A book is like a garden carried in the pocket.

Chinese Proverb

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 13
uy hiếm hoi, nhưng vẫn có người từ phương xa đi đến Himmelvanger; thường là người Da Đỏ đến trao đổi hàng hóa và tin tức. Per yêu cầu tiếp đãi tất cả, vì họ là láng giềng, và người ta phải sống hòa thuận với láng giềng. Và họ cũng là con cái của Thượng đế, cho dù sống trong cảnh tồi tàn và dốt nát. Đôi lúc họ tìm đến khi người thân của họ bị bệnh và thuốc men của họ không có hiệu quả. Họ đến với vẻ mặt u sầu và tinh thần nặng trĩu, chăm chú nhìn khi người đàn ông Na Uy phân phát ít liều laudanum hoặc ipecac hoặc camphor, hoặc chính dược phẩm cổ truyền của Na Uy vốn cũng thường thiếu công hiệu. Mỗi lần như thế, Per hy vọng sẽ không giống như những lần khác.
Người da trắng chìa ra một bàn tay đã cóng lạnh. Băng giá đóng quanh rìa tròng kính của anh, làm cho khuôn mặt anh trông lạ lùng, như một con chim cú.
“Xin lỗi đã xâm phạm. Chúng tôi là nhân viên Công ty Vịnh Hudson, và chúng tôi có công việc ở đây.”
Per càng thêm kinh ngạc, tự hỏi Công ty có thể cần cái quái gì nơi mình. “Xin mời vào. Các ông hẳn đã cóng lạnh. Bàn tay ông...” Bàn tay mà ông bắt lấy đã thâm tím vì thời tiết buốt giá, không còn sức lực, như một miếng thịt đông lạnh.
Per bước lùi lại, nhường chỗ cho họ đi vào nơi trú ẩn ấm áp: “Các ông có gia súc không?”
“Không. Chúng tôi đi bộ.”
Per nhíu mày, dẫn họ vào một phòng nhỏ gần gian bếp, rồi gọi Sigi và Hilde đến; hai người này cố xoay xở để mang đến món thịt hầm và bánh mỳ và cà phê cho hai người.
Sigi tròn xoe đôi mắt vì hiếu kỳ đối với hai người khách lạ: “Trời đất, Per ơi, Thượng đế đưa đến chúng ta mọi loại khách trong mùa đông này.”
Per đáp lời có phần gay gắt - ông không thích người ta buôn chuyện và loan truyền lời đồn đại, trong khi ông chưa hiểu được chuyện gì. May mắn là hai người khách không hiểu tiếng Na Uy. Họ mỉm cười một cách ngốc nghếch vì đói khát và mỏi mệt, xoa hai bàn tay rồi sa xuống thức ăn với cử chỉ nồng nhiệt biết ơn.
Khi hơi ấm bắt đầu lan đến hai bàn tay, Donald có cảm giác đau và ngứa, và dưới ánh đèn hai bàn tay trông bầm tím. Một phụ nữ mang đến một thau đựng tuyết và bắt anh chà xát hai bàn tay trong đó, rồi dần dần hai bàn tay lấy lại cuộc sống đau đớn. Người phụ nữ mỉm cười với anh khi chăm sóc anh, nhưng không nói năng gì - Per giải thích rằng họ là người Na Uy, và không phải ai cũng nói được tiếng Anh.
“Thế thì hai nhân viên Công ty đang làm gì ở đây trong tháng Mười một này?”
“Thật ra, đây không hẳn là công việc của Công ty.” Donald thấy khó mà kiềm hãm nụ cười của mình - anh vẫn không tin vào vận may của mình khi không những tìm được nơi cư trú, mà còn tìm được chốn văn minh và một con người văn minh như Per Olson để nói chuyện.
“Hai anh đang trên đường đi đâu phải không?”
Giọng nói của ông ám chỉ việc này là không thể được. Donald cố gắng không mở miệng nói khi miệng đầy bánh hạnh nhân. (Hạnh nhân! Họ thật sự được may mắn ở đây.)
“Chúng tôi đang trên đường đi tìm một người. Chúng tôi đã đi theo dấu chân của người này từ Sông Dove ở vùng Vịnh, lên đến con sông cắt ngang cao nguyên, và rồi dấu chân dẫn đến đây.” Anh nhìn qua Jacob để được xác nhận, nhưng có vẻ như Jacob ngượng ngập với sự hiện diện của những người khác, nên chỉ nghiêng đầu.
Per lắng nghe một cách nghiêm túc, và rời khỏi phòng một lúc. Donald đoán ông đi ra để bàn bạc với vài người khác, bởi vì khi ông trở lại, có một người đi theo mà ông giới thiệu là Jens Andreassen.
Per nói: “Jens có đôi điều muốn kể cho hai anh nghe.”
Jens, người bẽn lẽn, cử chỉ chậm chạp với cái lưỡi có vẻ như quá lớn so với miệng, kể lại việc mình đã tìm thấy anh con trai bên bờ sông, gần như chết. Ông đã mang anh con trai đến Himmelvanger, nơi người ta chăm sóc cho anh. Ông nói bằng tiếng Na Uy, và Per chậm rãi thông dịch lại, cố gắng sử dụng đúng từ ngữ.
Donald có thể nhận ra thái độ che chở của Per; Francis là con chiên lạc bầy mà Thượng đế đã dẫn dắt đến cho ông chăm sóc.
“Hai anh nghi ngờ anh ấy về chuyện gì? Chuyện gì đã xảy ra?”
Donald không muốn tiết lộ tất cả tình tiết. Nếu Per muốn che chở cho Francis, anh không muốn đối đầu với Per. “À, có một vụ tấn công nghiêm trọng.”
Per nhìn lên, đôi mắt nhợt nhạt mở to; khi ông thông dịch cho Jens hiểu, cả hai nhìn nhau trong dáng vẻ bị sốc.
“Dĩ nhiên là chúng tôi không chắc Francis phạm tội; nhưng chúng tôi cần tìm ra anh ấy. Mẹ của anh vô cùng lo lắng cho dù có bất cứ chuyện gì.”
Per nhíu mày: “Ai là Francis?”
“Người con trai. Tên anh ấy là Francis Ross.”
Per suy nghĩ một hồi, rồi nói: “Anh con trai này nói tên mình là Laurent.”
Donald và Jacob nhìn nhau. Donald thấy lạnh cả sống lưng vì phát hiện điều chắc chắn.
Per cho ý kiến: “Có thể đây là người khác.”
Donald cất tiếng mà không giấu nỗi kích xúc: “Dấu chân dẫn đến đây. Khó mà nhầm lẫn được. Anh ấy là người Anh với mái tóc đen. Anh ấy không giống người Anh, người... Pháp hoặc Tây Ban Nha thì đúng hơn.” Đấy là mô tả của Maria.
Per cắn đôi môi đỏ trông như con gái: “Nghe có vẻ như là anh ấy.”
“Anh ấy còn nói gì nữa?”
“Chỉ là... là anh ấy đang đi tìm việc làm mới, nhưng người hướng đạo bỏ anh đi lạc. Anh ấy nói đang trên đường đi về hướng tây-bắc với một người Da Đỏ làm hướng đạo.” Đôi mắt của Per khẽ nhấp nháy về phía Jacob.
Per quay sang Jens và giải thích điều này. Jens lại cất tiếng, để trả lời câu hỏi nào đó.
“Jens nói anh ấy nghĩ điều kỳ lạ là tìm thấy anh con trai đó một mình. Anh con trai này không thể... không thể đi đến đây một mình, trong thời tiết như thế này.”
“Tại sao không?”
“Anh con trai đã rất mỏi mệt, rất... kiệt sức. Anh ấy hẳn đã không thể đi xa như vậy trừ khi được giúp đỡ hoặc... bị cưỡng ép.”
Donald nghĩ mặc cảm phạm tội là động lực mạnh.
Per tiếp tục: “Tôi cũng nghĩ đó là điều kỳ lạ. Anh ấy nói mình cần có việc làm để kiếm tiền, nhưng anh ấy lại mang theo nhiều tiền, trên bốn mươi đô la. Anh ấy cũng có vật này, và rất lo lắng muốn giữ nó.”
Per nhặt lấy từ trên sàn nhà một vật mà Donald đã không để ý; một chiếc túi da mà người Da Đỏ mang quanh cổ để đựng thuốc lá và bùi nhùi. Ông mở chiếc túi, xốc ra một cuộn giấy bạc, và một tấm thẻ mỏng bằng xương hoặc ngà, lớn bằng bàn tay, được khắc những hình thù và những dấu hiệu nhỏ. Tấm thẻ rất dơ bẩn. Donal nhìn trân trối tấm thẻ, cổ họng anh co thắt, và đưa bàn tay ra.
“Vật này thuộc về Laurent Jammet.”
“Laurent Jammet?”
“Nạn nhân của vụ tấn công.”
Per chăm chăm nhìn Donald: “Anh nói ‘thuộc về’. À ra thế.”
Khi họ được đưa đến phòng bệnh, Donald lập tức hiểu ra miêu tả của Maria về Francis. Một phụ nữ trẻ, da ngăm đen đứng lên khi cánh cửa mở, nhìn họ với dáng điệu hồ nghi rồi bước ra ngoài, chiếc váy đập sột soạt vào hai ống quần một cách ngổ ngáo. Anh con trai im lặng nhìn khi họ ngồi xuống, rồi Per giới thiệu anh. Tương phản với màu vải giường trắng, làn da anh có màu vàng bủng, trông như người Nam Mỹ. Tóc anh đen và dài; đôi mắt màu xanh lam và sâu. Maria cũng nói anh trông đẹp trai; một đứa trẻ bô trai. Donald không hiểu Francis đẹp trai ở chỗ nào, nhưng không có vẻ gì trẻ con trong thái độ thù địch phát tiết từ con người anh ta. Đôi mắt xanh nhìn chăm chăm không chớp, khiến cho Donald lóng ngóng và ngượng nghịu. Donald rút ra quyển sổ tay rồi chỉnh lại chiếc ghế, và quyển sổ tay rơi xuống sàn nhà. Anh rủa thầm và nhặt nó lên, cố phớt lờ cảm giác nóng bừng trên cổ và mặt. Anh nhìn đến Francis, và bây giờ Francis tránh ánh mắt anh, rồi anh đằng hắng.
Per cố tìm cách trấn an: “Đây là anh Moody, nhân viên Công ty Vịnh Hudson. Anh ấy đi từ Sông Dove. Anh ấy nói cha mẹ anh rất lo lắng cho anh.”
“Chào Francis.”
Francis khẽ gật đầu, như thể Donald không đáng cho anh ta quan tâm.
“Anh có biết tại sao tôi đến đây không?”
Francis chăm chăm nhìn anh.
“Anh là Francis Ross phải không?”
Francis nhìn xuống, và Donald hiểu đó là cách xác nhận. Donald quay sang nhìn Per lúc này đang chăm chăm nhìn anh con trai.
“À... ở Sông Dove, anh có biết một người tên Laurent Jammet không?”
Anh con trai nuốt nước bọt. Donald nhận thấy có vẻ như các bắp cơ hàm của anh ta căng cứng, và rồi anh ta gật đầu, khiến cho Donald ngạc nhiên.
“Lần cuối cùng anh thấy anh ấy là khi nào?”
Một khoảnh khắc im lặng dài, và Donald tự hỏi liệu anh con trai chịu nói ra hay không.
“Tôi thấy anh ấy khi anh đã chết. Tôi thấy người giết anh ấy, nên tôi theo dõi hắn trong bốn ngày, rồi tôi mất dấu.”
Giọng anh con trai đơn điệu và nhỏ nhẹ. Donald chăm chăm nhìn anh ta, cảm thấy vừa kích động vừa khó tin. Anh phải tự nhắc mình cần tiến hành một cách cẩn thận, làm từng bước; phải chờ cho đến khi một bước đã vững trước khi bước tiếp, tương tự khi đi qua vùng đầm lầy như trong địa ngục kia. Anh đặt quyển sổ tay thật vững vàng trên lòng mình.
“Cho tôi biết anh nhìn thấy... chuyện gì, một cách chính xác... và diễn ra khi nào.”
Francis thở dài: “Vào đêm tôi ra đi… Đó là... nhiều ngày trước. Tôi không nhớ.”
Per nhẹ nhàng chen vào: “Anh đã ở đây năm ngày rồi.” Donald nhíu mày với ông. Per nhìn lại anh với thái độ hòa nhã ngầm cho biết mình không có lỗi.
“Thế là… năm ngày trước đó, có lẽ vậy? Tôi đang đi đến ngôi nhà gỗ của Laurent Jammet. Trời đã tối, và tôi nghĩ anh ấy không có ở đó. Rồi tôi thấy một người đàn ông bước ra và đi khỏi. Tôi đi vào, và thấy anh ấy.”
“Thấy ai?”
“Jammet.”
Anh con trai lại nuốt nước bọt, hiển nhiên với sự khó khăn. Donald chờ một hồi lâu cho anh ta tiếp tục.
“Anh ấy vừa... chết. Thân người còn ấm, máu chưa đặc. Vì thế mà tôi biết người kia là kẻ sát nhân.”
Donald ghi chép lời của Francis. “Người... đàn ông đó, anh quen biết không?”
“Không.”
“Anh có nhìn ra nhân dạng ông ta như thế nào không?”
“Chỉ thấy đó là người bản địa, tóc dài. Tôi thoáng nhìn thấy mặt ông ta, nhưng trời tối quá. Tôi không thấy nhiều.”
Donald ghi chép, và giữ nét mặt trung lập: “Anh có thể nhận ra ông ta nếu gặp lại ông ta không?”
Mất một lúc lâu mới có câu trả lời: “Có lẽ.”
“Quần áo ông ta như thế nào - ông ta mặc gì?”
Francis lắc đầu: “Lúc đó trời đã tối. Quần áo màu sẫm.”
“Ông ta ăn mặc giống tôi không? Hay giống như người đặt bẫy? Anh hẳn phải có cảm tưởng gì đó.”
“Giống như người đặt bẫy.”
“Anh đi đến nhà của Jammet để làm gì?”
“Chúng tôi là bạn với nhau.”
“Lúc đó là mấy giờ?”
“Tôi không biết. Mười một. Có lẽ nửa đêm.”
Donald nhìn lên, cố nhìn vẻ mặt anh con trai và cùng lúc ghi chép lời anh ta. “Khuya như vậy hả?”
Francis nhún vai.
“Anh có thường đến thăm anh ấy vào giờ giấc như vậy không?”
“Anh ấy không đi ngủ sớm. Anh ấy không phải là nông dân.”
“Thế là... anh trông thấy thi hài. Và rồi anh làm gì?”
“Tôi đi theo người kia.”
“Anh có về nhà... lấy đồ đạc không?”
“Không. Tôi lấy vài món của Jammet.”
“Anh không nghĩ đến việc kể cho cha mẹ anh hay sao? Hoặc yêu cầu ai đó giúp, ai đó có năng lực tốt hơn để đối phó với chuyện như thế này?”
“Không có thời giờ. Tôi không muốn mất dấu người kia.”
“Không muốn mất dấu người kia. Thế thì anh lấy theo những món gì?”
“Chỉ mấy thứ tôi cần. Một áo choàng... Thức ăn.”
“Còn gì nữa không?”
“Tại sao? Có hề gì không?” Francis ngước mặt để nhìn Donald: “Anh nghĩ tôi giết anh ấy hay sao?”
Donald nhìn lại, trầm tĩnh nói: “Anh có giết anh ấy không?”
“Tôi vừa nói - Tôi trông thấy kẻ giết người. Anh ấy là bạn tôi. Tại sao tôi lại giết anh ấy?”
“Tôi chỉ cố tìm hiểu chuyện gì đã diễn ra.”
Per khẽ cử động, như tuồng có ý cảnh cáo. Donald không rõ có nên cật vấn chàng trai trẻ thêm, hoặc thẳng thừng kết tội anh ta. Anh đang lần mò trong bóng tối, giống như một bác sĩ phẫu thuật tay mơ, không biết tìm ra đâu là cơ quan chủ yếu của sự thật.
Per nói: “Anh con trai rất mệt mỏi.”
Đúng là anh con trai xem dường mệt mỏi, làn da căng trên bộ xương.
“Chỉ thêm một chốc thôi, xin anh vui lòng. Anh nói là anh đi đến nhà của anh... của anh Jammet lúc nửa đêm, thấy anh ấy đã chết, rồi đi theo người mà anh nghĩ là kẻ sát nhân, nhưng anh mất dấu hắn.”
“Đúng.” Anh con trai nhắm hai mắt lại.
“Mảnh xương đó là cái gì?”
Francis lại mở mắt ra, lần này là do kinh ngạc.
“Anh biết tôi muốn nói gì, phải không?”
“Tôi không biết đó là cái gì.”
“Anh mang nó theo bên mình. Anh hẳn phải có một lý do.”
“Anh ấy cho tôi.”
“Anh ấy cho anh hả? Đó là vật có giá.”
“Anh đã thấy nó chưa? Tôi không nghĩ nó có giá.”
“Còn về khoản tiền thì sao? Anh ấy cũng cho anh, phải không?”
“Không. Nhưng tôi cần sự giúp đỡ để tìm... người đàn ông. Tôi có thể phải... chi trả cho ai đó.”
“Xin lỗi, tôi không hiểu. Chi trả cho ai đó để làm gì?”
Francis quay mặt đi: “Anh có ý gì?”
Per lại đằng hắng và nhìn qua Donald. Anh xếp lại quyển sổ tay với vẻ miễn cưỡng.
Bên ngoài, Per nắm lấy cánh tay Donald, nói: “Xin lỗi, nhưng tôi phải lo cho sức khỏe của cậu ấy. Khi được Jens mang vào thì cậu ấy gần như chết.”
“Không sao đâu.” Donald không thực sự nghĩ thế, nhưng dù sao chăng nữa anh là khách ở đây. Anh nói tiếp: “Nhưng tôi mong ông hiểu cho là, trong tình huống này, tôi phải đặt anh ta dưới sự quản thúc. Kể cả số tiền của anh ta, và đại loại như vậy.”
Per có thói quen đứng nghiêng về phía bất cứ người nào ông đang tiếp chuyện, mà Donald nhận ra rằng có lẽ do ông thấp người. Đứng kề bên, với đôi mắt nhạt màu và hơi lồi, có vẻ như Per thoang thoảng tỏa ra mùi của dê.
“Đó là quyết định của anh, được thôi.”
“Vâng. Đúng vậy. Thế thì… tôi muốn cử một người canh gác bên ngoài phòng anh ta.”
“Để làm gì? Anh ấy khó mà rời khỏi Himmelvanger, cho dù chân lành lặn, đi đứng được.”
“À, được thôi...” Donald cảm thấy mình xuẩn ngốc, bỗng dưng nhận ra tuyết đang rơi bên ngoài cửa sổ. “Miễn là chúng ta có thể để mắt trông chừng anh ta.”
Với ánh mắt hướng lên trần nhà, Per nói một cách nghiêm trang: “Nơi đây chẳng có gì bí mật cả.”
***
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói