You can never get a cup of tea large enough or a book long enough to suit me.

C.S. Lewis

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 27
hòng ông có mùi mốc, nhưng sạch sẽ. Ông thu dọn chồng giấy trên chiếc bàn gần cửa sổ, và kéo hai chiếc ghế. Maria ngồi xuống, cảm thấy thích sự chăm sóc của ông. Lúc còn trẻ hẳn ông khá đẹp trai, và thật ra bây giờ vẫn thế, với mái tóc bạc dầy và đôi mắt xanh lam trong trẻo. Cô cười thầm với chính mình về ý nghĩ ngốc nghếch.
Quang cảnh nhìn từ cửa sổ là mặt tiền con đường; vị trí tốt cho người muốn nhìn cảnh qua lại. Chẳng chóng thì chầy, mọi người sống ở Caulfield đều sẽ đến cửa hàng. Ngay cả ngôi nhà của cô cũng được nhìn thấy thấp thoáng đằng xa, và xa hơn nữa là mặt nước xám lặng lờ dưới trần mây thấp.
“Không bằng lâu đài, nhưng tôi thấy nó được việc.”
“Ông làm việc ở đây hở?”
“Theo một cách nói thì là vậy.” Ông ngồi xuống, trao cho cô một tờ giấy: “Cô nghĩ gì về cái này?”
Maria cầm tờ giấy, trông cũ kỹ, được xé ra từ một quyển sổ. Có những đường vẽ bút chì, nhưng thoạt tiên cô không nhìn ra phương hướng trên dưới ra sao. Có những dấu hiệu có góc cạnh - chủ yếu là những đường theo các cấu hình khác nhau: đa giác, đường song song, đại loại như thế. Chung quanh các dấu này là nét vẽ phác của một số hoa văn hình gậy, nhưng không có khuôn mẫu rõ ràng. Cô xem xét một cách cẩn thận.
“Tôi rất tiếc phải làm cho ông thất vọng, nhưng tôi không nhìn ra cái gì hết. Đây là bản chép hoàn chỉnh chứ?”
“Vâng - theo những gì tôi biết. Nó được chép lại từ một mảnh nguyên vẹn, nhưng dĩ nhiên còn có những hình khác.”
“Chép lại từ cái gì? Đây không phải thuộc về Babylon[48], đúng không, mặc dù trông khá giống chữ viết hình nêm[49].”
[48] Babylon: thành phố cổ vĩ đại nằm trên vùng sa mạc ở Iraq hiện nay, cách Baghdad 90 km về phía nam, vào thời cực thịnh thể hiện một nền văn minh xuất chúng.
[49] Chữ viết hình nêm: loại chữ viết gồm những nét giống cái nêm, thường được người cổ đại vùng Tây Á khắc trên đất sét, đá, kim loại, sáp… Các bản viết đầu tiên có niên đại khoảng 3000 TCN.
“Đó cũng là ý nghĩ đầu tiên của tôi. Nhưng không thuộc về Babylon, hoặc chữ viết tượng hình[50], hoặc chữ Hy Lạp. Nó cũng không phải Sanskrit[51], hoặc Do Thái, hoặc Aramaic[52], hoặc Ả Rập.”
[50] Chữ viết tượng hình: loại chữ viết sử dụng những biểu tượng để chỉ vật thể (như người, chim chóc, cây cối, mặt trời, mặt trăng, nhà và cửa) hoặc ý tưởng (như đếm số, chuyển động, thời gian, vui buồn). Ví dụ: chữ viết Ai Cập cổ đại bắt đầu từ khoảng năm 3300 TCN, và chữ Hán còn được dùng đến ngày nay.
[51] Sanskrit: ngôn ngữ cổ, được sử dụng trong tôn giáo (như kinh Phật) và thơ văn ở Ấn Độ, hiện nay vẫn được các giới đạo sĩ và học giả Ấn Độ sử dụng.
[52] Aramaic: ngôn ngữ liên hệ mật thiết đến tiếng Do Thái, được sử dụng từ trước năm 1000 TCN rồi dần dà trở thành ngôn ngữ thông dụng ở vùng Trung Đông. Jesus giảng đạo bằng Aramaic, và Kinh Cựu ước cũng được viết theo Aramaic. Hiện nay một số dân ở Trung Đông, Thổ Nhĩ Kỳ… vẫn còn sử dụng Aramaic.
Maria mỉm cười; ông đang nói về việc đánh đố, và cô thích việc đánh đố. “Nó không phải chữ Hán hoặc chữ Nhật. Tôi không biết, tôi không nhận ra - các hình thể này... Nó có phải là một loại chữ viết ở châu Phi không?”
Ông lắc đầu: “Nếu cô nhận ra thì tôi rất khâm phục. Đây là cái gì đó mà tôi đã mang đến các viện bảo tàng và trường đại học để cho các chuyên viên ngôn ngữ xem, nhưng họ đều không nhận ra nó là cái gì.”
“Và cái gì đó khiến cho ông nghĩ rằng... nó còn hơn là một khuôn mẫu trừu tượng, đúng không? Ý tôi nói là, mấy hình thể này trông như trò trẻ con.”
“Đó là bởi vì tôi không có kỹ năng sao chép lại cho chính xác. Nguyên bản có một khuôn mẫu nhất định. Như cô nói, đây chỉ là một phần. Nhưng đúng, tôi vẫn nghĩ nó còn hơn là vài nét nguệch ngoạc.”
“Ông nói nét nguệch ngoạc là sao?”
“Nguyên bản được cắt thành một mảnh xương, và được nhuộm với một loại phẩm màu đen nào đó, có lẽ là một hỗn hợp bồ hóng. Công việc này rất công phu. Đây là những hình thể xếp đầy chung quanh, theo một chuỗi. Tôi nghĩ các dấu hiệu là một thứ ngôn ngữ và ghi lại một sự kiện nào đó, và các hình thể minh họa sự kiện đó.”
“Thật vậy sao? Ông đã diễn dịch tất cả điều này hở? Nguyên bản hiện đang ở đâu?”
“Ước gì tôi biết được. Người làm chủ nó đã hứa trao nó cho tôi, nhưng...” Ông nhún vai.
Maria nhìn ông chăm chú: “Người đó... có phải là Jammet không?”
“Cô đoán giỏi lắm!”
Cô cảm thấy kích xúc với một niềm tự mãn: “Thế là nó nằm trong số tài sản của anh ấy phải không?”
“Nó mất rồi.”
“Mất rồi? Ý ông nói là bị đánh cắp chứ gì?”
“Tôi không biết. Hoặc nó bị đánh cắp, hoặc anh ấy bán nó hay cho ai đó. Nhưng tôi nghĩ hai việc sau là không đúng; anh ấy nói sẽ giữ nó cho tôi.”
“Vì thế... ông đang chờ anh Moody mang nó về phải không?”
“Có thể là hão huyền, nhưng đúng vậy.”
Maria lại nhìn vào tờ giấy: “Ông biết không, nó gợi cho tôi nhớ đến cái gì đó... hoặc đúng hơn là các hình thể gợi cho tôi. Nhưng tôi không chắc đó là cái gì. Tôi không nhớ.”
“Nếu cô cố nhớ ra thì tôi rất cám ơn.”
“Ông Sturrock à, xin đừng bắt tôi phải khổ sở. Nó là cái gì vậy?”
“Tôi rất tiếc. Tôi không biết.”
“Nhưng ông có một ý tưởng.”
“Đúng. Điều này nghe ra không tưởng, nhưng tôi... có một - à, tôi nghĩ hy vọng là cách nói đúng nhất. Tôi hy vọng đây là một thứ chữ viết của người Da Đỏ.”
“Ý ông nói... người Da Đỏ Bắc Mỹ? Nhưng họ không có chữ viết - ai cũng biết điều này.”
“Có thể xưa kia họ có chữ viết.”
Maria suy nghĩ về lời ông nói. Ông có vẻ hoàn toàn nghiêm túc.
“Nguyên bản cũ là như thế nào?”
“À - tôi cần phải tìm hiểu.”
“Ông biết nó từ đâu ra không?”
“Không, và bây giờ khó mà tìm hiểu.”
“Thế thì...” Cô tìm cách chọn ngôn từ cho đúng, không muốn làm ông phật lòng: “Dĩ nhiên là ông đã nghĩ nó có thể là vật giả mạo.”
“Tôi đã nghĩ tới điều này. Nhưng thường người ta chỉ làm ra vật giả mạo để kiếm chác. Khi có thị trường cho những vật như thế. Tại sao ai đó lại cất công làm ra một vật mà không có giá trị?”
“Nhưng đó chính là lý do khiến cho ông đến đây, Caulfield, phải không? Thế thì ông hẳn tin nó không phải là vật giả mạo.”
Ông mỉm cười, tự chế nhạo mình: “Tôi không phải giàu có. Nhưng luôn vẫn có thể - tuy rằng không chắc - đó là vật thực.”
Maria lại mỉm cười, không chắc chắn mình nghĩ gì. Tính hay nghi ngại là rào cản giúp bảo vệ cô chống lại sự giễu cợt, và đó là cách cô thể hiện thái độ kịch liệt phản đối. Nhưng cô e rằng ông đang đi theo con đường sai lầm.
“Các hình thể đó... gợi cho tôi nhớ lại những hình vẽ của người Da Đỏ mà tôi đã từng thấy. Như là lịch, đại loại như vậy, ông biết chứ.”
“Cô không thấy thuyết phục.”
“Tôi không biết. Có lẽ nếu tôi xem qua nguyên bản...”
“Dĩ nhiên rồi, cô cần xem qua. Cô nói đúng, chính vì thế mà tôi đến đây. Đó là mối quan tâm của tôi: các sự vụ và lịch sử của người Da Đỏ. Tôi thường viết các bài nghiên cứu. Tôi được tiếng nhờ đó, tuy chỉ là nhỏ nhoi thôi. Tôi thực lòng tin...” ông ngập ngừng, nhìn ra khung cửa sổ, “… tôi thực lòng tin rằng nếu người Da Đỏ có một nền văn hóa chữ viết, thì người ta sẽ đối xử với họ khác đi.”
“Ông có thể đúng.”
“Tôi có một người bạn, một người bạn Da Đỏ, thường nói đến điều khả dĩ này. Cô thấy không, điều này không phải là hoàn toàn chưa ai nói tới.”
Nếu Sturrock cảm thấy thất vọng vì phản ứng của cô thì ông vẫn không để lộ ra.
Cảm thấy mình đã quá khắt khe, cô đưa tay nắm lấy tờ giấy: “Tôi chép lại được không? Nếu ông cho phép - Tôi có thể mang đi mà... thử làm việc gì đó.”
“Làm việc gì?”
“Chữ viết là một thứ mã, phải không. Và bất kỳ thứ mã nào cũng có cách giải mã.” Cô nhún vai, cho thấy mình không có kinh nghiệm trong việc này.
Sturrock mỉm cười và đẩy tờ giấy về phía cô: “Được rồi, cô cứ tự nhiên. Tôi đã thử, nhưng không thành công.”
Maria không hề tin rằng mình có thể giúp, nhưng ít ra việc này cũng giúp tâm trí cô thoát khỏi mấy chuyện chán nản và lo lắng đang vây phủ cô mọi bề.
***
Ông ở độ tuổi trung niên, người tầm thước, với đôi mắt xanh lam tinh anh trên gương mặt phong sương, và mái tóc muối tiêu cắt ngắn. Ngoài đôi mắt, bộ dạng ông không có gì nổi bật, nhưng tạo ấn tượng của một con người khiêm tốn, có sức thu hút, đáng tin cậy. Tôi có thể hình dung ông là một luật sư hoặc bác sĩ miền quê, một mẫu người công chức vốn đã đem trí thông minh làm việc tốt - ngoại trừ có lẽ đôi mắt ấy: như soi mói, nhìn sâu rộng, sáng sủa như mơ mộng. Đôi mắt của một nhà tiên tri. Tôi thấy ngạc nhiên, thậm chí bị thu hút. Không hiểu sao tôi đã nghĩ mình sẽ gặp một quái vật.
Stewart bắt tay tôi và khẽ cúi đầu chào: “Bà Ross. Rất hân hạnh được gặp bà.”
Tôi gật đầu.
“Còn anh hẳn là Moody. Hân hạnh được quen biết với anh. Frank nói với tôi anh làm việc ở Vịnh Georgian. Một vùng đẹp đẽ của phần đất này.”
Moody mỉm cười và bắt tay với Stewart: “Vâng, đúng vậy. Tôi cũng hân hạnh được gặp ông. Tôi đã nghe nói nhiều về ông.”
Stewart lắc đầu với một nụ cười, có vẻ như ngượng ngập: “À, thế... Ông Parker. Tôi nghĩ cần cảm ơn ông đã dẫn đường cho hai vị này trong cuộc hành trình khó khăn như vậy.”
Parker lưỡng lự một giây đồng hồ rồi đưa tay bắt. Theo tôi nhận xét, khuôn mặt Stewart không tỏ vẻ gì là ghi công Parker cả.
“Ông Stewart, tôi rất vui được gặp lại ông.”
Stewart lộ vẻ như vừa muốn tạ lỗi vừa lúng túng: “Gặp lại? Xin lỗi, tôi không nhớ...”
“William Parker. Gần Hồ Clear. Mười lăm năm về trước.”
Mặt ông tỏ vẻ tươi tắn dễ chịu: “Hồ Clear à? Ông Parker, xin ông thứ lỗi, trí nhớ tôi bây giờ đã kém.”
Parker không cười: “Có lẽ nếu ông vén tay áo bên trái, ông sẽ nhớ.”
Nét mặt Stewart thay đổi, và trong một giây khắc tôi không hiểu nổi. Rồi ông cười phá lên, đập tay lên vai Parker: “Trời đất! Làm thế nào tôi quên được? William! Đúng rồi, đương nhiên. Mà này, đã lâu lắm rồi, như ông nói.” Rồi ông nghiêm sắc mặt lại: “Rất tiếc tôi đã không đến gặp ông sớm hơn khi mới trở về. Có một tai nạn thương tâm, như quý vị đã nghe.”
Chúng tôi gật đầu, như bọn học trò gật đầu với thầy hiệu trưởng.
“Nepapanees là một trong số những nhân viên giỏi nhất của tôi. Chúng tôi đang săn thú dọc một con sông cách đây không xa.” Ông nói nhỏ lại, và tôi nghĩ tuy không chắc, tôi thấy long lanh giọt lệ trong đôi mắt ông: “Chúng tôi đang theo dấu vết nào đó và... tôi vẫn không tin chuyện gì đã xảy ra. Nepapanees là người có kinh nghiệm theo dõi dấu vết; người săn thú giỏi. Trong vùng lùm bụi thì không ai biết rành như anh ấy. Nhưng trong khi đi theo một dấu vết dẫn ra dọc bờ sông, anh ấy bước lên một lớp băng mỏng rồi chìm nghỉm.”
Ông ngưng lại, đôi mắt chú mục vào cái gì đấy không hiện diện trong phòng. Tôi nhận thấy gương mặt ông, vốn thoạt tiên toát vẻ tự tin, bây giờ hằn vẻ mệt mỏi. Có thể ông ở tuổi bốn mươi. Có thể ông già hơn mười lăm tuổi. Tôi không biết chắc.
“Chỉ một phút anh ấy ở đó, phút kế tiếp đã biến mất. Anh chìm xuống, cho dù tôi bò ra xa đến mức có thể được nhưng vẫn không thấy anh ấy. Tôi còn gục mặt xuống để tìm, nhưng vô ích. Tôi vẫn tự hỏi - có lẽ mình đã làm được hơn thế nữa?”
Ông lắc đầu: “Bạn có thể làm một việc cả ngàn lần mà không nghĩ ngợi gì. Giống như đi trên mặt nước đóng băng. Bạn đã biết rõ lớp băng dày bao nhiêu, biết dòng nước bên dưới chảy mạnh hay yếu. Và rồi sau những lần như thế bạn biết là an toàn, lần kế tiếp bạn đặt chân lên thì bạn phạm phải sai lầm, và mặt băng không đỡ được sức nặng của bạn.”
Moody gật đầu với vẻ cảm thông. Parker đang nhìn ông với chút ít chú ý, săm soi ông với cùng dáng vẻ mà tôi đã thấy trên gương mặt ông khi đang xem xét mặt đất, cố tìm ra dấu vết. Tôi không rõ ông thấy khó hiểu chỗ nào, vì Stewart chỉ lộ vẻ hối tiếc và buồn rầu.
Tôi hỏi: “Người ngoài kia là vợ anh ấy phải không?”
“Elizabeth tội nghiệp. Đúng. Họ có bốn đứa con; bốn đứa trẻ không cha. Một hoàn cảnh kinh khủng. Tôi thấy anh đi ra gặp cô ấy.” Ông đang nói với Moody: “Có lẽ anh nghĩ chúng tôi vô cảm khi để cô ấy một mình, nhưng đó là cung cách của họ. Họ tin rằng không ai có thể nói gì vào thời khắc như thế này. Phải để họ than khóc theo cách của họ.”
“Nhưng hẳn là, họ có thể nói cho cô ấy biết là cô không phải đơn độc. Và trong thời tiết này...”
“Nhưng trong nỗi đau của riêng cô ấy, thì cô đơn độc, phải không? Anh ấy chỉ có một vợ, và cô ấy chỉ có một chồng.” Đôi mắt xanh của ông nhìn qua tôi, và tôi phải nhìn nhận là ông nói đúng. “Cô ấy đặc biệt đau khổ vì tôi không mang thi hài anh ấy về được. Quý vị biết không, theo người Da Đỏ thì chết đuối là vô phúc. Họ tin rằng linh hồn không thể siêu thoát. Ít nhất cô ấy đã được rửa tội, nên có lẽ cô sẽ tìm thấy ít an ủi. Và các đứa trẻ cũng thế. Đó là phúc lành.”
Dù đang ở trong không khí gây sốc, Stewart vẫn nhất quyết muốn dẫn chúng tôi đi xem chung quanh. Chuyến tham quan là cử chỉ lịch sự đối với tất cả khách viếng thăm, nhưng có tính cách khập khiễng và hão huyền, như thể chúng tôi đang đóng vai trò của các vị khách thì thầm lời khen tặng.
Đầu tiên, ông dẫn cho chúng tôi đi xem tòa nhà chính; ba mặt là quảng trường. Tòa nhà một tầng bằng gỗ với một hành lang chính giữa như là cột sống, và các phòng nằm dọc theo hai bên. Trong khi chúng tôi đi xem, sự khác biệt giữa quá khứ và hiện tại của Hanover càng lúc càng rõ nét. Toàn thể một chái của tòa nhà là dành cho khách; ít nhất có chục phòng. Các phòng dành cho chúng tôi hướng ra phía ngoài, nhìn ra con sông và khu đồng bằng. Bây giờ quang cảnh toàn một nền trắng cùng những đường chân trời màu xám lờ mờ hòa trộn nhau, có một dốc đá màu nâu cắt ngang. Nhưng vào mùa hè thì cảnh này hẳn là đẹp. Rồi có một phòng ăn, nhưng khi không có bàn ăn dài thì xem trống vắng và cô đơn. Stewart cho chúng tôi biết rằng xưa kia, khi Hanover còn là trung tâm của một vùng có nhiều lông thú, nơi đây chứa một trăm nhân viên và gia đình của họ, và lợi nhuận cao tạo ra những buổi tiệc tùng kéo dài thâu đêm. Nhưng đó là nhiều năm về trước, trước khi Stewart đến nhận công tác. Trong khoảng hai mươi năm qua, thương điếm này hoạt động với một đội ngũ nhân viên ít ỏi, cố duy trì quyền kiểm soát chông chênh của Công ty trong vùng hoang dã, nhằm giữ thể diện của quá khứ hơn là vì lý do tài chính hợp lý.
Chái trung tâm dài của tòa nhà phần lớn là trống vắng; lúc trước là nơi cư ngụ của nhân viên điều hành, bây giờ là hang ổ của nhện và chuột. Thay vì có hàng chục nhân viên điều hành, bây giờ chỉ còn Stewart và Nesbit. Một nhân viên duy nhất cư ngụ ở đây là thông dịch viên chính, Olivier, một anh trai trẻ không lớn tuổi hơn Francis. Stewart kêu anh này đến gặp chúng tôi, và có lẽ anh không vui nhưng vẫn không lộ ra ngoài mặt. Anh có đầu óc nhanh lẹ, sẵn sàng làm vui lòng người, và với vẻ tự hào Stewart nói với chúng tôi rằng anh nói giỏi bốn thứ tiếng vì có lợi thế ở cha mẹ anh: một người nói tiếng Pháp và một người nói tiếng Anh, có gốc gác ở hai sắc tộc bản địa khác nhau.
Stewart nói: “Olivier sẽ tiến xa trong Công ty,” và Olivier mặt sáng lên với vẻ vui mừng lẫn ngượng ngập. Tôi tự hỏi có đúng thế không: làm thế nào một anh trai trẻ da ngăm đen tiến thân trong một công ty của người nước ngoài? Nhưng rồi, có lẽ anh đã tiến khá. Anh có công ăn việc làm và có tài năng, lại có người nâng đỡ là Stewart.
Từ chái thứ ba của tòa nhà, gồm các văn phòng, Stewart dẫn chúng tôi đến một kho chứa hàng, ông giải thích là trong mùa hè họ đã chở đi phần lớn lượng lông thú, nên bây giờ hàng tồn kho còn ít. Người đặt bẫy làm việc trong mùa đông để kiếm lông thú, và đến mùa xuân họ mang sản phẩm đến bán cho thương điếm. Donald dọ hỏi về các loại hàng hóa và sản lượng, và Stewart chú tâm trả lời khiến cho Donald cảm thấy tự mãn. Tôi liếc qua Parker để thăm dò phản ứng của ông, nhưng ông ngó lơ. Tôi cảm thấy bị hắt hủi. Những người khác phớt lờ, nhưng có cái gì đấy đập vào mắt tôi. Tôi cúi xuống và nhặt lên một mẩu giấy hình vuông. Viết trên đó là một số chữ cái và chữ số: 66HBPH, tiếp theo là tên các con thú. Tôi nhớ lại rằng mình vẫn còn giữ mẩu giấy mà Jammet đã cẩn thận giấu - có lẽ vậy - trong ngôi nhà gỗ của anh.
Tôi trao mảnh giấy cho Stewart: “Cái gì thế?”
“Đó là giấy đóng gói. Khi chúng tôi đóng gói lông thú...” ông đang nói với mình tôi, là người duy nhất không biết đến cách làm việc của Công ty, “… danh sách các món hàng được để trên cùng để chúng tôi biết mình không mất món nào. Mã số trên cùng chỉ ra loại hàng hóa - đây là tháng Năm năm rồi, tên Công ty, dĩ nhiên là vậy, tên hạt, tức là Missinaibi, được chỉ danh bằng chữ P, và thương điếm - Hanover, H. Vì vậy mà mỗi gói hàng được xác định xuất xứ và thời điểm.”
Tôi gật đầu. Tôi không nhớ các chữ cái trên mảnh giấy của Jammet, chỉ biết rằng đấy là vài năm trước, có lẽ là vào lần cuối anh làm việc ở đấy. Vẫn còn cần được giải thích thêm.
Đi quá các nhà kho là khu chuồng gia súc, trống trơn ngoại trừ các con chó và vài con ngựa. Và quá nữa, là bảy hoặc tám ngôi nhà gỗ nơi các nhân viên tải hàng sống với gia đình của họ, và nhà nguyện.
“Bình thường thì tôi dẫn quý vị đi gặp mọi người, nhưng hôm nay... Đây là một cộng đồng gần gũi, đặc biệt bây giờ chúng tôi không có nhiều người. Có nhiều chuyện buồn.” Rồi ông quay đầu lại, hình như nói với riêng tôi lần nữa: “Xin tự nhiên đến nhà nguyện bất kỳ lúc nào. Luôn mở cửa.”
“Ông Stewart, tôi biết lúc này đầu óc ông bận rộn nhiều việc, nhưng ông biết là chúng tôi có lý do để đến đây không?” Tôi không màng liệu bây giờ có phải là lúc thuận tiện để nêu ra việc này hay không, tôi không muốn Moody là người đầu tiên nói ra.
“Vâng, tôi biết chứ. Frank nói với tôi về chuyện nào đó... Quý vị đang đi tìm ai đó, phải không?”
“Con trai tôi. Chúng tôi đã theo dấu nó. Dấu vết dẫn chúng tôi đến đây... hoặc ít nhất là gần đâu đây. Lúc gần đây ông có thấy người lạ mặt nào không? Nó là đứa trẻ mười bảy tuổi, tóc đen...”
“Không, tôi rất tiếc. Trước khi quý vị đến đây, chúng tôi không thấy ai cả. Tôi e mình đã bỏ sót, với mọi chuyện như thế này... Tôi sẽ hỏi mấy người khác. Nhưng theo tôi được biết thì không có ai khác đang ở đây.”
Vậy là trước mắt chỉ có thế. Moody có vẻ không hài lòng với tôi chút nào, nhưng đó là vấn nạn nhỏ nhặt nhất của tôi.
Stewart kiếu chúng tôi để đi lo vài công việc của Công ty và tôi nhìn qua Parker và Moody. Chúng tôi ngồi trong phòng khách của Stewart, với một lò sưởi tạo cảm giác khá thoải mái, và một bức tranh sơn dầu phía trên lò sưởi, vẽ các thiên thần.
“Tối qua, ngay sau khi chúng ta đến đây, tôi nghe Nesbit đang đe dọa một phụ nữ. Anh ta bảo cô ấy sẽ biết tay anh ta nếu cô không giữ mồm giữ miệng ‘về ông ấy’. Anh ta nói thế - ‘về ông ấy’. Cô ấy đang tranh cãi; tôi nghĩ cô không muốn làm theo. Và rồi anh ta nói chuyện gì đó sẽ xảy ra khi ‘ông ấy’ trở về. Đấy hẳn là Stewart.”
Moody hỏi: “Cô ấy là ai vậy??’
“Tôi không biết. Tôi không thấy mặt cô này, và cô nói khẽ hơn anh ta.”
Tôi lưỡng lự, không biết có nên kể cho Moody nghe về Nesbit và Norah hay không. Có cái gì đấy khiến cho tôi nghĩ người ấy là Norah; xem dường cô là mẫu người thích tranh cãi. Nhưng cánh cửa đã bật mở và anh thông dịch trẻ Olivier bước vào. Dường như anh được sai phái đến để làm bạn với chúng tôi. Nhưng tôi có cảm tưởng như người nào đấy muốn theo dõi chúng tôi.
***
Có lần cô nghe chuyện một phụ nữ lâm vào cảnh rối rắm vì người chồng đe dọa giết cô này. Cô đi đến thương điếm gần nhất của Công ty và đứng chờ bên ngoài, với tư trang của cô chất đống trước mặt. Đầu tiên, cô đốt tư trang của mình. Rồi châm que diêm đốt chiếc túi treo quanh cổ. Chiếc túi chứa đầy thuốc súng và nổ tung, khiến cho cô mù mắt, mặt và ngực bị bỏng. Sống sót vì lý do khó hiểu, cô lại lấy một sợi dây thừng treo cổ mình trên một nhánh cây. Nhưng cô vẫn sống, rồi lấy một cây kim dài đâm vào lỗ tai phải. Cho dù cây kim đâm lút sâu vào đầu, cô vẫn không chết. Cô chưa tới số, và linh hồn cô không muốn rời xa cô. Thế là cô từ bỏ ý định, đi đến nơi nào đó để bắt đầu cuộc sống mới, rồi khấm khá lên. Tên cô là Chim-bay-trong-ánh-nắng.
Điều lạ lùng là cô còn nhớ những chi tiết như thế trong câu chuyện. Tên người phụ nữ; lỗ tai bên phải. Có lẽ cô nhớ cái tên vì nó có phần giống tên cô: Bird - tức Chim. Cô không biết gì khác về người phụ nữ kia, ngoại trừ cô biết muốn chết là như thế nào. Nếu không vì các con cô thì cô nghĩ mình cũng muốn treo cổ. Alec sẽ ổn: mười ba tuổi, lanh lợi, đã có việc làm, đang học việc với Olivier làm thông dịch. Josiah và William thì nhỏ tuổi hơn nhưng không có nhiều trí tưởng tượng khiến cho chúng sợ hãi và hoang mang. Nhưng Amy còn nhỏ, và trong cuộc sống này con gái cần được hỗ trợ nhiều hơn, nên cô bé sẽ phải chịu đựng trong thời gian dài hơn. Nhưng khi không có chồng bên cạnh thì lúc nào cũng như là trong mùa đông.
Không cần phải chú tâm nhìn qua cửa sổ, cô vẫn thấy các vị khách đi đến và đứng cách ngôi nhà dăm bảy bước, nhìn về phía cô. Cô có thể nhận ra họ đang nói về mình; ông ta sẽ nói về chồng cô, kể câu chuyện chồng cô chết như thế nào. Cô không còn tin nơi ông ta nữa; khi nói chuyện với cô, ông ta luôn giữ kín các bí mật. Ông ta bắt chồng cô phải giữ kín các bí mật tuy chồng cô không thích, dù anh nhún vai mà phó mặc; sau các chuyến đi săn trở về anh bỏ lại các bí mật bên ngoài ngôi nhà.
Sáng hôm ấy - cô đang mong chờ anh trở về ngay khi cô thức giấc, Amy hỏi hôm nay pa-pa trở về phải không, và cô nói phải - cô bước ra cánh cổng phía tây, nghe tiếng các con chó sủa từ đằng xa, rồi cô mỉm cười với chính mình. Cô nghe rõ đến nỗi cô tin chắc mình nghe được tiếng nói của những người chạy trên nền tuyết. Cô vẫn còn mỉm cười khi anh trở về sau chuyến đi săn, dù cho họ đã cưới nhau một thời gian lâu như thế. Cô nghe tiếng các con chó và bước đến mô đất nơi người ta có thể nhìn qua hàng rào. Và thấy chỉ có một người đi với chiếc xe trượt tuyết. Cô đứng đấy mà nhìn cho đến khi ông ta đi đến vách đá, rồi cô đi xuống khoảnh sân để nghe ông ta nói gì, dù cô đã biết. Những người khác - William và George và Kenowas và Mary - đã thấy ông trở về một mình và đi ra để tìm hiểu, nhưng ông nói trực tiếp với cô, chiếu đôi mắt xanh đến cô như là một loại thần chú màu xanh, đến nỗi cô không thể thốt nên lời. Cô không nhớ những gì khác cho đến khi anh khách - cái anh lính mới tò te đó với vết thương do dao đâm và chân bị đau - đi ra và cố gắng ngỏ lời với cô, nhưng tiếng nói của anh nghe như tiếng ong kêu vo ve và cô không hiểu anh nói gì. Rồi một lúc sau anh mang ra một cốc cà phê, đặt bên cạnh cô. Cô không nhớ mình đã yêu cầu cà phê, nhưng có lẽ cô đã yêu cầu; cà phê thơm ngon, ngon hơn là bất kỳ loại nào cô đã từng dùng, và cô nhìn những bông tuyết li ti rơi xuống đất rồi biến mất trên nền đen trơn như dầu. Rơi xuống rồi tan chảy, thế là mất hút hẳn. Và rồi tất cả những gì cô có thể nghĩ tới là khuôn mặt của người chồng đang cố nói chuyện với cô, nhưng cô không thể nghe anh vì anh đang bị kẹt dưới một phiến băng dầy trên mặt sông, và anh đang chết đuối.
Cô cầm lấy cốc cà phê, rót xuống làn da ở mặt dưới cánh tay. Cà phê nóng, nhưng không nóng đủ. Làn da ửng hồng, tất cả chỉ có thế, và cánh tay cô bốc khói như thịt trong gió lạnh.
Họ dẫn cô vào nhà, và Mary ngồi bên cô, cho thêm củi vào lò sưởi, mang thức ăn đến cho các đứa trẻ. Mary vẫn ở đấy, như thể lo sợ Elizabeth sẽ nhảy vào lửa nếu ở một mình. Alec đến và vòng tay ôm lấy cô, bảo cô đừng khóc, dù cô không khóc lúc này. Đôi mắt cô khô khốc như một khúc củi. Amy cũng không khóc, nhưng đấy chỉ vì cô bé còn quá nhỏ nên không hiểu. Ba đứa con trai khóc cho đến khi thiếp ngủ vì mệt mỏi. Mary ngồi kế bên cô mà không nói năng gì, vì đã hiểu biết rõ. Một lần, George đến và nói sẽ cầu nguyện cho linh hồn của anh: George là tín đồ Cơ đốc và rất mộ đạo. Mary đẩy anh ra ngoài; cô và Elizabeth là tín đồ Cơ đốc nhưng Nepapanees là người ngoại đạo. Anh thuộc sắc tộc Chippewa, không có giọt máu da trắng nào trong huyết quản. Đôi lần anh đi nhà thờ nghe giảng đạo, nhưng nói đó không phải cho mình. Elizabeth gật đầu với George; cô biết anh có ý giúp. Và có lẽ giúp cô được; ai nói rằng Cha trên Trời không thể can thiệp trong số phận của chồng cô? Có lẽ có một thỏa thuận hỗ tương.
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói