Khi phải chống chọi với những thử thách của cuộc sống, bạn đừng vội nản lòng. Bởi đó là cơ hội tốt để những khả năng tiềm ẩn trong bạn có dịp được phát huy.

S. Young

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 37
ó điều kỳ lạ nào đó đã xảy ra đối với thời tiết. Đã gần đến Giáng sinh, và tuy thế, dù chúng tôi đi qua lớp tuyết đông cứng, bầu trời vẫn trong sáng như là một ngày nắng vào tháng Bảy. Dù có khăn quàng quấn ngang mặt, mắt tôi vẫn cay sè vì ánh nắng chói chang. Hai con chó vui mừng vì lại được lên đường, và tôi hiểu được. Bên ngoài vực đá không có sự bất trắc hay lộn xộn. Chỉ có không gian và ánh sáng; đi qua hàng kilômét rồi vẫn còn hàng kilômét trước mặt. Sự việc xem ra...
Nhưng không phải đơn giản; chỉ vì bị tê cóng mà tôi nghĩ thế.
Khi mặt trời lặn, tôi nhận ra sự ngu dốt của mình đã dẫn đến điều gì. Thứ nhất, tôi ngã trên một con chó, và trong khi cố gượng đứng lên tôi làm rách chiếc váy đang mặc và khiến cho hai con chó sủa lên một tràng. Thế rồi, sau khi đặt xuống một chén thiếc đựng nước tan chảy từ tuyết, tôi không tìm thấy nó đâu. Cố kiềm chế nỗi sợ hãi, tôi gọi Parker, và ông này xem xét mắt tôi. Dù ông không nói, tôi vẫn biết mắt mình đỏ hoe và nước mắt giàn giụa. Những tia đỏ và tím ngang dọc tầm nhìn mù mờ. Có cảm giác đau nhức phía sau hai con mắt. Tôi biết đáng lẽ hôm qua mình phải che mắt trước khi ra đi, nhưng tôi đã không nghĩ đến việc này; tôi cảm thấy vui được đi với ông, và quả là thích thú khi ngắm nhìn khu bình nguyên rộng mở sau khi đã trông thấy khung cảnh bẩn thỉu của Hanover.
Parker dùng một mảnh vải nhỏ gói lá trà vào trong, làm mát trong tuyết để có một loại thuốc đắp ngoài da, rồi bảo tôi ép lên hai con mắt. Tôi cảm thấy đỡ hơn, tuy không hiệu nghiệm bằng vài giọt thuốc giảm đau bán ở cửa hiệu của Perry Davis. Có lẽ cũng tốt khi chúng tôi không có loại thuốc nào như thế. Tôi nghĩ đến Nesbit trong văn phòng, tù túng và bực bội; tôi đã lâm vào tình cảnh như thế.
“Từ đây... chúng ta còn đi bao xa nữa?”
Thói quen khiến cho tôi lấy gói lá trà đắp ra; không lịch sự khi nói với ai mà không nhìn họ.
Ông nói: “Đắp nó lên.” Và khi tôi đắp lại gói lá trà trên mắt, ông tiếp: “Ngày mốt ta sẽ đi tới đó.”
“Có gì ở đó?”
“Một hồ nước, với một ngôi nhà gỗ.”
“Tên là gì?”
“Tôi không rõ tên là gì.”
“Tại sao phải đi đến đó?”
Parker lưỡng lự trong cả một phút dài, nên tôi lén nhìn ông qua gói lá trà trên mắt. Ông đang nhìn ra khoảng xa xăm và có vẻ như không để ý: “Bởi vì lông thú ở đó.”
“Lông thú? Ý ông nói là lông thú của người Na Uy phải không?”
“Đúng.”
Bây giờ tôi hạ gói lá trà xuống và sôi nổi nhìn ông: “Tại sao ông muốn dẫn ông ta đi đến nơi này? Đấy chính là điều ông ta muốn!”
“Chính vì vậy mà ta đi. Phải tiếp tục.”
“Có thể nào chúng ta... giả vờ đi đến nơi khác?”
“Tôi nghĩ ông ta đã biết địa điểm. Nếu ta đi hướng khác, tôi nghĩ ông ta sẽ không đi theo. Trước đây ông ta đã đi qua đường này - ông ta và Nepapanees.”
Tôi nghĩ về ý nghĩa này: Nepapanees đã không trở về, thế thì anh ta còn ở đó. Và nỗi sợ lan tỏa trong tôi, thấm vào tận xương tủy rồi đọng lại ở đó. Quả là dễ khi che giấu phản ứng của tôi phía sau gói lá trà trên mắt; không dễ gì mà giả vờ can trường với việc này.
“Lối này, khi ông ta đến, chắc chắn rồi.”
Và rồi thì sao? Tôi thắc mắc, nhưng không dám nói ra. Một tiếng nói khác trong đầu tôi - tiếng nói quấy rầy - bảo: Bà đã có thể ở lại. Bà đã làm giường. Bây giờ nằm xuống đi.
Rồi, sau một lúc, Parker nói: “Bà há miệng ra.”
“Ông nói gì?” Liệu ông ấy đọc được ý nghĩ của tôi không? Nỗi xấu hổ dâng lên trong tôi, hầu như khỏa lấp nỗi sợ hãi.
Giọng ông nhẹ nhàng hơn, có vẻ thích thú về điều gì: “Bà há miệng ra.”
Tôi há miệng một chút, cảm thấy ngu ngơ như trẻ con. Có cái gì đấy có góc cạnh và cứng đè lên môi tôi, bắt buộc tôi phải há miệng rộng thêm, rồi đi vào miệng tôi một miếng gì đấy giống như băng nước hồ - dẹp và tan chảy. Ngón cái hoặc ngón trỏ của ông quét qua môi tôi, thô ráp như giấy nhám. Hoặc có lẽ đấy là găng tay của ông.
Tôi ngậm miệng lại quanh vật thể ấy, rồi nó ấm lên và tan chảy, vỡ ra thành vị ngọt ngào thấm đẫm, tạo thành một luồng nước cuốn xô trong miệng tôi. Tôi đang mỉm cười: đường phong. Tôi không rõ ông kiếm ra loại đường này ở đâu.
“Tốt chứ?” Ông hỏi, và từ giọng nói tôi cảm nhận ông cũng đang mỉm cười. Tôi nghiêng đầu qua một bên như thể đang nghĩ ngợi câu trả lời.
“Hừm.” Tôi nói nhẹ nhàng, vẫn cảm thấy an tâm phía sau túi lá trà. Điều này khiến cho tôi khinh suất: “Cái này làm cho mắt tôi tốt hơn chứ?”
“Không. Nó làm cho hương vị ngon hơn.”
Tôi hít một hơi thở sâu - lẫn mùi khói và hương vị ngọt ngào của mùa thu, đẩy lùi vị đắng của than củi. “Tôi sợ.”
“Tôi biết.”
Phía sau tấm mặt nạ của mình, tôi chờ đợi ngôn từ trấn an của Parker. Có vẻ như ông đang suy nghĩ, muốn lựa chọn ngôn từ một cách cẩn thận.
Chẳng có ngôn từ gì cả.
***
Có năm người tình nguyện trong nhóm tìm kiếm: Mackinley, một người bản xứ là Sammy làm hướng đạo; một anh trai trẻ ở địa phương tên Matthew Fox; Ross, người đàn ông có con trai và vợ đi khỏi nhà; và Thomas Sturrock, trước đây là Người Tìm kiếm. Trong cả nhóm, Sturrock nhận ra mình là người bất đắc dĩ; so với bốn người còn lại ông có vẻ chỉ là một ông già, và dù sao thì không ai rõ ông đang làm gì ở Caulfield. Chỉ nhờ tính giỏi thuyết phục mà ông có chỗ trong nhóm tìm kiếm, sau một buổi tối dài nói ngon ngọt với cái ông Mackinley có gương mặt như cáo và nhắc cho ông này về thành tựu của ông trong quá khứ. Thậm chí ông còn nói về kỹ năng của mình trong việc dò theo dấu vết, nhưng may mắn là Sammy không cần sự giúp đỡ nào, vì trên lớp tuyết mới còn tinh nguyên chói lòa Sturrock không thể nhận ra họ đang đi theo dấu vết hay không. Nhưng ông ở đây, mỗi bước giúp ông tiến gần hơn đến Francis Ross và mục tiêu cho chuyến đi đến Caulfield của ông.
Từ khi Maria Knox trở về từ Sault St Marie với câu chuyện khác thường về việc gặp gỡ Kahon’wes, trong ông lại dấy lên nỗi kích xúc mà ông nghĩ đã lịm tắt hẳn. Ông cứ mãi băn khoăn trong đầu: liệu Kahon’wes đã biết ông đứng phía sau vụ này không? Liệu những cái tên mà ông nói ra chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên? Không thể nào. Ông đã cho rằng tấm thẻ được viết bằng ngôn ngữ Iroquois và ghi chép Liên minh Năm Dân tộc. Ai biết được, có thể nó được viết ra vào thời ấy. Dù đúng hay không, ông vẫn nhận ra những hệ quả lớn lao hơn của phát hiện này: tạo ảnh hưởng đối với chính sách dành cho người Da Đỏ; gây bối rối cho các chính quyền hai bên đường biên giới; tạo thêm trọng lượng cho người bản địa đòi quyền tự quyết. Ai lại không muốn làm việc tốt và còn được lợi cho cá nhân khi làm việc này?
Đấy là những ý nghĩ của ông trong vài tiếng đồng hồ đầu tiên. Rồi ông bắt đầu nghĩ - do óc thực dụng - có thể Maria đã nói đúng, và vật ấy chỉ là thứ giả mạo khôn ngoan. Trong sâu thẳm của đầu óc, ông biết việc đó không tạo khác biệt gì cả. Ông sẽ thuyết phục Kahon’wes ủng hộ mình; việc này là không khó. Nếu ông trình ra tấm thẻ với đủ luận cứ thuyết phục và khôn khéo (không có vấn đề gì ở đây), phản ứng đầu tiên sẽ làm cho ông nổi danh; những tranh cãi tiếp theo sau sẽ chỉ giúp cho thêm nhiều người biết đến ông. Còn việc không biết tấm thẻ hiện đang ở đâu, thì ông không muốn lo lắng quá. Ông tin chắc rằng Francis Ross đã nhận được tấm thẻ này, và rằng ngay khi họ tìm ra anh thì ông sẽ có cách nói để anh trao nó cho ông. Ông đã dượt đi dượt lại những luận cứ mình sẽ sử dụng...
Ông vấp qua một cái gì đó, giày đi trên tuyết của ông vướng vào một mảng băng, và ông quỳ xuống. Là người đi cuối trong nhóm, ông dừng lại, một bàn tay mang găng chống lên mặt tuyết, trong khi ông lấy lại hơi thở. Các khớp xương ông đau nhức vì lạnh. Đã nhiều năm đi đây đi đó như thế này mà ông đã quên cơ thể mình bị ảnh hưởng ra sao. Hy vọng đây là chuyến đi cuối cùng. Người đi kế bên, Ross, nhận ra ông tụt lại phía sau và đứng lại chờ ông. Cảm ơn Trời là ông này đã không quay trở lại để tìm cách giúp ông; như thế thì mất mặt quá.
Maria đã kể lại việc trông thấy Ross đi cùng một phụ nữ ở Sault St Marie, và đã đặt câu hỏi liệu việc bà vợ ông ra đi có phải là chuyện vô tư như người ta đã nghĩ hay không. Sturrock cảm thấy vui vui, bởi vì có vẻ như Maria không phải là người thích nhận xét điều ghê gớm đến thế. Nhưng như Maria đã vạch ra, nó không ghê gớm bằng giả thuyết mà người ta đưa ra khi cho rằng Bà Ross đã bỏ đi cùng với tù nhân trốn thoát (mà ông chồng chẳng quan ngại chút nào!). Sturrock thấy ông kia là con người thú vị. Khuôn mặt ông không lộ cảm xúc gì; nếu có lo lắng về bà vợ hoặc cậu con trai thì ông vẫn chẳng lộ vẻ gì cả. Điều này khiến cho những người khác trong nhóm không thích Ross. Cho đến giờ, Ross vẫn không muốn trò chuyện với ông, nhưng không sờn lòng, ông cố đi theo kịp Ross.
Cố kiềm chế nhịp thở gấp gáp, ông nói: “Ông Ross à, có vẻ như ông thoải mái trong môi trường này. Tôi đánh cược là ông đã thường đi như thế này.”
Ross khụt khịt: “Không hẳn thế.” Và có lẽ vì thấy Sturrock đang thở hào hển, ông nói dịu lại: “Tôi chỉ đi săn và đại loại như thế. Không giống ông chút nào.”
Sturrock cảm thấy một chút tự mãn: “À... ông hẳn đang lo lắng cho gia đình mình.”
Ross lê bước im lặng một chốc, mắt nhìn xuống đất, rồi nói: “Dường như có người nghĩ lo lắng như thế vẫn chưa đủ.”
“Người ta không cần phải tỏ lộ công khai để cảm thấy quan ngại.”
“Đúng.” Ross có vẻ mỉa mai, nhưng Sturrock đang bận đặt giày đi trên tuyết vào dấu chân của anh trai trẻ đi trước nên không nhìn thấy vẻ mặt của ông bạn đồng hành.
Sau một lúc, Ross nói: “Ngày nọ tôi đi Sault St Marie. Tôi đến gặp một người bạn của vợ tôi, để hỏi bà có gặp vợ tôi không. Trong khi ở đó, tôi trông thấy cô con gái lớn của Knox. Cô thấy tôi và tỏ ra giật mình - tôi đoán cả thị trấn đã đồn đại là tôi có một phụ nữ yêu mến.”
Sturrock mỉm cười, cảm thấy có lỗi nhưng nhẹ nhõm. Ông lấy làm vui là Bà Ross đã có người chăm sóc. Ross khô khan nhìn ông: “Đúng, tôi nghĩ thế.”
Vào ngày thứ hai sau khi xuất phát từ Sông Dove, Sammy dừng lại và giơ tay ra dấu cho mọi người trong nhóm im lặng. Cả nhóm dừng lại. Người hướng đạo bàn với Mackinley phía trước, rồi ông này quay nhìn người trong nhóm, ông chưa kịp cất tiếng thì có một tiếng thét từ đám cây cối bên tay trái, và có tiếng cành cây gãy. Cả nhóm hốt hoảng; Mackinley và Sammy cùng giơ khẩu súng trường lên phòng trường hợp đó là con gấu. Sturrock nghe tiếng thét lanh lảnh và nhận ra đó là tiếng người - một phụ nữ.
Sturrock và Angus Ross, vì ở vị trí gần nhất, bước tới trước, dấn chân vào lớp tuyết dày, bị trở ngại vì lùm bụi và những vật thể ẩn khuất dưới lớp tuyết. Bước đi khó khăn đến nỗi phải một hồi lâu họ mới nhìn ra ai đang kêu đến họ. Nhìn quanh quất giữa đám cây cối: Sturrock nghĩ có hơn một bóng người - nhưng một phụ nữ? Một số phụ nữ... ở đây giữa mùa đông?
Và rồi ông nhận ra cô: một phụ nữ thân gầy, tóc màu sậm đang đi về phía ông, khăn choàng phất phới phía sau người, đang thét lên một tiếng trong sự kiệt sức và nhẹ nhõm pha trộn nỗi sợ hãi rằng những người đàn ông này chỉ trong trí tưởng tượng. Cô đi qua lùm bụi tiến về phía Sturrock, rồi đổ gục xuống chỉ cách ít bước, vừa kịp Ross đón lấy một đứa trẻ trong vòng tay. Một bóng khác từ giữa đám cây cối chạy về phía họ. Sturrock tiến đến cô và quỳ xuống trên một đầu gối, giống như nhại lại một cử chỉ tình tứ[64], đôi giày đi trên tuyết của ông gây ngáng trở.
[64] Cử chỉ tình tứ: tác giả so sánh với việc người đàn ông phương Tây khi cầu hôn thường quỳ xuống trên một đầu gối trước mặt người yêu.
Gương mặt cô lộ vẻ kiệt lực và sợ hãi, đôi mắt thất thần như thể sợ hãi ông.
“Này này, ổn thôi. Bây giờ cô được an toàn. Suỵt...”
Ông không chắc cô hiểu. Bây giờ một đứa bé trai đi đến bên cô, đưa một tay lên vai cô trong thái độ bảo vệ, đôi mắt đen chăm chăm nhìn ông với vẻ nghi ngại.
Sturrock không bao giờ biết cách nói chuyện với trẻ con, và đứa trẻ này không có vẻ thân thiện, ông nói: “Chào. Các người đi từ đâu đến?”
Cậu con trai lẩm bẩm vài từ mà ông không hiểu, và người phụ nữ trả lời ông cũng với thứ tiếng đó - không phải tiếng Pháp mà ông biết, cũng không phải tiếng Đức.
“Cô nói tiếng Anh được không? Cô hiểu tôi nói gì không?”
Những người khác trong nhóm đã tề tựu chung quanh, kinh ngạc nhìn họ. Ở đây là một phụ nữ, một đứa bé trai có lẽ bảy hay tám tuổi, và một đứa bé gái còn nhỏ hơn nữa. Cả ba đều có triệu chứng đã bị phơi ra thời tiết giá lạnh. Không người nào nói ra tiếng gì mà họ hiểu được.
Họ quyết định dựng lều trú ẩn, cho dù chỉ mới hai giờ chiều. Sammy và Matthew dựng nơi trú ẩn phía sau một thân cây trốc gốc và tìm củi để đốt một đống lửa to, trong khi Angus Ross pha trà và chuẩn bị thức ăn. Mackinley đi trở lại khoảnh rừng nơi người phụ nữ chỉ đến rồi dẫn về một con ngựa bị suy dinh dưỡng, bây giờ được đắp lên một tấm chăn và được cho ăn bột yến mạch. Người phụ nữ và hai đứa trẻ ngồi xúm xít gần đống lửa. Sau khi họ thì thầm với nhau một hồi, cô đứng dậy đi đến Sturrock. Cô ra dấu muốn nói chuyện riêng, nên hai người đi ra xa căn lều một tí.
Không mào đầu gì cả, cô hỏi: “Chúng tôi đang ở đâu?”
Ông nhận thấy tiếng Anh của cô hầu như không có trọng âm gì cả, mà các âm tiết đều ngang nhau.
“Chúng ta cách Sông Dove một ngày rưỡi đường, về hướng nam. Cô từ đâu đi tới đây?”
Cô chăm chăm nhìn ông, đôi mắt đảo nhanh về phía những người kia: “Ông là ai?”
“Tên tôi là Thomas Sturrock, ở Toronto. Những người kia ở Sông Dove, ngoại trừ người có mái tóc nâu ngắn - đó là Mackinley, nhân viên của Công ty Vịnh Hudson, và một người hướng đạo.”
“Các ông đang làm gì ở đây? Các ông đang đi đâu?” Cô không nhận ra những câu hỏi của mình không được lịch sự.
“Chúng tôi đang đi theo một dấu vết, về hướng bắc. Vài người bị mất tích.” Không có cách gì giải thích đơn giản tình huống phức tạp này, nên ông không cố giải thích.
“Dấu vết đó dẫn đến đâu?”
Sturrock mỉm cười: “Chỉ đến khi dấu vết đó dừng lại thì chúng tôi mới biết.”
Rồi người phụ nữ thở ra, có vẻ như đã trút đi phần nào nỗi nghi ngại và sợ hãi: “Chúng tôi đang tìm đường đến Sông Dove. Chúng tôi mất la bàn và một con ngựa. Có một người khác đi cùng. Anh ấy đã rời đi để...” Gương mặt cô thay đổi với vẻ hy vọng: “Trong vài ngày qua, có người nào trong nhóm ông bắn súng trường không?”
“Không.”
Cô lại chùng xuống: “Chúng tôi chia cách nhau, bây giờ tôi không biết anh ấy ở đâu.”
Cuối cùng, vẻ mặt cô như cho thấy sự sụp đổ tinh thần: “Có chó sói. Chúng giết một con ngựa. Chúng đã có thể giết chúng tôi. Có lẽ...”
Cô thổn thức nhưng im lìm, không có nước mắt.
Sturrock vỗ vai cô: “Suỵt. Bây giờ cô khá ổn rồi. Chuyện hẳn là kinh khủng, nhưng đã qua rồi. Không cần phải lo sợ nữa.”
Cô ngước mắt nhìn ông, và ông thấy đôi mắt cô quả là đẹp; màu nâu trong suốt trên khuôn mặt trái xoan mịn màng.
“Cám ơn ông. Tôi không biết đáng lẽ đã phải làm gì... Các ông đã cứu mạng sống chúng tôi.”
Sturrock tự tay chăm sóc cho bàn tay cô đã bị cóng lạnh. Mackinley triệu tập cuộc họp rồi quyết định Sammy sẽ cùng ông đi tìm người đàn ông kia - có những dấu vết rõ ràng để đi theo - trong khi những người khác ở lại lều trú ẩn. Nếu đến tối hôm sau vẫn chưa tìm được người kia thì Matthew và Sturrock sẽ hộ tống người phụ nữ và hai đứa trẻ đến Sông Dove. Sturrock không lấy làm vui lắm với cách thu xếp này, nhưng ông nhìn ra lý do cho phép hai người mạnh khỏe nhất tiếp tục đi càng nhanh càng tốt. Hơn nữa, một phần trong ông cảm thấy tự mãn vì người phụ nữ đã đối xử với ông theo cách đặc biệt; cô không nói chuyện riêng với ai khác, và luôn ở bên ông, thậm chí thỉnh thoảng nở nụ cười hiền dịu với ông. (“Thế thì, ông ở Toronto...?”) Ông tự nhủ vì mình cao tuổi nên trông không có vẻ đe dọa, nhưng cũng biết đó không phải là lý do duy nhất.
Mackinley và Sammy đi tiếp khi trời còn sáng, từ người phụ nữ mà họ hiểu được lờ mờ rằng anh kia có thể bị thương. Hai người bị nuốt chửng trong khoảnh u tối dưới cành cây kẽ lá. Ross cho mỗi người hớp một ngụm cô-nhắc. Người phụ nữ tỏ ra phấn khởi rõ ràng.
Khi hai đứa trẻ đã chìm sâu vào giấc ngủ, cô hỏi: “Thế thì các ông đang dò theo những ai vậy?”
Ross thở dài và không nói gì; Matthew liếc từ Ross qua Sturrock, và ông này nhận ra ẩn ý.
“Chuyện khá kỳ lạ, và không dễ nói ra. Ông Ross à, có lẽ... Không hở? À, cách đây vài tuần có một sự cố không may, cô biết chứ, và một người chết. Cùng lúc, con trai của ông Ross biến mất khỏi Sông Dove - có lẽ anh ấy đi dõi theo ai đó. Rồi có hai nhân viên Công ty Vịnh Hudson đi tìm anh ấy trong khi thực hiện cuộc điều tra. Hai người đã đi khá lâu mà chưa ai nhận được tin tức gì của họ.”
“Và...” Matthew sôi nổi nghiêng người tới trước, do thái độ khuyến khích của người phụ nữ, “không chỉ có thế! Có một người khác, bị bắt vì là nghi phạm trong vụ án mạng - một người hai dòng máu và trông bất hảo - rồi ông ta trốn thoát, à không, thật sự là có người phóng thích ông ta, rồi ông ta biến mất cùng với mẹ của Francis... từ lúc đó không ai thấy họ!”
Matthew ngưng bặt và ửng đỏ mặt, nhận ra quá muộn mình đã lỡ lời, và ném ánh mắt sợ hãi qua Ross.
“Ta vẫn không biết hai người có đi với nhau hay không, hoặc một trong hai người đi theo hướng này,” Sturrock có ý nhắc nhở Matthew với tia nhìn mệt mỏi về phía Ross trong khi ông này vẫn không lộ xúc cảm. “Nhưng tóm tắt, đó là lý do tại sao chúng tôi đang ở đây - để tìm kiếm bất cứ người nào nếu được, để biết chắc họ... an toàn.”
Người phụ nữ nghiêng người gần ngọn lửa, đôi mắt tròn và long lanh; cô đã thay đổi nhiều so với trạng thái kinh hãi trong khoảnh rừng chỉ mới vài tiếng đồng hồ trước. Cô thở mạnh và nghiêng đầu: “Các ông đã rất tử tế với chúng tôi. Mạng sống chúng tôi là do các ông cứu. Thế nên, Ông Ross à, tôi thấy cần cho ông biết rằng tôi đã gặp con trai ông và vợ ông, cả hai đều khỏe mạnh. Họ khá khỏe mạnh.”
Lần đầu tiên Ross mới quay sang cô, và trân trân nhìn cô. Nếu không tận mắt chứng kiến thì Sturrock chẳng bao giờ tin được gương mặt như phiến đá hoa cương ấy lại lộ cảm xúc đến thế.
***
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói