A good book has no ending.

R.D. Cumming

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 29
gay cả khi nói thế, tôi thắc mắc làm thế nào chúng tôi thực hiện việc này. Moody trông không được thuyết phục với ý kiến này. Tôi phải nhìn nhận đấy không phải là ý kiến hay, nhưng tôi chỉ nghĩ ra có thế.
Anh ném ánh mắt có ý nghĩa đến cánh cửa: “À, nếu không có việc gì khác...”
Tôi nghĩ đến cánh tay của Stewart và định kể cho Moody nghe, nhưng anh này không tin tưởng nơi Parker và có thể bắt đầu dọ hỏi nguyên do nào khiến cho Parker đến Sông Dove. Những câu hỏi mà lúc này tôi không muốn trả lời.
“Tôi thật sự cần ngủ. Nếu bà không phiền.”
Tôi đứng dậy: “Được. Cảm ơn anh.” Anh trông nhỏ nhắn hơn khi co người dưới tấm chăn. Trẻ hơn và yếu đuối hơn. “Trông anh mệt mỏi. Có ai chăm sóc cho các vết phồng rộp của anh không? Tôi tin có người có kiến thức y khoa ở đây...”
Moody nắm lấy tấm chăn kéo lên tận cằm, như thể tôi đang cầm chiếc rìu xông đến. “Có. Xin bà cứ đi. Tôi chỉ cần giấc ngủ...”
Các kế hoạch hỏi han nhân viên vào ngày kế phải bị hoãn lại, bởi vì lúc chúng tôi thức dậy, phần lớn bọn họ đã ra đi. George Cummings, Peter Eagles, William Blackfeather và Kenowas - nói cách khác là tất cả đàn ông bản địa sống và làm việc ở Nhà Hanover - đã đi tìm thi hài của Nepapanees, chỉ ngoại trừ Olivier. Họ khởi hành trước bình minh, không một tiếng động, đi bộ. Ngay cả người chúng tôi gặp vào buổi trưa đầu tiên, cái anh Amaud say xỉn kinh niên (sau này tôi biết đó là gác dan) cũng tỉnh táo trở lại vì tiếc thương và gia nhập nhóm tìm kiếm.
Người phụ nữ góa bụa và đứa con trai mười ba tuổi đã đi cùng họ.
***
Một tuần lễ sau khi Francis từ chối lời mời của Susannah, anh đi đến ngôi nhà gỗ của Laurent nhân khi cha anh sai anh đi làm công chuyện vặt. Anh vẫn nghĩ về Susannah Knox, nhưng bây giờ trường đã nghỉ hè và ngày đi chơi bãi biển chỉ còn là kỷ niệm mờ ảo, lung linh. Anh đã không tham dự buổi picnic và cũng không gửi lời nhắn. Anh không biết phải nói gì. Anh đã không tự hỏi hoặc tự trách mình về việc đã hắt hủi cơ hội mà từ lâu anh đã mơ tưởng. Đó giống như là, sau khi đã xem cô như là mẫu người lý tưởng mà mình không thể với tới được, thì anh không thể hình dung ra cô là cái gì khác.
Hôm ấy, một buổi chiều tà, Laurent đang pha trà ở trong nhà thì Francis huýt sáo phía ngoài cửa trước.
“Salut, François[54],” anh gọi ra, và Francis đẩy cánh cửa bước vào. “Anh dùng một chút nhé?”
[54] Salut, François: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa “Chào, François”, François là biến thể theo tiếng Pháp của Francis.
Francis gật đầu. Anh thích ngôi nhà gỗ của anh chàng người Pháp, lộn xộn và khác hẳn với ngôi nhà của cha mẹ anh. Các đồ vật được giữ lại với nhau bằng dây và đinh; chiếc ấm trà không có nắp nhưng được giữ lại vì nó vẫn làm nhiệm vụ chứa nước trà; anh giữ quần áo của mình trong ngăn tủ đựng trà. Khi Francis hỏi anh tại sao không đóng ngăn tủ đựng quần áo, vì anh hoàn toàn có khả năng làm việc này, thì anh đáp rằng một ngăn tủ này cũng tốt như là ngăn tủ kia, có phải vậy không?
Họ ngồi trên hai chiếc ghế bên ngoài cánh cửa mà Laurent chêm để mở ra, và Francis ngửi thấy mùi rượu cô-nhắc trong hơi thở của Laurent. Đôi lúc anh uống rượu vào ban ngày, dù Francis chưa bao giờ thấy anh quá chén. Ngôi nhà gỗ trông về hướng tây và ánh mặt trời thấp chiếu vào gương mặt hai người, khiến cho Francis phải nhắm mắt lại và nghiêng đầu. Khi anh ngước nhìn Laurent, anh thấy người đàn ông lớn tuổi hơn mình đang nhìn mình, ánh nắng vàng trong đôi mắt anh sâu thẳm.
“Quel visage[55],” Laurent thì thầm, như là nói với chính mình.
[55] Quel visage: tiếng Pháp trong nguyên bản, câu nhận xét chung chung có nghĩa “Quả là khuôn mặt”.
Francis không hỏi câu ấy có nghĩa là gì, vì anh không nghĩ nó nói đến mình.
Bầu không khí tĩnh lặng tuyệt vời; âm thanh lớn nhất là tiếng dế kêu. Laurent mang ra một chai cô-nhắc và, không hỏi han gì, rót một ít vào tách trà của Francis. Francis uống và cảm thấy táo bạo một cách dễ chịu; cha mẹ anh hẳn sẽ la mắng anh nếu phát hiện, và anh nói ra điều này.
“Chúng ta không thể làm cha mẹ vui lòng suốt đời được.”
“Tôi không nghĩ mình làm họ vui lòng lúc nào cả.”
“Anh đã lớn. Chẳng bao lâu anh sẽ sống tự lập, phải không? Cưới vợ, kiếm một chỗ cho riêng mình, tất cả mọi chuyện còn lại.”
“Tôi không biết.” Chuyện này xem chừng không chắc xảy ra, quá xa vời một cách chóng mặt so với tiếng dế kêu và cô-nhắc và mặt trời đang xuống thấp.
“Anh có người yêu không? Cô gái da ngăm nhỏ bé đó - có phải là người yêu của anh không?”
“À... Ida hả? Không, cô ấy chỉ là bạn - đôi lúc chúng tôi đi với nhau về nhà.” Chúa ơi! Mọi người ở vùng này đều nghĩ Ida là người yêu của anh hay sao? “Không, tôi...”
Không hiểu vì sao, anh thấy mình muốn thổ lộ với Laurent về chuyện này: “Có một cô gái tôi thích. Thực ra ai cũng thích cô ấy, cô thật đẹp, và cũng hiền nữa... Vào cuối học kỳ cô mời tôi đi dự picnic. Trước đó cô chưa bao giờ thực sự trò chuyện với tôi... và tôi cảm thấy tự mãn. Nhưng tôi không đi.”
Có một khoảnh khắc im lặng dài. Francis cảm thấy mất tự nhiên và ước gì mình đã không nói ra.
“Không hiểu việc gì xảy ra với tôi nữa!” Anh cố cười cợt cho qua chuyện, nhưng không xong.
Laurent vỗ về chân anh: “Anh không có việc gì hết, mon ami[56]. Chúa tôi, chẳng có gì cả.”
[56] Mon ami: tiếng Pháp trong nguyên bản, có nghĩa “bạn thân của tôi”.
Francis nhìn đến Laurent. Khuôn mặt anh người Pháp trông nghiêm túc, gần như buồn buồn. Đúng là anh đấy không? Anh có làm cho người ta buồn không? Có lẽ là vậy. Mấy lúc sau này có vẻ như Ida buồn vì anh. Còn về cha mẹ anh, đúng là... họ rất buồn. Francis cố mỉm cười để làm cho anh vui. Và rồi sự việc thay đổi. Họ đã xuống quá thấp - hoặc đã tiến quá nhanh? Anh nhận ra bàn tay của Laurent vẫn còn đặt trên chân mình, nhưng không vỗ về nữa, mà bây giờ xoa nắn đùi anh với những cử động nhịp nhàng. Anh không thể ngừng nhìn vào đôi mắt nâu-vàng. Có mùi cô-nhắc và thuốc lá và mồ hôi, và anh như thể bị dán dính vào chiếc ghế, chân tay nặng nề và cứng nhắc như thể bị lấp đầy một thứ nước ấm và nhớt. Hơn nữa, anh đang bị kéo về phía Laurent, và không sức mạnh nào trên đời có thể ngăn được.
Rồi có lúc Laurent đứng dậy, bước đến cánh cửa vẫn còn mở để định đóng lại, rồi quay sang Francis: “Anh biết đó, nếu muốn thì anh có thể ra về.”
Francis chăm chăm nhìn anh, ngừng thở và thình lình kinh hãi. Anh nghĩ mình không thể thốt nên lời, nên anh lắc đầu, chỉ một lần, và Laurent đưa chân đóng sập cánh cửa.
Sau đó, Francis nhận ra mình sẽ phải quay về nhà. Anh vẫn còn nhớ món đồ nghề mình cần mượn, dù có vẻ như việc này trải qua khoảng thời gian dài không tưởng tượng được. Anh sợ phải trở về trong trường hợp sự việc trở lại bình thường. Ngộ nhỡ lần sau anh gặp Laurent, anh này có thái độ như là không có chuyện gì xảy ra? Bây giờ Laurent có vẻ hoàn toàn thư giãn, đang mặc vào chiếc áo sơ mi, và những làn khói thuốc đang lượn lờ quanh đầu, như thể đó là chuyện bình thường, hàng ngày, như thể trái đất đã không chuyển động quanh trục của nó. Francis sợ phải trở về nhà, sợ phải nhìn cha mẹ với đôi mắt từ lúc này dò hỏi, như thể họ đã biết chuyện.
Anh đứng trên lối đi với món đồ nghề, không rõ phải từ giã ra sao. Laurent bước đến bên anh, nở nụ cười tinh quái.
“T... thế...” Francis lắp bắp. Anh chưa hề lắp bắp trong đời. “Ngày mai... tôi đến nhé?”
Laurent đưa hai bàn tay ôm lấy khuôn mặt của Francis. Vừa khô ráp vừa dịu dàng, hai ngón tay cái lần mò xương gò má. Đôi mắt hai người ở tầm cao ngang nhau. Laurent hôn anh, và đôi môi anh có cảm giác như là trung tâm của cuộc sống.
“Nếu anh muốn.”
Francis đi theo con đường dẫn về nhà, vừa sướng thỏa vừa kinh hoàng. Thật là lố bịch: con đường, cây cối, các con dế, bầu trời nhạt nắng, vầng trăng đang lên, mọi thứ đều giống y như trước. Như thể chúng không biết gì, như thể chúng không màng. Và anh nghĩ: “Chúa ơi, tôi là thế sao?”
Trong nỗi sướng thỏa và trong cơn kinh hoàng: “Tôi là thế sao?”
Susannah đã bị quên lãng. Nhà trường và mối quan tâm về các nam học sinh mờ dần vào quá khứ xa xăm. Mùa hè năm ấy, trong vài tuần, anh cảm thấy hạnh phúc. Anh đi qua khu rừng; anh là một người đàn ông khỏe mạnh, có thế lực, một người với những bí mật. Anh tháp tùng Laurent trong những chuyến đi săn và câu cá, mặc dù bản thân anh không săn hoặc câu. Khi họ gặp người nào đó trong rừng, anh gật đầu chào họ, ậm ừ cộc lốc, mắt dán vào sợi dây câu hoặc thăm dò trên cây rừng, và Laurent ngầm cho thấy anh đang trở thành một tay súng săn cừ khôi, mắt như chim ó, tàn bạo. Nhưng thời gian tuyệt diệu nhất là khi hai người bên nhau, trong khu rừng hoặc ngôi nhà gỗ, và Laurent trở nên nghiêm túc. Laurent cũng thường say xỉn, và đôi tay nâng lấy khuôn mặt của anh, nhìn và nhìn như thể không bao giờ chán.
Suy đi nghĩ lại, không có nhiều lúc như thế - Laurent kiên quyết nói anh không nên lưu lại ngôi nhà gỗ quá lâu, kẻo thiên hạ nghi ngờ. Anh cũng phải dành thời gian đúng mức ở nhà cùng với cha mẹ. Anh thấy việc này là khó khăn - từ buổi chiều hôm ấy, khi anh bước vào nhà và thấy hai người đang ngồi dùng bữa.
Anh giơ lên món đồ nghề: “Phải chờ cho anh ấy trở về.”
Cha anh gật đầu.
Mẹ anh quay lại: “Con đi lâu quá. Cha con muốn làm xong việc ấy trước khi dùng bữa. Con đã làm gì?”
“Nói với cha mẹ rồi. Con phải chờ.” Anh đặt món đồ nghề lên mặt bàn rồi đi lên lầu, phớt lờ tiếng kêu mệt mỏi của bà mẹ về bữa ăn tối.
Đang run rẩy với niềm vui.
Vì lẽ mối quan hệ với cha mẹ anh chỉ là hời hợt ngay cả vào những thời gian tốt đẹp nhất, họ không để ý đến sự khác biệt khi anh im lìm hoặc lơ đãng. Giữa các chuyến đi đến nhà Laurent, anh chia thời gian cho việc đi dạo, nằm trên giường, làm việc nhà với thái độ bồn chồn và lơ là. Chờ đợi. Và rồi một đêm khác ở ngôi nhà gỗ, hoặc chuyến đi câu cá ở hồ, khi anh thực sự là chính mình. Những khoảnh khắc được nắm bắt lấy, nồng nàn và buốt nhói, khi thời gian có thể lặng lờ trôi như buổi chiều Chủ nhật, hoặc cuồn cuộn như dòng thác. Nếu anh đếm số đêm mình đã trải qua ở ngôi nhà gỗ của Laurent, thì sẽ là bao nhiêu?
Có lẽ hai mươi. Hai mươi lăm. Quá ít.
Francis giật bắn khỏi quá khứ của mình khi Jacob đi vào phòng anh. Anh lấy làm vui vì sự gián đoạn. Jacob có vẻ kích động hơn là bình thường anh từng thấy. Francis lấy tay xoa mặt như thể anh đã thiếp ngủ, hy vọng Jacob sẽ không nhìn ra những giọt nước mắt.
Jacob đã mở miệng nhưng không nói ra tiếng nào.
“Chuyện gì thế?”
“Một chuyện lạ lùng. Người phụ nữ tên Line và hai đứa con, cùng anh thợ mộc - họ đã ra đi trong đêm. Vợ anh thợ mộc đang dọa tự tử.”
Francis há hốc miệng. Anh thợ mộc, mà anh chưa từng gặp, đã bị cô y tá của anh dẫn dụ ra đi. (Thế thì tại sao cô ấy lại hôn anh?)
Jacob đi qua đi lại: “Tuyết sẽ rơi. Không phải là lúc thuận lợi để di chuyển, nhất là đối với trẻ con. Và tôi đã gặp cô ấy, đêm hôm kia, trong chuồng gia súc. Cô ấy yêu cầu tôi đừng nói gì. Nên tôi không nói.”
Francis hít một hơi dài: “Họ là người lớn. Họ có thể làm việc gì họ thích.”
“Nhưng nếu họ không rành địa hình... họ không biết làm thế nào di chuyển trong mùa đông...”
“Còn bao lâu nữa tuyết rơi?”
“Cái gì?”
“Còn bao lâu nữa tuyết sẽ rơi? Một ngày? Một tuần?”
“Một hoặc hai ngày. Không lâu. Tại sao?”
“Tôi biết họ đi đâu. Cô ấy đã trao đổi với tôi; cô hỏi về Caulfield.”
Jacob hiểu ra ý nghĩ của anh: “Họ có thể đi tới nơi. Nếu họ được may mắn.”
***
Một tiếng đồng hồ trước, họ đã gặp những cây đầu tiên, đúng là nhỏ và lơ thơ nhưng vẫn là cây, và Line cảm nhận một niềm vui dâng trào. Họ thật sự đang đi xa. Đây là rừng cây, và vùng rừng cây kéo dài đến tận bờ hồ. Gần như là họ sắp đến nơi đó. Tờ giấy chỉ dẫn cô đi theo hướng đông-nam cho đến khi gặp một con sông nhỏ, rồi đi theo sông này về phía hạ nguồn. Torbin đang ngồi trên yên phía trước cô, và cô đã kể cho nó nghe câu chuyện về con chó của cô thời cô còn nhỏ ở Na Uy.
Cô kể cho nó nghe giống như con chó trong truyện thần thoại cùng với những người lính, với đôi mắt to như chiếc đĩa.
“Con cũng có thể có một con chó, khi chúng ta tìm nơi nào đó để sống. Con thích thế không?” Cô đã nói hớ mà không kịp dừng.
“Nơi nào đó để sống?” Torbin lặp lại. “Mẹ nói chúng ta đi chơi. Không phải đi chơi hả?”
Line thở dài: “Đúng. Chúng ta đi để sống ở nơi khác, nơi nào đó tốt hơn, ấm hơn.”
Torbin cựa quậy quanh yên ngựa để nhìn lên mắt cô, một tia nhìn trông nguy hiểm trên khuôn mặt nó, không cởi mở, mà săm soi: “Tại sao mẹ nói dối?”
“Đó thực sự không phải là nói dối, con yêu ạ. Chuyện phức tạp nên không thể giải thích tất cả cho con, không giải thích được ở Himmelvanger. Điều quan trọng là không ai ở đó được biết, nếu không họ sẽ không cho chúng ta đi.”
“Mẹ nói dối với chúng con.” Đôi mắt của Torbin trông nghiêm khắc và hoang mang. Per và ngôi nhà thờ có mái ngói đỏ đã biến nó thành một đứa nhỏ mô phạm. “Nói dối là tội lỗi.”
“Trong trường hợp này thì đó không phải là tội lỗi. Torbin à, đừng tranh luận. Có nhiều chuyện mà con không hiểu được, con còn quá nhỏ. Mẹ tiếc phải làm theo cách này, nhưng đâu đã vào đấy rồi.”
Đôi má đỏ hồng vì lạnh và phấn khích, Torbin tức giận nói: “Con không còn quá nhỏ.” Cậu bé đang ngoe nguẩy.
“Ngồi im, anh trai trẻ, nếu không tôi đánh đòn. Tin tôi đi, bây giờ là không phải lúc để tranh cãi.”
Nhưng trong khi ngoe nguẩy, Torbin thúc cùi tay vào bụng mẹ, khiến cho cô há hốc miệng và cảm thấy cơn tức giận dâng trào. “Đủ rồi!” Cô buông tay khỏi dây cương rồi đánh vào chân thằng bé.
“Mẹ nói dối! Nói dối! Đáng lẽ con không đi!” Cậu bé thét lên, quẫy đạp giữa hai cánh tay cô rồi luồn xuống mặt đất. Hai chân nó khuỵu xuống, rồi nó đứng dậy chạy ngược về hướng họ đã đi qua.
“Torbin! Torbin! Espen!” Line kêu thét lên chát chúa, kéo giật sợi dây cương để quay đầu ngựa, nhưng có vẻ như con ngựa không hiểu chuyện gì. Con vật dừng lại rồi không cử động, như con tàu dừng ở sân ga. Espen đang phi phía trước cùng với Anna, kéo con ngựa chạy vòng lại, và thấy Torbin đang chạy len lỏi giữa những thân cây.
“Torbin!” Anh nhảy xuống, ẵm Anna trao cho Line lúc này đã xuống ngựa.
“Đứng đây, anh đi bắt nó! Đừng đi!”
Anh chạy theo Torbin, vòng quanh các thân cây và ngã bổ qua một cành cây rơi trên đất. Trong một khoảnh khắc kinh hoàng, hai người đã mất hút. Anna nhìn qua Line với đôi mắt màu lam u uẩn, và bắt đầu khóc.
“Không sao đâu, con yêu, anh con chỉ ngu xuẩn một chút. Họ sẽ trở lại ngay.” Theo sự thôi thúc, cô cúi xuống vòng hai cánh tay qua đứa con gái, nhắm mắt lại trên mái tóc lạnh lẽo trơn nhờn của cô bé.
Có lẽ không hơn vài phút sau, bóng hai người xuất hiện trở lại giữa rừng cây. Gương mặt Espen trông nghiêm nghị, và anh lấy tay lôi Torbin lúc này đã biết sợ. Nhưng vào lúc ấy, Line nhận ra một chuyện nào đó tệ hại hơn đã xảy ra.
Cô và Anna đang tìm kiếm, lúc đầu nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm thấy ngay; một vật hình tròn, cứng, bằng thép trông giống như chiếc la bàn đáng lẽ bình thường không phải ở đây, nó sẽ lộ ra rõ ràng. Line biến đổi thành một trò chơi cho Anna, hứa hẹn phần thưởng cho người nào tìm ra. Chẳng bao lâu, trò chơi trở nên chán ngắt: địa hình ở đây quá phức tạp; những mô đất, hố sâu làm trẹo cổ chân, hang thỏ được che giấu và rễ cây quấn quít, khúc gỗ mục ngang dọc. Cô không nhớ được có phải mình đánh rơi khi Torbin thúc cùi tay vào bụng mình, hoặc sau đó, hoặc khi cô cố ghìm cương ngựa. Địa hình rối rắm không lưu lại dấu vết nơi nào họ đã đi qua.
Cô bảo Espen mình tìm không ra, và Torbin nhận ra vẻ sợ hãi trên khuôn mặt mẹ mình nên nín thinh. Cậu bé biết đó là do lỗi của mình. Tất cả bốn người bắt đầu tìm kiếm, đi thành vòng tròn quanh hai con ngựa, kéo qua một bên những cây địa y và lá cây mục, đưa bàn tay chọc xuống những hốc tối tăm, ướt lạnh. Mọi hướng đều trông giống nhau như giễu cợt họ: những bụi rậm cây thông lớn lên rồi chết đi tại chỗ, ngã xuống và dựa vào vòng tay nhau, đan kết quanh họ thành một cái bẫy dầy đặc.
Anna là người đầu tiên nhận ra: “Ma-ma, tuyết rơi.”
Line đứng thẳng dậy, lưng mỏi nhừ. Tuyết. Im lìm, những bông tuyết khô bay chung quanh cô.
Espen nhận ra dáng vẻ trên khuôn mặt cô. Anh nói: “Ta tiếp tục tìm kiếm trong nửa giờ nửa, rồi phải tiếp tục đi. Dù sao thì ta vẫn có thể nhắm hướng tốt. Quan trọng là cần phải biết hướng đi đến rừng cây. Đây là chặng dễ đi.”
Một lần, Torbin reo lên và nhảy nhót, nhưng đó chỉ là một viên đá hình tròn màu xám. Line thầm cảm thấy nhẹ nhõm khi Espen kêu dừng lại. Cô yêu anh vì cách anh nắm quyền chỉ đạo, tập họp tất cả lại để dặn dò, rồi chọn hướng mà đi tiếp. Anh chỉ ra rằng địa y mọc quanh thân cây ở hướng bắc, nên họ phải để ý quan sát xem hướng nào địa y mọc dầy hơn. Đối với Line, có vẻ như địa y mọc đồng đều mọi hướng, nhưng cô gạt ý nghĩ này đi. Espen sẽ nhận biết; anh là người bảo hộ cho họ. Cô chỉ là một phụ nữ.
Espen dẫn Torbin đến con ngựa của anh, rồi họ im lìm chạy đi. Tiếng tuyết rơi khỏa lấp mọi âm thanh, kể cả tiếng kẽo kẹt của dây cương.
***
Tôi đi đến chuồng gia súc mà không có lý do chính đáng, ngoài việc tôi đang nghĩ làm thế nào hỏi han các phụ nữ, nhưng nói thật, tôi sợ họ. Họ trông mạnh mẽ, xa lạ và khinh khỉnh, chỉ hiền dịu đôi chút do nỗi tiếc thương. Tôi là người chưa bao giờ bận tâm với lòng từ thiện và tử tế, hoặc thậm chí hiếu kỳ về người thân cận của mình, thế thì tôi là ai mà hỏi han họ? Ít nhất các con chó tỏ ra vui mừng khi trông thấy tôi, điên cuồng vì chán ngán khi bị nhốt trong chuồng. Con Lucie chạy đến, vẫy đuôi, hai hàm mở rộng trong kiểu nụ cười hạnh phúc của loài chó. Tôi cảm thấy kỳ quặc vì tình thương mến đối với nó, cảm nhận cái đầu thô ráp của nó dưới bàn tay tôi, lưỡi thè ra như cát nóng bỏng.
Rồi Parker hiện diện ở đây. Tôi tự hỏi ông đã nhìn thấy tôi từ xa hay không.
Đây là lần đầu tiên ông đến tìm tôi. Đây là lần đầu tiên kể từ khi ông gõ cửa nhà tôi lúc nửa đêm và chúng tôi đạt thỏa thuận giúp nhau. Hôm qua thì tôi hẳn đã vui; hôm nay tôi không chắc.
Giọng nói của tôi nghe the thé không như tôi muốn: “Ông đã nhận được tin tức như mong muốn hay chưa?”
“Ý bà nói gì?”
“Lý do ông đến đây. Nó không liên quan đến Francis hoặc Jammet. Ông muốn gặp lại Stewart. Vì chuyện gì đó xảy ra mười lăm năm trước. Vì một vụ xô xát ngu xuẩn.”
Parker nói một cách cẩn trọng mà không nhìn đến tôi: “Không phải thế. Jammet là bạn tôi. Và con trai bà... à, anh ấy mến Jammet. Tôi nghĩ họ mến nhau, phải không?”
“À ra thế!” Tôi thốt ra một tiếng cười ứ nghẹn. “Quả là cách diễn đạt kỳ lạ. Ông nói nghe như là...”
Parker không nói gì. Con Lucie vẫn liếm bàn tay tôi và tôi quên rụt tay lại.
“Thật ra, tôi...” Hình như Parker đặt bàn tay ông lên cánh tay tôi, và dù một phần trong tôi muốn giật tay ra, tôi vẫn không làm gì. “Thật ra, tôi không...”
Tôi không tin được mình đã không biết. Tiếng nói của tôi vỡ vụn như lá khô: “Ông nói gì?”
“Jammet đã... À, anh ấy đã kết hôn, nhưng đôi lúc anh cũng có... bạn. Đàn ông trẻ, đẹp trai, như con trai bà.”
Bằng cách nào đó ông dẫn tôi bước xa khỏi cánh cửa, đi đến một góc tối chất những bành cỏ khô, rồi tôi ngồi trên một trong những bành này.
“Lần cuối cùng tôi gặp anh ấy - đó là vào mùa xuân - bà biết không, anh nói đến một người nào đó sống gần anh. Anh ấy biết tôi không phê phán anh; mà anh cũng không màng.”
Khuôn mặt ông thoáng nụ cười, ông bắt đầu châm lửa dọc tẩu, không vội vã: “Anh quan tâm sâu sắc đến anh kia.”
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói