"True self is non-self, the awareness that the self is made only of non-self elements. There's no separation between self and other, and everything is interconnected. Once you are aware of that you are no longer caught in the idea that you are a separate entity.",

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 19
hững người đàn ông và phụ nữ với vẻ mặt háo hức và phấn khích nâng tôi dậy, đỡ cho tôi đứng lên khi tôi loạng choạng. Tôi không hiểu được tại sao họ tỏ ra vui mừng đến thế khi gặp chúng tôi, và rồi tôi cảm thấy kiệt sức, hai tai lùng bùng với những rung động và tiếng ca hát kỳ lạ. Khi những người bao quanh gật đầu và mỉm cười và líu lo đáp lại lời Parker nói gì đấy, tôi không hiểu được gì ngoài tiếng nói lao xao và sự kiện là đôi mắt tôi, dù đang nóng bỏng, vẫn ráo hoảnh. Có lẽ tôi đã bị mất nước; có lẽ tôi đã ngã bệnh. Không can gì; Francis còn sống và chúng tôi đã tìm được nó, đấy là điều quan trọng nhất. Thậm chí tôi còn cảm tạ Thượng đế, nếu những kênh thông tin với Người han rỉ từ lâu vẫn còn để mở.
Tôi nghĩ mình thành công trong việc kiềm chế cảm xúc khi trông thấy con tôi. Đã hai tuần trôi qua kể từ khi nó rời khỏi nhà; nó trông xanh xao, tóc xem dường đen hơn bao giờ hết; và nó mảnh mai, một thân hình trẻ con dưới tấm chăn. Tuồng như tim tôi đập mạnh đến mức gần vỡ toang, khiến tôi gần bị tắc nghẹn. Tôi không nói năng gì được, chỉ nghiêng người xuống để ôm lấy nó và cảm nhận xương xẩu nó sắc nhọn dưới lớp da. Hai cánh tay nó choàng qua hai bờ vai tôi, tôi có thể ngửi mùi của nó, khiến cho tôi hầu như không chịu nổi. Rồi tôi phải thu người lại vì tôi không còn nhìn được nó nữa, mà tôi cần nhìn nó. Tôi vuốt tóc nó, mặt nó. Tôi ôm chặt hai bàn tay nó trong hai bàn tay tôi. Tôi không thể dừng vuốt ve nó.
Nó nhìn tôi, đã chuẩn bị cho sự hiện diện của tôi - tôi nghĩ thế - nhưng có vẻ như nó vẫn ngạc nhiên, và bóng ma của một nụ cười lập lờ trên khuôn mặt của nó.
“Ma-man. Mẹ đã đến. Làm thế nào mẹ đến được?”
“Francis, cha mẹ rất lo lắng...”
Tôi vuốt ve hai bờ vai và hai cánh tay nó, cố kiềm chế dòng lệ. Tôi không muốn làm cho nó bối rối. Hơn nữa, tôi không cần phải khóc nữa; không bao giờ nữa.
“Mẹ ghét đi xa mà.”
Hai mẹ con tôi cùng cười to, run rẩy. Trong một khoảnh khắc, tôi cho phép mình nghĩ đến việc khi về nhà chúng tôi sẽ bắt đầu lại; sẽ làm thế nào để không còn có những cánh cửa đóng sập, không còn có nỗi nín lặng âm ỉ. Sau đó, chúng tôi sẽ được hạnh phúc.
“Pa-pa cũng đến đây không?”
“À... cha con không thể đi xa khỏi trang trại. Cha mẹ nghĩ chỉ một người đi thì tốt hơn.”
Francis nhìn xuống tấm vải giường. Đấy nghe như là lời giải thích khập khiễng. Tôi ước gì mình đã đưa ra một lời dối trá có tính thuyết phục hơn, nhưng việc anh ấy vắng mặt thì nói lên nhiều điều hơn là bất kỳ giải thích nào. Francis không rút hai bàn tay về khỏi hai bàn tay tôi, nhưng có vẻ như tay nó đang tuột ra. Nó vẫn thất vọng, dù có những chuyện khác diễn ra.
“Cha sẽ rất vui được gặp lại con.”
“Ông ấy sẽ nổi giận.”
“Không phải, đừng ngớ ngẩn.”
“Mẹ đến đây bằng cách nào?”
“Với một người chuyên nghề dò tìm tên là Ông Parker. Ông đã tử tế muốn dẫn mẹ đi, và...”
Dĩ nhiên là từ khi con tôi rời khỏi Sông Dove, nó không biết những chuyện đã diễn ra. Nó không biết Parker đúng là ai, hoặc có thể là ai.
“Họ nghĩ con đã giết Laurent Jammet. Mẹ biết điều này, phải không?” Giọng nói của nó nghe thản nhiên.
“Con yêu ạ, đó là nhầm lẫn. Mẹ thấy anh ấy… Mẹ biết con không làm chuyện ấy. Ông Parker quen biếtMonsieur Jammet. Ông ấy có một ý tưởng...”
“Mẹ thấy anh ấy à?” Nó nhìn tôi, mắt mở tròn, mà tôi không biết với dáng vẻ bị sốc hay là thông cảm. Dĩ nhiên là nó ngạc nhiên. Cả nghìn lần mỗi ngày từ lúc ấy, tôi vẫn nghĩ lại lúc tôi đứng ở khung cửa ngôi nhà gỗ của Jammet, cho đến khi hồi ức của quang cảnh kinh khiếp này đã bị bào nhẵn. Nó không còn làm cho tôi bị sốc nữa.
“Mẹ đã tìm thấy anh ấy.”
Francis khép mắt lại, như thể có một cảm nghĩ khác thình lình xâm chiếm lấy nó. Trong một khoảnh khắc tôi nghĩ nó tức giận, cho dù không có lý do nào khiến cho nó phải tức giận.
“Con đã tìm thấy anh ấy.”
Nó nhấn mạnh ngôn từ một cách nhẹ nhàng nhưng không nhầm lẫn được. Như tuồng nó thấy cần phải vạch rõ.
“Con đã tìm thấy anh ấy, và theo dõi theo người đã gây án, nhưng rồi con mất dấu. Ông Moody không tin con.”
“Francis à, anh ấy sẽ tin. Mẹ đã thấy các dấu chân mà con theo dõi. Con phải kể cho anh ấy tất cả những gì con thấy, rồi anh ấy sẽ hiểu.”
Francis thở hắt ra - dấu hiệu khinh thường mà nó hay biểu lộ ở nhà mỗi khi tôi tỏ ra ngu ngốc: “Con đã kể cho ông ấy tất cả.”
“Nếu con... đã tìm thấy anh ấy, tại sao không nói cho cha mẹ biết? Tại sao lại một mình theo dõi hắn? Nếu hắn tấn công con thì sao?”
Francis nhún vai: “Bởi vì nếu chần chừ, con sẽ mất dấu hắn.”
Tôi không nói ra - bởi vì nó hẳn có cùng ý nghĩ - rằng thế nào đi nữa thì nó cũng mất dấu.
“Pa-pa có nghĩ con làm chuyện đó không?”
“Francis... dĩ nhiên là không. Làm thế nào con nói như thế được?”
Nó lại mỉm cười - một nụ cười méo mó, đau khổ. Tuổi nó còn quá nhỏ nên đáng lẽ nó không nên có cách cười như thế, và tôi biết đấy là do lỗi của tôi. Tôi đã không thể giúp cho tuổi thơ của nó được hạnh phúc, và bây giờ khi nó đã lớn lên thì tôi không thể bảo vệ nó chống lại những khổ ải và khó khăn trên trần thế.
Tôi đưa một bàn tay vuốt má nó: “Mẹ xin lỗi.”
Nó chẳng hỏi tôi xin lỗi về việc gì.
Tôi tiếp tục trò chuyện với nó, về việc tôi sẽ nói với anh Moody như thế nào để anh hiểu anh đã sai lầm. Tôi nói về tương lai, và nói làm thế nào để không phải lo lắng gì nữa. Nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn lên trần nhà, nó không lắng nghe tôi, và cho dù hai bàn tay tôi nắm lấy hai bàn tay nó, tôi biết mình đã đánh mất nó. Tôi mỉm cười, cố tạo thái độ vui tươi trên gương mặt và trong cử chỉ, nói thao thao về chuyện nọ chuyện kia, bởi vì hai mẹ con tôi còn có thể làm được gì khác?
***
Hôm nay, vùng Vịnh yên ắng. Cả ngày hôm qua, trong cơn bão tuyết, tiếng nước gào thét đập vào bờ đá tạo ra tiếng rầm rì lan tỏa cả thị trấn. Lúc trước Knox đã nghĩ rằng bờ đá hẳn phải có hình dạng lạ lùng để trong điều kiện thời tiết nào đó phát ra âm thanh gầm gừ trầm lắng nhưng không dứt như thế. Theo tầm mắt người ta có thể thấy qua màn tuyết cuồn cuộn - vốn không xa lắm - con Vịnh có màu xám và trắng, mặt nước bị gió thổi xé toạc và nổi sóng mạnh mẽ. Vào những thời khắc như thế này, người ta mới hiểu được tại sao cư dân đã chọn đúng địa điểm để xây nhà ở Sông Dove, tránh xa con Vịnh rộng lớn và không lường trước được.
Khi màn đêm xuống, ít người đi ra khỏi nhà. Lớp tuyết đã dầy lên gần nửa mét, nhưng ẩm ướt, và đang rắn chắc lại. Những vết chân người và bánh xe chạy ngang dọc con đường, những làn đường đông đúc nhất tạo nên những rãnh sâu dơ bẩn trên nền tuyết trắng. Những làn đường ít người đi thì chỉ có dấu vết lờ mờ. Dấu vết chạy dài từ nhà đến cửa hàng, từ nhà nọ đến nhà kia. Bạn có thể nhận biết những ai ở Caulfield được yêu thích và những ai ít đi ra ngoài.
Bây giờ Knox đang đi theo một vết lờ mờ, chân ông ướt và lạnh thêm sau mỗi bước đi. Điều gì trên cõi đời này đã ám ảnh ông khiến cho ông đi ra ngoài mà không mang giày ủng cao su? Ông cố nhớ lại khoảnh khắc trước khi mình bước ra khỏi nhà, để tìm ra mình đã nghĩ gì, nhưng không nhớ được. Một lỗ đen trong tâm trí ông. Trong thời gian gần đây ông thường có lỗ đen như thế. Ông thấy đó là điều đáng bận tâm.
Khi đến ngôi nhà, tất cả đều yên ắng. Ông bước vào phòng khách nơi đứa con gái Susannah liến thoắng hay hiện diện, nhưng ngạc nhiên thấy Scott và Mackinley đang ngồi trên ghế bành. Không thấy bóng dáng người nào trong gia đình ông. Ông có cảm tưởng hai người đang ngồi đợi mình.
“Chào hai vị... À, John, tôi xin lỗi, chúng tôi nghĩ không có khách tối nay.”
Scott hạ tầm mắt xuống, lộ vẻ ngượng nghịu, cắn môi lại.
Mackinley lên tiếng. Giọng nói ông ta bây giờ nghe rắn rỏi và tỉnh táo: “Chúng tôi không cùng nhau đến đây tối hôm nay.”
Knox hiểu ý, đóng cánh cửa lại sau lưng ông. Trong một khoảnh khắc ngắn, ông chợt nghĩ mình phải phủ nhận tất cả; phải chỉ rõ rằng vì say rượu mà Mackinley nghe mấy chuyện không có thực, nhưng rồi gạt bỏ ngay ý nghĩ này.
Mackinley bắt đầu: “Ít ngày trước, ông nói rằng ông đã không quay lại kho chứa hàng, rằng Adam và tôi là hai người cuối cùng gặp tù nhân. Adam đã bị trừng phạt vì đã không khóa cửa kho chứa hàng. Nhưng hôm nay, ông lại nói với tôi rằng chính mắt ông đã nhìn thấy tù nhân sau khi tôi đã gặp hắn rồi trở về.”
Mackinley ngả người dựa vào lưng ghế bành, lộ vẻ tự mãn của một thợ săn đã giăng một chiếc bẫy chuẩn xác.
Knox liếc qua Scott; ông này nhìn ông một thoáng rồi quay nhìn qua hướng khác. Knox cảm nhận một nỗi khao khát muốn gian dối để cười to đang dâng lên trong ông. Có lẽ đúng thực là cuối cùng thì ông đã đãng trí. Ông băn khoăn nếu bây giờ bắt đầu nói ra sự thật thì mình có thể dừng lại được không.
“Điều tôi thực sự nói là chính mắt tôi đã thấy ý tưởng của ông về công lý được thực hiện ra sao.”
“Thế thì ông không phủ nhận việc này phải không?”
“Tôi đã thấy, và việc đó làm cho tôi kinh tởm. Vì thế tôi đã có động thái nhằm tránh trò hề của công lý. Đấy là việc ông hẳn sẽ làm.”
Scott nhìn Knox, như thể lúc trước không tin nhưng bây giờ thu can đảm để đối đầu: “Ý ông muốn nói là ông... phóng thích tù nhân?” Giọng ông này nghe căm phẫn.
Knox hít một hơi thở sâu: “Đúng. Tôi quyết định rằng đấy là việc tốt nhất phải làm.”
“Ông điên rồi hay sao? Ông không có thẩm quyền để làm việc như vậy.” Câu này là do Scott nói ra, đang lộ vẻ khó chịu như vừa ăn phải khoai tây xanh.
“Tôi vẫn còn là quan tòa ở đây, tôi tin như thế.”
Mackinley đằng hắng nhẹ: “Đây là vụ việc của Công ty. Tôi đang nắm quyền chỉ đạo. Ông đã cố tình làm sai lạc quy trình của công lý.”
“Đây không phải là vụ việc của Công ty. Ông chỉ tìm cách làm ra vẻ như vậy. Nhưng nếu Công ty có liên quan gì đến vụ việc, thì công lý càng phải tỏ ra không thiên vị. Điều này không xảy ra được trong khi ông bắt giam người kia.”
Sắc mặt Mackinley đỏ bừng, hơi thở sâu và gấp gáp: “Tôi sẽ báo cáo về chuyện của ông.”
Knox săm soi móng ngón tay cái của mình khi trả lời: “À, ông cứ làm theo cách ông nghĩ cần phải làm. Tôi sẽ không đi đâu hết. Mặt khác, ông... tôi nghĩ đã đến lúc ông đi tìm chỗ ở khác trong thị trấn này. Tôi tin ông Scott có thể giúp ông trong việc này, cũng như trong những việc khác. Chào hai ông.”
Knox đứng dậy và giữ cho cánh cửa mở ra. Hai người đàn ông đứng dậy và đi ngang qua ông, đôi mắt Mackinley chiếu ra một điểm cố định ngoài hành lang, Scott đi theo sau và nhìn xuống đất. Knox nhận biết hai người dừng lại bên ngoài và xì xào to nhỏ với nhau, rồi bước đi. Ông không thấy tiếc việc mình đã làm, mà cũng không sợ hãi. Đứng trong hành lang không có ánh đèn, Andrew Knox cùng lúc nhận ra ba điều: một trạng thái chùng xuống, run rẩy, như thể một sợi dây buộc suốt đời thình lình được thả lỏng; một ước muốn được gặp Thomas Sturrock, vào lúc này là người duy nhất có thể hiểu ông; và sự kiện là lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, ông không còn bị đau nhức ở các khớp xương nữa.
***
Tuyết rơi không ngớt trong hai ngày kế tiếp, và ngày sau lạnh hơn ngày trước. Một buổi sáng, Jacob và Parker ra đi rồi trở về với ba con chim và một con thỏ. Có trời mà biết được làm thế nào hai người nhìn ra các con vật trong thời tiết như thế này. Không phải là nhiều, nhưng hai người có động thái tốt, bởi vì người Na Uy có thêm các miệng ăn phải chăm lo.
Tôi bỏ thời giờ để ngồi cùng Francis, cho dù nó ngủ nhiều hoặc giả vờ ngủ. Tôi lo lắng cho nó; và lo cho vết thương ở đầu gối nó đang sưng lên và hẳn là gây đau. Per cho biết mình có ít kiến thức về y khoa, và nói xương không bị gãy, chỉ bị sai khớp, và chỉ cần thời gian để lành lại. Sau khi đã kiên nhẫn hỏi han - Francis không tự nói ra gì cả - tôi biết được đôi điều về chuyến đi của nó, và tôi lấy làm ngạc nhiên lạ lùng lẫn cảm động được biết nó đã đi được xa như thế. Tôi tự hỏi khi biết được thì Angus sẽ hãnh diện vì nó hay không. Trước khi tôi đến, có một phụ nữ tên Line chăm sóc cho nó, nhưng bây giờ tôi đảm nhận tất cả nghĩa vụ. Xem dường cô ấy không vui khi thấy tôi đến và muốn lánh mặt tôi, cho dù tôi thấy cô trò chuyện với Parker một cách mê mải trong nhà kho phía đối diện. Tôi không thể mường tượng ra hai người có chuyện gì mà trao đổi với nhau. Tôi phải thú nhận rằng có một ý nghĩ len lỏi vào đầu óc mình: dù sao chăng nữa, cô ấy chỉ là một phụ nữ không chồng, cho dù đấy không phải do lỗi của cô. Và phải công nhận là cô trông khá đẹp theo hình thức da ngăm ngăm của người nước ngoài. Khi được giới thiệu với nhau, cô chào tôi với ánh mắt kém thân thiện. Tôi cảm ơn cô đã chăm sóc tốt cho Francis, và cô thoái thác, bằng tiếng Anh sõi, nhưng với vẻ sưng sỉa mà tôi không hiểu được. Rồi tôi nhận ra rằng khi đến đây, tôi đã chiếm lấy vị trí của cô và đẩy cô trở lại công việc thường ngày mà cô bị các phụ nữ có chồng sai khiến, có lẽ vì cô ở góa. Francis nói cô rất tử tế, và nói nó mến cô.
Moody - hoặc Jacob thì thường xuyên hơn - ngồi canh bên ngoài cánh cửa, như thể họ chờ cho tôi kêu thét là Francis đang tấn công tôi, rồi họ sẽ xông vào mà cứu sống tôi. Tôi đã có cái nhìn khác đối với anh Moody. Ở Sông Dove, anh xem dường tử tế và rụt rè, một người thực thi pháp luật bất đắc dĩ. Ở đây, anh lộ vẻ thiếu kiên nhẫn và nóng nảy. Anh đã nhận lấy bộ áo quyền lực và khoác lên người mà không có vẻ biết điều. Tôi đã yêu cầu nói chuyện với anh trong riêng tư. Anh luôn từ chối, viện cớ đang bận bịu với nhiều nhiệm vụ cấp bách. Nhưng sau hai ngày tuyết rơi không dứt, ai cũng biết anh chỉ chờ đợi chứ không có việc gì làm, và tôi có thể nhận ra điều này trong mắt anh khi anh cố đưa ra lời giải thích khác.
“Được rồi, Bà Ross. Chúng ta nên đi đến... à, phòng tôi.”
Tôi đi theo anh dọc hành lang, và người phụ nữ tên Line đang đi ngang qua chúng tôi, ném ánh mắt xấu xa về phía Moody.
Phòng của Moody cũng có không khí chủng viện như phòng của tôi, chỉ có điều vật dụng của anh nằm la liệt trên bàn ghế và sàn nhà, trông như vừa có kẻ trộm lẻn vào. Anh vơ lấy quần áo của mình trên các chiếc ghế rồi vứt lên mặt giường. Khi ngồi xuống, tôi nhìn thấy trên mặt bàn bên cạnh mình một phong thư đề người nhận là Cô S. Knox. Tôi thấy thú vị về điều này. Tôi chắc chắn anh không cố ý cho tôi xem; và một lúc sau điều này được xác nhận khi anh quơ các món trên mặt bàn lại thành một đống lộn xộn. Anh tất bật với các món bừa bộn một lúc, và tôi nhận ra rằng trong những tình huống khác thì mình có thể cảm thông với anh. Anh chỉ lớn hơn Francis vài tuổi, cô đơn, và chỉ mới đến đất nước này không lâu.
Anh hắng giọng vài lần, trước khi mở lời: “Bà Ross, tôi hoàn toàn hiểu được bà quan ngại về Francis. Đó là lẽ tự nhiên, vì bà là mẹ nên mới cảm thấy như vậy.”
“Và cũng là lẽ tự nhiên mà anh phải tìm ra thủ phạm của tội ác kinh khiếp này.” Tôi nói một cách nhẹ nhàng, nhưng vẻ mặt của anh biến thành tức tối phiền hà. “Francis cũng muốn tìm ra kẻ chịu trách nhiệm, như nó đã kể cho anh nghe.”
Moody kiềm chế thái độ để ra vẻ kiên nhẫn và chịu đựng trong hoàn cảnh thử thách: “Bà Ross, tôi không thể nói cho bà biết tất cả lý do của tôi để cho rằng con trai bà là nghi phạm, nhưng những lý do này là rất bức xúc. Bà phải tin tôi.”
“Tôi vẫn nghĩ rằng, đối với tất cả những người khác thì tôi không nói đến, nhưng với tôi anh nên cho biết những lý do ấy là gì.”
“Bà Ross, đây là việc của công lý. Có những lý do chính đáng cho hành động của tôi. Giết người là tội ác rất nghiêm trọng.”
Tôi nói: “Các dấu chân. Dấu vết kia. Chuyện này thì sao?”
Anh thở dài: “Một sự trùng hợp. Dấu vết mà kẻ... con trai bà đi theo để tìm một nơi an toàn.”
“Hoặc là dấu vết của kẻ giết người.”
“Tôi hoàn toàn hiểu bà muốn tôi tin con trai bà vô tội. Đó là lẽ tự nhiên và đúng lý. Nhưng anh ấy bỏ trốn khỏi Sông Dove với số tiền của nạn nhân để dõi theo kẻ giết người, và rồi khai gian về việc này. Các sự kiện đều quy về một kết luận. Tôi sẽ bị kết tội bỏ bê nhiệm vụ của mình nếu không có động thái đối với việc này.”
Tôi nín thở trong một khoảnh khắc, cố gắng không lộ vẻ ngạc nhiên. Francis đã không kể cho tôi nghe về khoản tiền nào bị mất cắp.
“Nếu không theo đuổi những điều khả dĩ khác thì chắc chắn cũng là bỏ bê nhiệm vụ. Dấu vết đó có thể là của kẻ giết người; hoặc có thể không phải. Làm thế nào anh biết được nếu anh không lần theo nó?”
Moody thở dài qua đường mũi, rồi đưa tay xoa hai sống mũi nơi gọng kính đè xuống thành hai lõm màu đỏ. Anh không muốn làm bất kỳ việc gì liên quan đến dấu vết kia.
“Trong những điều kiện hiện nay, nhiệm vụ của tôi là đưa nghi phạm đến nơi chắc chắn. Việc điều tra thêm sẽ phải chờ cho đến khi thời tiết được thuận lợi.”
Xem dường anh tỏ ra hài lòng về câu phát biểu của mình, sau khi đã đặt gánh nặng lên nhiệm vụ của mình thay vì lên chính cá nhân mình. Thậm chí anh còn nở một nụ cười nhẹ, như thể lấy làm tiếc đã để sự việc vuột khỏi tầm tay của mình. Tôi cũng mỉm cười vì sự việc tiến triển theo cách như thế, nhưng tôi không còn cảm thông với anh cho dù anh cô đơn hay không.
“Anh Moody, đấy không phải là lý do chính đáng. Chúng ta phải theo dõi dấu vết ấy, bởi vì khi thời tiết được thuận lợi - như cách anh nói - thì không còn gì để theo dõi nữa, trong khi nhiệm vụ của anh là phải tìm ra sự thật chứ không phải là việc gì khác. Anh có thể để Francis cho những người ở đây trông nom, hoặc nếu anh không tin tưởng họ thì để người đồng nghiệp của anh trông chừng nó. Parker sẽ dõi theo dấu vết, rồi anh và tôi sẽ biết nó dẫn đến đâu.”
Moody lộ vẻ kinh ngạc và tức giận: “Bà Ross à, bà không có quyền bảo tôi phải làm nhiệm vụ của tôi như thế nào.”
“Mọi người đều có quyền chỉ ra tình trạng bỏ bê nhiệm vụ trong một vụ việc quan trọng như thế này.”
Anh trừng trừng nhìn tôi, ngạc nhiên vì phải nghe ngôn từ như thế. Tôi đoán hẳn mình đã chạm phải vấn đề cân não; có lẽ anh đã nghĩ đến dấu vết kia và nó làm cho anh lo lắng. Tôi nghĩ anh có một đầu óc quy củ, và những dấu chân dẫn ra vùng hoang dã ấy là chuyện tồn đọng gây rối rắm cho anh.
“Dù sao chăng nữa, nếu anh đúng...” Tôi thấy khó mà đồng lòng khi nói lời này. “Nếu anh đúng, anh sẽ biết rằng anh đã loại bỏ tất cả điều khả dĩ, rồi lương tâm anh sẽ thanh thản. Mặt khác, nếu vụ việc được đưa ra trước phiên tòa, sự hiện hữu của dấu vết và khả năng nó dẫn đến... à, ít nhất nó sẽ khiến cho kết luận của anh bị chất vấn, có phải thế không?”
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói