếng leng keng.
Chúng tướng đưa mắt nhìn - hóa ra là hàng tướng Kinh Châu Cam Ninh, tự Hưng Bá, vừa mới quy thuận năm ngoái. Hắn vốn là kẻ phản chủ, đã không biết phép tắc, quy củ lại còn hay xen vào chuyện của người khác, nên ai cũng ghét. Nhưng Tôn Quyền vẫn dung túng hết lần này tới lần khác, thản nhiên nói:
— Hưng Bá, tiểu tử ngươi muốn nói điều gì?
— Mạt tướng không phải bất bình cho tướng sĩ chết trận. - Cam Ninh khoanh tay, hờ hững nói, - Chỉ là Lưu Biểu trấn giữ Tương Dương thực sự không có bản lĩnh, còn hai nhi tử của lão cũng là đồ vô dụng. Nay Tào Tháo đã thống nhất phương bắc, chưa biết chừng sẽ đem quân đánh xuống phía nam. Mạt tướng thiết nghĩ, chúng ta nên lấy Giang Hạ làm cứ điểm, thuận theo dòng sông mà đánh chiếm toàn bộ Kinh Châu, bằng không sẽ để cho Tào tặc cướp trước. Một khi quân ta lấy được Kinh Châu, có thể trấn giữ những cửa ải quan trọng của Sở quốc ở mé tây, tiếp đến mưu đoạt đất Ba Thục, từ đó có thể kháng lại Tào tặc! Cơ hội tốt như thế mà ngài lại muốn thu binh, không phải quá đáng tiếc ư?
Cam Ninh ăn nói tùy tiện, nhưng lại khiến Tôn Quyền phải kinh ngạc, bất giác liếc mắt với Lỗ Túc ở bên cạnh - lời này của Cam Ninh vô tình trùng với sách lược mà Lỗ Túc từng nói tới trước đây. Nhưng Tôn Quyền mới chỉ bàn định việc lấy Kinh Châu, mưu tính Ba Thục với Đại đô đốc Chu Du chứ chưa hề công bố ra ngoài. Không ngờ Cam Ninh có vẻ buông thả, thế mà lại thực sự am hiểu mưu lược, rất có tầm nhìn, tựa như kỳ nhân giữa thời loạn. Hắn trước kia là Quận thừa Thục quận dưới trướng Ích Châu Lưu Chương, do bất mãn với Lưu Chương nên lặng lẽ từ quan, dẫn tám trăm dũng sĩ đi nương nhờ Lưu Biểu. Lưu Biểu xuất thân là danh sĩ thanh lưu, nhìn bộ dạng lười biếng của hắn thấy không vừa mắt, lại đẩy tới chỗ của Hoàng Tổ. Hoàng Tổ già nua thiếu đức, cũng không biết dùng tài của Cam Ninh, cuối cùng hắn mượn sức của bộ tướng Giang Hạ là Tô Phi trốn khỏi Kinh Châu, sau đó đầu quân cho Tôn Quyền. Ngẫm kỹ thì Cam Ninh coi như đã theo dòng Trường Giang tới Giang Đông, nên hẳn phải nằm lòng địa hình núi sông, những cửa ải hiểm yếu và cả binh lực canh giữ suốt dọc đường đi.
Tôn Quyền biết hắn nói đúng nhưng chỉ gật gật đầu, lấy lại vẻ lạnh nhạt:
— Các ngươi nói đều có lý, nhưng có muốn nghe lý lẽ của ta không đây?
— Xin chúa công chỉ dạy.
Chúng tướng nhất tề chắp tay.
— Rút quân là quyết định chung của ta và Chu Đô đốc. - Tôn Quyền chỉ roi ngựa về phía chiến thuyền trên sông; tuy là chủ của Giang Đông, nhưng Tôn Quyền giao tình như huynh đệ với Chu Du. Còn Chu Du chỉ nhận chức Trung lĩnh quân, song uy vọng của ông ta ở trong quân lấn át cả Tôn Quyền. Muốn áp chế đám kiêu binh này, cách tốt nhất là mượn uy của Chu Du, - Ta biết chúng ta không dễ gì mới đánh hạ được Giang Hạ, cũng biết đoạt Kinh Châu là kế sách hay, nhưng hiện giờ chưa thể làm vậy được. Tây Lăng ở Giang Bắc, trong khi địa bàn của quân ta lại nằm ở Giang Nam, quân cô thế cô đóng tại Giang Bắc vô cùng nguy hiểm.
Tôn Quyền còn chưa nói xong, Tưởng Khâm đã la lên:
— Mạt tướng không sợ chết! Mạt tướng nguyện dẫn...
— Câm miệng! - Tôn Quyền thấy ông ta vẫn dám cắt ngang lời mình, giận dữ quát, - Ngươi thì biết cái gì? Ngươi có biết muốn cầm cự ở một tòa thành trơ trọi phải cần đến bao nhiêu quân nhu, lương thảo khỏng? Ngươi có biết phải cần đến bao nhiêu binh mã không? Dân Sơn Việt trong cõi mà tạo phản thì làm thế nào? Lưu Biểu dốc toàn bộ binh lực đến đoạt lại Giang Hạ thì biết tính sao? Quân Thanh Châu như bọn Tang Bá mà từ hạ du đánh lên sông Trường Giang thì lại làm thế nào nữa? Các ngươi đã thử nghĩ qua những điều này chưa? Đúng là không biết thẹn!
Vị chủ nhân trẻ tuổi của Giang Đông đang nổi cơn đại nộ với con người hào hoa phong nhã trước đây dường như là hai người khác nhau. Tưởng Khâm ban nãy còn nói những đạo lý to tát, lúc này bị gặng hỏi lại chẳng biết đường nào trả lời:
— Mạt tướng suy nghĩ không chu toàn... Xin chúa công bớt giận...
— Đứng lên đi!
— Dạ.
Tưởng Khâm không dám cãi lại nữa.
— Các ngươi hãy nghe cho thật kỹ đây. - Tôn Quyền lập tức hạ giọng, - Mấy năm trước, ta đã lệnh cho Lục Tốn thử làm đồn điền, gần đây lại phái Hoàng Cái, Chu Trị, Hạ Tề tới Đan Dương đánh dẹp Y, Hấp(*), các ngươi không thử nghĩ xem là vì sao? Việc đánh Giang Hạ tất nhiên quan trọng, nhưng củng cố hậu phương, trấn áp người Sơn Việt mới là điều quan trọng hơn. Đánh trận là quân bị, chỉ khi khiến cho bọn người bản địa đó chịu hàng phục, bách tính mới có thể yên ổn cày cấy để cung cấp lương thực cho chúng ta xung trận. Hiện chúng ta còn thiếu thực lực, hấp tấp chỉ làm hỏng việc lớn, một khi chiến sự rơi vào thế giằng co, tất sẽ tiến thoái lưỡng nan. Tôn Tử có câu: “Nếu như chiến sự kéo dài lâu ngày mà binh sĩ mỏi mệt, nhuệ khí kém đi, quân lực hao tận, tài lực giảm sút, chư hầu sẽ thừa cơ phát động tấn công. Đến lúc đó, dù có người cao minh hiến kế cũng chẳng thể vãn hồi được cục diện.” Việc cấp thiết lúc này là phải tích lũy thật nhiều lương thực và binh lực. - Tôn Quyền chỉ số quân nhu và tù binh phía sau, - Sở dĩ ta mang bách tính, của cải của Giang Hạ về Giang Nam là nhằm làm tăng thêm nhân khẩu, kho phủ. Trước tiên chọn những kẻ nhanh nhẹn sung quân, còn đâu cho đi cày ruộng, góp ít thành nhiều mới có thể chống lại Tào tặc. Còn việc mưu đoạt Kinh Châu, chiếm giữ vùng đất hiểm yếu ở Giang Biểu, Tôn mỗ chưa ngày nào dám quên! Chư vị đã hiểu chưa?
Kỳ thực, đây không phải là lần đầu Tôn thị dùng đến sách lược cướp đoạt. Năm xưa, Tôn Sách đánh úp Lư Giang đã từng di dời một lượng lớn dân chúng, còn chọn ra được một đội quân giao cho Trần Vũ cai quản. Nay, Tôn Quyền vẫn tiếp tục dùng cách này. Chúng tướng nghe xong đều bừng tỉnh ngộ.
— Tưởng Khâm nghe lệnh! Ngươi bàn luận lung tung về việc quân, ta xử phạt ngươi có phục không?
— Mạt tướng tâm phục khẩu phục.
Con hổ này giờ ngoan ngoãn như cừu.
— Được! Ta phái ngươi đi Đan Dương thay cho Hoàng lão tướng quân, giúp Hạ Tề bình định Y, Hấp. Nếu lập được công, ta sẽ không trị tội lần này mà còn có thưởng.
Tôn Quyền nói giọng đanh thép, nhưng đã hết giận từ lâu.
— Rõ. - Tưởng Khâm dở khóc dở cười, - Mạt tướng nói gì cũng chẳng bằng đánh trận cho tốt!
— Lã Mông, Cam Ninh!
— Có mạt tướng!
Hai tướng chắp tay bước ra khỏi hàng.
— Trong trận Giang Hạ, chúng tướng ai cũng có công, song ta muốn thưởng lớn cho hai ngươi.
Cam Ninh nghe vậy, vội sửa lại áo giáp, quỳ sụp xuống đất, thu lại dáng vẻ buông thả, trịnh trọng nói:
— Chúa công đại ân, không coi mạt tướng là kẻ thù, còn đối đãi với mạt tướng như các thuộc liêu cũ, mạt tướng không dám nhận thêm thưởng.
Cam Ninh nói thật lòng, hồi hắn còn ở dưới trướng Hoàng Tổ từng bắn chết tiên phong Lăng Tháo bên phía Tôn Quyền. Lăng Tháo chính là cha của Lăng Thống, Tôn Quyền không tính đến hiềm khích trước kia mà chịu thu nhận hắn đã là rất rộng lượng. Lần xuất quân này, Tôn Quyền cẩn thận bố trí Lăng Thống ở đội thủy quân, còn Cam Ninh ở bộ quân, tránh cho hai người họ xảy ra tranh chấp.
Tôn Quyền thấy hắn từ chối, đoán là do còn lo lắng về chuyện ngày trước, bèn lạnh lùng nói:
— Ngươi đi theo ta kiến công lập nghiệp, nếu ta không thể dùng hết tài năng của ngươi, há chẳng cùng một hạng với bọn Hoàng Tổ? Không cần phải từ chối!
— Không phải mạt tướng không dám lĩnh thưởng, mà do có chuyện muốn cầu xin chúa công.
— Nói đi.
— Tướng địch là Tô Phi đang bị bắt có ơn cứu mạng với mạt tướng, nếu không phải khi đó ông ta giúp mạt tướng trốn khỏi Giang Hạ, chắc chắn mạt tướng đã bỏ mạng ở khe rãnh nào đó. Làm sao còn có thể dốc sức dưới trướng chúa công? Nay Tô Phi mắc tội chết, mạt tướng khẩn cầu chúa công giữ toàn mạng cho ông ta.
— Tha cho hắn cũng dễ thôi, nhưng nếu hắn lại trốn về Giang Hạ giúp sức cho Lưu Biểu thì làm thế nào?
Cam Ninh dập đầu nói:
— Tô Phi được miễn tội chết, nhận ơn tái sinh, sau này sẽ cùng mạt tướng phụng sự chúa công, sao dám âm mưu bỏ trốn? Nếu ông ta thực sự chạy mất, mạt tướng nguyện lấy đầu mình đền tội!
— Ha ha ha! - Tôn Quyền bật cười, - Hưng Bá quả là người tín nghĩa, ta sao có thể không thể lượng? Nghe nói Tào Tháo phơi xác huynh đệ Viên thị ngoài thành, có kẻ nhớ tới ân tình cũ mà đi thu xác bọn chúng, lão ta không những không trách tội mà còn thăng quan cho người ta. Lẽ nào ta lại hẹp hòi hơn Tào tặc? - Vừa nói vừa vẫy tay gọi một thân binh, - Mau đi truyền lệnh, lập tức thả Tô Phi, ban chức Tư mã để hắn lập công chuộc tội!
— Tạ ơn chúa công. - Cam Ninh liên tục dập đầu.
— Chớ vội! Người ta đã thả, còn công lao của ngươi vẫn đáng được thưởng. Từ nay những quân sĩ Giang Hạ xin hàng đều do người tiếp quản.
— Mạt tướng nguyện lấy thân mình báo đáp! - Cam Ninh là hàng tướng, không có nhiều quân, lần này có được hơn ngàn binh mã một lúc, có thể coi là sánh ngang hàng với chư tướng.
Tôn Quyền hài lòng gật đầu, lại nói:
— A Mông, ngươi lại đây.
A Mông là cách gọi vui mà các tướng trong doanh đặt cho Lã Mông. Hắn vốn là nhân sĩ Nhữ Nam, phụ thân mất sớm, cô nhi quả phụ sống tạm qua ngày. Do tỷ tỷ của hắn được gả cho tướng quân Đặng Đương dưới trướng Tôn Sách, nên hắn đến Giang Đông nương nhờ tỷ phu. Sau này Đặng Đương đổ bệnh mà chết, Tôn Quyền muốn giải tán đội quân của ông ta, Lã Mông không cam tâm, bèn tập hợp binh sĩ diễn tập trước mặt mọi người. Tôn Quyền thấy hắn cũng biết trị quân, liền cất nhắc làm Biệt bộ tư mã, cai quản bộ hạ cũ của Đặng Đương.
Nay Lã Mông lập được công lớn, Tôn Quyền nhìn khuôn mặt đen sì của hắn lại càng vui, vỗ vai khen ngợi:
— Lần này quân ta thắng trận là nhờ ngươi thâm nhập trận địch, giết được Trần Tựu. Ta tấn phong ngươi làm Hoành dã Trung lang tướng, ban thưởng một ngàn vạn tiền. Trở về hãy hiếu kính mẹ ngươi cho tốt.
— Đa tạ chúa công, - Lã Mông nhếch miệng nói, - Cái mạng này của tiểu nhân chính là của tướng quân, ngài thấy ai chướng mắt xin cứ bảo một câu, tiểu nhân ắt mang đầu kẻ đó đến cho ngài!
Tôn Quyền nghe hắn ăn nói thô lỗ, cười nói:
— Người làm tướng không thể chỉ cậy vào cái dũng của kẻ thất phu được, mà phải biết dùng trí. Ngươi từ nhỏ đã tòng quân, không thông thạo bút mực, phải năng học tập hơn. - Dứt lời lại liếc nhìn Tưởng Khâm, - Cả ngươi nữa! Phải đọc sách nhiều hơn, chớ có hành sự lỗ mãng như vậy.
Tưởng Khâm liên tục vâng dạ, nhưng Lã Mông lại ngây ngô hỏi lại:
— Đọc sách há phải việc dành cho đám võ nhân như tiểu nhân? Huống hồ, việc quân bận rộn nào có thời gian đọc sách chứ.
— Ta đâu bảo các ngươi làm bác sĩ(*) sửa trị kinh sách? - Tôn Quyền nghiêm giọng nói, - Ta chỉ mong các ngươi có thể mở rộng hiểu biết, thông thạo mưu lược. Ngươi nói mình bận việc quân, lẽ nào còn bận hơn cả ta? Ta từ tấm bé đã học Kinh thi, Kinh thư, Tả truyện mà vẫn thấy chưa đủ. Từ khi kế thừa cơ nghiệp của huynh trưởng, chưa có ngày nào được nhàn rỗi nhưng vẫn dành thời gian nghiền ngẫm tam sử(*) và binh thư của các nhà, bởi thấy rất hữu ích cho việc xử lý quân chính. Còn những người như các ngươi, tuy rằng không thông thạo bút mực nhưng cũng có nhận thức không kém, đọc tất sẽ hiểu, cớ sao lại không học thêm?
Tôn Quyền nói một tràng khiến bọn Lã Mông, Tưởng Khâm rối rít gật đầu.
— Ta nói cho các ngươi biết, từ nay trở đi đều phải đọc sách cho ta! Không phải đọc những thứ huyền hoặc khó hiểu như Kinh dịch mà phải đọc Tôn Tử, Lục thao, Tả truyện và tam sử. Khổng Tử nói: “Ta từng cả ngày không ăn, cả đêm không ngủ để suy nghĩ, nhưng vô ích, không bằng chuyên chú việc học vậy.” Năm xưa Quang Vũ Đế thân mang trọng trách của thiên hạ, vẫn đọc sách không biết mệt mỏi. Ta nghe nói, Tào Tháo từ khi cử binh tới nay, thân ở trong quân ngũ nhưng tay cũng không lúc nào rời quyển sách, thậm chí còn chú giải cả binh thư chiến sách của tiền nhân. Thật đáng nể biết bao? Các ngươi nếu không hiểu rõ mưu lược, sau này lấy gì địch lại lão tặc!
Mỗi lần Tôn Quyền nói Tào Tháo là kẻ địch, hai mưu sĩ bên cạnh lại thay đổi thái độ - Lỗ Túc tươi cười gật đầu, còn Tần Tùng lại nhíu mày như thể không vui.
Tôn Quyền răn dạy một hồi, lại đưa tay chỉ khắp chúng tướng:
— Tất cả phấn chấn lên cho ta! Ta muốn các ngươi rộn rã ca hát, theo ta trở về. Dù có gian nguy đến mấy cũng phải cho phụ lão Giang Đông thấy được khí thế oai phong của chúng ta, nghe chưa?
— Tuân mệnh!
Chúng tướng cao giọng đáp lại, ai nấy lên ngựa đi tiếp, nhưng lần này tất thảy đều ngồi thẳng lưng như quần tinh ủng nguyệt vây quanh Tôn Quyền.
Hàn Đương ở phía sau nhìn vị chúa công trẻ tuổi ấy, trong lòng cảm khái vô cùng. Năm xưa Tôn Sách bị ám hại, mọi người đều tưởng rằng ông ta sẽ truyền ngôi cho tam đệ là Tôn Dực cũng dũng mãnh thiện chiến giống mình. Nào ngờ, Tôn Sách cho gọi nhị đệ là Tôn Quyền nho nhã, khoáng đạt tới, còn nói: “Thống lĩnh binh mã Giang Đông, nắm bắt thời cơ giao đấu giữa hai quân, so cao thấp với anh hùng trong thiên hạ, đệ không bằng ta. Nhưng xét về việc cất nhắc người hiền, trọng dụng người tài, để họ tận tâm tận lực bảo vệ Giang Đông thì ta lại không bằng đệ.”
Khi đó Giang Đông phải nhờ Trương Chiêu, Chu Du chủ trì đại cục, chẳng ai thực sự coi trọng tiểu tử này cả. Ngờ đâu chỉ qua vài năm ngắn ngủi, Tôn Quyền từ một đứa nhóc khóc lóc ỉ ôi trước linh vị của huynh trưởng đã trở thành một chủ soái anh võ, uy chấn một phương, kỷ luật nghiêm minh. Trước hết, Tôn Quyền thu lại binh quyền phân tán trong tay các đường huynh như Tôn Hà, Tôn Phụ, Tôn Bí, cất nhắc những tướng trẻ như Lã Mông, Chu Thái, Lăng Thống, đồng thời nâng cao địa vị của Lã Phạm, Chu Trị; tiếp đến thay đổi chủ trương cai trị bạo ngược, hiếu sát của Tôn Sách, giữ lại một lượng lớn nhân sĩ tới lánh nạn như bọn Tôn Hoằng, Bộ Chất. Bên cạnh đó, Tôn Quyền còn mở mang đồn điền, thảo phạt Sơn Việt, giết chết Lý Thuật, tru diệt Hoàng Tổ, khiến cho cơ nghiệp của nhà họ Tôn ngày càng hưng thịnh. Tôn Sách quả là không chọn nhầm người! Đi theo một chủ nhân tài trí như Tôn Quyền, dẫu có phải đương đầu với nguy nan cũng vượt qua được, dù có phải chết trên sa trường cũng quyết không quỳ gối trước Tào tặc! Hàn Đương càng nghĩ càng xúc động, khuôn mặt toát lên vẻ kiên nghị...
Nhưng Tần Tùng đi sóng đôi với Tôn Quyền lại có suy nghĩ khác. Ông ta cũng là lão thần của Tôn thị, có nhiều đóng góp khi tham mưu việc quân cơ. Có điều, ông ta không phải người gốc Giang Đông, mà đến từ quận Quảng Lăng, Từ Châu. Giang Đông cố nhiên là nơi lập nghiệp, song suy cho cùng Giang Bắc mới là quê hương bản quán của ông ta. Tần Tùng đã ngoài năm mươi tuổi, không còn ham tranh đấu như những tướng lĩnh kia nữa, thân là danh sĩ Từ Châu, ông không khi nào thôi nghĩ về cố hương. Kỳ thực từ khi Tôn Sách chết, những nhân sĩ xa quê đã thầm quyết định trở về phương bắc, quy hàng Tào Tháo. Tần Tùng cũng có ý nghĩ này, nhưng đứng trước vị chủ nhân đang mưu tính nghiệp bá, làm sao có thể mở miệng khuyên anh ta từ bỏ tráng chí đây? Ông ưu tư, chẳng thể nào nói toạc ra được...
Tuy vậy, Tôn Quyền thông minh như thế chẳng lẽ lại không đoán ra ý nghĩ của bọn Tần Tùng? Anh ta ngoài mặt nói cười thoải mái, nhưng thực ra trong lòng chứa đầy bất an. Tôn Quyền tuyệt nhiên không thể nêu ra chuyện đầu hàng, bởi một khi đề cập tới, tư tưởng này sẽ nhanh chóng lan rộng như bệnh dịch. Giờ chưa chuẩn bị xong kế hoạch tấn công Kinh Châu, Tôn Quyền chỉ có thể cố ém những lời nói bất lợi để kéo dài thời gian. Anh ta lệnh cho tướng sĩ hát vang khúc khải hoàn, khiến đám võ nhân khí thế hẳn lên, nhưng vẫn không xua được đám mây mù trong lòng mình. Tôn Quyền trầm ngâm hồi lâu, bất giác lại dặn dò Lỗ Túc đi bên cạnh:
— Về tới nơi, lập tức soạn sắc lệnh, điều Tưởng Khâm đi thay Hoàng Cái. Gọi cả Trình lão tướng quân đang trấn giữ Kiến Xương về nữa.
Thái Sử Từ phụ trách trấn thủ Kiến Xương qua đời vào năm ngoái, nên nhiệm vụ này được giao lại cho Trình Phổ, là lão tướng quân có uy vọng lớn nhất.
— Rõ.
Lỗ Túc chỉ thuận miệng đáp, không nói gì thêm. Ông ta là tâm phúc của Tôn Quyền, không cần hỏi nhiêu cũng đoán ra được cách nghĩ của chúa công. Tôn Quyền triệu các lão tướng như Trình Phổ, Hoàng Cái quay về là muốn ổn định cục diện. Tào Tháo chưa đánh xuống phía nam mà nhân tâm đã bắt đầu rối loạn, chỉ là chưa bộc lộ rõ thôi.
Chân tướng đã lộ
Tin Tôn Quyền tru diệt Hoàng Tổ nhanh chóng truyền đến Hứa Đô, nhưng không được chú ý nhiều. Hầu hết mọi người đều cho rằng Tào Tháo chiếm ưu thế rõ ràng, một biến động nhỏ vào lúc này chẳng thể làm ảnh hưởng đến đại cục. Trên thực tế, những ngày này triều đình cũng tất bật, Tào Tháo chưa hồi kinh, song biểu chương chúc mừng từ các nơi đã vào tới trong cung.
Thượng thư đài là nơi tập trung xử lý chính vụ, ngoài những việc can hệ tới Tào Tháo mà Thượng thư đài không thể quản được, tất thảy chính lệnh còn lại đều được phê duyệt từ đây. Mã Đằng ở Lương Châu vào kinh, sứ giả Ích Châu đi lại, thổ phỉ đất Hoài Nam xin hàng, còn có kế bạ, tấu sớ, quân báo... của quan lại địa phương đưa tới. Bao nhiêu công văn chồng chất lên đầu, các quan Thượng thư xem từ ngày này sang ngày khác vẫn không xuể.
Thượng thư tả phó xạ(*) Vinh Hợp, hữu phó xạ Vệ Trăn, Thượng thư tả thừa Cảnh Kỷ, Thượng thư hữu thừa Phan Úc đều bận tối mắt tối mũi. Thế mà Thượng thư lệnh Tuân Úc là nhân vật nòng cốt lúc này lại có biểu hiện rất khác thường, không xử lý điển chương, cũng không thẩm duyệt kế bạ, chỉ cầm một tờ lụa mỏng đọc đi đọc lại mãi:
Quách Phụng Hiếu tuổi chưa đến bốn mươi, theo ta chinh chiến mười một năm, vượt bao nguy hiểm gian lao, cùng chung hoạn nạn. Ông ta còn là người thấu hiểu lý lẽ, không có chuyện gì trên đời mà không thể xử lý, ta vốn định phó thác hậu sự của mình, ngờ đâu lại đột ngột mất đi ông ta, khiến ta vô cùng đau xót. Nay, ta dâng tấu xin ban thực ấp đủ một ngàn hộ cho con trai Gia, nhưng cũng có ý nghĩa gì với người chết đâu, lòng thương nhớ càng thêm sâu đậm. Huống chi, Phụng Hiếu là người hiểu ta, người trong thiên hạ hiểu được nhau đã ít, nên lại vì thế lại càng đau xót, tiếc thương. Làm thế nào đây! Làm thế nào đây!
Đó là bức thư Tào Tháo nhờ Đổng Chiêu mang tới, Tuân Úc đã đọc lại rất nhiều lần. Bên trên toàn những lời khen ngợi Quách Gia, nhưng có mấy câu rất đáng ngẫm, như “Phụng Hiếu là người hiểu ta, người trong thiên hạ hiểu được nhau đã ít, vì thế lại càng đau xót, tiếc thương.” Câu ấy chẳng phải muốn nói ngoại trừ Quách Gia, những người khác đều không hiểu tâm ý của ông ư? Tào Tháo đặc biệt viết thư cho Tuân Úc, hẳn phải có ẩn ý gì chứ?
Tuân Úc thông minh chẳng kém gì Quách Gia, há lại không hiểu được tâm ý của Tào Tháo? Hai người cùng dựng nghiệp với nhau đã gần hai chục năm, không ai hiểu rõ Tào Tháo hơn ông. Đâu phải Tuân Úc không thấu hiểu lòng ông, mà chẳng qua trái tim kia đã thay đổi, đã bị quyền lực và dục vọng giam hãm, không còn giữ được sự trung trinh, một lòng phò tá vương triều nhà Hán. Sự giày vò, đau khổ mà Tuân Úc đang phải chịu đựng còn lớn hơn Tuân Du, bởi lẽ hằng ngày ông ta phải đối diện với Lưu Hiệp - vị thiên tử sáng suốt, nhân hậu nhưng chẳng có chút thực quyền nào cả. Càng ở gần Lưu Hiệp, ông lại càng cảm nhận được sự vô tội của một vị hoàng đế bù nhìn, Lưu Hiệp đâu phải là một tên hôn quân vô đạo!
— Lệnh quân... Lệnh quân...
— Hả? - Tuân Úc định thần lại.
— Lệnh quân đang nghĩ chuyện gì vậy?
— Không có gì.
Tuân Úc cuộn phong thư lại, nhét vào trong tay áo; ngẩng đầu nhìn lên thì thấy người vừa hỏi chuyện mình là Thượng thư tả phó xạ Vinh Hợp. Vinh Hợp là lão thần theo thiên tử về đông, từng nhận chức Chấp kim ngô, tuy đã hơn sáu mươi tuổi nhưng vẫn minh mẫn, làm việc đâu ra đấy. Ông ta giơ một biểu chương bọc gấm lên hỏi:
— Vài ngày nữa, Chinh Nam Tướng quân Mã Đằng, An Nam Tướng quân Đoàn Ổi, nguyên Thứ sử Lương Châu Vi Đoan vào kinh. Nên trao chức gì cho bọn họ, đã quyết định xong chưa?
Ông ta nói câu “đã quyết định xong chưa” là muốn hỏi chỉ thị của Tào Tháo. Tuân Úc trả lời ngay:
— Nhận mệnh cho Mã Đằng làm Vệ úy, Vi Đoan làm Thái bộc, Đoàn Ổi làm Đại hồng lư, ban phủ đệ ở kinh sư.
Phan Úc ngồi một bên nói xen vào:
— Tào công thực sự chịu phong quan ư? Cho mấy gã Quan Trung đó làm quan cửu khanh bậc nhất cả.
Phan Úc giỏi việc bút mực, phụ trách trau chuốt chiếu thư, miệng nói mà tay vẫn không ngừng làm việc.
— Bổ nhiệm ai vào chức vụ gì cũng đều phải bẩm báo với thiên tử, ông nói Tào công chịu phong quan có khác gì gán tội tiếm quyền cho ngài ấy?
Tuân Úc là bậc chính nhân quân tử, dù cho bản thân có nhiều điều bất mãn với Tào Tháo nhưng vẫn biện hộ thay ông để bảo vệ đại cục của triều đình. Phan Úc cười thẹn, không nói gì nữa. Đúng lúc này Cảnh Kỷ cầm một cuộn văn thư, dẫn theo mấy lệnh sử cùng đi vào, tiến thẳng tới trước thư án của Tuân Úc:
— Thứ sử Dương Châu Lưu Phức gửi tới nói, những bộ quân cũ của Viên Thuật xin được quy thuận triều đình, mời ngài xem.
Tuân Úc chỉ nhìn lướt qua:
— Không phải đã nói với ông rồi ư! Tào công đã phân phó, không tính toán chuyện cũ, cho bọn chúng quy thuận, vì sao còn tới hỏi ta?
Cảnh Kỷ lúng túng đáp:
— Hạ quan chỉ muốn ngài xem qua một chút. Ngài xem rồi, hạ quan sẽ thấy yên tâm hơn.
Tuân Úc biết Cảnh Kỷ không muốn làm kẻ đứng mũi chịu sào, cho nên gặp chuyện gì cũng tới xin ý kiến, như vậy ông ta được nhàn thân, song lại báo hại Tuân Úc thêm mệt. Nhìn bóng Cảnh Kỷ lật đật rời đi, cơn giận trong lòng Tuân Úc chợt dồn cả lên. Lúc này lại có một tràng cười trong trẻo vang lên - Vệ Trăn cũng ôm một chồng công văn tới.
Vệ Trăn mới ngoài ba mươi tuổi, được ngồi vào Thượng thư đài là bởi anh ta là con trai của Vệ Tư. Trước đây, Vệ Tư cùng cử binh với Tào Tháo ở Trần Lưu, nhưng không may chết trong trận chiến tại sông Biện Thủy, nên Vệ Trăn được Tào Tháo đặc biệt chiếu cố. Anh ta sớm được xét hiếu liêm, từng nhận chức hoàng môn thị lang, sau đó lại đảm nhiệm chức Thượng thư hữu phó xạ, đương nhiên là “người của Tào doanh” không lẫn đi đâu được.
Có điều Vệ Trăn làm việc thận trọng, là người chính trực, rất được lòng chúng thần, trái ngược hẳn với Cảnh Kỷ. Tào Tháo sắp xếp mấy người bọn họ vào Thượng thư đài kỳ thực cũng có dụng ý sâu xa: Vinh Hợp là lão thần đức cao vọng trọng, giữ ngôi phong nhã, thể hiện một chữ “hiền”; Vệ Trăn là tâm phúc của Tào Tháo, thể hiện chữ “thân”; Cảnh Kỷ thuộc lớp hậu duệ của bậc công thần, thể hiện chữ “quý”; Phan Úc học thức uyên bác, lại tinh thông bút mực, coi như thể hiện chữ “tài”; còn Tuân Úc chủ trì đại cục, quản lý chính vụ, luôn hướng đến chữ “chính”. Hiền tài thân quý, lấy sự chính trực làm giềng mối. Tào Tháo chọn năm người họ có thể giúp Lưu Hiệp xử lý chính vụ, lại có thể kiềm chế lẫn nhau, không ai nắm được đại quyền, để ông tiện bề khống chế mọi việc từ xa.
— Cảnh đại nhân, ngài lại tới tìm Lệnh quân à. - Vệ Trăn mới bước qua ngưỡng cửa đã cất lời chào mọi người, - Vinh lão đại nhân, mấy bữa nay nhiều việc, ngài nhớ phải giữ gìn sức khỏe đấy.
— Để tiểu tử ngươi phải bận tâm lo lắng rồi.
Vinh Hợp ha hả gật đầu.
— Phan hữu thừa, chiếu thư ngài soạn ngày càng hay, cứ như văn chương thi phú vậy! Tôi có ít công văn cần gửi, phiền ngài sửa giúp.
Phan Úc mủm mỉm cười:
— Cứ đặt ở đây cho ta.
Vệ Trăn chào hỏi hết lượt chúng nhân rồi mới tiến lại chỗ Tuân Úc:
— Đây là biểu chương của Khổng Dung, bàn về việc khôi phục nhục hình. Hạ quan thấy ông ấy nói rất có lý, mời Lệnh quân xem thử.
Nhắc tới chuyện “khôi phục nhục hình”, Tuân Úc chợt thấy đau đầu. Chuyện do Trần Quần khởi xướng, đã bàn bạc lâu rồi mà vẫn chưa đi đến thống nhất. Khổng Dung và Hy Lự là một đôi oan gia, còn mượn đề tài này để cãi nhau ầm ĩ mấy bận trên triều đường.
“Nhục hình” chỉ năm loại hình phạt được chép lại trong Thượng thư - Lã hình, nghe nói do Chu Mục Vương lệnh cho Lã Hầu chế định, gồm có kình (thích chữ lên mặt), tỵ (xẻo mũi), nguyệt (chặt chân), cung (nam tử thiến, nữ tử giam cầm), đại tịch (xử tử), vẫn được sử dụng cho đến thời Tần, Hán. Mãi tới đời Hán Văn Đế, có người con gái hiếu nghĩa là Thuần Vu Đề Oanh dâng thư cứu cha, khiến Văn Đế cảm động, từ đó xóa bỏ nhục hình, chỉ giữ lại chém đầu, lưu đày và lao dịch, ngoài ra đặt thêm hình phạt đánh roi. Sau đến đời Quang Vũ Đế trung hưng, chủ trương cai trị thiên hạ bằng nhu đạo nên lại càng nới lỏng hình phạt, rất nhiều tội nhẹ có thể nộp tơ lụa để chuộc tội.
Trần Quần công khai đề xướng việc khôi phục nhục hình, chẳng khác nào thay đổi tư tưởng khoan dung, nhân hậu, dựng lại những hình phạt hà khắc trước kia. Tuy nhiên, ông ta có đầy đủ lý lẽ: thứ nhất, trước đây nhà Hán xóa bỏ nhục hình, đặt thêm biện pháp đánh roi xuất phát từ ý muốn giảm nhẹ hình phạt. Thế nhưng, kết quả lại làm lẫn lộn giữa tội danh nhẹ và hình phạt nặng, nhiều lỗi nhỏ chẳng đáng kể mà động một tý là bị phạt đánh. “Tội danh nhẹ thì dễ phạm vào, còn hình phạt nặng lại hại đến bách tính”. Thứ nữa, từ việc tra cứu sử sách cho thấy, nhục hình phù hợp với đạo lý cai trị của thánh nhân. Hình phạt nặng sẽ khiến những kẻ dám coi thường lễ pháp ít đi, giúp cho phong khí thế đạo tốt lên. Đó cũng là cách “phụ giúp chính sự, giáo hóa dân chúng, trừng trị cái xấu, ngăn chặn kẻ ác”.
Trần Quần có gan dâng tấu thư, hẳn là do Tào Tháo ngầm bày kế, có điều ông ta không hề nhắc tới Tào Tháo mà chỉ nói đó là chủ trương của phụ thân mình là Trần Kỷ lúc còn sống. Trần Kỷ là nhân sĩ đức cao vọng trọng, nhắc tới ông ta tất sẽ khiến những kẻ lắm chuyện trong triều dấy lên tranh luận. Các đại thần đó đều không có quyền hỏi đến chính sự, chỉ có thể xoáy vào chuyện chế độ. Kỳ thực, Trần Kỷ đã chết từ lâu nên không thể biết được liệu ông ta có chủ trương này hay không, ai biết được lời Trần Quần là thật hay giả? Đến Tuân Úc là nhạc phụ cũng còn không đoán ra được con rể mình đang nghĩ gì.
Vệ Trăn cũng không hiểu được chuyện này, nói thẳng:
— Thiên hạ chưa an định, đáng lẽ không nên vội vàng thảo luận chuyện này, nhưng đã nêu ra rồi cũng không thể không bàn được. Tào công rốt cuộc muốn nới nhẹ hay là muốn siết chặt hình phạt hơn đây? Các đại thần mỗi người một lý lẽ, dây dưa lâu vậy mà vẫn không đi tới kết luận, cả triều đình đều chú ý đến cải cách này, cơ hồ quên hết thảy những chuyện khác. Sáng nay hạ quan định đi thăm dò ý của Đổng Chiêu, nhưng ông ta lại đi bái yết Triệu Tư đồ. Nếu Tào công chịu thể hiện thái độ thì trong triều đâu có nhiều dị nghị...
Vệ Trăn biết giữ thận trọng, không phải mọi người không có dị nghị về thái độ của Tào Tháo, chẳng qua bọn họ không dám dị nghị mà thôi. Tuân Úc nhận tấu thư của Khổng Dung:
Người xưa hiền lành, chất phác, không chia thiện ác, quan lại chính trực, hình phạt công bằng, chính sự không có sai sót. Người dân có tội, đều biết tự chịu trách nhiệm. Đời sau suy vi, phong khí hại hoại, chính lệnh làm loạn phong tục, hình phép hại đến bách tính. Vậy nên mới nói, nhà vua đánh mất chính đạo, thì lòng người tan rã. Ấy vậy mà, nay lại muốn dùng hình phạt thời xưa để hủy hoại thân thể của họ, là không hợp với quan niệm tiến lui theo thời thế...
Tuân Úc nhìn chằm chằm bản tấu, song tâm tư lại để tận đâu, chỉ xem qua mấy câu đầu rồi bỏ xuống thư án:
— Ngươi vừa nói gì nhỉ? Đổng Chiêu đi bái yết Triệu Ôn?
— Đúng vậy.
— Hôm trước vừa có người nói với ta đã gặp Đổng Chiêu ở phủ Tư đồ. - Tuân Úc nhíu mày, - Ông ta mới hồi kinh, chỉ mới vào cung một lần, thế mà cứ vài ngày lại chạy tới chỗ Triệu Ôn, rốt cuộc là muốn làm gì?
— Qua lại thăm hỏi có gì to tát đâu? - Vệ Trăn chỉ cảm thấy Tuân Úc lạ lùng.
— Không đúng.
Tuân Úc chợt tỉnh ngộ: chắc chắn có vấn đề gì đó. Tào Tháo bình định xong quân Ô Hoàn đã mấy tháng, theo cách làm việc của ông thì phải mau chóng trở về Hứa Đô bàn việc nam tiến đánh Kinh Châu. Nhưng lần này lại ung dung ở lại Nghiệp Thành, coi việc luyện binh, chẳng giống tác phong thường ngày chút nào! Tào Tháo liên tục đưa tin gì tới? Truy tặng phong ấp cho Quách Gia, cho nhi tử của Trương Tú là Trương Tuyền thế tập tước hiệu, xin phong Điền Trù làm Đình hầu, nới lỏng lệnh cấm rượu, phái Chu Cận đi sứ Hung Nô chuộc Sái Diễm... toàn những chuyện vụn vặt như lông gà, tép tỏi. Chuyện thực sự đáng bàn trong triều lúc này là cải cách nhục hình, nhưng ông ta lại không tỏ rõ thái độ, khiến cho quần liêu tranh cãi loạn hết cả lên, rốt cuộc ông ta muốn làm gì? Năm ngoái vừa mới bàn luận về việc khôi phục chín châu, bãi bỏ các nước chư hầu, thiên hạ có thể yên bình sao? Chỉ mấy tháng mà Tào Tháo gây ra thật lắm chuyện! Mọi con mắt đều đổ dồn vào kiến nghị của Trần Quần, chẳng ai bận tâm xem Tào Tháo đang làm gì, cũng chẳng ai nghi ngờ ý đồ của Đổng Chiêu khi tới phủ Tư đồ. Tuân Úc có dự cảm, triều đình sắp xảy ra một biến động lớn...
Đúng lúc ấy, trong sân vang lên những tiếng vấn an, liền sau đó người trong gác lục tục quỳ xuống. Tuân Úc đang mải suy nghĩ, phải dụi dụi mắt mãi mới nhìn rõ - Tào Tháo thình lình xuất hiện trước cửa đài!
Tuân Úc giật bắn người, hốt hoảng đứng lên:
— Ngài... đã về rồi.
Tào Tháo mỉm cười bước vào:
— Ta vừa về, muốn tới thăm chư vị một chút.
Theo sau ông còn có Hạ Hầu Đôn, Đổng Chiêu.
— Minh công trở về đột ngột vậy, sao không báo trước một tiếng?
Tào Tháo từ từ bước tới trước mặt Tuân Úc:
— Lần nào ta về bệ hạ cũng hạ lệnh cử trăm quan nghênh đón, trong lòng lão phu luôn thấy áy náy. Hà tất phải làm long trọng như vậy? Cứ qua loa một chút cũng tốt, các quan không phải bỏ lỡ công chuyện.
Ông liếc nhìn quan viên đang quỳ:
— Miễn lễ! Vinh lão đại nhân, xin đứng lên.
Vừa nói vừa đưa tay dìu. Vinh Hợp không câu nệ lễ nghi, vịn vào cổ tay Tào Tháo mà đứng dậy:
— Minh công đã diện kiến thánh giá chưa?
Tào Tháo trả lời qua quýt:
— Người ta còn dính bụi bặm nên không thể làm kinh động thánh giá. Hôm khác ta tắm gội, đổi y phục rồi mới triều kiến, tránh làm mất lễ nghi trên triều... Các vị cứ làm việc đi, ta chỉ xem qua thôi, không cần khách sáo.
Có nhân vật lớn dường ấy ngồi quan sát, mọi người còn đâu tâm tư làm việc? Các lệnh sử không biết làm sao, cầm quyển trúc đứng ngây ra, Phan Úc nháy mắt ra hiệu cho bọn họ lui xuống. Vinh Hợp quay lại chỗ thư án, đứng khoanh tay. Vệ Trăn tỏ vẻ rất nghiêm túc, lấy bản tấu trên bàn, cung kính đưa cho Tào Tháo:
— Việc khôi phục nhục hình đã bàn luận nhiều ngày, nhưng chúng thần không thống nhất ý kiến. Xin minh công phê duyệt.
Tuân Úc liếc mắt nhìn Vệ Trăn, thầm nghĩ: người trẻ quả là ít kinh nghiệm. Tào Tháo nào quan tâm tới việc có khôi phục nhục hình hay không, đó chỉ là thuật che mắt, nhằm chuyển hướng chú ý!
Quả nhiên, Tào Tháo không thèm xem:
— Đã có tranh luận thì cứ tạm gác lại chuyện này, để sau hãy nói.
Đoạn chắp tay sau lưng, đi lại trong gác, thờ ơ lật giở biểu chương, công văn. Tuân Úc im lặng một lúc, chủ động hỏi trước:
— Ngài vừa vào kinh đã tới Thượng thư đài, phải chăng là có việc?
— À! - Tào Tháo giả bộ mới sực nhớ ra, - Ta có việc giao phó cho Lệnh quân, có điều... có điều, lão phu khó mở miệng quá!
— Minh công cứ nói chớ ngại.
— Được rồi. - Tào Tháo ra vẻ hạ quyết tâm lớn lắm, rút từ trong ống tay áo ra hai cuộn công văn, khẽ bỏ xuống thư án, - Đây là một sắc lệnh của phủ Tư đồ và một biểu chương, mời Lệnh quân cùng hai vị đại nhân xem. Lão phu muốn đàn hặc Tư đồ Triệu Ôn!
Vinh Hợp và Vệ Trăn kinh ngạc, đồng thanh hỏi:
— Triệu công phạm tội gì?
Tào Tháo nói giọng chính trực:
— Mấy hôm trước, Triệu Ôn viết một sắc lệnh, nhận mệnh con trai ta là Tào Phi làm duyện thuộc trong phủ ông ta. Các vị hẳn là hiểu rõ, Tam công phong quan phải đặt tài năng và hiền đức lên đầu, càng cần phải công chính vô tư. Há có thể tùy tiện nhậm dụng tử đệ của công thần? Phi nhi còn chưa được xét cử hiếu liêm, lại chưa lập được công trạng, có tư cách gì làm duyện thuộc của Tam công? Thử hỏi nhân sĩ trong thiên hạ sẽ nghĩ như thế nào đây? Người biết thì nghĩ ông ta muốn lấy lòng cha con ta, người không biết lại tưởng lão phu vì tình riêng mà bắn tiếng với ông ta! Lệnh quân và hai vị đại nhân thử ngẫm lại xem, cái loạn của nhà Hán đều bắt nguồn từ việc bọn tiểu nhân kết đảng, mưu đồ tư lợi, Triệu Ôn không nhìn vào vết xe đổ ấy, làm ra chuyện này liệu còn xứng với chức Tam công không?
Vệ Trăn bán tín bán nghi, vội cầm sắc lệnh lên xem, đúng là bút tích của Triệu Ôn, người được bổ nhiệm cũng chính là Tào Phi, bất giác ngẩn người ra. Vinh Hợp cũng kịp nhìn qua, lờ mờ cảm thấy có gì đó không đúng, nhưng chứng cứ rành rành như thế, nghi ngờ suông chẳng có ích gì.
Tuân Úc càng xem càng lạnh lòng: thủ đoạn quá bỉ ổi! Đây đâu phải chủ ý của Triệu Ôn, rõ ràng Tào Tháo sai Đổng Chiêu tới ép Triệu Ôn phải nhận mệnh Tào Phi, giờ lại tráo trở, lấy cớ đó bãi truất ông ta. Ông ta sợ tự nhiên bới móc Tư đồ sẽ có điều tiếng nên giở thủ đoạn này, đổ tội làm việc vì tình riêng lên đầu lão ngài, còn mình đứng ra làm kẻ chí công vô tư, thật là độc ác!
Tào Tháo giảng xong đạo lý lớn, lại giả bộ thương xót:
— Lão phu biết Triệu Ôn là lão thần già dặn, còn từng nghênh đón thánh giá về đông, cho nên hai ngày nay ta cũng ăn ngủ không yên. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, càng là quan lớn càng không thể dễ dàng bỏ qua. Việc này không chỉ liên quan đến danh tiếng của cha con ta mà còn làm ảnh hưởng uy tín của triều đình. Kẻ tráng sĩ bị rắn độc cắn cũng phải chặt cả cánh tay! Ta vì bất đắc dĩ mới phải dùng hạ sách.
Vinh Hợp nghe ông cao giọng như thể trời sắp sập tới nơi, đành phải xuôi theo:
— Nếu đã như vậy, thì cứ làm theo ý ngài.
Vệ Trăn răm rắp tuân theo lệnh của Tào Tháo:
— Minh công nói chí phải.
Hai vị Thượng thư phó xạ đã gật đầu đồng thuận, Tào Tháo không cần hỏi ý Tuân Úc nữa, trực tiếp phân phó:
— Việc này mong Lệnh quân sớm xử lý. Mau chóng bãi chức Triệu Ôn, đỡ để người ta chỉ trích.
Tuân Úc bần thần cả người, không đáp lời Tào Tháo mà liếc xéo Đổng Chiêu:
— Công Nhân, ông có công không nhỏ nhỉ.
Đổng Chiêu cười trừ. Thực ra ông ta không có ý lừa gạt Triệu Ôn, càng không cần mượn danh Tào Tháo uy hiếp Triệu Ôn. Trên danh nghĩa, chức Tư đồ còn tôn quý hơn cả Tư không, Triệu Ôn ngồi ở vị trí này luôn cảm thấy bất an, cho nên đã phối hợp với Đổng Chiêu cùng diễn vở kịch.
Tào Tháo thấy Tuân Úc chế giễu Đổng Chiêu, nói câu bênh vực:
— Công Nhân tất nhiên có công không nhỏ. Mở hai con kênh Bình Lỗ, Tuyền Châu, đào Huyền Vũ trì, ta đang định biểu tấu ông ta làm Thiên Thu Đình hầu. - Ông nói nhẹ bẫng như không, có điều Thiên Thu Đình hầu không tầm thường chút nào. Đình Thiên Thu nằm ở phía nam huyện Hạo, thuộc đất Thường Sơn, Ký Châu, là nơi Quang Vũ Đế Lưu Tú xưng đế năm xưa. Lưu Tú lên ngôi cửu ngũ nhờ có đình Thiên Thu, nay Tào Tháo phong Đổng Chiêu làm Thiên Thu Đình hầu, chẳng phải ám chỉ Đổng Chiêu là người sẽ giúp ông bước lên ngai rồng ư?
Đổng Chiêu vội vàng chối từ:
— Thuộc hạ không dám...
— Có gì không dám? - Tào Tháo vuốt vuốt chòm râu, - Lệnh quân là Vạn Tuế Đình hầu, ngươi là Thiên Thu Đình hầu, ghép thành ý thiên hạ hưởng thái bình mãi ngàn vạn năm, không tốt sao? - Dứt lời ông không đợi Tuân Úc nói lại, đã kéo ông ta ra ngoài, - Lệnh quân theo ta, ta giới thiệu với ông mấy duyện thuộc mới.
Tuân Úc lảo đảo theo ông ra bên ngoài gác, trong sân chật kín người, ai nấy đều mặc áo đen, đầu cuốn khăn.
Tào Tháo chỉ vào từng người, nói vanh vách:
— Vị này là Lý Lập, tự Kiến Hiền, người quận Trác, vốn làm Tòng sự ở U Châu... Hàn Tuyên, tự Cảnh Nhiên, người Bột Hải, từng lập công lớn khi dẹp Cao Cán... Lã Cống, tự Hiệu Thông, người Thành Cao, cháu họ của hoạn quan trung nghĩa triều trước là Lã Cương... Lý Phu, tự Tử Hiến, đã giúp ta giải được không ít muộn phiền trong trận chiến Nghiệp Thành... Vị này là Thường Lâm, tự Bá Hòe, do Tịnh Châu Thứ sử Lương Tập tiến cử... Mộc Tịnh, tự Đức Tín, người quận Hà Gian, nổi tiếng liêm khiết yêu dân... Lưu Phóng, tự Tử Khi, có công trong lần bình định Ngư Dương...
Tuân Úc nhìn những gương mặt lạ lẫm, lầm rầm hỏi:
— Còn bọn Trần Kiều, Từ Tuyên, Lưu Đại, Trọng Trường Thống đâu cả rồi?
Tào Tháo cười ha hả:
— Trần Kiều được ta tấn thăng làm Thái thú Nhạc Lăng, Từ Tuyên làm Thái thú quận Tề. Trọng Trường Thống là người có tài trù hoạch, sao có thể làm mãi tham quân? Ta định cho ông ta vào triều nhận chức Nghị lang. Lưu Đại làm Trưởng sử đã lâu, ta điều ông ta làm tướng lĩnh trong quân. Nay ta cho gọi Tiết Đễ, Vương Tư làm tả hữu Trưởng sử, Thôi Diễm nhận chức Tây tào duyện, cùng với Mao Giới lo việc tuyển chọn quan lại. Tất cả mới chỉ là tạm điều động, chưa kịp biểu tấu, sau này phải bổ sung chiếu lệnh.
Tuân Úc giờ đã hiểu, Tào Tháo không chỉ ủ mưu bãi truất Triệu Ôn mà còn tiến hành một cuộc cải tổ lớn, thăng quan điều chuyển toàn bộ những người Tuân Úc quen biết, thay vào đó là một đám người mới. Tiết Đễ và Vương Tư được bổ nhiệm làm tả hữu Trưởng sử đều là những kẻ thủ đoạn, chỉ còn Mao Giới gánh vác trọng trách, không thể thay đổi được thì Tào Tháo lại đưa Thôi Diễm vào phân chia quyền lực với ông ta.
Tào Tháo vẫn thao thao giới thiệu, nhưng lòng Tuân Úc đã nguội lạnh, không hề nghe lọt những cái tên xa lạ ấy, nghẹn giọng nói:
— Ta tưởng minh công vội vã trở về vì muốn nghe kế sách đoạt lấy Kinh Châu của ta. Nào ngờ...
— Kế sách đoạt lấy Kinh Châu! - Lần này đến lượt Tào Tháo giật mình.
— Ngài chưa xem quân báo gần đây sao? Tôn Quyền đã đi trước một bước, phá được Giang Hạ, nếu để hắn lấy được Kinh Châu, chiếm giữ yếu địa vùng Giang Biểu, há chẳng nổi lên một cường địch? - Trong lời nói của Tuân Úc có vài phần oán trách, - Giữa lúc cấp bách thế này, sao minh công không lo nghĩ đến việc làm thế nào đoạt được Kinh Châu trước, mà lại mải viết tấu sớ vì những chuyện vụn vặt?
Tào Tháo cứng họng, cảm thấy thực hổ thẹn: ta chỉ biết ông không muốn ta làm thiên tử, không ngờ ông luôn nhọc lòng lo nghĩ chuyện bình định thiên hạ, bận rộn giải quyết chính sự mà vẫn không quên nghĩ kế sách xuất binh. Ta quả là có phần quá đáng! Nghĩ đến đây, trái tim Tào Tháo lại mềm ra, ông nói giọng ôn hòa:
— Lão phu sơ suất rồi... Lệnh quân có kế gì hay?
— Lưu Biểu bản tính nhu nhược, nay Hoa Hạ đã được bình định, Lưu Biểu ở phương nam biết mình rơi vào nguy khốn. Minh công dẫn quân tinh nhuệ bí mật nam tiến theo con đường nhỏ, phát binh từ Diệp huyện tới thẳng Uyển Thành, bất ngờ đánh úp lúc bọn chúng không phòng bị, trên dưới Kinh Châu ắt sẽ kinh hãi, đại sự có thể thành.
Đúng là kế hay, Giang Hạ bị tổn hại nặng nề, nếu có thể thuận lợi tiến đánh quận Nam Dương, trên dưới Kinh Châu lòng người dao động, chưa biết chừng Lưu Biểu sẽ chủ động quy hàng. Tuân Úc quả là cao minh, lúc Tào Tháo mới cử binh chẳng phải đều nhờ Tuân Úc bày mưu tính kế hay sao? Hí Chí Tài, Nhậm Tuấn, Bào Tín... những người năm xưa cùng ông khởi sự đều đã không còn, chẳng lẽ ông còn muốn làm khó Tuân Úc? Tào Tháo nhận ra mình đã sai, ông thực sự không thể thiếu Tuân Úc được, bất cứ sự điều động nào cũng là uổng công, bởi dù ở trong triều đình, quân ngũ hay mạc phủ, chẳng ai thoát khỏi mối liên quan với Tuân Úc. Chỉ cần Tuân Úc còn sức ảnh hưởng, Tào Tháo và ông ta vẫn phải tiếp tục trông dựa vào nhau.
— Văn Nhược... - Đã từ rất lâu Tào Tháo không gọi Tuân Úc bằng tên tự, - Vất vả cho ông rồi.
Tuân Úc chăm chú nhìn đằng xa, nói rành rọt từng chữ:
— Mưu việc vì nước, nói gì vất vả?
Tào Tháo nghe ra ý khác trong câu nói của Tuân Úc, gượng gạo gật đầu, xoay người chậm rãi rời đi, nhưng ra đến cửa, ông chợt dừng lại bảo:
— Tất nhiên là mưu việc vì nước, nhưng cùng lúc có thể làm chuyện khác.
Dứt lời đi thẳng. Tuân Úc hiểu ý của Tào Tháo là: tất nhiên phải thống nhất thiên hạ, an định bách tính, song ông cũng muốn làm hoàng đế, chẳng ai có thể ngăn được việc này!
Hầu hết những duyện thuộc đang có mặt ở đây là người mới, bọn họ thầm tính toán nhưng lại không hiểu được thâm ý trong lời nói của hai người, nên thấy Tào Tháo một mình bỏ đi, cũng vội vàng thi lễ cáo lui. Đổng Chiêu tới trước mặt Tuân Úc, chắp tay qua loa. Còn Hạ Hầu Đôn đã làm việc nhiều năm với Tuân Úc, muốn khuyên ông ta đôi câu nhưng không biết phải nói làm sao, cũng đành thở dài bỏ đi. Đám người trong sân lục tục đi theo vị chủ nhân đang nắm trọng quyền.
Lúc này chỉ còn hai người nho nhã ở lại, một người bước tới nói:
— Lệnh quân lâu nay vẫn được bình an chứ?
— Đa tạ đã hỏi thăm. - Tuân Úc nhìn người này có vẻ quen quen, nhưng không nhận ra là ai, - Ngài là...
— Bỉ chức là Ôn Khôi, người Thái Nguyên. - Tám năm trước khi mới được Tào Tháo trưng vời, Ôn Khôi vẫn còn trẻ tuổi, mà nay đã có ba chòm râu dài, Tuân Úc làm sao nhận ra được?
— À à à, là ngươi.
Tuân Úc không có tâm tư hàn huyên với Ôn Khôi, chỉ trả lời lấy lệ... Ôn Khôi những năm qua thăng quan rất nhanh, từ Huyện trưởng Lẫm Khâu lên làm Huyện lệnh Quảng Xuyên, về sau lại thay Tất Thầm làm tướng nước Lỗ. Ở vị trí nào ông ta cũng lập được nhiều công tích, đường làm quan rộng bước đường mây:
— Năm đó được Lệnh quân chỉ dạy, vãn sinh cẩn trọng làm quan, chỉ nghe lệnh của Tào công nên mới có được địa vị như ngày nay. Lần này Tào công điều vãn sinh trở về làm chủ bạ, người vãn sinh cảm kích đầu tiên là ngài!
Ôn Khôi nói xong câu ấy, đoạn sửa lại mũ áo, vái dài một vái. Ôn Khôi nói thật lòng nhưng Tuân Úc lại nghe như ông ta đang chế giễu mình: trước kia ai đã căn dặn các quan phải cung kính nghe theo sự sai phái của Tào Tháo? Chính là Tuân Úc ông! Tào Tháo đi được tới bước này cũng là nhờ ông giúp sức kia mà!
Tuân Úc nhăn nhó gật đầu, không buồn nói gì. Ôn Khôi kéo một người trẻ hơn lại gần, nói:
— Vãn sinh xin giới thiệu với ngài, vị này là Khổng Tiện, tự Tử Dư, là cháu đích tôn đời thứ hai mươi tám của Khổng Phu Tử... Mau hành lễ với Lệnh quân đi.
Khổng Tiện vội vã thi lễ:
— Vãn sinh bái kiến Lệnh quân.
Đích tôn nhà họ Khổng chỉ khoảng hai mươi tuổi, dáng người không cao, tướng mạo bình thường nhưng cử chỉ quy củ.
Ôn Khôi tươi cười nói:
— Tào công gửi thư tới nước Lỗ bảo vãn sinh tìm hậu duệ dòng đích của Khổng thị. Vãn sinh mất không ít công sức mới tìm được Tử Dư đấy!
Tuân Úc không quan tâm, nhưng vẫn phải nói vài lời khách khí với hậu duệ của thánh nhân:
— Thất kính, thất kính rồi. Hậu duệ của Khổng thánh ắt phải đứng đầu về lễ nghi.
— Tất nhiên rồi. - Ôn Khôi rất đắc ý, - Vãn sinh tìm được hậu duệ chính đích của Khổng thánh, tuy vai vế thấp hơn Khổng Dung nhưng lại có huyết mạch chính thống hơn hẳn ông ấy! Sau này ở trong triều đã có hai hậu duệ của thánh nhân.
Tuân Úc chợt thấy kinh ngạc: hai hậu duệ của thánh nhân! Khổng Tiện thuộc dòng đích, Khổng Dung thuộc dòng thứ, Tào Tháo bất quá chỉ dùng người họ Khổng làm tấm gương đạo đức, giờ ông lại đưa một người có huyết mạch chính tông hơn Khổng Dung vào triều, không phải là muốn...
— Lệnh quân! Lệnh quân! - Ôn Khôi thấy Tuân Úc hai mắt lờ đờ, cứ đứng ngây ra liền gọi giật.
— Ta hơi mệt, hôm khác chúng ta trò chuyện tiếp...
Tuân Úc thở dài sườn sượt, quay người lảo đảo bước vào cửa gác như đi trên mây. Khổng Tiện cảm thấy khó hiểu:
— Ngài ấy làm sao vậy?
Ôn Khôi ngượng ngùng cười:
— Có lẽ do trong người không khỏe. Bá quan văn võ trong triều có ai không biết Lệnh quân là cánh tay phải của Tào công? Khi Tào công vắng mặt, thảy đều do ngài ấy làm chủ, ngày đêm lao lực khuếch trương chính sự của Tào công, đương nhiên vất vả rồi!
Kỳ thực, không chỉ một mình Ôn Khôi có cách nghĩ này, e là cả thiên hạ đều cho rằng Tuân Úc cùng phe với Tào Tháo. Tào Tháo chủ trì ngoại cục, còn Tuân Úc cai quản nội cục, hai người họ tựa như đôi bàn tay thao túng giang sơn xã tắc. Nhưng dẫu cùng là bàn tay, há lại không có lúc vô tình làm tổn hại lẫn nhau? Hai bàn tay ấy ngày càng tách xa, không thể nào chập lại làm một được nữa.
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 7 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 7 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 7