Nên coi những thất bại trong quá khứ là động cơ để hành động, chứ không phải lấy đó làm lý do để bỏ cuộc.

Charles J. Given

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 38
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:30 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 99
rương Tú và Quách Gia đoản mệnh, Tào Tháo mất liền hai ái tướng
Vô Chung chặn đường
Tào Tháo nghe theo lời Quách Gia, sắp xếp khinh binh gấp rút hành quân nhưng vẫn gặp phải chuyện ngoài ý muốn.
Người ta thường nói đất Yên Triệu bốn mùa rõ rệt, có thể ngắm hoa vào mùa xuân, thưởng trăng vào mùa thu, nghe tiếng côn trùng kêu mùa hè và xem tuyết rơi mùa đông. Nhưng không phải ai cũng thích nghi được với kiểu khí hậu này. Mùa xuân thời tiết đẹp nhưng hay có bão cát, nhuộm vàng cả đất trời. Mùa thu khí trời mát mẻ, song lại sợ những cơn mưa mang theo hơi lạnh, khiến không khí ẩm ướt và lạnh buốt như ở trong hầm băng. Mùa đông, khi không có tuyết thì gió thổi vù vù, lạnh thấu xương tủy, còn một khi tuyết rơi lại phủ kín các ngọn núi, chặn mọi ngả đường. Khó chịu nhất là vào mùa hè, đất Yên Triệu nóng nực khô hạn, trời nóng như đổ lửa, trên mặt đất chằng chịt vết rạn, nhưng hễ đổ mưa là sấm chớp lại kéo đến ầm ầm, mưa xối xả không ngớt, như thể sông thiên hà bị vỡ, khiến nước trên trời trút hết xuống nhân gian.
Vậy mà Tào Tháo lại phải hứng trọn những cơn mưa lớn trong mùa hè năm nay, từ khi rời khỏi huyện Dịch hầu như chưa có ngày nào hửng nắng. Từ đám quan viên, binh lính cho đến cả Tào Tháo đều ướt sũng. Trải qua bao vất vả, quân Tào mới đến được huyện Vô Chung, nhưng lại không thể đi tiếp - bởi vì qua phía đông chính là địa bàn của người Ô Hoàn, quân Tào có thể chạm trán kẻ địch bất cứ lúc nào, hiện giờ binh sĩ ai cũng mệt mỏi nhếch nhác, quân doanh biến thành đầm lầy, nên phải dời vào huyện thành nghỉ ngơi ít ngày, lấy lại tinh thần rồi mới ra ứng chiến được. Vả lại, mưa lớn khiến nước sông dâng cao, còn phải tìm hiểu xem đường sá có bị tắc nghẽn không, việc vận chuyển quân lương bằng đường thủy có phải hoãn lại không. Tào Tháo tạm lấy dinh huyện Vô Chung làm trướng trung quân, phái người đi tìm hiểu tình hình quanh vùng.
— Thuộc hạ liệu việc không được chu toàn, xin chúa công trách phạt! - Hình Ngung phụng lệnh xem xét đường đi vừa quay trở về, quỳ ngay ngắn trước mặt Tào Tháo, - Lũ quét bất ngờ, nước biển tràn bờ, đường ven biển ở phía đông núi Từ Vô lầy lội bùn nhão, e là phải đợi nước rút mới đi qua được.
Tào Tháo cau mặt nhíu mày, buồn bực đi đi lại lại, nhưng không trách ông ta. Có điều, Lâu Khuê đứng cạnh lại trừng mắt nhìn:
— Hình Tử Ngang, trước lúc xuất chinh ông khoác lác thế nào? Ông nói mình nắm rõ từng đường núi đường sông, sao khi tới nơi lại không đi được?
Hình Ngung biết mình đuối lý, chỉ nhẹ nhàng nói:
— Gần chục năm qua, nơi này hiếm khi có mưa, năm nay bỗng nhiên mưa lớn, khiến cho sông ngòi xung quanh tràn bờ, tại hạ làm sao ngờ được? Xin Lâu Tư mã hiểu cho.
Lâu Khuê vẫn không chịu bỏ qua:
— Ông sống ở đây bao nhiêu năm, lại làm người dẫn đường, thế mà có mỗi việc này cũng không lường trước được. Thật đáng xấu hổ! Nếu ta mà là ông đã khiêm nhường một chút, chẳng có bản lĩnh gì ghê gớm thì chớ kéo căng cung...
— Tử Bá! Chớ nói nữa. - Tào Tháo đứng lại vân vê đầu lông mày, lúc này ông cũng chẳng buồn oán giận Hình Ngung, vẫy tay tỏ ý bảo ông ta đứng lên, - Phải đợi bao lâu cho nước rút?
— Nhanh thì mất mười ngày đến nửa tháng, chậm thì... - Hình Ngung nuốt nước bọt, - Nếu vẫn mưa tiếp như thế này, hai ba tháng nữa cũng khó nói.
— Phải đợi hai ba tháng nữa ư? - Tào Tháo bước ra cửa nhìn cơn mưa lớn, thất thần hồi lâu, bỗng quay người lại nói, - Không thể trì hoãn thêm, nếu đợi hai tháng thì khi quân ta tới được Liễu Thành đã vào mùa đông. Ngày mai xuất phát, dù có lội nước cũng phải đến được Liễu Thành!
Hình Ngung rùng mình: lội nước suốt chặng đường dài mấy trăm dặm, thử hỏi tướng sĩ ba quân phải chịu khổ nhường nào? Nhưng cũng tại ông ta tính toán không chu toàn, là người có lỗi trước, nên không dám ngăn cản, chỉ biết im thít. Người ở ẩn vốn giữ mình trong sạch, không chịu khuất phục trước quyền thế, nhưng một khi dấn thân vào con đường sĩ hoạn, tiết tháo trước kia sẽ dần bị bào mòn. Cũng giống như con chim đeo vàng khi đang bay, tuy rằng từ trên người có lấp lánh nhưng lại chẳng thể đập cánh bay cao được.
— Làm vậy được không? - Lâu Khuê cũng thấy việc này không ổn, - Miễn cưỡng tiến quân, binh sĩ mệt mỏi, ngộ nhỡ gặp phải quân địch chẳng nguy hiểm hay sao?
— Lão phu biết là nguy hiểm. Nhưng nước ngập đường đi, quân ta gặp bất lợi thì quân địch cũng thế. Huống hồ quân ta mới bình định Thanh Châu sĩ khí đang hăng, quân tiên phong đi trước đại quân theo sau, người Ô Hoàn chưa chắc dám khinh phạm. Bất luận thế nào cũng phải tới được Liễu Thành trước khi mùa đông đến. Nếu còn kéo dài, giữa đường gặp tuyết lớn, thì việc chinh phạt lại phải lùi lại... - Tào Tháo ngại nói thẳng ra, huynh đệ Viên Thượng chỉ là mối lo bé xíu, điều khiến ông thực sự sợ là để lỡ mất kế hoạch thảo phạt Kinh Châu, tiêu diệt Giang Đông và tiếp đến là nhất thống thiên hạ, lên ngôi chí tôn.
Quân sư Tuân Du nãy giờ chỉ lặng lẽ đứng nghe, ông ta biết Tào Tháo nghi kỵ người nhà họ Tuân nên không muốn nói những lời mất hứng, nhưng thấy Tào Tháo vẫn một mực muốn tiến quân thì không nhịn được nữa:
— Chúa công đích thân viễn chinh vốn đã không nên, nay tuyệt đối không thể đi vào chỗ nguy hiểm. Viên thị bất quá là đám tro tàn, khó có thể bùng cháy, lùi việc dụng binh lại một năm đã sao? Mọi việc đều không thể nóng lòng cầu thành được!
Mọi việc đều không thể nóng lòng cầu thành được. Tào Tháo ngẫm kỹ câu này, đoạn quay sang nhìn chằm chằm Tuân Du:
— Quân sư nói “nóng lòng cầu thành” là chỉ việc thảo phạt Ô Hoàn, hay còn có ý gì khác?
Bầu không khí trên khách đường lập tức đặc quánh lại, ai cũng hiểu Tào Tháo ám chỉ điều gì. Tuân Du chỉ thuận miệng nói vậy, không hề có ý chế giễu ông vội vã muốn cướp thiên hạ của nhà Hán, chẳng ngờ lại dẫn tới sự nghi kỵ lớn như thế, hốt hoảng giải thích:
— Tại hạ chỉ nói về việc dụng binh, không có ý khác.
— Hừ! - Tào Tháo nào chịu nghe ông ta giải thích, - Có ý khác cũng không sao, lão phu nói cho ngươi biết, ta nóng lòng cầu thành đấy. Lão phu đã hơn năm mươi tuổi, có những việc không thể không vội! Quyền hành trong thiên hạ đều trong tay ta, việc ta muốn làm ai dám ngăn cản? Quân sư ơi quân sư, ông phải hiểu cho rõ!
Trong lòng Tuân Du đau như dao cứa, thực không biết phải đối lại thế nào, đành cúi đầu nhẫn nhịn. Hình Ngung và Lâu Khuê không ngờ Tào Tháo lại đối xử khắc bạc với người tận tâm tận lực phò tá mình bao năm qua, muốn giúp quân sư giảng hòa, nhưng không biết mở miệng ra sao về chủ đề sâu kín này, sợ nói sai Tào Tháo lại giận lây sang mình, nên đều đứng im. Đúng lúc đó, chợt nghe bên ngoài có tiếng ồn ào, bọn Tiên Vu Phụ, Trương Tú, Diêm Nhu nói cười rôm rả quanh một người mình mặc áo tơi đang bước vào khách đường, chính là Điền Trù.
— Điền tiên sinh! - Tào Tháo ném chuyện của Tuân Du sang một bên, lấy lại tinh thần.
— Thảo dân bái kiến minh công. - Điền Trù tháo nón lá, cúi người thi lễ, nhưng vẫn xưng là thảo dân, tỏ ý xa cách.
Tào Tháo không vui, cười nhăn nhó:
— Tiên sinh thật đúng lúc. Lần trước tiên sinh từ quan hẳn là vì không muốn làm thuộc hạ của lão phu, nay ta dâng tấu lên triều đình tiến cử ông làm hiếu liêm, giữ chức Huyện lệnh huyện Điều. Chức Huyện lệnh này do triều đình sắc phong, thiên tử nhận mệnh, ông vừa lòng rồi chứ?
— Đa tạ hậu ý của minh công, nhưng thảo dân tính khí buông thả, kiến thức nông cạn, không dám khinh mạn triều đình, xin minh công lượng thứ. - Câu nói khách sáo của Điền Trù cũng toát lên vẻ lạnh nhạt, - Thảo dân quay lại không phải vì còn lưu luyến đường sĩ hoạn, mà chỉ muốn dẫn đường cho ngài.
Những ngày vừa qua, hành quân gian khổ khiến Tào Tháo rất bực bội, hôm qua Quách Gia bệnh nặng, nằm liệt trên giường, ban nãy ông lại còn to tiếng với Tuân Du, bao chuyện phiền muộn dồn cả lại. Lúc này thấy Điền Trù vẫn cố chấp không chịu nghe theo sự sắp đặt của mình, cơn giận trong lòng ông vọt lên đến tận họng, chỉ chực thốt ra từ “giết”, nhưng nghe Điền Trù nói nguyện ý dẫn đường, ông lại vội nuốt giận:
— Sao? Tiên sinh có cách ứng phó những con đường bị ngập nước đó ư?
Điền Trù lắc đầu:
— Theo đường đó tới Liễu Thành, phải đi về phía tây núi Từ Vô, qua các huyện Lệnh Chi, Phì Như, đều là vùng chiêm trũng. Khi lũ dâng, chớ nói là xe ngựa không đi qua được, mà những chỗ nước sâu cũng không thể chèo thuyền. Nếu minh công vẫn muốn đi theo đường đó, e là còn khó hơn lên trời...
Hình Ngung sực tỉnh:
— Lẽ nào huynh trưởng còn biết đường khác?
— Đúng vậy. - Điền Trù thong dong nói, - Vào triều trước, trị sở quận Bắc Bình không đặt ở huyện Vô Chung, mà ở thành Bình Cương. Theo người già kể lại, ở đó có một sơn đạo dẫn thẳng tới Liễu Thành.
— Thành Bình Cương? - Tào Tháo tỏ ra vô cùng kinh ngạc, - Chính là nơi nhà Hán từng giao chiến với quân Hung Nô? Ta chỉ nghe nói đến địa danh này trong sử sách, các quận huyện nằm trong địa phận quản hạt của U Châu hiện nay đều không có nơi nào như thế, rốt cuộc Bình Cương nằm ở đâu? Chẳng lẽ ở quan ngoại?
— Không sai. - Điền Trù chỉ tay về hướng đông bắc, - Ra khỏi cửa sau núi Từ Vô, đi theo hướng đông bắc tới ải Lô Long, thuộc Trường Thành, sau đó đi tiếp khoảng hai trăm dặm là tới thành Bình Cương. Qua Bình Cương, vượt núi Bạch Lang là đến được Liễu Thành, gần hơn đi dọc theo đường biển.
Hình Ngung liên tục giậm chân:
— Đệ sống ở núi Từ Vô bao năm mà không biết con đường này.
— Việc này cũng không thể trách đệ được. Thành Bình Cương bị bỏ hoang từ thời Vương Mãng tới nay đã hơn hai trăm năm. Trước kia, ta cũng tưởng rằng con đường này bị chặn mất từ lâu, nhưng hai năm trước có mấy vị người Tiên Ti đi ra từ sau núi chúng ta, nên ta mới biết cổ đạo vẫn thông suốt, chẳng qua đường đi gồ ghề, lại bị cỏ lấp thôi. - Điền Trù vừa nói vừa chắp tay với Tào Tháo, - Nếu minh công muốn tiến quân theo đường này, thảo dân nguyện dẫn đường cho ngài.
Ông ta nói rất dễ nghe, nhưng mọi người lũ lượt lắc đầu: ra khỏi ải Lô Long không còn là địa phận của nhà Hán, liệu có gặp nguy hiểm gì không? Nếu đụng phải bộ lạc Tiên Ti du mục, há chẳng không trừ được sói còn mời hổ đến sao? Huống chi, con đường này đã bị bỏ hoang hơn hai trăm năm, ngộ nhỡ bị tắc nghẽn giữa đường, lại phải băng đèo vượt núi đến Liễu Thành, thì chỉ cần một chút sai sót binh mã sẽ bị lạc giữa núi rừng trùng điệp. Đến lúc đó, tiến lui đều khó.
Điền Trù đoán ra chúng nhân lo nghĩ điều gì, lại giải thích tiếp:
— Cổ đạo mặc dù hoang vắng nhưng gần hơn trăm dặm so với đường ven biển. Các bộ lạc Tiên Ti đang bị cuốn vào cuộc tranh đấu nội loạn, thảo dân nghĩ bọn họ chẳng hơi đâu quấy nhiễu chúng ta. Hơn nữa, đại quân của minh công đến được đây, chắc chắn người Ô Hoàn đã nhận được tin. Đạp Đốn tất bố trí binh mã ở đất Lệnh Chi, Phì Như để đề phòng quân ta, cho nên đợi khi nước rút quân ta cũng chưa chắc đánh thắng được. So với việc liều đánh, chi bằng chúng ta đưa tin ra ngoài, nói rằng nước lũ đã chặn mất đường đi rồi giả vờ lui binh, nhằm lung lạc quân địch, người Ô Hoàn tưởng thật không phòng bị nữa. Trong khi đó, chúng ta âm thầm điều binh ra biên ải, đánh úp quân địch, có thể dễ dàng bắt được Đạp Đốn.
— Đúng là diệu kế! - Tim Tào Tháo đập mạnh.
Điền Trù đảo mắt nhìn hết lượt chúng nhân, thấy phần lớn tướng lĩnh vẫn nhăn mặt nhíu mày, liền chắp tay vái một vòng:
— Thảo dân chỉ biết dẫn đường, còn việc quân vẫn phải xin chư vị tự định đoạt. Quân vụ bí mật, một thường dân như tại hạ không tiện xen vào, thảo dân xin lánh sang phòng bên đợi lệnh sai phái. - Ông ta vẫn coi mình là người ngoài Tào doanh, dứt lời định bỏ đi.
Hình Ngung níu tay ông ta:
— Tiểu đệ đương không có kế gì khả thi, xin đa tạ huynh trưởng đã giúp giải vây.
Không ngờ Điền Trù khẽ hất tay Hình Ngung ra:
— Ta không đến vì công danh lợi lộc, cũng không đến vì tình nghĩa trước đây giữa hai ta, mà chỉ vì muốn sớm nhìn thấy ngày quân triều đình đánh bại Đạp Đốn, cứu hàng chục vạn đồng bào khỏi cảnh lầm than. - Nói xong bèn hiên ngang bỏ đi.
Điền Trù đi khỏi, chúng nhân lại bắt đầu ồn ào. Lâu Khuê tranh nói trước:
— Kế này có vẻ rất hay nhưng chứa nhiều hung hiểm, chúa công thân chinh ngoại phiên đã là dấn thân vào nguy hiểm, không thể mạo hiểm thêm nữa!
Khiên Chiêu cũng nói:
— Bỉ chức là người U Châu, nhưng cũng chỉ nghe được những lời truyền miệng về thành Bình Cương, dẫu cho con đường còn thông suốt thì cũng đã bị bụi gai chắn hết lối đi. Huống hồ, núi Bạch Lang là hiểm địa, xin chúa công nghĩ kỹ.
Tới cả Hứa Chử cũng lên tiếng:
— Lời nói của tên họ Điền đó có đáng tin không? Hắn ta đã chối làm quan, liệu có cấu kết với quân địch không?
Mỗi người nói một câu, không ai nguyện theo kế của Điền Trù, còn Tuân Du vừa bị mắng một trận, lúc này không dám nói gì nữa, nhưng cũng lắc đầu quầy quậy.
Mặc dù mọi người ra sức phản đối, Tào Tháo vẫn hứng thú với kế hoạch này. Tất nhiên là có mạo hiểm, nhưng nếu có thể đánh đòn bất ngờ khi quân địch không phòng bị, tiêu diệt huynh đệ Viên Thượng và Đạp Đốn cùng một mẻ, nói không chừng không cần mất tên lính nào cũng chiếm được Liễu Thành! Tuy vậy, ông lại lo lắng, có ai nguyện theo ông mạo hiểm như vậy? Giữa lúc ồn ào, một giọng nói oang oang cất lên:
— Thuộc hạ nghĩ chúa công có thể thử làm theo kế ấy! - Quách Gia lẳng lặng bước vào giữa đám người từ lúc nào.
— Phụng Hiếu, đã khỏe lại chưa? - Tào Tháo rất quan tâm đến Quách Gia.
— Thuộc hạ hèn kém, trong người khó chịu đã nhiều ngày, nay dính chút nước mưa lại khỏe ra. - Quách Gia vỗ ngực cười khà khà, - Chúng ta nói vào việc chính thôi. Những lời Điền tiên sinh vừa nói, thuộc hạ đều nghe cả rồi, thuộc hạ thấy kế này khả thi.
— Khả thi chỗ nào? - Mọi người nhao nhao hỏi.
— Tam lược có câu: “Năng phù thiên hạ chi nguy giả, tắc cứ thiên hạ chi an. Năng trừ thiên hạ chi ưu giả, tắc hưởng thiên hạ chi lạc. Năng cứu thiên hạ chi họa giả, tắc hoạch thiên hạ chi phúc.”(*) Người Ô Hoàn tàn phá Bắc Châu không chỉ mới một ngày, chúa công diệt trừ bọn họ không những dẹp mối lo cho phương bắc, quan trọng hơn còn tạo phúc cho con dân đại Hán. Nay có diệu kế giúp chúa công lập nên công lao bất hủ, há lại không thử làm theo? - Quách Gia tránh nói đến những nguy hiểm có thể gặp phải ở quan ngoại, chỉ nhắc lại mục đích đánh Ô Hoàn là để tạo phúc cho dân. Nhưng kỳ thực những lời có vẻ tầm thường ấy lại ngầm nhắc nhở Tào Tháo nên nắm lấy cơ hội tích góp công đức cho ngày khiến “thiên hạ yên ổn” sau này.
Vậy là nút thắt đã được tháo gỡ, hai đầu lông mày của Tào Tháo dãn ra. Ông trải trăm trận đánh, lẽ nào không biết chuyến đi lần này vô cùng nguy hiểm, mọi người nói đi nói lại chẳng phải đều vì điều đó sao? Nhưng Tào Tháo đâu cần người khác phân tích cặn kẽ về cái lợi, cái hại, thứ ông cần lúc này là một tiếng nói đồng thuận, giúp mình ổn định nhân tâm. Dù sao chuyện viễn chinh Ô Hoàn ngay từ đầu đã vấp phải nhiều tranh cãi, chuyến đi liều lĩnh sắp tới càng cần có người đứng lên hô hào. Chung quy, vẫn chỉ có Quách Gia luôn biết Tào Tháo cần gì.
Lâu Khuê vẫn chưa hiểu ý:
— Nhưng ở quan ngoại có bất trắc...
Quách Gia không cho ông ta nói hết câu:
— Quan ngoại mặc dù có nguy hiểm, nhưng cũng không ngăn được binh mã uy vũ của ta! Tại hạ tin rằng Điền Trù một lòng trung thành, càng tin vào tài dụng binh của chúa công. Đường sá đang bị ngập úng không đi qua được, đợi đường khô cũng chẳng giải quyết được gì, cứ thử một phen. Nếu thực sự không đi được thì lui về cũng chưa muộn.
Nói vậy chứ trung quân làm sao có thể xoành xoạch đổi hướng tiến quân, một khi đã đi vào cổ đạo thì không dễ quay ra. Ai cũng biết Quách Gia chỉ nói mấy lời an ủi.
— Đúng vậy! - Tào Tháo tiếp lời, - Các ngươi còn nhớ trận Quan Độ chứ? Cứ thử làm thì luôn có một tia hy vọng, còn không thử làm vĩnh viễn chẳng có phần thắng! Ý ta đã quyết, không cần nhiều lời, ba ngày sau theo Điền Trù vào núi. Ai nguyện làm tiên phong mở đường cho lão phu?
Chúng tướng nhìn nhau dò xét, tất cả đều im thin thít, mãi một lúc sau mới có một giọng nói trầm thấp cất lên:
— Mạt tướng xin lĩnh ấn tiên phong.
Mọi người đưa mắt lại nhìn. Người xin lệnh là Trương Tú, mấy ngày nay ông ta đổ bệnh chưa khỏi, hốc mắt vẫn còn hõm sâu. Nhưng Tào Tháo không để ý nhiều, tiến lại cầm tay ông ta, giơ lên cao:
— Trương tướng quân mang bệnh xuất chinh, anh hùng biết bao! Còn những kẻ thân thể tráng kiện thì sao?
Chúng tướng ai nấy đều hiếu chiến, bị ông nói khích, không thể do dự được nữa, chắp tay nói:
— Mạt tướng dù có phải nhảy vào nơi nước sôi lửa bỏng cũng quyết không từ!
Các tướng lĩnh đã gật đầu tán thành, đám tham mưu, duyện thuộc còn biết làm sao? Lâu Khuê vuốt vuốt chòm râu:
— Thôi được! Đã tới tận đây rồi thì cứ đi theo ngài vậy. Bằng hữu cũ là ta đây cũng nghĩa khí đấy chứ?
Bọn Khiên Chiêu cũng đành nghe theo.
Lúc này Tào Tháo mới hé môi cười:
— Khiên Chiêu nghe lệnh! Lập tức sai người dựng bảng gỗ bên đường, bên trên viết rằng: “Giờ đang là mùa hè nóng nực, đường sá tắc nghẽn. Quân ta tạm lùi lại tới mùa thu, mùa đông mới tiếp tục tiến binh.” Viết bảng dựng khắp các ngả đường lớn nhỏ, sao cho quân xích hầu của Ô Hoàn nhìn thấy thật rõ.
— Dạ.
Khiên Chiêu nhận mệnh rời đi, còn chưa bước xuống dưới thềm đã trông thấy một quan tướng trung tuổi, tướng mạo anh tuấn tiến vào sảnh đường:
— Thuộc hạ Đồn điền đô úy Đổng Tự tham kiến chúa công!
— Hả? - Tào Tháo thoáng giật mình, - Quân lương tới rồi sao? Cả đoạn đường nước lũ dâng cao, có thuyền nào bị lật không?
Đổng Tự chắp tay thưa:
— Thuyền chở quân lương đều đã đến nơi. Nếu thiếu một chiếc, xin chúa công lấy đầu thuộc hạ!
— Tốt lắm, ta sẽ kiểm lại. - Tào Tháo vui mừng, chợt để ý thấy lưng ông ta thắt đai trắng, - Nhà ngươi có tang sao? Trong lúc cư tang vẫn không quên việc nước, tự mình áp tải lương thảo, đúng là hiếm có!
Đổng Tự ngượng ngùng nói:
— Thực không dám giấu, nội tử nhà thuộc hạ mới mất.
Lời này vừa dứt, tất cả chúng nhân đều cười phá lên: Trên đời chỉ có chuyện để tang cha, để tang mẹ, làm gì có ai để tang vợ bao giờ?
Đổng Tự nói lý:
— Không phải tại hạ làm chuyện vớ vẩn đâu, do người đời không hiểu lý lẽ đó thôi! Đàn bà phải mặc áo gai để tang chồng như chở tang cha mẹ, vậy sao khi vợ chết, nam nhân lại không được phép lưu luyến? Chỉ cần đeo một dải khăn trắng cũng được mà!
Nghe ông ta nói ra đạo lý lớn lao ấy, ai cũng không nhịn được cười.
— Vớ vẩn! - Tào Tháo cũng cảm thấy nực cười, nhưng che miệng giáo huấn, - Làm vậy là trái với cương thường! Thời nay không nói làm gì, nếu là lúc thái bình, lễ giáo nghiêm khắc, dải khăn này có thể hủy cả tiền đồ của ngươi. Mau cởi ra đi!
Đổng Tự cúi xuống tháo đai, miệng vẫn lầm rầm:
— Hiền thê ơi hiền thê, ta đang ở cửa công, thân bất do kỷ, không thể nghĩ nhiều cho nàng được.
Tào Tháo nhìn dáng vẻ kỳ cục của ông ta, bảo:
— Ngươi đúng là si tình... Đại trượng phu lo gì không lấy được vợ? Vì sự si tình của ngươi, lão phu sẽ tìm giúp ngươi một cô vợ tài mạo vẹn toàn.
— Đâu chỉ chuyện cưới vợ, sự sống chết, vinh nhục của tại hạ sau này cũng xin nhờ cả vào chúa công! - Đổng Tự lanh lợi mượn gió bỏ buồm.
— Bớt nói nịnh đi. - Tào Tháo nghiêm mặt, - Cách huyện thành hai mươi dặm về phía đông có ngọn núi Từ Vô, ở đó có một sơn trại, đợi khi trời tối ngươi hãy sai người qua tặng ít lương thực.
— Tặng người trong núi? - Đổng Tự không hiểu ý này.
— Điền tiên sinh ẩn cư tại núi Từ Vô là bằng hữu của ta. Ngươi mang tặng lương thực, nếu có ai hỏi thì nói là phụng lệnh cứu tế thôn dân. Còn những chuyện khác ngươi không cần lo, lúc nào đi lão phu sẽ nói cho ngươi biết.
— Dạ. - Đổng Tự lĩnh mệnh.
Tào Tháo dò xét từng người trên khách đường:
— Các ngươi cũng về nghỉ đi. Tranh thủ mấy ngày này mà nghỉ ngơi dưỡng sức, lấy lại tinh thần cho ta!
Chúng tướng vâng dạ, ai doanh nấy đi ra, chỉ còn Tuân Du và Quách Gia ở lại.
— Công Đạt... - Tào Tháo liếc mắt nhìn Tuân Du, thấy ông ta đầy vẻ lo lắng, ủy khuất, biết vừa nãy mình đã nói quá lời, bèn bảo, - Quân ta liên tục gặp trở ngại, vì vậy trong lòng lão phu buồn bực không vui, ngươi chớ để bụng những lời vừa rồi. Đoạn đường phía trước nhiều gian khổ, đừng đi theo nữa. Hãy ở lại giả thế lui binh, lung lạc quân địch, mặt khác phải kịp thời gửi quân báo cho ta. Mấy ngày nữa, đại quân ở phía sau đến nơi, ngươi còn vất vả nhiều đấy! - Dứt lời, ông cầm chiếc áo tơi đi tìm Điền Trù, bàn bạc cặn kẽ việc tiến quân.
Tuân Du nhìn theo bóng Tào Tháo, thẫn thờ thở dài. Xem ra những ngày tháng yên ổn đã hết, sau này ông không thể thành tâm thành ý với Tào Tháo nữa. Những năm qua đi theo Tào Tháo, Tuân Du đã hiểu rõ tính cách của ông, một khi quyết ý làm việc gì thì ai cũng đừng hòng ngăn cản. Nếu ông ta vẫn cứ giữ đạo trung với vua, sớm muộn cũng bị Tào Tháo coi là cái gai trong mắt. Khi đó, dù có đem hết những ân nghĩa trước kia và công lao hãn mã ra, e là cũng không đỡ nổi lưỡi đao của đồ tể! Nhưng nếu vứt bỏ lời thề trung thành với Hán thất thì lúc nhắm mắt xuôi tay ông còn mặt mũi nào đi gặp liệt tổ liệt tông nhà họ Tuân? Kỳ thực, Tào Tháo có được uy thế như ngày hôm nay cũng nhờ nhiều vào công lao của ông, chính ông bày mưu tính kế cho Tào Tháo thắng hết trận này đến trận khác. Lẽ nào ông chịu muôn ngàn khổ ải chỉ để giúp người ta đào mộ chôn thiên hạ của nhà Hán hay sao! Rốt cuộc nên đi con đường nào đây... Tuân Du phiền muộn, quay sang nhìn Quách Gia, lẩm bẩm nói:
— Phụng Hiếu, xem ra ta phải nhường lại vị trí quân sư cho ông rồi.
— Không đâu, vị trí ấy mãi mãi là của Công Đạt huynh. - Quách Gia lắc đầu, cười nhăn nhó, - Nói thật lòng, trước kia lão đệ cũng từng có ý muốn tranh giành vị trí quân sư của huynh, nhưng giờ đây... Ây dà! Lão đệ muốn khuyên huynh một câu, thiên hạ sớm muộn gì cũng thuộc về Tào gia, huynh và Lệnh quân có giữ gìn tiết tháo cũng vô dụng. Chúa công không phải Chu Vũ Vương, hai vị chẳng thể làm Bá Di, Thúc Tề(*) được... Khụ khụ!... Bình tĩnh mà xét, nếu không có Tào Mạnh Đức, triều đình sớm đã chẳng còn. Cho nên, dù ngài ấy lên làm hoàng đế, cũng có gì trái nghịch? Khụ khụ khụ!... - Ông ta hít mấy hơi thật sâu, nén cơn ho lại, nhủ đi nhủ lại, - “Năng phù thiên hạ chi nguy giả, tắc cứ thiên hạ chi an. Năng trừ thiên hạ chi ưu giả, tắc hưởng thiên hạ chi lạc. Năng cứu thiên hạ chi họa giả, tắc hoạch thiên hạ chi phúc...”
Tuân Du lúc thì gật đầu lúc lại lắc đầu, càng nghĩ càng phiền não, sau cùng chỉ biết thở dài sườn sượt, cầm tập quân báo dày cộp. Bất luận là vì Tào thị hay vì Hán thất, cũng đều không được để lỡ việc quân. Nhưng nếu không thể khôi phục thiên hạ nhà Hán, đánh trận còn có ý nghĩa gì với ông? Thật là tiến thoái lưỡng nan.
Khổ nơi quan ngoại
Tháng bảy năm Kiến An thứ mười hai (năm 207 sau Công Nguyên), dưới sự dẫn đường của Điền Trù và Hình Ngung, Tào Tháo lên núi Từ Vô, qua ải Lô Long, bắt đầu con đường viễn chinh đầy rẫy nguy hiểm. Tướng lĩnh theo quân có Kiên Trung Tướng quân Trương Tú, Đãng Khấu Tướng quân Trương Liêu, Hoành Dã Tướng quân Từ Hoảng, Độ Liêu Tướng quân Tiên Vu Phụ, Thiên Lương quân Trương Cáp, Ô Hoàn hiệu úy Diêm Nhu, cùng với những tướng hiệu thân tín như Hứa Chử, Tào Thuần, Hàn Hạo, Sử Hoán, Quân sư tế tửu Quách Gia, Quân tư mã Lâu Khuê, và Quân mưu duyện Khiên Chiêu là người gốc U Châu làm tham mưu.
Tuy mọi người đã chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi xuất phát, nhưng bước vào hành trình mới biết con đường này gian lao hơn nhiều so với tưởng tượng. Ải Lô Long đặt tại nơi xung yếu giữa sơn cốc, làm chỗ đồn trú, phòng ngự Hung Nô dưới thời tiền Hán. Mặc dù những năm qua xảy ra nội loạn, nơi đây đã bị bỏ hoang nhưng tòa thành trông vẫn rất đồ sộ. Tường thành cao ba trượng, chạy dọc hai bên vách núi cheo leo là cửa ải quan trọng trấn giữ Trường Thành. Phía bắc ải Lô Long có các dãy núi trập trùng nối dài vô tận, khiến người ta nhìn mà kinh hãi. Con đường mà Điền Trù nói là hẻm nhỏ ngoằn ngoèo nằm giữa khe núi, còn bị bụi gai chắn hết lối đi, binh sĩ phải dùng đao phạt bụi rậm nhích từng bước, gặp quãng sông sâu còn phải dựng cầu tạm.
Khi đến huyện Dịch, Tào Tháo đã bỏ đại đội binh mã lại phía sau để đẩy nhanh tốc độ tiến quân, đến khi quyết định đổi hướng đi qua ải Lô Long, ông lại chỉ chọn ra đội quân tinh nhuệ nhất, tính cả quân vận lương thảo và quân nhu mới được hơn ba vạn người. Dù vậy, bọn họ cũng khó có thể vung vẩy chân tay khi đi trên cổ đạo, vì lối đi quá cao và hẹp, chỉ đủ cho một người qua, binh sĩ người trước kéo người sau, cả đội quân trải dài đến năm sáu dặm. Vả lại, đường đi quanh co chứ không thẳng tắp, trước hết quân Tào phải đi theo hướng tây bắc, vòng qua những ngọn núi hiểm trở tới địa phận huyện Bạch Đàn, sau đó mới chuyển hướng đông bắc tới thành Bình Cương.
Điền Trù, Hình Ngung đi trước dẫn đường, đội quân của Trương Tú làm tiên phong, mở đường, bắc cầu. Tiên Vu Phụ, Diêm Nhu và các bộ tướng khác theo sát phía sau; Tào Tháo dẫn tướng hiệu thân tín, đội hổ báo kỵ và mấy vị tham mưu đi giữa. Còn ba đại tướng Trương Liêu, Từ Hoảng, Trương Cáp đi sau cùng, bởi họ là quân chủ lực, phải đảm bảo sức lực để khi lâm trận còn đổi vị trí. Ngoài ra, còn có Đồn điền đô úy Đổng Tự tạm dừng chân ở núi Từ Vô, phân công thuộc hạ và những thôn dân thông thuộc đường đi chuyển từng xe lương thực, quân nhu vào trong quân, mặt khác nhận quân báo của Tuân Du rồi gửi cho Tào Tháo, xích hầu chạy tới chạy lui như con thoi giữa núi rừng. Lần này mọi việc đều được bố trí hết sức cẩn thận, nhưng tiến độ hành quân rất chậm, có khi một ngày cũng không đi được hai mươi dặm đường, chỉ có thể bền bỉ tiến quân.
Đường đi gian lao là một chuyện, thời tiết quái dị còn đáng sợ hơn. Mấy ngày đầu, trời lúc mưa lúc tạnh, quần áo của binh sĩ thấm đẫm nước mưa và mồ hôi dính chặt vào người, khiến cả người ướt át, rất khó chịu. Con đường vốn gập ghềnh khó đi, lại bị mưa xối, bùn đất lầy lội, trơn chuồi chuội. Ít ngày sau bước sang mùa thu, trời không mưa nữa nhưng lại chuyển nắng gay gắt, đất ẩm bốc hơi tạo thành màn sương trắng xóa. Tướng sĩ bữa trước hứng mưa, trên người ai cũng dính một lớp bùn nhão, lúc này lại khô cong, trông rất nhếch nhác, bẩn thỉu. Đến tối, quân Tào không thể đóng trại giữa con đường hẹp, chỉ tìm được bãi đất rộng hơn một chút, dựng tạm mấy cái lều cho các tướng quân chui vào, còn đám binh lính bình thường đều phơi gió nằm sương, tay ôm binh khí, đầu gối lên cành cây khô, còn phải đề phòng trùng độc cắn, người ngợm ngứa ngáy khó chịu, trằn trọc mãi không yên... Cứ đi quanh co hơn mười ngày, một trưa nọ, quân tiên phong đột nhiên dừng lại.
— Sao vậy? Sao binh mã không đi tiếp? - Tào Tháo mấy ngày nay bị muỗi rừng hành hạ, phải bỏ mũ đâu mâu, quấn tạm mảnh vải lên đầu, che kín cả khuôn mặt. Mới vào đầu thu, khí trời nóng nực, ông cởi áo giáp, chỉ mặc mỗi bộ áo dài vải thô, chân xỏ giày cỏ, trông hơi buồn cười.
Quách Gia đi cạnh nhưng không cưỡi ngựa, chống một cây gậy trúc, uể oải nói:
— Có lẽ lại có con sông chặn đường... - Nói xong, ông ta ngửa cổ nhìn bầu trời. Dưới ánh mặt trời nóng như thiêu, thế mà ông lại rét run như thể vừa từ sông băng lên. Mấy ngày nay Quách Gia đã hết ho, nhưng đau tức ngực, chẳng thể thở mạnh được, chân tay rã rượi, cơ hồ xương khớp đều bị khí lạnh đông cứng. Mỗi bước đi đều khó nhọc như có một bàn tay thò ra từ lòng đất tóm lấy chân ông.
Lâu Khuê đã quen bôn ba ngược xuôi, không hề cảm thấy mệt nhọc, còn kéo vạt áo làm quạt, nói đùa rằng:
— Mạnh Đức, lão bằng hữu này coi như đã theo ngài lên thuyền giặc! Ba dặm một ngọn núi, năm dặm một con sông, không biết Điền Trù định dẫn chúng ta tới đâu nữa. Bảo là ở hướng đông bắc mà lại đi về phía tây bắc, còn chẳng tìm được thành Bình Cương, nói gì Liễu Thành.
Chưa dứt lời đã thấy Điền Trù huơ tay chạy lại từ đằng trước, quần áo ông ta bị chạc cây, bụi gai chọc thủng, rách tả tơi. Ông ta vừa chạy vừa hét lên như điên dại:
— Sông Nhu! Chúng ta đã đến sông Nhu!
Chúng nhân nghe thấy câu này phấn chấn hẳn lên - sông Nhu thuộc địa phận huyện Bạch Đàn thời tiền Hán, nay là địa bàn sinh sống của bộ lạc Tiên Ti. Đến đây mới được già nửa đường, nhưng vượt qua sông Nhu có thể rẽ theo hướng đông bắc, sau đó đi thẳng đến Bình Cương mà không gặp trở ngại gì. Tào Tháo chắp tay lên trán cầu khấn:
— Trời xanh không phụ Tháo ta, cuối cùng cũng sắp thoát khỏi sơn lĩnh.
Điền Trù hổn hển chạy tới trước mặt chúng nhân, vui sướng chỉ tay về phía xa:
— Các ngài mau nghe đi! Có thấy tiếng nước chảy không? Ta cũng lần đầu tiên tới chỗ này, suối chảy róc rách hòa với tiếng chim hót! Hay quá... - Ông ta nhắm mắt, dang hai cánh tay, hít đầy lồng ngực không khí nơi núi rừng, nở nụ cười sung sướng, chẳng hợp với thân hình cao lớn, quê mùa của mình chút nào.
Tào Tháo, Lâu Khuê đâu được thanh thoát như ẩn sĩ, hai người ôm vai nhau, cười ha hả. Còn Quách Gia cũng bắt chước dáng vẻ nhắm mắt, lắng nghe của Điền Trù - hình như có tiếng nước chảy thật, róc ra róc rách rất vui tai, nhưng âm thanh đó lại khiến ông cảm thấy lạnh lẽo hơn, khó chịu hơn, như thể con sông không đổ ra biển khơi mà đang xối thẳng khí lạnh vào tâm can ông. Một hồi sau, âm thanh âm càng lúc càng to, phút chốc dòng nước chảy róc rách biến thành ngàn vạn con sông băng ào ạt ập tới! Quách Gia chợt thấy ngực mình đau thắt, cả người lạnh ngắt, choàng mở mắt ngước nhìn lên trời, mong tìm được chút ánh nắng có thể sưởi ấm cho mình, nhưng lại thấy những hai mặt trời, bốn mặt trời, tám mặt trời... vô số mặt trời bay lượn trước mắt. Ông hoa cả mắt, buông thõng cây gậy, ngã lăn ra đường.
— Phụng Hiếu!... Phụng Hiếu!...
Quách Gia từ từ mở mắt ra, thấy Tào Tháo, Lâu Khuê đều vây quanh mình, vẻ mặt lo lắng. Ông cố trấn tĩnh, nặn ra một nụ cười trong lúc lòng rối như tơ vò:
— Không sao... Chắc là tại tìm được đường đi nên ta vui quá ấy mà.
Điền Trù cởi áo ra, định quạt cho ông bớt nóng, nhưng ông ngăn lại:
— Đừng... Ta lạnh...
— Lạnh? - Tào Tháo thử sờ trán ông, - Người ngươi nóng lắm, sao lại thấy lạnh?
— Không sao... Thuộc hạ chỉ không hợp thời tiết thôi. - Quách Gia ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng hiểu rõ: “Đột ngột đổ bệnh tức là ngày chết đang đến gần. E rằng ta không gượng được đến khi tới Liễu Thành.”
Tào Tháo buồn rầu đứng dậy:
— Gần đây nhiều người đổ bệnh, hẳn là do thời tiết kỳ quái này gây ra. Nhắc nhở mọi người chuẩn bị nhiều nước uống, chớ ăn quả dại bừa bãi, không biết chừng có độc. Nước suối quá lạnh cũng không tốt, sẽ hại đến phổi. Các tướng sĩ đều đã vất vả, ở lại đây nghỉ ngơi nửa ngày, sai người làm cầu tạm, ngày mai đi tiếp.
Tào Tháo mới nói được vài câu lại thấy Hình Ngung hốt hoảng chạy lại:
— Chúa công, có đám người Tiên Ti đang đi tới đây từ mé tây.
— Sao cơ? - Tào Tháo chợt lo lắng, tuy lần này ông dẫn quân đánh Ô Hoàn nhưng lại đi qua địa bàn của người Tiên Ti, nếu đụng độ với bọn họ thì phiền phức to, - Mấy người các ngươi chăm sóc Phụng Hiếu. Tử Ngang dẫn đường, lão phu đích thân đi xem.
Đường đi nhỏ hẹp, binh sĩ dìu nhau, nghe tin đã đến được thượng nguồn, ai nấy chen lên trước. Bọn Hàn Hạo, Sử Hoán quát tháo ầm ĩ mới dẹp được một lối nhỏ, Tào Tháo chống gậy rảo bước, càng đi càng thấy rộng, dần dần ra khỏi cửa núi, quả nhiên rộng rãi - cỏ cây lè tè, sỏi đá lởm chởm, là một bãi sông. Sông Nhu chảy từ phía tây tới, giữa rừng còn mấy con đường nhỏ không biết thông với nơi nào. Binh lính vất vả nhiều ngày cuối cùng cũng ra khỏi núi, kẻ nhảy múa reo hò, kẻ chạy ra bờ sông uống nước, rửa mặt, kẻ lại ngồi xuống hát nghêu ngao.
Tào Tháo nhìn theo hướng Hình Ngung chỉ. Ở một gốc cây cổ thụ gần đó, Diêm Nhu, Khiên Chiêu đang nói chuyện với hai người đàn ông Tiên Ti khoác tấm da dê vắt sang vai trái. Tào Tháo lại gần hơn, nhưng bọn họ nói tiếng Tiên Ti nên chẳng hiểu gì. Còn có hai người phụ nữ Tiên Ti trốn sau lưng hai người đàn ông cùng với mấy người già và trẻ nhỏ dắt ngựa, dắt dê đang tỏ ra hoảng sợ khi nhìn thấy binh sĩ người Hán.
Tào Tháo vẫy tay gọi Khiên Chiêu lại:
— Bọn chúng là ai?
Khiên Chiêu thong thả bẩm lại:
— Chúa công không cần lo lắng, bọn họ chỉ là những người dân du mục bình thường, tới từ Mạc Bắc. Tiên Ti xảy ra nội loạn, bộ lạc của họ bị người ta giết hại, nên chạy tới đây lánh nạn.
Năm xưa, Đàn Thạch Hòe dùng vũ lực thống nhất các bộ lạc Tiên Ti, đông tiến đánh bại người Phu Dư, tây tiến tấn công người Ô Tôn, bắc tiến diệt đuổi người Đinh Linh, nam tiến quấy nhiễu biên cương nhà Hán, địa bàn của hắn trải rộng từ đông sang tây hơn một vạn hai ngàn dặm, từ nam chí bắc hơn bảy ngàn dặm, với những sông núi, đầm lầy, vựa muối bao la, còn cắt cử thủ lĩnh bộ lạc nhỏ cai quản các nơi. Nhưng khi Đàn Thạch Hòe vừa chết, những thủ lĩnh đó bắt đầu tự xưng vương, chẳng những giết chết con trai Đàn Thạch Hòe mà còn tàn sát lẫn nhau để tranh ngôi Thiền vu. Kiểu tranh đấu một mất một còn này không khác mấy cuộc chém giết của Tào Tháo, Viên Thiệu, Viên Thuật và Lã Bố ở Trung Nguyên.
Khi biết bọn họ không phải quân Ô Hoàn, Tào Tháo đỡ lo, còn hứng thú bảo:
— Ngươi hỏi bọn chúng xem, hiện nay kẻ nào có thực lực mạnh nhất trong các bộ lạc Tiên Ti.
— Rõ. - Khiên Chiêu lại chạy đi nói chuyện với hai người đó, rồi quay lại bẩm báo, - Thủ lĩnh mạnh nhất có tên Kha Tị Năng. Ban đầu hắn chỉ là một tên đầu mục nhỏ làm tay chân cho kẻ khác, nhưng về sau đột nhiên đứng lên thâu tóm bảy, tám bộ lạc. Trong tay hắn có mấy vạn dũng sĩ, gia súc nhiều vô kể. Các bộ lạc còn lại liên thủ với nhau cùng đối phó hắn, nhưng vẫn ở thế hạ phong.
Tào Tháo nghe xong có phần cảm khái, kinh lịch của Kha Tị Năng sao lại giống ông vậy? Năm đó, ông cũng chỉ là một viên tướng không chính danh trong nghĩa quân chống Đổng Trác, về sau chiếm được Duyện Châu, phụng lệnh thiên tử, từ sau trận Quan Độ thực lực mới mạnh lên, huynh đệ Viên Thượng, Cao Cán và Lưu Biểu hợp sức cũng không đấu lại ông. Nghĩ đến đó, Tào Tháo nở nụ cười:
— Đất nhà Hán ở Trung Nguyên thuộc về Tháo ta, còn vùng quan ngoại là của Kha Tị Năng, một ngày nào đó hai ta sẽ thử đọ sức chăng!
Diêm Nhu tiến lại xin chỉ thị:
— Mấy người Tiên Bi này phải xử lý thế nào?
Tào Tháo nheo mắt nhìn, vừa giơ tay ra hiệu “giết”, thì nghe phía sau có người ngăn cản:
— Minh công hãy khoan!
— Điền tiên sinh, có gì chỉ giáo?
Điền Trù nhìn rõ cử chỉ vừa rồi của Tào Tháo:
— Ông trời có đức hiếu sinh, mấy người Tiên Ti này chỉ là bách tính bình thường, minh công hà tất phải giết họ?
— Không giết bọn chúng, e là sẽ lộ quân tình.
— “Lạc dân chi lạc giả, dân diệc lạc kỳ lạc, Ưu dân chi ưu giả, dân diệc ưu kỳ ưu.”(*) Người Tiên Ti rất trọng tín nghĩa, nếu minh công lấy nhân nghĩa đối đãi với họ, họ liệu có thể bán đứng ngài sao? Huống chi, bọn họ chưa chắc gặp quân Ô Hoàn, cũng chưa chắc tiết lộ quân cơ.
— Dù vậy, chúng ta sắp vượt qua tái ngoại, vẫn nên cẩn thận thì hơn!
Điền Trù chắp tay, vẻ mặt nghiêm nghị:
— Con người phải biết phân định những việc không nên làm, rồi sau mới biết những việc mình phải làm. Minh công sở dĩ vất vả lặn lội đường xa là vì muốn bình định biên cương, vỗ về bách tính, thế mà nay lại giết người một cách bừa bãi, há chẳng đi ngược lại mục đích ban đầu?
Tào Tháo thấy ông ta luôn miệng nói đến nhân nghĩa, không buồn đôi co, chỉ nói qua loa:
— Thôi được, làm theo ý tiên sinh. - Rồi nói nhỏ với Diêm Nhu mấy câu, lững thững bỏ đi.
Thị vệ dẹp binh lính ở bờ sông tản ra. Tào Tháo đưa mắt nhìn phía trước, bên kia sông không có núi non hiểm trở, cây cối thấp bé, địa hình tương đối bằng phẳng, có vẻ sẽ dễ đi hơn nhiều. Xa xa, Trương Tú cũng đang đóng quân bên bờ sông, ông liền tiến lại gần nói:
— Trương tướng quân đi trước mở đường, vất vả công cao, hôm nay chúng ta không đi nữa, xuống ngựa nghỉ ngơi thôi.
Không hiểu sao, Trương Tú không trả lời. Tào Tháo lại gần hơn, hỏi:
— Tướng quân đang nhìn gì vậy?
Vẫn không thấy ông ta đáp lại. Tào Tháo lấy làm lạ, bước hẳn tới chỗ ông ta. Trương Tú mặt xám như tro, chòm râu vàng xơ xác, khóe miệng hơi nhếch lên, hai mắt nhìn về khoảng không vô định phía trước. Do thời tiết nóng nực, đường này lại không có quân địch nên các tướng lĩnh khác đều bỏ áo giáp, chỉ có mình ông ta vẫn đội khôi, mặc giáp nghiêm chỉnh. Lúc này Trương Tú đang cưỡi trên lưng ngựa, tay giữ cây thương bạc, mũi thương cắm thẳng trên đỉnh một tảng đá lớn như đỡ cả người ông; con ngựa Tây Lương được huấn luyện kỹ lưỡng, chở chủ nhân đứng im tại chỗ, chẳng hề nhúc nhích.
Tào Tháo bỗng cảm thấy kinh hãi, vội kiễng chân lên, run rẩy huơ huơ bàn tay trước mặt ông ta - Trương Tú đã tuyệt mệnh từ đời nào!
— Người đâu! - Ông gào xé tâm can, - Trương tướng quân chết rồi!
Ai nấy đều giật mình, bọn Điền Trù, Hình Ngung vội chạy cả lại. Người kinh ngạc nhất là các bộ tướng Tiên Vu Ngân, Tề Châu, sau phút sửng sốt họ phủ phục xuống đất khóc rống lên:
— Tướng quân ơi!... Sao ngài cứ thế mà đi...
— Câm miệng! - Tào Tháo chợt nổi trận lôi đình, - Chủ tướng đã chết mà các ngươi cũng không biết! Còn khóc lóc cái gì! Rốt cuộc xảy ra chuyện gì?
Tiên Vu Ngân là tộc đệ của Tiên Vu Phụ, tạm thời theo Trương Tú nhận lệnh sai phái, lết lên hai bước, khóc không thành tiếng:
— Từ hôm xuất chinh Trương tướng quân đã không khỏe, hơn mười ngày nay ngài ấy bị nôn và tiêu chảy, ăn không ngon ngủ không yên, hằng ngày còn phải chỉ huy binh sĩ mở đường...
— Tại sao không sớm bẩm báo với ta? - Tào Tháo đại nộ, - Bệnh tình nghiêm trọng thì phải lui về tĩnh dưỡng chứ!
— Tướng quân không cho chúng thuộc hạ nói! - Tiên Vu Ngân liên tục dập đầu, - Ngài ấy luôn nói rằng mấy ngày nữa sẽ khỏe thôi, bản tính kiên cường dũng mãnh. Vừa nãy ông ấy còn nói chuyện với mấy chúng thuộc hạ, ai ngờ chỉ lát sau đã...
Tào Tháo nhìn đám tướng tá quần áo rách bươm, nước mắt giàn giụa, trong khi Trương Tú chết trên lưng ngựa mà khôi giáp chỉnh tề, dường đã hiểu ra: hẳn là ông ta đã sớm đoán ra mình sắp chết nên mới không chịu bỏ mũ cởi giáp. Đúng vậy! Một tướng quân chân chính phải chết trong quân! Đối với Trương Tú mà nói, sợ khôi giáp vướng víu, ngã khỏi lưng ngựa đều là sự sỉ nhục. Nghĩ lại, chính vì ông ta là hung thủ hại chết nhi tử của ta, bởi vậy việc gì cũng muốn xông xáo đi đầu, dù chết cũng muốn chết một cách oai phong lẫm liệt! Nếu nói là báo đáp ta, chẳng bằng nói đây là cách ông ta thị uy để nhắc nhở ta rằng: Trương Tú không nợ ta điều gì. Hay cho một bậc đại trượng phu cương nghị! Tiếc là mới bốn mươi tuổi, đành bỏ lỡ tiền đồ xán lạn.
Binh lính cuống quýt đỡ Trương Tú xuống, Tào Tháo vuốt mắt ông ta. Còn cây thương cắm trên đỉnh tảng đá phải cần đến bốn năm người hợp sức mới nhổ ra được!
Tào Tháo nhìn xác Trương Tú hồi lâu không nói gì, bỗng cảm thấy một nỗi bất an dâng trào. Ông đột nhiên lấy ngựa của một kỵ binh, phóng về phía sau, thân binh không kịp phản ứng, lật đật đuổi theo. Tào Tháo lao nhanh trên con đường nhỏ, khiến binh sĩ tránh tả tránh hữu, đến chỗ đội hổ báo kỵ mới gò cương - Quách Gia được khiêng lên xe kéo, đang nằm nói chuyện với Lâu Khuê. Tào Tháo nhảy xuống ngựa, sấn lại hỏi:
— Phụng Hiếu thấy trong người sao rồi?
— Thuộc hạ không sao... - Quách Gia cười nói vui vẻ, nhưng sắc mặt kém hơn khi nãy.
Tào Tháo thở phào:
— Ta chợt thấy sợ, sợ ngươi...
— Sợ thuộc hạ chết? - Quách Gia thở dài, - Chúa công yên tâm, thuộc hạ mới có ba mươi bảy tuổi, há dễ chết thế.
— Còn rất nhiều việc lớn đang đợi ngươi, lão phu không thể mất ngươi được!
— Nghe được câu này của chúa công... Thuộc hạ dù chết mười lần cũng cam tâm...
— Chớ nói vậy. - Tào Tháo vuốt vuốt chòm râu rối bù cho ông ta, - Ngươi không biết thôi, Trương Tú vừa chết rồi.
— Sao? - Quách Gia giật mình sửng sốt. Không ngờ Trương Tú lại đi trước ông!
Tào Tháo ngậm ngùi nói:
— Phụng Hiếu xưa nay lắm mưu giỏi đoán, nhưng có chuyện lại tính sai. Đáng lẽ ngươi không nên khuyên ta cho Hoa Đà về quê, nếu ông ta còn ở trong quân Trương Tú há lại mất mạng? Ngươi há lại bệnh như thế này?
— Việc mình không muốn thì cũng đừng ép người khác. Thê tử ông ta mắc bệnh cần được chữa trị, chúa công đâu cần ép uổng. - Quách Gia nói dối, thực ra từ một năm rưỡi trước, Hoa Đà đã chẩn đoán ông mắc chứng bệnh vô phương cứu chữa, cho nên ông mới cố ý chọn thời điểm quan trọng này mà cho Hoa Đà về lánh nạn. Nếu ông ta ở đây mà không chữa được bệnh của Quách Gia thì với tính khí của Tào Tháo, liệu có dễ dàng tha cho ông ta không?
Có lẽ do ngày nào cũng nhìn thấy nhau, nên Tào Tháo chỉ biết gần đây Quách Gia sức khỏe không tốt, chứ không hề nhận ra những thay đổi nhỏ. Lúc này ông mới để ý thấy, một năm qua Quách Gia gầy sọp hẳn đi, cổ tay trắng trẻo của ông ta giờ chỉ bằng que củi.
— Thế này không được, ngươi không thể theo quân đánh trận... - Vừa quay đầu lại thì thấy Điền Trù đuổi kịp đến nơi, - Điền tiên sinh, từ đây quay trở lại huyện Dịch phải đi mấy ngày?
Điền Trù nói:
— Những bụi rậm trên đường đi đã được phạt quang, giờ thúc ngựa đi nhanh chỉ hết hơn chục ngày.
Tào Tháo quả quyết nói:
— Người đâu! Đóng xe đưa Quách tiên sinh về huyện Dịch dưỡng bệnh.
— Không... - Quách Gia muốn đứng dậy cự tuyệt, nhưng chẳng có chút sức lực nào, giờ đây ông mới nhận ra: ta không thể tự đứng dậy được nữa! Hoa Đà từng nói, chứng bệnh ông mắc phải có tên là “sái”(*). Tên bệnh có nghĩa là đau khổ, Kinh Thi nói: “Bang mỹ hữu định, sĩ dân kỳ sái”(*), cả tinh thần và sức lực đều dần hao mòn. Chữ “sái” đồng âm với chữ “trái”(*), cho nên người mắc bệnh sẽ chóng chết giống như khi bị người ta thúc nợ. Vốn dĩ ông cũng muốn chết một cách oai phong trong quân giống Trương Tú, nhưng giờ không thể được. Ông thầm nghĩ: “Thôi vậy! Cứ theo sắp xếp của chúa công đi, chết ở nơi khác cũng tốt, để chúa công bớt đau lòng, còn chuyên tâm đánh trận này.”
Tào Tháo không biết rằng bệnh của Quách Gia vô phương cứu chữa, tin chắc ông ta rồi sẽ khỏe lại, còn dặn dò thân binh:
— Mấy người các ngươi hộ tống Quách tiên sinh về huyện Dịch tĩnh dưỡng, trên đường cứ đi từ từ, chớ để xóc quá. Tìm mấy người nữa đưa di thể của Trương tướng quân về, quê hương ông ta ở Lương Châu quá xa, hãy an táng tại Nghiệp Thành. Ngoài ra, các ngươi nói với quân sư, mau chóng triệu Hoa Đà quay lại chẩn bệnh cho Quách tiên sinh, không được chậm trễ.
Quách Gia muốn ngẩng đầu lên nói “Không phải phiền đến Hoa tiên sinh”, nhưng cả người ông run lẩy bẩy, suýt nữa ngã lăn từ trên xe xuống. May có Lâu Khuê và Điền Trù nhanh tay đỡ lấy. Quách Gia tự biết mình chẳng còn sống được mấy ngày nữa, e là không đợi được tới lúc Hoa Đà đến, nên cũng không nói những lời vô ích kia, nhịn đau nói:
— Thuộc hạ còn có quân vụ bí mật... cần bẩm báo với chúa công...
Lâu Khuê vội kéo Tào Tháo lại gần Quách Gia, rồi cùng Điền Trù biết ý lùi lại mấy bước, chỉ thấy Tào Tháo cúi người lắng tai, Quách Gia thều thào hai ba câu, trong đó chỉ nghe được mấy từ “Liêu Đông Công Tôn Khang”, còn lại chẳng nghe được gì. Sau cùng, Tào Tháo cười bảo:
— Được, thảy đều nghe theo ngươi. Cứ yên tâm rời đi, đợi lão phu thắng trận trở về, chúng ta bàn kỹ việc nam chinh. Nếu không ngoài dự tính của ta, phương bắc tất tiến quân uy hiếp hai bờ nam bắc sông Trường Giang, đến lúc đại quân của ta áp sát bờ cõi, nói không chừng Lưu Biểu và Tôn Quyền không đánh mà hàng. Ngay cả Ích Châu Lưu Chương cũng đã cúi đầu trước lão phu! Ngươi hãy an tâm nghỉ ngơi, mau đi đi.
Xe kéo được buộc vào mình ngựa, binh sĩ quất nhẹ một roi, con ngựa liền kéo cỗ xe đi. Quách Gia ngẫm nghĩ mấy lời Tào Tháo nói sau cùng, tự dưng cảm thấy bất an, ông cố ngóc đầu lên, lấy hết sức la lớn:
— Chúa công... chớ quên kiêu binh tất bại... Phải cẩn thận cưỡi cọp khó xuống... Cưỡi cọp... khó xuống... - Câu nói ngắt quãng đó rút cạn sức của Quách Gia, khiến ông mệt lả, nằm vật ra thở hổn hển.
Tào Tháo nghe loáng thoáng, quay lại hỏi Lâu Khuê:
— Ngươi nghe rõ Phụng Hiếu nói gì không? Hình như cưỡi cọp khó xuống gì đó. Sao ông ta lại nói câu ấy nhỉ?
Lâu Khuê giải thích:
— Có lẽ ông ta hối hận vì cố đi theo quân, giờ ngã bệnh lại phải quay về, đương nhiên là cưỡi cọp khó xuống.
Nhưng Hình Ngung lại nói:
— Tại hạ nghĩ là không phải. Ông ấy muốn nói tại hạ không xứng với chức vị làm người dẫn đường. Dẫn mọi người đi vòng đi vèo, muốn quay lại cũng khó! Đó là ý cưỡi cọp khó xuống chăng?
Điền Trù lặng lẽ không nói gì, trong lòng có cách nghĩ riêng: để đánh dẹp quân Ô Hoàn, giải cứu dân đen, ta mới chịu làm người dẫn đường cho Tào Tháo. Nếu trận này quân Tào thua, tất nhiên ta khó thoát tội, còn nếu thắng trận nghĩa là ta lập được công, Tào Tháo chắc chắn sẽ ép ta ra làm quan. Ta vốn không muốn giúp sức cho Tào Mạnh Đức, nhưng lại không nhịn được mà nhảy vào hố nước đục, ấy cũng là đã cưỡi trên lưng cọp khó xuống được vậy.
Tào Tháo nhìn cỗ xe ngựa lăn bánh mà không đoán được ý nghĩa đằng sau bốn chữ “cưỡi cọp khó xuống”, dường có chút dự cảm không lành, nhưng chỉ biết tự an ủi chính mình:
— Mong là bệnh tình của Phụng Hiếu sớm chuyển biến tốt, lão phu không thể thiếu ông ta được!
Điền Trù hơi cảm động trước vẻ quan tâm, lo lắng của Tào Tháo: Tào Mạnh Đức thực biết mến người tài, ông ta quan tâm đến thuộc hạ như vậy, rất đáng khâm khục... Vừa nghĩ đến đây, ông chợt ngửi thấy mùi thịt thơm lừng xộc vào mũi - thịt dê? Chút thiện cảm Điền Trù vừa dành cho Tào Tháo vụt tan biến, ông ta lạnh lùng hỏi:
— Tào công sao lại nuốt lời, giết mấy người dân Tiên Ti đó?
— Sao cơ? - Tào Tháo cười giả lả, - Lão phu đâu hạ lệnh giết bọn họ.
— Ngài không giết bọn họ, thì lấy đâu ra thịt dê?
Tào Tháo trả lời qua quýt:
— Chắc là họ thấy quân ta binh mã chỉnh tề, trong lòng ngưỡng mộ nên tặng dê đấy thôi.
Điền Trù nhìn nụ cười gian trá của Tào Tháo, trong lòng dâng trào nỗi bất lực, tức giận nói:
— Minh công hành sự như vậy, thảo dân không dám dốc sức cho ngài nữa! - Dứt lời toan bỏ đi.
— Đợi đã! Tiên sinh không cần nổi giận, ta sẽ phái Diêm Nhu đi điều tra xem kẻ nào dám trái lệnh, tự ý giết người. - Thực ra chính Tào Tháo căn dặn Diêm Nhu làm việc này, giờ sai hắn đi điều tra há lại có kết quả?
Điền Trù đã nhìn ra chân tướng, nói lời gan ruột:
— Minh công khởi binh vì bách tính, sao lại làm chuyện bất nghĩa? Mấy người Tiên Ti phải tìm đến đây lánh nạn, vậy mà ngài cũng không có nửa lòng thương xót sao?
— Thương xót? - Mặt Tào Tháo sa sầm, - Hành sự vì điều nhân nhỏ sẽ hại đến điều nhân lớn! Bọn họ cần mạng, lẽ nào ba vạn đại quân của ta không cần mạng? Con đê dài ngàn dặm có thể sụt vì một tổ kiến, vạn nhất để lộ quân tình, đại quân Ô Hoàn bất ngờ tập kích, tất cả chúng ta đều chết không có chỗ chôn!
— Nhưng...
— Không nhưng nhị gì nữa! - Tào Tháo mất kiên nhẫn nói, - Nếu tiên sinh vẫn muốn đi, lão phu cũng không tiện giữ lại. Có điều, tiên sinh tới đây giải cứu mười vạn Hán dân đang phải chịu ách nô dịch của người Ô Hoàn, há chỉ vì mấy tên Tiên Ti mà từ bỏ giữa chừng? Bên nào nặng bên nào nhẹ, nên đi hay ở, tiên sinh hãy tự cân nhắc. - Nói xong kéo tay Lâu Khuê, - Đi! Chúng ta đi ăn thịt dê thôi.
Điền Trù cứng miệng không nói lại được. Ông đã hiểu rõ, việc Tào Tháo cho ai sống hay chết không chỉ xuất phát từ lòng yêu ghét, mà nhiều hơn là vì nghĩ tới lợi ích trước mắt. Dù cho ông ta hậu đãi người khác cũng chưa thể nói lên rằng ông ta coi trọng, mà chỉ muốn dùng cái tài của người ta mà thôi! Yêu nên tốt, ghét nên xấu, để đạt được mục đích mà không từ thủ đoạn, đó chính là bản chất của Tào Mạnh Đức! Điền Trù nhìn thấu con người Tào Tháo, nhưng nghĩ đi nghĩ lại vẫn không thể bỏ đi được, bởi vì chí hướng chưa thành nên không cam tâm từ bỏ giữa chừng. Thứ nữa, Tào Tháo chưa chắc chịu thả ông thật, nếu ông cứ cố tình bỏ đi, không chừng sẽ có kết cục giống mấy người Tiên Ti kia! Lên thuyền giặc thì dễ, xuống thuyền giặc mới khó, việc đến nước này chỉ biết đâm lao theo lao...
Xe ngựa chạy xa dần, toàn thân Quách Gia lắc lư theo những chỗ lồi lõm trên mặt đường, ông muốn nhìn lại Tào doanh lần cuối nhưng chẳng thể nào gượng dậy được, chỉ có thể cố ngoái cổ, nhìn thấy một cỗ xe khác - Trương Tú nằm thẳng đơ bên trên, khôi giáp chỉnh tề, mình đắp chiến bào nhưng cánh tay phải hơi cong lên, không phải do thi thể đã cứng lại mà vì lúc chết vẫn bám chặt vào cây thương. Cánh tay ngoan cố ấy chính là một ẩn dụ đẹp nhất về cuộc đời Trương Tú. Một người từng ba lần đánh lui Tào Tháo tại đất Uyển Thành, huyện Nhương nhỏ bé, oai hùng nhường nào, đến cuối đời thì sao?
Quách Gia cảm thấy được an ủi, vì chí ít trên đường tới suối vàng còn có một nhân vật từng hô mưa gọi gió bầu bạn, coi như không uổng phí kiếp này! Song trong lòng ông còn có chút vướng bận: không phải lo về trận đánh sắp tới, mà bởi thấy chúa công có vẻ rất lạc quan về hình thế thiên hạ sau này. Chuyện đời nào có đơn giản. Nhất là với những kẻ muốn tranh đoạt thiên hạ, ý nghĩ đợi thời cơ chín mùi tự nhiên nước đổ thành sông chỉ là một ảo tưởng do họ tự vẽ ra. Thứ quyền lực đó vĩnh viễn không đánh không đổ, không bỏ cũng chẳng thể dựng mới. Dương dương tự đắc là cái tật chúa công không sửa được, lại thêm thói đa nghi tất trở thành vật cản trên con đường bước tới hoàng quyền. Tuân Lệnh quân không còn được tín nhiệm như trước, Tuân quân sư sống cũng chẳng dễ chịu gì. Hứa Du vì của cải mà vứt bỏ chí hướng, Lâu Khuê vì hùng tâm mà bị ghét bỏ; Đổng Chiêu suy tính cẩn thận, biết vin rồng bám phượng nhưng không giỏi dụng binh; Chung Do làm tổng đốc ở Quan Trung, không rời bỏ chức vụ được; Trình Dục có thể nói là văn võ toàn tài, nhưng lại thừa cương thiếu nhu, chúa công chẳng mấy khi chịu nghe ý kiến của ông ta; bọn Trần Quần, Trần Kiều, Đỗ Tập, Đỗ Kỳ mới được trọng dụng gần đây được mặt này lại mất mặt kia; còn đám quan lại Hà Bắc vừa thần phục thì có quá ít kinh nghiệm. Xét ra, chỉ có Giả Hủ thông minh tuyệt trác, tiếc là chúa công không phủ dụ được người này. Ai cũng nói Tào doanh nhân tài đông đúc, nhưng muốn chọn ra một người vừa có tài vừa có đức, kinh lịch dày dặn, lại được lòng Tào Tháo cũng thật khó. Sau này chúa công biết trông cậy vào ai đây...
Nghĩ ngợi một lúc, Quách Gia thấy nguội lòng: nghĩ nhiều để làm gì? Còn sống mới lo được, chết rồi còn lo nổi nữa sao? Thiên hạ thiếu gì anh tài xuất thế, chuyện ngày sau cứ để cho hậu nhân lo vậy! Hoa Đà đoán ta chỉ sống được một năm, nhưng ta đã gắng gượng một năm rưỡi, lời nửa năm! Con người ta đều cất tiếng khóc khi mới chào đời, đến lúc chết nước mắt lại tuôn rơi. Riêng Quách mỗ phải cười! Ta muốn làm khác chúng nhân, để không ai đoán biết được! Đời ta ngắn ngủi nhưng cũng được coi là oanh liệt, ta có tước hầu, có của nả, từng được uống đủ loại rượu, cũng từng được nếm mùi nữ sắc. Ta đã vô cùng thỏa mãn, lẽ nào còn không nên cười một trận sảng khoái hay sao?
Quách Gia cảm thấy có một luồng khí lạnh ập tới, như đóng băng cả hồn phách ông, mọi vật trước mắt mờ dần. Lần này ông không giãy giụa, kháng cự nữa, đôi mắt nhẹ nhàng khép lại, mang theo nụ cười mãn nguyện đi vào giấc ngủ ngàn thu...
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 7 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 7 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 7