Nếu bạn đã cố gắng hết sức mình thì bạn sẽ vẫn thanh thản ngay cả khi gặp thất bại.

Robert S. Hillyer

 
 
 
 
 
Tác giả: Vuong Hieu Loi
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Phạm Thùy Linh
Biên tập: Ha Ngoc Quyen
Upload bìa: Ha Ngoc Quyen
Số chương: 23
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 32
Cập nhật: 2020-10-24 12:42:44 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 149
ghị hòa bắc lui, thêm một lần thua ôn dịch
Tôn Quyền cầu hòa
Sự tranh đấu giữa hai nhà Tôn, Tào dường như mãi mãi không thể thoát khỏi vòng luẩn quẩn, kể từ năm Kiến An thứ mười ba, hai bên đã giao đấu mấy lần tại cửa Nhu Tu, Sào Hồ, nhưng cục diện trận chiến không có gì thay đổi. Tôn thị không thể đứng chân lâu ở Giang Bắc, còn Tào thị cũng chẳng đánh qua được Giang Nam, kết quả sau cùng là hai bên rơi vào thế giằng co. Có điều, thế giằng co trong trận chiến mùa xuân năm Kiến An thứ hai mươi hai lần này lại có điểm khác biệt. Quân Tào đoạt được doanh trại Nhu Tu mà không tiếp tục tấn công Giang Đông, còn quân Giang Đông cũng tỏ ra rất bị động, một lượng lớn thuyền chiến đậu tại nơi phòng ngự, căn bản không có ý phản kích quân Tào.
Một mặt do tình thế chi phối, Lưu Bị vào đất Thục trở thành một thế lực cát cứ lớn, nắm cả hai châu Kinh, Ích, thực lực của ông ta đủ đấu với hai nhà. Tào Tháo và Tôn Quyền đều là người thông minh, không ai muốn dồn hết binh lực vào trận chiến này để Lưu Bị làm ngư ông đắc lợi. Mặt khác, hai quân lúc này đang bị ôn dịch hoành hành, khó có thể liều thêm lần nữa. Kỳ thực, bọn họ ở ngoài chiến trường còn không biết, bệnh dịch xuất hiện từ cuối năm Kiến An thứ hai mươi mốt, đầu năm Kiến An thứ hai mươi hai chẳng kém gì loạn Khăn Vàng càn quét tám châu năm nào. Đúng là một kiếp nạn tàn khốc nhất từ thời Hậu Hán đến nay!
“Sau thiên tai tất có đại dịch”, kiếp nạn này đã có điềm báo từ một năm trước, đầu tiên là mùa xuân có nạn châu chấu và hạn hán, tiếp đến mùa hè, mùa thu mưa lớn kéo dài, nóng lạnh thất thường, lại thêm chiến tranh liên miên, dân chúng đói khát, cuối cùng ủ thành đại dịch.
Trận Xích Bích diễn ra vào mùa đông, năm Kiến An thứ mười ba cũng từng bùng phát ôn dịch, gây ra cái chết cho mười mấy vạn quân dân Kinh Châu, nhưng vẫn còn quá nhẹ nếu so với lần này. Mùa đông năm nay, trên đến Hà Bắc, dưới xuống Giang Nam, tây qua Quan Trung, đông sang Tân Hải, cả một vùng Hoa Hạ rộng lớn đều bị bao trùm trong bệnh dịch, không thể kể hết số người bệnh, nhà nào cũng đau buồn vì có người chết, khắp nơi đều có cảnh cả họ mắc bệnh, cả làng chết sạch.
Phía đông cửa sông Nhu Tu lúc này tập trung bảy vạn quân thủy bộ của Đông Ngô, trong đó có hơn một vạn người bệnh, hơn nữa con số này vẫn tiếp tục tăng lên mỗi ngày. Tôn Quyền xưa nay luôn rất tự tin, thời khắc này cũng lo lắng đến tiều tụy, ông ta cưỡi ngựa đi tuần bờ sông, nhìn những binh sĩ đau ốm mệt mỏi, chiến thuyền trống trơn cùng với liên doanh gồm mười mấy vạn quân Tào đóng ở bờ bên kia mà thở vắn than dài.
Mỗi khi Tào Tháo lơi lỏng phòng ngự, ông ta liền vượt sang Giang Bắc, đến khi người ta tăng viện, ông ta lại rút về Giang Đông, cứ lặp đi lặp lại như vậy đến ngày nào mới thôi? Theo sự biến đổi của thời cuộc, dù muốn giày vò nhau cũng ngày một khó - Thế lực thống trị phương bắc dần dần ổn định, thành Hợp Phì được dựng lại vững như bàn thạch. Lần trước Lưu Bị vào đất Thục đoạt được ba quận Kinh Châu, cố nhiên đã chiếm ưu thế, quan hệ giữa Tôn Quyền với Lưu Bị gần như không còn. Tại đơn đao phó hội(*), Lỗ Túc và Quan Vũ cãi nhau đến mặt đỏ tía tai, tuy ngoài mặt vẫn là đồng minh, song thực tế cả hai nhà nghi kỵ lẫn nhau còn hơn đề phòng Tào Tháo. Trong khi đó ở cõi Đông Ngô, có những nơi liên tục tạo phản còn chưa trừ được, thổ phỉ Phàn Dương lại làm mưa làm gió. Giữa lúc giao tranh căng thẳng với quân Tào, Tôn Quyền còn phải rút tám ngàn quân tinh nhuệ giao cho Hạ Tề, Lục Tốn dẫn đi dẹp nội loạn, binh lực giật gấu vá vai. Cứ tiếp tục thế này, thực quá mệt mỏi.
Từ trận Hợp Phì, quân Ngô đại bại rút về, trong quân đã xuất hiện bệnh dịch, binh lính chưa khỏi hẳn, giờ bệnh tình lại nặng thêm, ôn dịch lần này kéo tới, không có đội quân nào không thiếu người. Nửa năm trở lại đây, các lão tướng như Trình Phổ, Hoàng Cái lần lượt qua đời, mãnh tướng Lăng Thống bệnh nặng không đỡ, đại tướng Tôn Du thay Chu Du mưu tính Giang Bắc cũng ngã bệnh mà chết, bất đắc dĩ Tôn Quyền phải hợp nhất ba bộ binh mã giao cho đệ đệ của Tôn Du là Tôn Giảo nắm giữ, hy vọng ông ta có thể tiếp nối di nguyện của người huynh trưởng đã mất. Điều khiến Tôn Quyền đau lòng hơn là Hoành Giang Tướng quân Lỗ Túc, tâm phúc quan trọng nhất của ông cũng đổ bệnh không dậy nổi, người được phái đi Lục Khẩu thăm bệnh về bẩm báo, e là ông ta không trụ được mấy ngày nữa. Tôn Du và Lỗ Túc đều chết thì chẳng khác nào chặt mất cánh tay trái, cánh tay phải của Tôn Quyền, ông ta lại phải hao tâm tổn trí tìm người mới thay thế. Đối mặt với tình thế hiện nay, trong lòng ông ta thực sự phiền muộn, văn võ bá quan Giang Đông cũng đăm chiêu ủ dột, trong ngoài đại doanh đè nặng không khí ảm đạm.
— Chúa công. - Chủ bạ Toàn Tông ôm một chồng tấu chương tới trước ngựa của Tôn Quyền, - Đây là tấu chương báo cáo tình hình ôn dịch của các địa phương trong tháng này.
Tôn Quyền giải quyết chính sự ở trong quân, vẫn thường duyệt tấu, uống rượu với các tướng không biết mệt, sức người thường khó mà lại được. Ngay như lúc này, ông ta đang phiền muộn trong lòng nhưng cũng không thể xử lý qua loa việc nước, bèn với tay lấy bản tấu chương trên cùng, nhìn liếc qua một cái lại nhăn mày:
— Thái thú Hán Úc Lâm Lục Tích dâng tấu… Thái thú Hán Úc Lâm!
Lục Tích là hậu duệ của Thái thú Lư Giang Lục Khang, năm đó Tôn Sách ở dưới trướng Viên Thuật phụng mệnh đi đánh Lư Giang, Lục Khang vì lo lắng, uất hận mà chết, người trong tộc đa phần đều bị thương vong. Lục Tích là thần liêu của Tôn thị, nhưng xưa nay luôn bất hòa với Tôn thị, có điều Lục thị ở Ngô Quận là đại tộc Giang Đông, với Cố thị, Chu thị và Trương thị cùng quận đều là danh môn, mấy gia tộc này có quan hệ khăng khít với dân địa phương, hơn nữa còn có nhiều liên hôn, trao đổi tin tức rất mực thân mật. Bọn Chu Trị, Cố Ung, Trương Ôn đều được Tôn thị trọng dụng, ngay cả Lục Tốn, Lục Mạo mang họ Lục cũng lần lượt được Tôn Quyền thu nhận, nên dù Tôn Quyền căm ghét Lục Tích cũng không thể tùy tiện xử trí được. Huống chi, Lục Tích còn là một học giả tinh thông Kinh dịch nức tiếng gần xa, càng không thể hại ông ta mà chuốc lấy tiếng xấu, vì vậy đành phải phái ông ta đến làm Thái thú quận Úc Lâm ở phía nam. Nhưng bản tính của Lục Tích không thay đổi, thân ở phía nam mà vẫn tự xưng là bề tôi nhà Hán, không hề phục tùng Tôn thị, còn cách nào nữa đây? Tôn Quyền vừa đọc dòng chữ “Thái thú Hán Úc Lâm” đã chẳng còn hứng xem tiếp, ném tấu chương sang một bên, quay đầu ngắm nhìn Giang Bắc.
Toàn Tông trẻ tuổi lanh lợi, trông thấy Tôn Quyền ném tấu thư đi, liền nhảy lên bắt lấy, nói nịnh:
— Chúa công chớ lo lắng. Quân ta có dịch bệnh, chắc chắn tình hình bên Giang Bắc còn nặng hơn quân ta, binh mã Tào tặc tuy đông, nhưng ta cứ cẩn thận phòng thủ thì chẳng có gì đáng lo.
— Ta không lo chuyện đó, mà đang nghĩ cách ổn định nhân tâm… - Tôn Quyền lẩm bẩm, - Ngươi mau triệu tập bá quan văn võ tới đây, ta có lời muốn nói với họ.
Toàn Tông lĩnh mệnh lui xuống, không lâu sau các tướng như Tôn Hiệu, Lã Mông, Cam Ninh, Chu Thái, Từ Thịnh, Chu Nhiên cùng với các mưu thần quan trọng như Gia Cát Cẩn, Tôn Thiệu, Cố Ung, Trương Ôn, Lưu Cơ, Hám Trạch đều tập hợp bên bờ sông, thi lễ với Tôn Quyền.
Tôn Quyền chỉ roi ngựa về phía Giang Bắc, chậm rãi nói:
— Tôn thị ta làm chủ Giang Đông hơn hai chục năm, không dám có sai sót dù chỉ là nhỏ nhất, cũng được coi là siêng năng việc nước, chưa có lúc nào lơ là, trễ nải. Tuy nhiên, đất Trung Nguyên ở phương bắc đều thuộc quyền cai trị của Tào tặc, trở thành một thế lực lớn mạnh tựa như núi Thái Sơn đè đầu, ta mấy lần đánh lên phương bắc đều không thu được chút thắng lợi nào. Giờ Tào Tháo xưng vương, đã bắt đầu xây dựng nền móng, còn dẫn cả tử tôn tới diễu võ dương oai với vùng Giang Biểu. Dù cho lần này quân phương bắc có thể rút lui, nhưng liệu Tôn thị ta còn đứng vững được bao lâu đây? - Câu này là lời Tôn Quyền thổ lộ nỗi lo với chúng tướng, mà cũng tựa như lời ông ta tự nói với chính mình.
Trong mắt quần liêu, Tôn Quyền luôn là người tràn trề sức lực, khí thế vô cùng, có khi nào thấy ông ta nguội lòng như lúc này đâu? Mọi người đưa mắt nhìn nhau, im lặng giây lát, Tôn Hiệu cao giọng nói:
— Năm xưa Điền Hoành không chịu đầu hàng nhà Hán, năm trăm tráng sĩ cùng tự vẫn theo. Nay, Tôn thị ta đã có đất Ngô Việt, lại được đất Giao, Di với ba quận Kinh Châu, sao không thể tự sinh tồn? Tào tặc không thể đoạt được, dẫu hắn có dẫn quân vượt sông lớn, thì cùng lắm là cá chết lưới rách, ngọc nát đá tan, việc gì phải sợ?
Tôn Quyền lắc đầu:
— Không đâu… cho dù cả họ Tôn ta cùng nâng ba thước kiếm Long Tuyền, thử hỏi giết được bao nhiêu tên giặc phương bắc? Đất Trung Nguyên lòng người hướng về, ngươi biết lần này Tào Tháo nam chinh, ai đảm nhiệm vị trí quân sư không? Chính là Hoa Hâm Hoa Tử Ngư, Thái thú Dự Chương năm xưa đấy. Ban đầu đúng là huynh trưởng ta cướp đất của hắn, nhưng cũng đã đối đãi với hắn bằng lễ thượng khách, mấy năm ân tình. Khi Tào Tháo triệu hắn vào triều, nhân sĩ Giang Đông lũ lượt đưa tiễn, khiến đường sá tắc nghẽn, hắn luôn miệng nói mình sẽ không quên ơn Tôn thị, nhưng bây giờ thì sao? Hắn không những làm Thượng thư lệnh, lại còn làm Chinh Nam Quân sư, quay mũi giáo vào Tôn thị, sao lại không khiến người ta đau lòng? Từ việc này cũng đủ thấy lòng sĩ nhân đất bắc không hướng Giang Đông ta.
Trưởng sử Tôn Thiệu nghe không lọt tai. Ông ta là người quận Bắc Hải, Thanh Châu, năm xưa từng được Khổng Dung đề bạt, về sau theo Lưu Do - nguyên là thứ sử Dương Châu tới phương nam, quy thuận Tôn thị. Tôn Quyền nói sĩ nhân đất bắc không hướng về, há chẳng phải gộp cả ông ta vào đấy? Tôn Thiệu vội vàng bước ra khỏi hàng:
— Chúa công nói sai rồi. Hoa Hâm vong ân phụ nghĩa, lại từng giúp Tào tặc giết hại hoàng hậu, thực là kẻ chẳng ra gì! Những sĩ nhân sang nam như tại hạ cảm tạ ân đức sâu nặng của chúa công đều coi hắn là nỗi sỉ nhục, xin tận hiến với Tôn thị, quyết không hai lòng.
Lưu Cơ càng thấy bất an. Ông ta là người quận Đông Lai, là nhi tử của Lưu Do, một thế lực năm xưa từng chống lại Tôn thị, chuyện quy hàng con cháu Tôn thị vốn là bất đắc dĩ. Không ngờ nhân họa mà được phúc, Lưu Cơ rất được lòng Tôn Quyền, giờ còn làm đông tào duyện trong mạc phủ. Ông ta tưởng mình ở ngôi quan trọng nghĩa là đã nhận được tín nhiệm, thế mà Tôn Quyền lại ném ra những lời này, ông ta làm sao chịu nổi? Lưu Cơ tức tối nói:
— Tại hạ vốn là người gặp nạn, được chúa công thu nhận, lại giao cho việc tuyển chọn quan lại. Ví bằng tại hạ không tới Giang Đông mà ở lại quê cha đất tổ, sao có được địa vị cao như ngày nay? Bọn sĩ nhân sang nam như tại hạ sớm đã quy thuận chúa công, xin ngài chớ nghi ngờ! - Tình hình hiện nay khác với hồi diễn ra trận Xích Bích, những người như Tần Tùng, Trần Đoan chỉ mong được quay về phương bắc chuẩn bị chui xuống mồ, còn bọn Trương Chiêu, Tôn Thiệu, Lưu Cơ ở địa vị cao, đều đã dựng gia nghiệp khác tại Giang Đông, con cháu bọn họ sinh ra và lớn lên ở đây, dần dần cũng bắt chước được giọng nói nhỏ nhẹ, êm tai của người Ngô, quê hương của họ từ lâu đã trở thành cố hương.
Tôn Quyền nghe ông ta nói vậy, trong lòng rất dễ chịu, nhưng không thể hiện vẻ mặt vui mừng mà ngoài miệng vẫn than thở:
— Dẫu thế cũng ích gì? Ban nãy ta xem tấu sớ của Lục Tích, hắn vẫn một mực xưng là bề tôi nhà Hán đấy thôi. Dù sao Giang Đông đất hẹp, cũng khó giữ được anh tài, tuất kiệt…
Trương Ôn và Cố Ung đưa mắt nhìn nhau, không khỏi nhíu mày. Trương thị và Lục thị đều là hào môn, hiện tử đệ trong tộc đều được Tôn thị cất nhắc, phần lớn nắm giữ những chức vị quan trọng tại các quận huyện, có không ít điền sản và của cải. Công bằng mà nói, dù đổi lại là Tào thị làm chủ, cũng không thể đối đãi rộng rãi với bọn họ hơn Tôn thị, huống chi đất bắc xưa nay luôn đặt sĩ nhân Dĩnh Xuyên, Bái Quốc lên đầu, sĩ nhân Giang Đông khó có thể tiến vào triều đình Hứa Đô, Nghiệp Đô, sao lại không biết trân trọng chủ tử trước mắt? Trương Ôn liên tục chắp tay nói:
— Người quân tử muốn làm nên cơ đồ hà tất phải tha hương? Sĩ nhân Giang Đông chúng tại hạ hai mươi năm nay được chúa công đối đãi trọng hậu, kết cỏ ngậm vành chưa báo hết ơn, nào dám phản bội chúa công mà nương theo Giang Bắc? Lục Công Kỷ là nho sĩ, coi trọng chính sóc Trung Nguyên, nhưng nay nhà Hán không xứng với ngôi vị của mình, bị Tào tặc nắm trong lòng bàn tay, chúng tại hạ há có thể nhận giặc làm chúa?
Cố Ung vốn là người trầm tĩnh, ít nói, hôm nay cũng không ngồi im được, hốt hoảng lên tiếng:
— Năm xưa nhà Chu dời đô sang đông(*), các nước chư hầu hỗn chiến, Ngô Việt nổi lên xưng bá, Sở Trang Vương dòm ngó ngôi cửu ngũ, Hạng Vũ hiệu lệnh thiên hạ. Tào thị vô đức sớm muộn gì cũng bại, dù chúa công có học người xưa xưng bá, thì có gì mà không được? Sĩ nhân Giang Đông sẽ theo chúa công xông vào nơi nước sôi lửa bỏng, quyết không từ nan!
Điều Tôn Quyền muốn chính là thái độ này của họ, ông ta gật gù, vẻ hài lòng:
— Được, được… Chỉ cần các ngươi hiểu nỗi khổ trong lòng ta là được. - Vừa nói vừa đưa mắt nhìn về phía Gia Cát Cẩn và Cam Ninh.
Gia Cát Cẩn là người hiểu Tôn Quyền nhất, biết ông ta đang nghĩ gì, bèn bước ra khỏi hàng nói:
— Thần đệ ở đất Thục nhưng thuộc hạ trước sau luôn trung thành với chúa công, tuyệt đối không hai lòng!
Cam Ninh nói theo:
— Đúng vậy, mạt tướng là người Ba Quận, nhưng phụ tử Lưu Yên không trọng dụng, mạt tướng đã tới Giang Đông thì coi đây chính là nhà. Chúa công cho mạt tướng thống lĩnh thiên binh vạn mã, tử tôn cũng được ăn sung mặc sướng, mạt tướng đương nhiên phải bán mạng cho chúa công. Giặc tai to là cái thá gì? Dù cho mạt tướng có lộn cổ chết chìm dưới sông, cũng không về đất Thục… Nếu có về cũng là dẫn binh mã về! - Mấy câu này của ông ta khiến tất cả chúng nhân phì cười, xua tan bầu không khí nặng nề trước đó.
Tôn Quyền đạt được mục đích, thấy từng người bọn họ bộc lộ suy nghĩ trong lòng, cũng dần thu lại vẻ buồn rầu, chỉ tay gọi Chu Thái:
— Ấu Bình, ông lại đây.
Chu Thái giật mình. Ông là lão tướng của Tôn thị, nhưng xuất thân thấp hèn, hồi trẻ chẳng qua chỉ là tùy tòng thân cận của Tôn Sách, chưa từng đọc sách, không hiểu mưu lược. Ông đánh trận không tiếc thân mình, nhưng chưa bao giờ đưa ra ý kiến về quân vụ, chính sự. Vậy nên, lúc này Chu Thái không hiểu vì sao chúa công lại gọi tên mình, cúi đầu bước ra.
Tôn Quyền lại nói:
— Ông cởi khôi giáp, xiêm y ra.
— Việc này…
— Ta bảo cởi thì cứ cởi đi.
— Rõ. - Chu Thái không dám trái lệnh, tháo khôi giáp rồi lại cởi cả áo trong ra. Chúng nhân có mặt ở đó không kìm được sự kinh hãi - Trên người Chu Thái có không dưới hai chục vết thương lớn nhỏ, những vết sẹo chằng chịt tựa như bức tranh. Có chỗ thâm đen vì vết thương lâu năm, có chỗ do trận chiến ác liệt vừa rồi để lại, còn chưa liền sẹo.
Tôn Quyền xuống ngựa, chỉ lên những vết thương trên người ông ta:
— Ấu Bình, ông chiến đấu như gấu như hổ vì họ Tôn ta, không tiếc thân thể và tính mạng, bị thương tận mấy chục vết, ta sao có thể không đối đãi trọng hậu với ông? Ông không hổ danh là công thần của Tôn thị, cùng san sẻ vinh nhục với ta, từ nay về sau ông và tử đệ trong gia tộc nên vui vẻ, tự hào về điều này, chớ tự ti vì xuất thân bần hàn mà không ngẩng đầu lên được trước mặt bá quan văn võ.
Tôn Quyền nói riêng với Chu Thái, nhưng lại muốn mọi người cùng nghe được rằng: Tôn thị ta gian nan dựng nghiệp, trải trăm trận đánh mới có được ngày hôm nay, nguyên lão túc tướng xuất thân thấp hèn cũng đã vất vả công cao. Đám sĩ nhân sang nam, danh môn Giang Đông, tướng tá mới nổi như các ông mặc dù đang đắc thế, nhưng không được hắt hủi bọn họ, coi thường bọn họ chính là coi thường Tôn thị ta, mà coi thường Tôn thị ta há ta có thể cho các ông hưởng vinh hoa phú quý!
Văn nhân nhận ra thâm ý, còn võ tướng lại thấy được nghĩa khí, mọi người lũ lượt thi lễ:
— Chúng thần xin học theo Chu tướng quân, máu chảy đầu rơi thề chết tận trung!
— Một khi chúng nhân đồng lòng với ta, lo gì chuyện lớn không thành? - Tôn Quyền cuối cùng cũng thỏa mãn, lúc này mới nói ra suy nghĩ trong lòng, - Hiện giờ quân bắc ồ ạt tiến sát bờ cõi, trong khi quân ta bị bệnh dịch hoành hành, thực sự không nên kéo dài trận chiến. Huống chi Lưu Bị vào đất Thục đã được hai năm, thế lực ngày càng vững mạnh, lại còn đang mưu tính Hán Trung. Nếu ta đối trận lâu ngày với Tào Tháo, để hắn làm ngư ông đắc lợi, e là còn ngông cuồng hơn cả Tào tặc… Bởi vậy, ta tính nghị hòa với Tào Tháo lần nữa.
Những người tinh tường xét thấy lần này Tôn Quyền đề xuất nghị hòa khác hẳn lần trước. Trước đây, Tôn Quyền cũng từng thương lượng bãi binh với Tào Tháo, nhưng chỉ nói suông, đến khi Tào Tháo lui quân lại từng bước xâm lược phương bắc, còn lần này thì khác, Tôn Quyền đang nghĩ đến việc bãi binh một thời gian dài. Do sự uy hiếp của Lưu Bị ngày một lớn, hơn nữa Lưu Bị lại đã trở mặt trong chiến dịch đánh chiếm ba quận Kinh Châu, nếu như ông ta tiếp tục lấy được Hán Trung, áp sát Trung Nguyên từ hai đường đông tây, thì đối với Giang Đông mà nói chẳng khác nào trừ sói rước hổ. Xuất phát từ lợi ích của mình, Tôn Quyền quyết định “ba phải”, tạm thời không đối đầu với Tào Tháo, lặng lẽ quan sát hai nhà Tào, Lưu đấu đá. Nếu Tào Tháo vẫn có thế lực mạnh như trước thì tiếp tục liên thủ với Lưu chống Tào, nhược bằng Lưu Bị đạt được mưu đồ, thì quay sang kéo Tào đánh Lưu. Nói tóm lại là lợi cả đôi đằng, Tôn Quyền không muốn trở thành mục tiêu công kích, cho nên việc cải thiện quan hệ với Tào Tháo vô cùng cấp bách. Nhưng đối với Tào Tháo, đây là trận chiến đầu tiên kể từ khi ông xưng vương, nhất định phải chiến thắng trở về, không cho Tào Tháo chút lợi, ông sẽ không dễ buông tay, nghĩa là lần này nghị hòa Tôn Quyền phải “nhận thua”, thậm chí thần phục thì Tào Tháo mới chịu đồng ý, tên đã kéo dây không thể không bắn, Tôn Quyền buộc phải xuống nước với Tào Mạnh Đức. Gần chục năm nay, Tôn Quyền xâm lược Giang Bắc, ít có thành công, nay bỗng nhiên quay sang hàng Tào, thể nào trong nội bộ cũng có dị nghị, chỉ sợ có người lại nói ông sợ Tào Tháo nên mới phải cầu hòa, vì thế Tôn Quyền chắn trước miệng chúng nhân, để đảm bảo nội bộ vững vàng.
Lúc này mọi người ngoan ngoãn tuân theo, không ai tỏ ỷ phản đối, tới những tướng tá ngang ngạnh cũng không dám ho he. Tôn Quyền không cần giả bộ nữa, nói rõ rằng:
— Đã như vậy, ta viết thư cho Tào tặc, cũng phải nịnh hắn để hắn sớm quay về phương bắc. Ngày mai phái Đô úy Từ Tường làm sứ giả, sang sông nghị hòa với quân Tào.
Tôn Hiệu không nhịn được, nói chen vào:
— Người không có ý hại hổ, nhưng hổ lại có ý hại người. Tào tặc xưa nay gian trá, cho dù nghị hòa cũng phải đề phòng, mạt tướng xin dẫn quân trấn giữ Nhu Tu, đề phòng bất trắc.
Tôn Quyền nhìn chằm chằm vào đường đệ, thấy ánh mắt cương nghị của ông ta, trong lòng áy náy: Tôn Hiệu kiên trì dũng cảm chẳng kém gì huynh trưởng, có thể trọng dụng được. Tôn Quyền vui mừng, nhưng không biểu lộ ra nét mặt, chỉ đáp:
— Chuyện đó bàn sau, trong quân bị thương và bị bệnh không ít, mọi người mau quay về doanh trại vỗ về binh sĩ. Nhân tiện giải thích việc bãi binh, an ủi những người có tử đệ bị chết bởi quân phương bắc. Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, nên lấy đại cuộc làm trọng.
Chúng nhân ai về trại người ấy động viên binh sĩ, còn Lã Mông lại lặng lẽ bước tới trước mặt Tôn Quyền:
— Bẩm chúa công, Lỗ Tử Kính thân mang trọng bệnh, mà cửa Lục Khẩu là nơi hiểm yếu liên quan đến sự an nguy của Kinh Châu, không thể không xét. Mạt tướng học theo Mao Toại xin tự tiến cử mình, khẩn cầu chúa công cho mạt tướng dẫn quân tới Lục Khẩu, một là thay Tử Kính xử lý công chuyện, hai là… - Lã Mông mỉm cười bí ẩn, - thăm dò động tĩnh của Quan Vũ.
Trước mặt Tôn Quyền như sáng lên: Lã Tử Minh thật thông minh, đoán được dự tính của ta, một khi Tào, Lưu đánh nhau chính là cơ hội tốt để ta đoạt cả Kinh Châu, chiếm trọn địa thế hiểm yếu của vùng Giang Biểu. Trước đây ta khuyên ông ta nên chịu khó trau dồi kinh sử, đúng là có nhiều tiến bộ… Nghĩ đến đây, Tôn Quyền vỗ vai Lã Mông bảo:
— Tốt lắm, ông dẫn quân đi Lục Khẩu, Tử Kính có gì bất trắc, quân của ông ta sẽ giao hết lại cho ông thống lĩnh.
— Tạ ơn chúa công cất nhắc! - Lã Mông chắp tay thi lễ, lại nói tiếp, - Nhưng mạt tướng ở Giang Biểu lâu ngày, Quan Vũ hành sự cẩn thận tất sẽ đề phòng. Mạt tướng xin chúa công chọn một văn sĩ khác tiếp nhận chức đô úy thay Tử Kính, làm như không có ý dòm ngó Kinh Châu, để yên lòng Quan Vũ. Mạt tướng ẩn thân dưới trướng làm phụ tá mới có thể âm thầm tính kế.
— Hay lắm! - Tôn Quyền vui mừng, - Ta sẽ nhận mệnh cho Nghiêm Tuấn tiếp nhận chức đô úy.
Lã Mông gật đầu:
— Vậy là tốt nhất. - Nghiêm Tuấn, tự Mạn Tài, người Bành Thành, thuở trẻ lánh nạn ở Giao Châu, về sau Tôn Quyền phái Bộ Chất tiếp quản đất Giao Châu, Nghiêm Tuấn được Bộ Chất, Trương Chiêu tiến cử về dưới trướng Tôn Quyền. Thực ra, ông ta cũng có chút tiếng tăm, nhưng chỉ là học giả khảo cứu thi thư, không có tài cầm quân.
Tôn Quyền rất hài lòng khi thực hiện kế hoạch này, ông ta cũng từng có cảm giác hài lòng khi bàn chuyện đại sự thiên hạ với Chu Du và Lỗ Túc, giờ cảm giác ấy lại quay về. Tôn Quyền vỗ vai Lã Mông, nói rõ tâm sự:
— Sự vững chắc của Giang Đông đều nằm ở Kinh Châu, thượng du yên thì Giang Đông cũng yên, thượng du bị địch chiếm cứ thì Giang Đông cũng bị địch chế ngự. Lưu Bị nuôi chí lớn đã lâu, sau này tất là mối lo lớn, nếu không thu hết đất Kinh Châu, ta ăn ngủ không yên! Nay ta giao trọng trách này cho ông, từ sau chuyện vùng thượng du do ông phụ trách.
Lã Mông vô cùng xúc động: chúa công nói sự an nguy của Giang Đông đều nằm ở Kinh Châu, không có được Kinh Châu thì ăn ngủ không yên, còn nói chuyện vùng thượng du giao cả lại cho ta, há chẳng phải đặt sự an nguy của đất Giang Đông và Tôn thị lên vai ta hay sao? Chúa công đối đãi trọng hậu như vậy, biết lấy gì báo đáp đây? Trong lúc tâm tình xúc động, ngàn vạn lời muốn nói như nghẹn lại trong họng, Lã Mông cứ lặp lại mãi câu:
— Mạt tướng nhất định không phụ lòng chúa công giao phó… Nhất định không phụ lòng chúa công giao phó…
Tôn Quyền quay người đối diện với dòng Trường Giang, chắp tay đưa lên ngang trán, thầm khấn: Xin ông trời phù hộ cho Giang Đông của ta đời nào cũng không thiếu anh tài! Chu Du, Trình Phổ mở đầu công trạng trong trận Xích Bích, đại nghiệp chưa hoàn thành đã qua đời, may được Lỗ Túc, Tôn Du kế tiếp, nay hai người bọn họ cũng không còn nữa, thì lại có Lã Mông, Tôn Hiệu. Xin cho nhân sĩ trí dũng không bao giờ tuyệt, chỉ cần có thể sai phái anh tài tùy cơ hành sự, ta còn sợ gì hai lão Tào Tháo, Lưu Bị?
Tôn, Tào hòa hảo
Tôn Quyền không biết rằng, trong lúc ông phái Từ Tường đi sứ Tào doanh, Tào Tháo há chỉ ngồi đợi sứ giả của ông ta tới. E là chậm một chút nữa, sứ giả của Tào Tháo đã qua bên đó trước rồi - Tình hình ôn dịch quá ghê gớm!
Binh mã quân Tào nhiều gấp đôi Tôn Quyền, nhưng số người nhiễm bệnh đâu chỉ dừng lại ở con số gấp đôi, binh lính phương bắc tới Hoài Nam vốn không hợp thủy thổ, lại thêm trận chiến vừa rồi không ít người bị thương, bệnh dịch cùng lúc lan thành tai họa. Trước khi xuất chinh Tào Tháo đã có sự chuẩn bị, mang theo rất nhiều loại dược liệu như sài hồ, đương quy, hoàng cầm, phục linh để làm một nồi thuốc lớn trong doanh cho tướng sĩ uống, nhưng không có mấy tác dụng, ngày nào cũng có binh sĩ ngã bệnh, người chết đã vượt quá ba ngàn.
Không chỉ binh sĩ khốn khổ vì bệnh ác, tướng lĩnh, quan viên cũng không thoát được, thị trung Vương Xán nhiễm bệnh dịch qua đời. Trong rất nhiều văn sĩ mà Tào Tháo chiêu mộ, Vương Xán được sủng ái, tín nhiệm nhất, và cũng có chức vị cao nhất, do ông ta là hậu duệ danh môn, hai đời tằng tổ Vương Cung và tổ phụ Vương Sướng đều giữ chức tam công, phụ thân Vương Khiêm cũng từng là Trưởng sử của Đại tướng quân Hà Tiến, có giao tình với Tào Tháo. Thêm vào đó, Vương Xán chịu ảnh hưởng sâu sắc từ phong cốt của Sái Ung, lời văn phóng khoáng nhưng không mất đi kinh nghĩa chính đạo, không những sáng tác một lượng thơ văn đồ sộ, còn lĩnh ý Tào Tháo viết không ít chính luận, ngay tới những bài văn khắc trên chuông, đỉnh trong Ngụy cung cũng đều do ông ta soạn ra. Cho đến khi qua đời, người ta còn phát hiện ra trong số di vật của ông ta còn có mấy quyển văn cảo chưa viết xong, như Đông Quán Hán ký, ghi chép về các thế lực cát cứ như Viên Thiệu, Hàn Phức, Công Tôn Toản, Viên Thuật, Lã Bố từ loạn Đổng Trác đến nay, giống như một bộ sử (người đời sau đặt tên là Anh hùng giao tranh ký hoặc Hán mạt anh hùng ký, là một trong những tài liệu tham khảo của cuốn Tam quốc chí Bùi chú(*)). Từ sau Sái Ung, Khổng Dung, Vương Xán được coi là người đứng đầu văn sĩ trong thiên hạ, nào ngờ mới bốn mươi mốt tuổi đã đổ bệnh mà chết, để cho dải ngân hà lấp lánh lại biến mất một ngôi sao Văn Khúc.
Tào Tháo đau xót, cho người liệm xác Vương Xán, đợi về Nghiệp Thành sẽ cử hành tang lễ sau. Vừa lo xong việc này, Nghiệp Thành lại báo tin buồn, quan Phụng thường Vương Tu, trọng thần triều đình nước Ngụy mắc bệnh qua đời, ông ta là vị công khanh thứ tư qua đời trong nửa năm ngắn ngủi, xem chừng tình hình bệnh dịch ở Hà Bắc cũng không khá hơn chiến trường là mấy. Đứng trước những tin buồn dồn dập, ham muốn chiến sự trong đầu Tào Tháo cũng bị dao động, ông cất quân nam chinh nhằm mục đích uy hiếp Tôn Quyền, chuẩn bị cho cuộc tây chinh tiêu diệt Lưu Bị, nếu vì ôn dịch mà tổn thương nặng nề nguyên khí, thì dù có khiến kẻ địch phải khuất phục, cũng không thể bù đắp được mất mát. Tào Phi còn lo lắng hơn, bởi lần này xuất chinh không có huynh đệ khác đi theo, bản thân lão nhân gia lại mang sẵn bệnh, ở lâu trong quân doanh đang bị bệnh dịch hoành hành, vạn nhất xảy ra bất trắc thì làm thế nào? Hơn nữa, còn có mẫu thân, nhi tử và nhi nữ của y, bất kể người nào nhiễm ôn dịch đối với y mà nói đều là nỗi đau lớn. Tào Phi mong sớm thu binh hơn cả phụ thân. Hai phụ tử chau mày lẩm bẩm, thực sự chỉ còn cách chủ động nghị hòa, không ngờ vào giờ khắc quan trọng sứ giả của Tôn Quyền lại đến trước.
Vừa nghe được tin này, lông mày Tào Tháo giãn ra, vẻ mặt rầu rĩ cũng biến mất, tinh thần được lấy lại, ông hiên ngang bước vào ngồi trong trướng trung quân, đọc thư Tôn Quyền gửi tới với những lời lẽ khiêm tốn, nhũn nhặn. Tào Tháo mắng Từ Tường một trận xối xả, nào là vượt quyền trái phép, động loạn can qua, mộ binh tự vệ, sát hại đồng liêu, thực không giữ thể diện cho người ta!
Từ Tường được Tôn Quyền căn dặn trước, bất luận Tào Tháo nói thế nào cũng phải cho ông ta là đúng, nên còn nhiều lần nhấn mạnh:
— Tệ ấp ngu muội, huênh hoang tự đắc, giao tranh với vương sư để đến nỗi chuốc lấy thất bại như ngày hôm nay. - Thực ra, hai nhà đều có cái được và cái mất, khó có thể phân rõ thắng thua, nhưng Từ Tường cứ nói Giang Đông nhận thua rồi, - Hai nhà Tôn, Tào vốn là chỗ thân thiết, cùng chung vui buồn, mong Thừa tướng khoan thứ cho lỗi lầm của tướng quân nhà tại hạ. Hai nhà coi trọng quan hệ thông gia, mỗi bên đều tự bãi binh, không những tướng sĩ nam bắc được bình an, mà dân chúng Giang Biểu cũng cảm tạ đại ân. - Tào Chương lấy con gái Tôn Bí, đường huynh của Tôn Quyền, đệ đệ của Tôn Quyền là Tôn Khuông lại lấy cháu gái Tào Tháo, hai nhà đúng là có quan hệ thông gia. Có điều liên hôn vì mục đích chính trị kiểu này làm gì có tình thân, chẳng qua Từ Tường chỉ tìm lời để nói.
Tào Tháo cười bảo:
— Hai nhà đúng là có quan hệ thông gia, nhưng một khi danh bất chính thì ngôn bất thuận, ngôn bất thuận thì sự khó thành. Tôn Trọng Mưu cát cứ vùng đông nam, tạo thế lực riêng, thực mang lòng phản nghịch. Muốn ta bãi binh cũng không khó, miễn là hắn chịu xưng thần với quả nhân! - Chuyện lớn thế này Từ Tường sao dám tùy tiện quyết định? Ông ta nói mình không dám chuyên quyền, xin sang sông hỏi ý chúa công rồi sẽ quay lại bẩm báo, Tào Tháo vui vẻ đồng ý.
Tư Tường đi về cũng nhanh, chưa tới nửa ngày đã quay lại, người nhễ nhại mồ hôi, vẻ mặt rạng rỡ:
— Tướng quân nhà tại hại có lời rằng, dưới gầm trời này, chẳng có chỗ nào không phải đất của thiên tử, men theo ven bờ, chẳng có dân nào không phải bề tôi của thiên tử. Một khi đã nhận là đất của nhà Hán, thì cũng là bề tôi nhà Hán.
— Tôn Trọng Mưu khá lắm, lánh nặng tìm nhẹ, đổi ý của quả nhân. - Tào Tháo cười nhạt, - Ý ta là xưng thần với nước Ngụy, chứ không phải xưng thần với nhà Hán.
Từ Tường ngây người ra, suy nghĩ một lúc, lại nói:
— Điện hạ vừa là tướng nhà Hán, vừa là thân thích của thiên tử, Tào Ngụy dựng nước bảo vệ Hán bang, biên cương nhà Hán do nước Ngụy trông giữ, Hán, Ngụy thực ra cũng là một. Tôi nhà Hán với tôi nước Ngụy có khác gì nhau?
— Ha ha ha!… - Tào Tháo ngửa cổ cười phá lên, - May mà ngươi suy nghĩ lanh lẹ nên mới có thể ngụy biện như thế, vừa không chịu nhục xưng thần, lại vừa không trái ý quả nhân!
— Điện hạ quá khen. - Từ Tường cũng cười gian.
Sau một tràng cười, Tào Tháo mới nói:
— Thôi được, cứ vậy đi, quả nhân đồng ý nghị hòa, trước hết thu một nửa quân mã đóng ở dọc bờ sông để tỏ thành ý. Hôm khác ta phái sứ giả qua sông bàn tiếp việc bãi binh. - Tào Tháo cố làm ra vẻ uy nghiêm, nhưng cũng giữ chừng mực để lấy lợi về mình, bởi Tôn Quyền có giới hạn không thể vượt qua, nếu một mực muốn phân biệt rõ rành xưng thần với ai thì việc thương nghị sẽ đi vào bế tắc.
— Tạ ân điện hạ. - Từ Tường làm tròn sứ mệnh, vui mừng mà đi.
Tào Phi ở bên cạnh nghe mãi vẫn không hết nghi ngờ, thấy Từ Tường lui ra liền can rằng:
— Tôn Quyền là kẻ lật lọng, phụ vương không nên quá tin tưởng, bên trong hẳn là có âm mưu gì đó. Chuyện xưng thần chỉ là giả đò cho xong, ta phải phòng bị nghiêm ngặt hơn, tránh có biến.
Tào Tháo vỗ đầu nhi tử, giáo huấn:
— Người làm cha như ta há lại không biết hắn giả đò? Từ xưa đến nay, muốn làm nên chuyện lớn tất phải lấy được lòng tin của người khác, thằng nhãi Tôn Quyền tuy chưa thần phục, nhưng muốn mượn sức của ta để chế ước giặc tai to, sao có thể dễ dàng bội tín mà tự chuốc lấy họa? Hắn biết ta mới dựng nghiệp vương, cần có uy danh, nên mới bày đặt đi lại. Ngược lại, nếu sau này hắn và giặc tai to đối địch, mà tới nhờ vả, ta cũng phải xuống nước với hắn. Lấy lòng tin của người khác không chỉ dừng lại ở việc lấy lòng tin của bề tôi, đôi khi còn phải giữ chữ tín với cả kẻ thù. Làm vậy vừa lợi cho người vừa lợi cho mình, giả đò cũng có chỗ cần thiết. Tâm cơ của con còn kém Tôn Quyền một bậc, hãy từ từ lĩnh hội sự ảo diệu bên trong đi!
Tào Tháo cùng tuổi với Tôn Kiên, đáng bậc trưởng bối của Tôn Quyền, Tào Phi nhỏ hơn Tôn Quyền năm tuổi, nhưng luôn tự cho mình mưu trí hơn ông ta, nghe phụ thân nói vậy thì không phục lắm, miệng lầm rầm:
— Dù vậy cũng phải giữ quân ở đây đề phòng bất trắc.
— Tất nhiên. - Tào Tháo đã sớm có tính toán.
Trong trận chiến tại bến Tiêu Diêu, Trương Liêu khiến tướng sĩ Giang Đông kinh hồn bạt vía, phụ vương đã gia phong ông ta làm Chinh Đông Tướng quân, lại cho Vu Cấm, Nhạc Tiến thống lĩnh bản bộ binh mã hợp lực chống giữ, còn Tang Bá chỉ huy thủy quân Thanh Châu vận chuyển xe lương tiếp tế. Có bốn tướng ấy là đủ uy hiếp quân Giang Đông một thời gian, binh mã các bộ khác có thể kéo dần về bắc, chuẩn bị tây chinh.
Tào Tháo và Tôn Quyền hòa hảo, sứ giả hai bên qua lại liên tục, tới tháng Ba năm Kiến An thứ hai mươi hai việc nghị hòa thành công, tướng sĩ hai bờ nam bắc sông Trường Giang thở phào. Bấy giờ cả hai bên đều không ngờ rằng, lần bãi binh này lại kéo dài những sáu năm.
Bỏ quân chạy trước
Việc nghị hòa đã có kết quả, hơn nữa còn là một kết quả mà cả hai nhà Tôn, Tào đều chấp nhận được. Chiến tranh đã dừng nhưng ôn dịch chưa qua, tháng Ba lại là thời điểm ôn dịch phát triển mạnh nhất, tình hình bệnh dịch không những không được khống chế, ngược lại còn có chiều hướng nghiêm trọng hơn.
Tào Tháo tuổi cao sức yếu, nếu như nhiễm bệnh e là khó giữ được tính mạng, nên đã dời hành dinh gồm cả gia quyến tới nơi đồn trú cách Cư Sào ba dặm về phía tây, mang theo những tướng sĩ khỏe mạnh, cường tráng.
Tào Phi lấy danh nghĩa hầu hạ phụ mẫu cũng đi theo, mọi chuyện ở liên doanh đều giao lại cho bọn Hạ Hầu Đôn, Tào Nhân và Hoa Hâm xử trí. Ngày nào Tào Tháo cũng uống những bát canh phục linh to tướng, ngồi xếp bằng vận khí theo cách Khích Kiệm, Cam Thủy đã truyền cho - Kỳ thực, việc này cũng không có hiệu quả, bệnh đau đầu và tê liệt vẫn như trước, nhưng ngồi thiền dường như khiến ông được an ủi đôi chút. Tào Phi và Biện thị không ngăn cản, dù cho cách đó không chữa được thân bệnh thì ít nhất cũng có thể giải trừ tâm bệnh.
Mấy ngày sau, có mật thư từ Hứa Đô gửi đến, Gián nghị đại phu Đổng Chiêu nghe tin Tôn Quyền “xưng thần” với nước Ngụy, lại thúc đẩy chuyện khuyến tiến. Lúc này Tào Phi không còn kiêng dè gì nữa, đứng bên cạnh cùng xem thư, liền phụ họa:
— Từ xưa, cứu nguy chẳng ai bằng phụ vương, nay kẻ địch chưa diệt được, nhưng Tôn Quyền đã có ý thần phục, nhân cơ hội này chắc chắn làm được. - Tào Phi nói lời ấy xuất phát từ đáy lòng, nhưng cũng có tư lợi. Trong mắt Tào Phi, nhà Hán từ lâu đã không còn, phụ thân xưng đế là lẽ đương nhiên, không cần phải giả bộ từ chối. Nếu phụ thân lên làm hoàng đế, y nghiễm nhiên trở thành hoàng thái tử, sau này trực tiếp kế thừa đế vị, còn nếu sinh thời phụ thân chưa xưng đế, việc này sẽ đổ lên đầu y, chẳng những phạm vào đại tội trong thiên hạ mà còn gặp không ít trắc trở, chi bằng để lão ngài làm.
Nhưng Tào Tháo nói:
— Thiên hạ chưa ổn định, nên tính kế vẹn toàn. Huống chi năm nay đại hung, lê dân chịu khổ mà còn đăng cơ thì khác nào để cho người ta nắm được chuôi. Ta không làm được thiên tử, nhưng có thể lệnh cho Đổng Chiêu thay ta mưu tính tinh kỳ, nghi trượng của thiên tử. - Tào Tháo không đăng cơ nhưng muốn có đồ nghi trượng của thiên tử, ấy là muốn làm hoàng đế mà không dám làm, không làm lại không cam lòng.
Tào Phi nào dám nhiều lời? Hai người là phụ tử nhưng cũng là quân thần, hành sự quá sốt sắng cũng dễ bị ghét, mối quan hệ này rất tế nhị. Tào Tháo cúi mắt xuống như thể đang suy nghĩ xem mình còn cách ngôi rồng bao xa, mãi sau lại nói:
— Trước mắt có ba chuyện lớn, một là ta mới dựng nghiệp vương, các loại quy chế lễ nghi của triều đình còn chưa hoàn chỉnh; hai là trong cuộc tây chinh sắp tới, dù không bình định được bốn biển thì cũng phải tiến quân vào đất Thục đánh bại Lưu Bị, chỉ cần nắm được bảy phần thành công cũng phải thử… - Tào Tháo bất giác hạ thấp yêu cầu, trước đây ông cho rằng mình nhất định phải thống nhất thiên hạ, tiếp đến xưng đế, giờ lại nói chỉ cần nắm được bảy phần thành công cũng phải thử. Thế nhưng, ông có thể khoan thứ với mình, người thiên hạ liệu có khoan thứ với ông không? Mỗi lần được sắc phong, Tào Tháo đều chối từ ba lần rồi mới chịu nhận, còn nói bao nhiêu lời trung thành với nhà Hán, nếu xưng đế há chẳng phải tự vả vào mặt mình hay sao? Cứ nghĩ đến những điều này, Tào Tháo lại như bị rặm ở lưng.
— Còn chuyện thứ ba ạ? - Tào Phi dè dặt hỏi.
Tào Tháo không nói - có lẽ chuyện thứ ba quan trọng hơn hai chuyện kia, đó là thân thể ông ngày một già yếu. Tào Tháo rất muốn khỏe lại, nên nghĩ mọi cách tìm thầy hỏi thuốc, để có thể xuất hiện trước mặt chúng nhân với dáng vẻ khỏe mạnh. Nhưng mà quá khó, dù là danh y như bọn Lý Đương Chi hay phương sĩ như bọn Khích Kiệm cũng không thể giúp ông khỏe lên được, trái lại bệnh đau đầu và tê liệt còn nặng hơn. Lẽ nào những năm tháng còn sống trên đời ông cứ phải đeo theo cái thân thể bệnh tật này ư? Ông không cam lòng!
Tào Phi thấy phụ thân lại trầm tư, không dám hỏi nhiều, mãi lúc lâu sau mới nghe ông nói:
— Không nói chuyện này nữa. Đã mấy ngày rồi chưa qua liên doanh, chúng ta mau đi xem thử. Nếu lòng quân không có trở ngại gì, phải sớm về bắc, thời gian không đợi ta nữa. - Tào Phi lĩnh mệnh, đích thân đi chuẩn bị xa trượng. Nửa năm nay y luôn ở bên phụ thân, tuy hiểu rõ suy nghĩ trong lòng phụ thân, cầm quân không có trở ngại gì, nhưng cũng cảm thấy trái tim phụ thân đã già, cách nhìn nhận nhiều việc cũng vô tình thay đổi, muốn khuyên mà không khuyên được, chỉ biết thuận theo tự nhiên.
Tào Phi sắp xếp xong xa trượng, đợi một lúc cho Tào Tháo uống hết bát canh phục linh mới ra khỏi doanh. Tào Phi dường như sợ phụ thân cô đơn, còn mời mẫu thân đi cùng - Không biết đây là lần thứ mấy Biện thị theo quân, giờ Biện thị cũng đã là một bà già tóc bạc, không còn kiêng kỵ nhiều nữa.
Tào Phi cho cả Tào Duệ ngồi trong xe để cậu bé làm lão phu thê được vui, còn mình cưỡi một con ngựa lớn đi trước dẫn đường, bọn Hứa Chử, Hàn Hạo, Khổng Quế và Trần Y theo hầu.
Chớp mắt đã đi được ba dặm, Tào Tháo sợ lây bệnh, lệnh cho xa giá dừng lại ngoài doanh, truyền các tướng ra tương kiến. Quân sư Hoa Hâm bẩm tấu:
— Mấy ngày vừa rồi lại có hơn trăm binh sĩ bị chết, người bệnh nặng là bảy ngàn, hiện đã chuyển hết xuống đồn trú ở hậu doanh. Các bộ khác cũng có rất nhiều binh sĩ nhiễm bệnh, ít nhất phải nghỉ ngơi nửa tháng mới có thể thu quân. - Hoa Hâm vốn không có tài trù hoạch việc quân, chỉ giỏi xử lý chính vụ, dùng ông ta làm quân sư chẳng qua là mượn danh.
Nghe nói còn phải đợi nửa tháng nữa, Tào Tháo không vui, nhưng chẳng biết làm sao, đành xua tay cho các tướng lui xuống, ruổi xe đi tuần bờ sông. Nay đang vào mùa xuân, nước sông dâng đầy, từng làn gió nhẹ hiu hiu thổi làm mặt nước lăn tăn gợn sóng, những bông hoa dại nở khắp hai bên bờ sông, trông rất bình yên. Các chòi canh bên Tào doanh không còn bao nhiêu người, chỉ lác đác vài tên lính; thủy quân phía Giang Đông cũng đã rút quá nửa, chỉ còn vài chiếc thuyền xích mã tuần tra giữa lòng sông, nhưng trên bờ sông vẫn có không ít lán trại, tinh kỳ và vũ khí lấp lóa ánh kim dưới ánh mặt trời. Quân Tào chưa lui, bọn họ cũng không dám thu quân, vẫn khá cảnh giác.
Tào Tháo cảm khái mãi không thôi: Trường Giang, Trường Giang ơi! Cả đời ta không vượt qua được rãnh trời! Cả đời ta không thể trị khỏi vết thương lòng! Nếu không có dòng sông rộng lớn là ngươi, chẳng phải thiên hạ đã sớm thuộc về nhà họ Tào rồi ư? Các đời hoàng đế nhà Tần dựng nước có từng nghĩ, các ngài không đặt vùng đất hoang Giang Nam vào mắt mình, đủ để hậu thế dựng nên một nửa giang sơn không? Trong trận ác chiến Xích Bích, ta thất bại thảm hại dưới tay Chu Du; đánh mãi không nên công cán gì, bốn lần vượt Sào Hồ không thành. Thằng nhãi Tôn Quyền đúng là anh hùng đời nay! Giờ từ biệt không biết khi nào mới lại giao tranh với hắn, có lẽ đời này không còn cơ hội nữa…
— Đại vương. - Biện thị dường như nhận ra nỗi thương cảm trong lòng phu quân, vỗ nhẹ vào đầu gối ông, vừa cười vừa chỉ, - Nhìn bên này.
Tào Tháo ngoảnh mặt lại nhìn, đằng xa có một đám quan viên trẻ tuổi vây quanh Tào Phi nói nói cười cười: có bọn duyện thuộc mới được bổ nhiệm như Lưu Thiệu, Phó Phương, Hồ Tu, Lý Đàm, Sạn Tiềm, Vương Quan, lại có bọn văn sĩ tiếp bước như Tuân Vĩ, Vương Tượng, Mậu Tập, Hoàn Phạm, Ứng Cừ, Đổng Ba, cùng với các tướng tá như Ngưu Kim, Gia Cát Kiền, Đái Lăng, Văn Khâm, Thường Điêu, Vương Song. Đám người này cũng thật cơ trí, biết Tào Phi là chủ tử tương lai nên tranh nhau nghênh đón.
Khổng Tử có câu “Yên chi lai giả chi bất như kim dã”,(*) người xưa đi rồi lại có người mới tới, lo gì không có ai kế tục? Tào Phi nói chuyện trên trời dưới đất với bọn họ rất vui, trông lại có dáng dấp quân thần của một triều đại mới. Tào Tháo nổi lòng đố kỵ, thốt ra một câu kỳ quặc:
— Xem ra ta già thật rồi, bọn chúng đều đi hầu hạ Tử Hoàn mà chẳng đoái hoài đến quả nhân.
Tào Duệ quỳ gối phía sau, lúc thì đấm lưng cho tổ phụ, lúc lại bóp vai cho tổ mẫu, Biện thị nắm bàn tay nhỏ nhắn của cậu bé, cười nói:
— Duệ nhi à, cháu đâu phải ông cụ non, cháu là một tiểu đại nhân đấy. Chớ ở mãi trên xe nữa, mau đi chơi đi. - Mấy hôm trước khai chiến, Tào Duệ luôn ngồi im trong quân trướng, đến khi đình chiến lại phải hầu hạ tổ phụ, tổ mẫu, dù sao cũng là trẻ con, nghe tổ mẫu nói cho phép đi chơi, cậu ta nhảy tọt xuống xe, chạy thoăn thoắt ra bờ sông.
— Tiểu công tử ơi, cẩn thận kẻo ngã! - Khổng Quế đứng hầu sau xe, trông thấy Tào Duệ chạy ra xa, cũng cuống quýt xuống ngựa đuổi theo - Nịnh cha không ích gì, nịnh con lại không chịu, thôi đành nịnh đứa cháu vậy!
Nhìn Tào Duệ đã chạy đi chỗ khác, Biện thị mới nói:
— Sao đại vương lại nói những lời đó trước mặt tôn nhi? Bọn họ kính cẩn với Tử Hoàn không phải chuyện tốt hay sao? Nếu ai cũng không coi nó ra gì, thì làm sao làm thái tử được?
— Nàng nói cũng phải. Trong các nhi tử của ta chẳng có đứa nào thật thà, cả Thực nhi, Chương nhi cũng vậy. Hôm trước Bưu nhi gửi thư đến, hỏi thăm sức khỏe mấy câu rồi mới lòi ra câu hỏi thực: Ai sẽ được lập làm thái tử! Ta không giấu giếm, viết thẳng dưới thư gốc gửi trả lại nó rằng, các con đều được phong hầu, chỉ có Ngũ quan tướng không được phong hầu, con nói xem ai sẽ làm thái tử? Ôi… mất bao nhiêu tâm sức mới xác định Tử Hoàn là thái tử, há ta có thể đối kỵ với nó? - Tào Tháo nói vậy, nhưng trong lòng vẫn ngậm ngùi chua xót - Phụ tử tình thâm, có điều địa vị và quyền lực tối cao chỉ có một, phải chia sẻ với kẻ khác thì trong lòng luôn thấy không vui, - Trước đây ta hay hỏi nàng, trong ba nhi tử của nàng, đứa nào ngoan nhất, nàng luôn tránh né, giờ có thể nói cho ta biết được rồi chứ?
Biện thị mỉm cười:
— Thiếp tránh né đại vương, lẽ nào đại vương không tránh né thiếp? Đã hơn một năm đại vương chưa nghỉ lại ở chỗ thiếp. Theo thiếp thấy… Tử Hoàn đáng tin nhất, Tử Kiến đáng yêu nhất, nhưng đứa gần gũi nhất lại là Tử Văn.
— Nàng… - Tào Tháo định nói bà xảo ngôn, nhưng chợt thấy những lời phu nhân nói cũng đúng - Tào Phi hành sự thận trọng, lòng dạ thâm sâu; Tào Thực đa tài anh tuấn, tâm địa lương thiện; còn Tào Chương là người không bụng dạ nào, thẳng thắn bộc trực, nhưng không phải phụ tử những nhà bình thường nên như vậy sao? Biện thị cũng có chủ kiến, chỉ là không muốn thể hiện ra mà thôi, cả ba nhi tử đều do bà sinh ra, bảo bà phải chọn lựa thế nào đây? Nếu không phải Tào Tháo đã xác định chủ ý thì bà vẫn sẽ giữ im lặng.
Mấy năm nay, Biện thị hiếm khi được ở riêng với ông, nhân cơ hội này góp lời:
— Có chuyện này thiếp muốn nói với đại vương từ lâu, nhưng sợ người nghĩ nhiều. Triệu cơ có quan hệ thân thiết với thê tử của Tử Kiến, mà Trần cơ lại do Triệu cơ tiến cử với đại vương, hẳn là nàng ta không ít lần nói tốt về Tử Kiến trước mặt đại vương? - Nếu là một năm trước, Biện thị không thể nói ra những câu này, một là vì khi đó Tào Thực vẫn đang được tin tưởng, hai là Trần cơ mới sinh được tiểu vương tử Tào Cán, rất được sủng ái, chưa đầy một tuổi đã được phong hầu. Bấy giờ Biện thị mà nói bọn họ can thiệp vào chuyện lập người kế vị, tám phần Tào Tháo sẽ cho rằng bà ghen tuông.
— Ừ. - Tào Tháo dường như không muốn nhắc tới chuyện này, đáp bừa một tiếng.
— Nay Tử Hoàn sắp lên làm thái tử, cũng nên quản giáo bọn họ hơn.
— Ừ.
— Đại nam nhân như đại vương nếu không tiện ra mặt, thì để thiếp quản thúc bọn họ…
Tào Tháo không đợi bà nói hết câu đã cắt ngang lời:
— Nàng nghĩ quả nhân không có mắt ư? Chuyện này ta tự có cách xử lý, nàng không cần lo! - Chút ấm áp, ân cần vừa có giữa đôi phu thê già vụt tan biến, Tào Tháo lại trở về với thái độ độc đoán, tự cho mình là nhất thường ngày. Biện thị không dám nói thêm, khẽ thở dài một tiếng rồi ngồi ngây ra bên cạnh người bạn đời cả đời ngang ngược của mình.
Không lâu sau có tiếng vó ngựa vang lên, Hạ Hầu Đôn quay trở lại. Tào Tháo nhìn thần sắc của ông ta, đoán là có chuyện bất thường:
— Xảy ra chuyện gì?
Hạ Hầu Đôn không kịp xuống ngựa liền bẩm báo:
— Tư Mã sứ quân đã qua đời.
— Chao ôi! Một người nữa lại ra đi. - Khuôn mặt Tào Tháo toát lên vẻ bất lực.
Thứ sử Duyện Châu Tư Mã Lãng vốn không phải người tòng quân, Tào Tháo dừng chân ở huyện Tiều, muốn hỏi tình hình chính sự tại các địa phương, nên mới điều Thứ sử mấy châu lân cận đến đó. Tư Mã Lãng vừa đến thì được bố trí theo quân, kiêm việc quân lương. Tháng trước ôn dịch hoành hành mạnh, lòng quân dao động, để giúp Tào Tháo ổn định nhân tâm, Tư Mã Lãng đã đi tuần khắp doanh, đưa thầy tặng thuốc, thăm hỏi bệnh tình binh sĩ, không ngờ vì thế mà cảm nhiễm thương hàn. Tào Tháo sai nhiều danh y cứa chữa nhưng không có chuyển biến tốt, gắng gượng được một tháng tới hôm nay vẫn phải lìa đời.
Quá nhiều người mất trong thời gian ngắn, Tào Tháo như chết lặng, chỉ thẫn thờ hỏi:
— Ông ta có trăng trối điều gì không?
Hạ Hầu Đôn cảm khái:
— Ông ấy nói mình nhận ơn sâu của đất nước, đôn đốc binh mã vạn dặm, công nhỏ chưa thành mà đã mắc bệnh dịch, thực phụ ơn vua. Sau khi ông ấy chết, chỉ cần thu liệm qua loa bằng tấm khăn mảnh vải, giản tiện tang lễ, thiên hạ chưa ổn định, đại vương lại chuộng tiết kiệm, không được làm quá xa hoa, trái với ý trên.
— Đến chết vẫn không quên ơn quả nhân… - Tào Tháo không than vãn, cũng không rơi nước mắt, chỉ có nỗi thương xót không thể nói nên lời. Bốn mươi năm trước, Tào Tháo muốn được xét hiếu liêm nên từng đến nhờ vả quan trên của Tư Mã Phòng(*), ân oán giữa hai nhà họ Tào và họ Tư Mã cũng bắt đầu từ đó.
Ban đầu, ông cho nhi tử của Tư Mã Phòng ra làm quan chẳng qua là xả mối hận trong lòng, báo thù sự đối đãi lạnh nhạt của Tư Mã Phòng khi xưa, báo thù bọn danh môn vọng tộc như Tư Mã thị ở Hà Nội dám coi thường ông, không ngờ lại có được một viên quan tài năng, trung thành, tận tụy đến chết không đổi. Tào Tháo hơi hổ thẹn, lại nghĩ đến nhị đệ của Tư Mã Lãng là Tư Mã Ý, chỉ vì qua lại quá thân mật với Tào Phi và có những hành động tựa như “ưng xem sói trực” mà bị khiển trách, kể cũng có phần thiên lệch. Thực ra, có ai không muốn được thăng quan? Chẳng phải năm đó ta cũng tìm mọi cách luồn lọt để được làm Lạc Dương lệnh ư? Đánh chết cường hào cố nhiên là chấp pháp nghiêm minh, nhưng cũng vì muốn nổi danh. Ta còn làm vậy, cớ sao người khác lại không được làm, quan trường chẳng phải nơi mục ruỗng ư? Dù sao chuyện lập Tử Hoàn làm người kế vị đã chắc chắn, Tư Mã Ý là kẻ có tài, xét về thân phận của huynh đệ hắn, cũng nên bỏ qua thôi…
— Nguyên Tự, ông sao thế? - Tiếng gọi của Hứa Chử cắt ngang dòng suy nghĩ của Tào Tháo, ông quay đầu lại nhìn thì thấy Hàn Hạo lắc lư trên lưng ngựa, rồi cả người rớt xuống đất!
Hứa Chử, Trần Y vội xuống ngựa đỡ Hàn Hạo, các thân binh cũng chạy tới, ngay cả bọn Tào Phi, Hạ Hầu Đôn ở đằng xa cũng xúm lại. Tào Tháo xuống xe:
— Sao vậy? Sao lại ngã ngựa? - Hàn Hạo thân là Trung hộ quân, trọng thần của Tào Tháo, mọi việc trong trung quân đều do ông ta xử lý, nhất là mấy năm gần đây Tào Tháo già yếu, trách nhiệm trên vai ông ta càng nặng nề. Hàn Hạo tự dưng ngã từ trên yên ngựa xuống, mọi người há lại không lo lắng, sốt ruột cho được?
Toàn thân Hàn Hạo đều run lập cập như bị sốt rét, Hứa Chử sờ tay lên trán ông:
— Nóng quá! Ông cũng… - Phút chốc vẻ sợ hãi đều hiện trên khuôn mặt mỗi người.
Hàn Hạo cười nhăn nhó nói:
— Chết tiệt! Lúc lười chẳng buồn nhấc tay, ta đã uống tạm hai bầu nước lạnh lấy từ dưới suối.
— Chớ nói nữa, ông nghỉ ngơi chút đi. - Hứa Chử gọi bộ hạ khiêng ông ta đi, mời y lại đến thăm bệnh.
Tào Tháo mới đầu còn tỏ ra lo lắng, lúc này chợt cảm thấy một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng: Người ở sát bên ta cũng mang bệnh, cái chết đã đến gần ta thế này rồi ư? Ông nghĩ đến những binh sĩ đáng thương hấp hối trong doanh, và xác chết mình tận mắt trông thấy vào ngày hôm ấy ở quê hương huyện Tiều, tóc gáy dựng ngược cả lên. Nháy mắt, lại thấy Tào Duệ đang chạy lại xem cảnh náo nhiệt, Tào Tháo chẳng nói chẳng rằng kéo cậu bé vào lòng, gắt lên:
— Không được qua đó!
— Đại vương, người… - Chúng nhân giật mình.
Tào Tháo đưa mắt nhìn bốn phía, cảm thấy tất cả đều đáng sợ - Sông Trường Giang cuộn sóng tung bọt, quân doanh tràn ngập bệnh dịch, thương tật, dường như mỗi tấc đất, nhánh sông đều bị khí độc xâm lấn, và đều có thể truyền bệnh cho ông, chúng đáng sợ hơn cả bệnh đau đầu, bại liệt. Ông chưa thể chết, ông còn chưa diệt được Tôn, Lưu, chưa lên ngôi cửu ngũ, cũng chưa chính thức sắc lập thái tử, ông nhất định phải sống tiếp.
Ánh mắt Tào Tháo lướt qua cảnh vật xung quanh một lúc lâu, rồi dừng lại trên người Hạ Hầu Đôn:
— Quả nhân phải trở về Nghiệp Thành, hôm nay khởi hành, binh mã ở đây giao lại cho khanh, mau sớm hồi kinh.
— Việc này… - Hạ Hầu Đôn thấy một vị vua bỏ lại binh sĩ của mình giữa nơi đang bị bao trùm trong bệnh dịch có vẻ như không hợp tình, hợp lý cho lắm. Nhưng nghĩ lại, trận chiến cũng đã kết thúc, Tào Tháo lại mang sẵn bệnh trong người, đi trước một bước cũng đỡ được nỗi lo thấp thỏm cho mọi người, - Tuân lệnh, đại vương đi đường bảo trọng.
Tào Tháo cuống quýt lên xe, gọi Hứa Chử, Trần Y và Khổng Quế hộ giá, dẫn ái thiếp cùng với tử tôn hốt hoảng rời đi, trông lếch thếch hơn cả bại trận!
Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 10 Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 10 - Vuong Hieu Loi Tào Tháo - Thánh Nhân Đê Tiện - Quyển 10