Sometimes the dreams that come true are the dreams you never even knew you had.

Alice Sebold

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 33
uả là lý thú khi theo dõi sự thăng trầm của người làm việc tại thương điếm. Cách thức họ được phân chia ra hoặc nhập chung với nhau. Từ quan sát của riêng mình, tôi thấy rõ rằng Olivier không được những nhân viên khác yêu mến lắm. Anh làm việc bên cạnh Stewart, chạy việc vặt cho ông, thậm chí còn rập khuôn theo kiểu cách của ông. Về phần những người khác, người da trắng và người bản địa cách biệt nhau, và Olivier bị xem là kẻ bỏ hàng ngũ vì về hùa với phe kia. Ban đầu tôi nghĩ họ kính trọng Stewart hoặc thậm chí yêu mến ông. Bây giờ tôi không chắc. Có sự kính trọng nhưng theo cách thận trọng cảnh giác, với thái độ mà người ta đối phó với một con thú có thể trở nên nguy hiểm. Norah ghét ông, và trong khi có thái độ chăm sóc Nesbit, cô đều bất lịch sự với cả hai người. Cô đối xử với Stewart qua cung cách xấc xược đến nỗi tôi tự hỏi có phải cô nắm trong tay một thứ quyền lực nào đấy hay không - nếu không thì tôi không hiểu được làm thế nào cô không bị kỷ luật. Và một đôi lần tôi trông thấy người phụ nữ đẹp ấy - Nancy - trong hành lang ở đây. Vì có vẻ như cô không có nhiệm vụ quét dọn hoặc hầu hạ, nên tôi không rõ cô có nhiệm vụ gì. Có lẽ là nấu ăn.
Tôi đang trông chờ một chuyện nào đấy xảy ra. Toán người tìm kiếm đã trở về được hai tiếng đồng hồ. Tôi đang lượn lờ giữa phòng mình, nhà bếp và phòng ăn - tôi cố tìm ra việc này việc kia để làm như đi tìm mồi nhúm lửa (vì tôi đã ném nó ra ngoài), hoặc lau chùi chỗ cà phê đổ tháo. Vì thế mà Norah không hề thích tôi, nhưng sau sáu giờ chiều tôi đạt mục đích khi nghe tiếng cãi cọ trong văn phòng của Stewart.
Nesbit đang cuồng loạn cất cao giọng: “Vì Chúa, tôi vẫn nói với ông tôi không biết! Nhưng chuyện đã qua rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.”
Tiếng thì thầm của Stewart.
“Chúa ơi, tôi không màng, ông đã hứa mà! Ông phải giúp tôi.”
Thêm tiếng thì thầm - chuyện gì đấy về “sơ suất”.
Tôi đang ở trong hành lang, đang rón rén đến gần hơn, cầu trời đừng tạo tiếng động trên mặt sàn.
“Đúng là một người trong bọn họ. Ai khác làm chuyện này? Và còn một chuyện nữa... Nửa Người[60] - ông nên kiểm soát nó kỹ hơn.”
[60] Nửa Người: theo nghĩa đen trong nguyên bản: “Half Man”, một biệt hiệu chứ không phải tên người.
Tiếng thì thầm nhỏ hơn. Không hiểu sao, chuyện này khiến cho tôi lạnh người còn hơn là bất kỳ chuyện gì khác. Tôi không dám bước đến gần hơn. Nesbit gọi “Nửa Người” là có ý gì? Có phải anh đang sỉ nhục Stewart không? Hoặc sỉ nhục một người nào khác?
Những bước chân người nặng nề tiến đến cánh cửa. Tôi hấp tấp đi qua, đi đến phòng ăn kịp lúc trước khi có người đi ra.
Moody đang ngồi trên chiếc ghế gần lò sưởi, ngước nhìn khi tôi bước vào: “Bà Ross. Tôi có chuyện muốn bàn với bà.”
“Chờ một chốc...” Tôi đặt bình cà phê xuống. Bên ngoài, có vẻ như tất cả đều yên ắng. “Xin lỗi anh Moody, có lẽ tôi quên cái gì đó. Chờ tôi một chút.”
Anh xịu mặt khi tôi đóng cánh cửa.
Tôi đi ngược trở lại dọc hành lang. Cánh cửa phòng Stewart đóng chặt. Tôi đưa tay lên gõ.
“Chuyện gì vậy?” Giọng của Nesbit. Rất cáu bẳn.
“À, tôi đây, Bà Ross. Tôi vào được không?”
“Ngay lúc này tôi khá bận.”
Tôi vẫn mở cánh cửa. Nesbit ngồi ở bàn viết nhìn lên - tôi có cảm tưởng anh đã nằm ườn trên đó và mới ngồi bật dậy. Mặt anh đẫm mồ hôi và nhợt nhạt, tóc bù xù hơn bao giờ. Trong tôi nổi lên nỗi thông cảm. Tôi nhớ lại tâm trạng này là như thế nào.
“Tôi đã nói...”
“Tôi biết. Tôi xin lỗi. Chỉ là tôi cảm thấy sợ hãi. Tôi vừa làm vỡ bình sữa, tôi rất tiếc.”
Nesbit nhíu mày nhìn tôi, tỏ vẻ vừa khó hiểu vừa bực bội: “Trời đất, không sao hết. Xin bà làm ơn...”
Tôi bước thêm một bước vào căn phòng và đóng cánh cửa lại sau lưng mình. Nesbit nao núng. Đôi mắt anh toát vẻ dữ tợn như muốn giết người; một con thú bị dồn đến chân tường.
“Anh bị mất món gì không? Tôi biết chuyện này làm anh bực mình như thế nào. Có lẽ tôi giúp anh được không?”
“Bà? Bà nói chuyện gì vậy?”
Nhưng ngay khi tôi vừa đóng cánh cửa, anh đã có ý tưởng. Bây giờ tôi đã được anh chú ý lắng nghe.
“Do đâu bà đoán tôi mất món gì?”
“Ông ấy giữ dùm anh, phải không? Ông ấy bắt anh phải van xin.”
Đấy giống như là tôi đã lột đi chiếc mặt nạ; mặt anh tái đi, gần như đổi màu xanh. Anh nắm tay lại; anh muốn đấm tôi nhưng không dám.
“Nó ở đâu? Bà đã làm gì với nó? Đưa cho tôi.”
“Tôi sẽ đưa cho anh, nếu anh nói cho tôi nghe một chuyện.”
Anh nhíu mày, nhưng lộ vẻ hy vọng. Anh đứng dậy, bước một bước đến tôi, nhưng không đến gần hơn.
“Nói cho tôi biết ai phải được kiểm soát. Ai không được nói đến?”
“Cái gì?”
“Đêm đầu tiên, tôi nghe anh bảo một phụ nữ không được nói đến người đó. Anh đang nói đến ai? Mới lúc nãy, anh bảo Stewart nên kiểm soát kỹ hơn người nào đó. Anh bảo đó là Nửa Người. Ai thế? Nói cho tôi biết là ai, rồi tôi sẽ trả nó lại cho anh.”
Anh xịu xuống. Anh quay mặt qua bên này bên kia. Anh khẽ mỉm cười. Có cái gì đấy trong anh được nhẹ nhõm.
“À. Chúng tôi không muốn Moody biết được. Nếu chuyện này lan đến Công ty... Một nhân viên chúng tôi đã nổi điên. Đó là Nepapanees. Stewart cố bảo vệ anh ấy, bởi vì gia đình anh ấy...”
“Nepapanees? Ý anh nói anh ấy chưa chết hay sao?”
Nesbit lắc đầu: “Anh ấy tự kiếm sống, như là một người hoang dã. Chỉ vài tuần trước anh ấy còn ổn, nhưng bây giờ đã nổi cơn điên. Có thể nguy hiểm. Chuyện này sẽ khiến cho gia đình anh rất xấu hổ. Stewart nghĩ nếu họ tin anh đã chết thì tốt hơn.” Anh lại lắc đầu: “Chỉ có thế. Hà... Ý tôi nói, quả là kinh khủng.”
“Và lúc gần đây anh ấy đã đi vắng, phải không?”
“Anh ấy đi đi về về.”
“Ba tuần trước...”
“Tôi không rõ anh ấy đi đâu. Khoảng mười ngày trước, anh trở về.”
Tôi không biết nói gì thêm. Hoặc hỏi gì thêm.
Anh nhìn tôi một cách lẩn lút: “Bà trả nó lại cho tôi nhé?”
Trong một khoảnh khắc tôi định ném cái chai xuống sàn nhà, bởi vì có chuyện gì đấy không ổn nhưng tôi không biết rõ là gì.
Tôi rút từ trong túi cái chai và giơ ra: cái chai tôi lấy ra dưới tấm nệm của anh ngày hôm qua trong khi anh đang trò chuyện với Moody. Anh giật lấy cái chai, kiểm tra xem tôi có lấy đi phần nào không - một hành động nhất thời theo phản xạ - rồi quay mặt đi mà đưa cái chai lên miệng tu một hơi. Một chút phẩm giá còn sót lại vẫn muốn giữ chút ít riêng tư. Phải mất một lúc để đạt điều này, nhưng có lẽ anh không còn cách nào khác. Anh vẫn đứng như thế, nhìn đến tấm màn cửa.
“Bây giờ anh ấy đang ở đâu?”
“Tôi không biết. Tôi hy vọng là xa khỏi nơi đây.”
“Đúng như thế không?”
“Đúng.”
Tôi chỉ có thể nhìn cái chai trong tay anh. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi giật cái chai đó mà uống cạn?
Anh không nhìn đến tôi nữa. Giọng anh nhỏ nhẹ, đã lấy lại bình tĩnh, giúp cho tôi trở lại với chính mình. Tôi để mặc anh đứng gần bàn viết, quay lưng về phía mình, nhưng với đôi vai vuông và thách thức.
Tôi quay trở lại phòng ăn. Nepapanees người điên. Nepapanees kẻ điên dại giết Jammet? Dường như đấy là điều mà tôi muốn tìm. Nhưng tôi không cảm nhận chiến thắng. Không thỏa mãn. Tôi không biết nghĩ gì, nhưng không thể gạt khỏi đầu óc hình ảnh của Elizabeth Bird ngồi trên nền tuyết, cố tình làm bỏng thịt da mình vì tiếc thương.
***
Stewart đi đến nhà cô khi họ trở về. Trông ông lo lắng, giống như một người cha có đứa con lêu lổng; sẵn lòng chiều chuộng nhưng đến chừng mực nào đó thôi.
“Elizabeth, tôi xin chia buồn.”
Cô gật đầu. Còn dễ hơn là nói nên lời.
“Tôi đã cố nghĩ chuyện gì đã xảy ra. Cô tìm ra địa điểm chứ?”
Cô lại gật đầu.
“Tôi tin chắc hương hồn anh ấy sẽ tiêu diêu, cho dù ở đâu.”
Bây giờ cô không gật đầu. Người bị sát hại không được tiêu diêu.
“Nếu cô lo lắng... Dĩ nhiên là cô có thể ở đây. Cô không phải lo về tương lai. Lúc nào cô cũng có nơi cư ngụ ở đây nếu cô muốn.”
Không cần nhìn thẳng đến ông, cô vẫn nhận ra đôi mắt xanh lam kinh khiếp của ông, như ruồi xanh lấp lóe bu trên xác chết. Ông đang chăm chăm nhìn cô, cố làm cho sức lực cô mòn mỏi, cố dập tắt ý chí của cô theo ý ông. Được thôi, cô sẽ không nhìn ông, cô sẽ không để cho ông được dễ dàng hành động. Cô nghiêng đầu qua một bên, hy vọng ông sẽ bỏ đi.
“Tôi để cho cô nghỉ. Nếu cần bất cứ thứ gì, cô cứ đến hỏi tôi.”
Cô gật đầu lần thứ ba.
Cô nghĩ: hỏi nơi Địa ngục.
Bên ngoài, cô nghe Stewart nói với anh lính mới tò te bằng tiếng Anh: “Nếu là anh thì tôi để cho cô ấy nghỉ ngơi. Cô vẫn còn bị sốc.”
Tiếng nói xa dần.
Elizabeth nhảy dựng lên, ngược với bản chất mình, và đi ra: “Anh Moody... Xin mời anh vào, nếu anh muốn.”
Hai người đàn ông quay người, kinh ngạc, vẻ mặt Moody đầy thắc mắc.
Không rõ tại sao mình hành động như thế, Elizabeth cảm thấy ngốc nghếch.
Moody nhất quyết ngồi trên sàn nhà như cô, tuy rằng cử động của anh có phần cứng nhắc.
Cô nhìn qua hông anh, nơi cô băng bó vết thương cho anh bốn ngày trước: “Anh ổn chứ? Có thấy khá hơn không?” Tưởng chừng như đã lâu lắm, khi cô còn là người vợ. “Vết thương khá nặng. Có ai đó muốn giết anh hả?”
Anh cười: “Không. À, đó chỉ là khoảnh khắc sôi nổi, rồi hối tiếc sâu sắc. Một câu chuyện dài. Tôi đến đây để thăm xem cô ra sao. Nếu tôi giúp gì được...”
“Cám ơn anh. Ngày nọ anh đã tử tế.”
“Không...”
Elizabeth rót nước trà vào hai chiếc cốc bằng sứ. Cô lại nếm nước con sông kia, vị chát đắng vì lừa dối. Có lẽ con nai là một dấu hiệu: tôi bị giết. Và em phải đi tìm tôi.
Cô ước gì có thể cầu nguyện để được dẫn dắt, nhưng cô không thể đi đến ngôi nhà nguyện xây bằng gỗ. Đó là nhà nguyện của Stewart, và cô có ác cảm với nơi này. Trước đây, cô không bao giờ suy nghĩ nhiều về đức tin của mình. Cô cho rằng nó hiện diện dưới bề mặt, vẫn tiếp tục hiện diện mà không cần nỗ lực có ý thức, như cách lá phổi cô thở. Có lẽ cô đã bỏ bê đức tin của mình. Bây giờ, khi cô cần đến đức tin thì dường như nó tàn tạ đi.
“Anh có cầu nguyện không?”
Moody ngạc nhiên nhìn cô. Anh cân nhắc câu trả lời. Anh không muốn chỉ nói điều mình nghĩ nên nói, mà muốn nói ra ý tưởng tự nhiên. Cô thích thế, cùng với cách anh không vội để lấp đầy tất cả khoảnh khắc im lặng.
“Có, tôi có cầu nguyện. Không thường xuyên như đòi hỏi. Ít khi thôi.”
Ngay lúc ấy, đứa con gái nhỏ của cô loạng choạng đi qua cửa trước. Cô bé mới tập đi.
“Amy, đi vào với Mary. Mẹ đang nói chuyện.”
Cô bé chăm chăm nhìn Moody trước khi chập chững đi vào trong.
“Chúng tôi chỉ...” Giọng nói anh nhỏ dần: “Ý tôi nói là chúng tôi chỉ cầu đến Thượng đế khi gặp khổ sở hoặc cần phù hộ, và tôi chưa bao giờ lâm vào cảnh này. Chưa gặp, cám ơn Thượng đế.”
Anh mỉm cười. Bây giờ anh có vẻ khổ sở, lúng túng. Ngôn từ anh chậm lại, như thể khó mà sắp xếp ý tưởng. Có chuyện gì đó đã xảy ra.
“Tôi không làm được.”
Anh nhìn cô, dò hỏi: “Việc cầu nguyện? Cô sinh ra là người Cơ đốc phải không?”
Cô mỉm cười: “Khi lên hai mươi, tôi được các nhà truyền giáo rửa tội.”
“Vậy là cô biết... những thượng đế khác. Cô có cầu nguyện với họ không?”
“Tôi không biết. Trước đây tôi không bao giờ cầu nguyện. Anh nói đúng. Tôi chưa bao giờ cần phù hộ.”
Moody đặt cốc trà của anh xuống, bắt chéo hai bàn tay phía trước đầu gối: “Khi còn là đứa trẻ, tôi đi lạc trên các ngọn đồi gần nhà. Tôi lạc mất một ngày một đêm. Tôi khiếp sợ mình sẽ đi lang thang trên các ngọn đồi cho đến lúc chết đói. Lúc đó tôi cầu nguyện. Tôi cầu nguyện rằng Thượng đế chỉ cho tôi đường về nhà.”
“Rồi thì sao?”
“Cha tôi tìm được tôi.”
“Thế là lời cầu nguyện của anh được đáp ứng.”
“Đúng. Tôi đoán có một số lời cầu nguyện không thể được đáp ứng.”
“Tôi không muốn cầu nguyện cho chồng tôi được hồi sinh. Tôi chỉ muốn cầu nguyện cho công lý.”
“Công lý?” Anh tròn mắt nhìn cô, như thể cô có một vết nhọ nồi trên mặt. Trong hồi lâu cả hai không nói gì, chỉ nhìn vào ngọn lửa với âm thanh xì xào và lách tách.
“Amy. Đó là cái tên đẹp.”
“Con bé không hiểu tại sao cha nó không có ở đây.”
Moody thở dài, rồi mỉm cười: “Tôi xin lỗi. Cô hẳn nghĩ tôi không phải phép. Tôi vừa có một ý nghĩ rất lạ lùng. Nếu tôi sai thì cô làm ơn cho tôi biết, nhưng tôi phải nói ra.” Anh lúng túng cười, mắt vẫn nhìn cô: “Tôi biết bây giờ là không phải lúc. Nhưng tôi vẫn nghĩ... Tên của con gái cô. Và tên của cô... Tôi không biết nói thế nào... Lúc trước, có phải cô thuộc gia đình Seton không?”
Elizabeth đăm đăm nhìn ngọn lửa; tiếng hát vang trong tai cô che lấp câu nói kế tiếp của anh. Có cái gì đó như tiếng cười ha hả nổi lên khiến cho cô gần nghẹn họng.
Đôi môi anh mấp máy; cô nghĩ anh đang xin lỗi mình. Những sự việc cô nghĩ mình đã quên từ lâu bỗng hiện về trong suốt như pha lê. Cha. Chị. Mẹ. Không, không phải chị cô. Cô không bao giờ có chị.
Chầm chậm, cô lại nghe tiếng anh: “Có phải cô là Amy Seton không?” Moody nghiêng người tới trước, mặt đỏ hồng vì kích xúc, thêm nỗi sướng thỏa vì sắp có phát hiện quan trọng: “Tôi sẽ không nói cho ai biết, nếu cô không muốn. Tôi hứa danh dự sẽ giữ bí mật chuyện này. Cô có cuộc sống ở đây, các con cô... Tôi chỉ muốn biết thôi.”
Cô không muốn cho anh mãn nguyện. Chuyện này không phải là của anh mà cho anh. Cô không phải là của rơi ngoài đường cho ai nhặt cũng được.
“Anh Moody, tôi không hiểu anh nói gì. Tên tôi là Elizabeth Bird. Chồng tôi bị cố sát. Tôi phải làm gì? Anh định làm gì?”
“Cố sát? Chuyện gì làm cô nói vậy?”
Cô thấy anh trông như lảo đảo từ một phấn khích này sang một phấn khích khác. Nó không giống bản chất của anh; anh không chịu đựng được. Có vẻ như cô đang nhìn anh từ một khoảng cách xa trong khi anh há hốc miệng, tay ôm chặt lấy bụng, mặt nhíu lại vì khổ não. Mặt anh đỏ bừng. Đáng lẽ anh không nên hỏi chuyện riêng tư như thế.
Một lúc sau, anh định thần trở lại, thở gấp gáp như một con chó: “Cô nói gì? Cô nói là... Stewart giết chồng cô hay sao?”
“Vâng.”
“Tại sao ông ấy làm vậy?”
“Tôi không biết tại sao.”
Cô nhìn anh. Hẳn anh biết chuyện nào đó; cô có thể thấy anh đang tính toán sau đôi mắt.
Rồi anh cất tiếng: “Xin lỗi tôi phải hỏi... Chồng cô có bị bệnh tâm thần không?”
Elizabeth chăm chăm nhìn, rồi cảm nhận mình nhỏ nhoi và yếu đuối. Cô đang suy sụp, tan rã: “Ông ấy nói như vậy hả?”
Nước mắt tuôn chảy trên đôi gò má, cô không biết do tức giận hay đau buồn, nhưng thình lình mặt cô ướt đẫm: “Anh ấy không bị điên. Đó là nói dối. Hỏi mọi người ở đây đi. Nửa Người là người điên duy nhất.”
“Nửa Người? Ai là Nửa Người?”
“Người mà ông ấy không muốn chúng tôi nói tới!” Elizabeth đứng dậy. Trong một lúc có quá nhiều chuyện. Cô bước vòng quanh ngọn lửa: “Nếu anh thông minh đến thế, nếu anh có thể nhìn ra nhiều việc đến thế, tại sao anh không chịu mở mắt ra?”
***
“Nếu thời tiết cho phép, ngày mai tôi sẽ ra về.”
Tôi há hốc miệng nhìn Parker. Có một sức nặng đè lên ngực tôi, như lúc bạn bị bệnh bạch hầu thanh quản; một cơn co thắt khó chịu đến mức tôi không thở được. Nhịp thở của tôi đã nhanh lên từ lúc ông gõ cửa phòng tôi và tôi để cho ông bước vào, tự hỏi ông muốn gì.
“Ông không về được! Công việc chưa xong.”
Ông nhìn lại tôi một lúc, có thái độ thách thức nhưng không phải là ngạc nhiên. Bây giờ ông hẳn đã hiểu rõ tôi. “Tôi nghĩ đó là cách duy nhất để xong công việc.”
Lúc tôi nói, tôi không biết mình có ý nói gì, nhưng bây giờ tôi biết: “Làm thế nào ông xong công việc được?” Tất cả chúng tôi đã trông cậy nơi Parker để dẫn đường, từ lúc tôi gặp ông lần đầu tiên ở Sông Dove cho đến bây giờ. Moody cũng trông cậy nơi ông, tuy anh không thích.
Parker ngập ngừng. Bây giờ khuôn mặt ông trông khác đi: dịu dàng hơn, kém bình thản, hoặc có lẽ đấy chỉ là do ánh sáng mờ của ngọn đèn.
“Sáng mai, bằng cách nào đó tôi sẽ cho Stewart xem các dấu hiệu bà cho tôi. Rồi nếu chưa biết thì ông ta sẽ biết rằng tôi thân cận với Jammet. Tôi sẽ nói với ông ta rằng tôi sắp ra về, và nếu tôi nghĩ đúng...” Đến đây ông ngưng lại. “Và nếu ông ta là con người mà tôi đã đoán, thì ông sẽ không thể cưỡng lại ý muốn đi theo tôi, hy vọng tôi dẫn ông ta đến chỗ cất giấu lông thú.”
“Nhưng nếu ông ta đã giết Jammet... ông ta cũng có thể giết ông.”
“Tôi sẽ sẵn sàng.”
“Việc này quá nguy hiểm. Ông không thể đi một mình. ông ta sẽ không đi một mình - ông ta sẽ có… Nửa Người đi cùng.”
Parker nhún vai: “Bà nghĩ tôi nên dẫn theo Moody hay sao?” Ông mỉm cười khi nghĩ đến điều không thể này: “Anh ấy cần ở lại. Anh cần phải thấy Stewart đi theo tôi. Rồi anh ấy sẽ biết.”
“Nhưng, ông sẽ...”
Tôi cố sắp đặt lại thứ tự các sự kiện. Bằng chứng... sẽ có bằng chứng nào, trừ khi Stewart chịu thú nhận?
“Ông không thể đi một mình. Tôi đi với ông. Tôi có thể là đôi mắt thứ hai cho ông. Tôi có thể... ông cần nhân chứng. Một nhân chứng có thể xác nhận những gì ông nói. Ông không nên đi một mình!”
Đôi má tôi nóng bỏng. Parker lại mỉm cười, nhưng hiền hòa. Bàn tay ông đưa ra gần chạm đến mặt tôi, nhưng dừng lại. Tôi có thể nhận ra lệ đầy trong khóe mắt mình, đe dọa rửa trôi sự điềm tĩnh của tôi, phẩm giá của tôi; mọi thứ.
“Bà nên ở đây. Moody cần bà. Anh ấy bị hoang mang.”
Tôi nghĩ: Còn tôi thì sao? Câu nói nghe như lớn tiếng nên tôi không chắc mình có nói ra hay không, nhưng không có gì cho thấy Parker nghe được.
Tôi cố giữ giọng nói mình được lưu loát: “Tôi không biết ông nghĩ Stewart sẽ cho bằng chứng gì, ngoài việc giết ông. Có lẽ đấy là bằng chứng kết thúc. Và... và nếu ông ta sai người đi giết ông - thì làm sao ta kết nối chuyện đó với ông ta? Nếu ông đi một mình mà không trở về, tôi nghĩ anh Moody sẽ không hài lòng. Việc này sẽ không chứng tỏ được gì cả.”
Parker nhìn xuống, giọng có vẻ thiếu kiên nhẫn: “À... sáng ngày mai chúng ta sẽ thấy. Có lẽ Stewart sẽ nói cho chúng ta biết tất cả. Chúc ngủ ngon, Bà Ross.”
Tôi cắn lưỡi, đau đớn và tức giận. Có lẽ Parker không nhận ra điều này: có hai người trong phòng không chịu bỏ cuộc cho đến khi kết thúc.
“Chúc ngủ ngon, ông Parker.”
Ông đi ra, nhẹ nhàng khép cánh cửa lại sau lưng. Trong vài phút tôi đứng chôn chân tại chỗ, thắc mắc - trong số những việc tôi có thể hoặc phải thắc mắc - là ông biết tên riêng của tôi hay không.
Đêm ấy, tôi nằm mơ.
Tôi mơ thấy Angus, theo cách thức lãng đãng nhưng bấn loạn. Tôi lắc đầu qua lại, muốn tránh mặt chồng mình. Anh không trách móc tôi. Không thể trách móc được.
Tôi thức dậy giữa đêm khuya, trong bầu không gian tĩnh lặng nặng nề đến mức tôi cảm thấy mình không thể bước ra khỏi giường dù có muốn. Có những giọt lệ đang khô đi trên mặt tôi, lạnh lẽo, khiến cho làn da tôi ngứa ngáy.
Từ lâu tôi đã thắc mắc tại sao anh xa cách với mình. Tôi đoán đấy là do việc gì đó mình đã làm. Và rồi, khi Parker kể cho tôi nghe về Jammet, tôi nghĩ đấy là do Francis, bởi vì anh đã biết và ghét chuyện ấy.
Thật ra, sự việc đã bắt đầu một thời gian lâu trước đó.
Tôi vùi mặt trong chiếc gối tỏa mùi ẩm. Lớp áo gối lạnh như đá cẩm thạch. Chỉ nơi đây, một mình và trong bóng tối, tôi mới cho phép những ý nghĩ ấy ngự trị trong đầu. Ý nghĩ không đến từ đâu cả, mà từ những giấc mơ, giữ tôi trong vòng kiềm tỏa điên cuồng. Tôi mong ngủ trở lại, bởi vì chỉ trong giấc mơ tôi mới có thể lẩn tránh những mối ràng buộc có thể xảy ra và đúng đắn.
Nhưng, như tôi vẫn thường thấy trong đời, cái gì mà bạn thật sự ao ước lại xa rời tầm tay của bạn.
***
Donald ấn bàn tay lên tấm kính cửa sổ. Hơi ấm làm tan chảy lớp sương giá đọng bên trong, để lại một hình ảnh rõ ràng: trời càng lạnh thêm. Mùa đông đã đến thật sự; họ phải ra về nhanh, nếu không sẽ bị tuyết giam hãm ở Nhà Hanover.
Ngày hôm qua, anh đã viết xong lá thư cho Maria. Sáng hôm nay, anh đọc lại; anh nghĩ nội dung đã theo đúng hướng, không có gì quá say đắm, nhưng sau khi giãi bày cảm nghĩ của mình - quả là nhẹ nhõm khi nói ra được điều mình nghĩ - anh nồng nàn cho biết ý muốn gặp lại cô và nối lại cuộc trò chuyện lý thú. Anh gấp tờ thư vào một phong bì, nhưng để trắng phong bì. Anh có nỗi kinh hãi về việc người khác đọc thư mình. Anh tin chắc Bà Ross, lúc đến thăm anh với cử chỉ tọc mạch và quấy rầy, đã để ý đến một lá thư lúc trước anh viết cho Susannah.
Susannah. À... vì trước đây chưa từng lâm vào hoàn cảnh này, Donald không biết phải xoay xở thế nào. Anh nghĩ cô sẽ không bị thất tình - anh tự nhủ dù gì đi nữa thì anh đã không tỏ tình gì cả, thật sự là thế. Không có gì gọi là hứa hẹn. Anh cảm thấy bứt rứt bởi vì theo bề ngoài đấy không phải là hành vi đáng khen, và Donald rất muốn được khen. Nhưng bây giờ ở cách xa Caulfield, anh thấy rõ hơn rằng Susannah là một con người cứng cỏi. Ngay cả khi biết điều này, anh vẫn tự dằn vặt mình vì đã lấy nó làm niềm an ủi. Có lẽ anh sẽ không cho phép gửi đi các lá thư anh viết cho cô. Có lẽ anh nên viết lại các lá thư này, để gột rửa mong ước bị trùng lặp.
Đến ngả rẽ này, trong khi Donald vẫn còn đang ngồi ở bàn, chung quanh là những thư từ gửi cho hai chị em nhà Knox, có tiếng gõ cửa. Đó là Parker.
Stewart đang ngồi trong văn phòng, một bình cà phê đặt trên bàn, lửa cháy trong lò sưởi, nhưng vẫn không chống đỡ lại cái lạnh buốt xương len lỏi vào qua cửa sổ, cửa cái và thậm chí các bức tường.
Donald cảm thấy đây là nơi anh nắm quyền chủ động, nên đã bàn trước với Parker và Bà Ross, và bây giờ anh đằng hắng nghe khá hùng hồn: “Ông Stewart, xin lỗi cho giờ giấc sớm sủa. Chúng tôi cần trao đổi với ông.”
Stewart nghe giọng điệu nghiêm túc trong câu nói của anh, nhưng vẫn mỉm cười và mời ba người vào. Ông kêu mang thêm cốc - lần này là Nancy đáp lại tiếng chuông và lo phục vụ. Donald nhìn xuống sàn nhà trong khi cô hiện diện trong phòng, hy vọng không ai thấy má anh đang nóng bừng. Dù sao chăng nữa thì không ai nhìn đến anh cả.
Donald bắt đầu: “Tôi nghĩ ông hẳn biết lý do thực sự chúng tôi đến đây.” Anh phớt lờ ánh mắt của Bà Ross. Anh không nhìn ra thái độ của Parker, vì ông này ngồi bên cạnh Stewart trước cửa sổ, nên bị khuất trong bóng tối. “Chúng tôi đã theo dõi một dấu vết. Nó đi từ Sông Dove lên hướng bắc, và chúng tôi có đủ lý do mà tin rằng nó dẫn đến đây.”
“Ý anh nói đó không phải là con trai Bà Ross hả?”
“Đúng vậy. Ít nhất không đi xa đến đây. Và ở đây có những người mà chúng tôi không được gặp.”
Stewart gật đầu, vẻ mặt nghiêm trọng, đôi mắt nhìn xuống: “Tôi tin rằng đã có người nói gì đó khiến cho quý vị hiểu sai. Tôi xin lỗi về việc này. Để tôi nói cho quý vị những gì tôi biết; có lẽ lúc đó quý vị có thể bổ sung vào các khoảng trống. Điều tôi đã nói là sự thật - Nepapanees là một trong những nhân viên giỏi nhất của tôi. Một nhân viên tốt, một tài công có kỹ năng, một người theo dấu vết xuất sắc. Nhưng hơn một năm trước, có chuyện gì đó xảy đến cho anh ấy. Thường đó là rượu, như tôi tin chắc quý vị đã thấy...”
Ông liếc qua Donald, tuy có vẻ như muốn bao gồm mọi người: “Nhưng không phải trong trường hợp này. Ít nhất, ban đầu là vậy. Tôi không biết đó là gì, nhưng anh ấy trở nên loạn trí. Anh không nhận ra vợ mình. Anh không nhận ra các con mình. Mùa xuân năm nay, anh đi ra khỏi pháo đài và dường như đang sống trong hoang dã. Đôi lúc anh ấy trở về, nhưng nếu anh ở cách xa thì tốt hơn. Vài tuần trước, anh đi xa nhiều ngày. Tôi có linh cảm đó mạnh hơn khi quý vị đến. Nhưng đến lúc này...”
Ông nhún vai, để cho hai bờ vai sụp xuống: “Tôi không muốn mang thêm nỗi tủi nhục cho vợ anh ấy cùng gia đình. Tôi muốn tránh cho họ hoàn cảnh đó. Nesbit và tôi đồng ý với nhau là... giấu giếm chuyện này. Để giả vờ là anh ấy đã chết. Đây là chuyện điên rồ, tôi biết chứ.”
Đôi mắt ông nhìn lên, trông như lóng lánh với nước mắt: “Theo một cách nghĩ, tôi ước gì anh ấy ở đây. Anh là con người tội nghiệp, đã làm cho những người yêu mến anh phải khổ sở nhiều.”
“Nhưng làm thế nào ông bảo vợ anh ấy rằng anh ấy đã chết? Làm thế nào ông khiến cho cô ấy khổ sở đến thế?” Bà Ross đang nghiêng người tới trước, mắt bà nhìn sâu vào mắt Stewart, khuôn mặt bà nhợt nhạt và căng thẳng, một ít cảm xúc - có lẽ tức giận - toát ra từ bà như là một lực từ tính.
“Bà Ross à, tin tôi đi, tôi suy nghĩ rất nhiều về việc này. Tôi quyết định rằng cái chết sẽ bớt đau đớn cho cô ấy và các đứa trẻ so với việc anh còn sống.”
“Nhưng làm thế nào ông nghĩ có thể giấu giếm sự hiện diện của anh ấy? Hai ngày trước, người ta trông thấy anh ấy ở đây.”
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói