You carry Mother Earth within you. She is not outside of you. Mother Earth is not just your environment. In that insight of inter-being, it is possible to have real communication with the Earth, which is the highest form of prayer.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 12
rong khoảng thời gian này, Espen Moland bắt đầu tỏ mối quan tâm. Anh đã có gia đình (cộng đồng chỉ dành cho những gia đình) và các con anh chơi đùa với Torbin cùng Anna, nhưng mối quan tâm đối với cô không chỉ về tinh thần. Lúc đầu cô cảm thấy ngán ngẩm, biết rằng việc này hoàn toàn bị lên án. Nhưng trong thâm tâm cô cảm thấy thích. Espen làm cho cô thấy mình xinh đẹp trở lại. Anh nói cô là phụ nữ đẹp nhất ở Himmelvanger và rằng cô làm cho anh mê mẩn. Line lắp bắp trả lời nhưng ngầm công nhận. Espen không hẳn là đẹp trai, không như Janni; nhưng anh lanh lợi và có tính hài hước, luôn thắng thế trong các cuộc tranh luận và trao đổi. Quả là dễ chịu đến kỳ lạ khi nghe lời lẽ ngọt ngào từ một người không bao giờ ngưng đùa cợt, đến mức cô không còn làm ngơ được nữa. Cuối cùng, vài tháng trước, họ bắt đầu dấn thân vào tội lỗi. Đấy là cô nghĩ thế, dù cô thấy mình không có tội. Chỉ cần cẩn trọng. Cô không thể gánh nổi một thảm họa khác.
Bây giờ Line nghe tiếng anh đang đi đến, huýt sáo một trong những giai điệu do anh nghĩ ra. Anh đang đi đến nhà nuôi gà? Đúng thế - cánh cửa mở ra.
“Line! Cả ngày anh chưa gặp em!”
“Em có việc phải làm, anh biết mà.”
“Dĩ nhiên rồi, nhưng nếu không gặp em, anh buồn lắm.”
“À, chắc hẳn rồi.”
“Anh đến sửa lại mái ngói bị thủng.”
Anh đang mang thắt lưng đồ nghề - anh là thợ mộc của họ - và Line ngước nhìn qua mái ngói.
“Không có lỗ thủng.”
“À, có thể có. Tốt nhất là nên đề phòng. Anh không muốn mấy quả trứng của ta bị ướt, phải không?”
Cô cười khúc khích. Espen luôn làm cho cô cười, cả những lúc anh nói ra chuyện ngu xuẩn nhất. Anh vòng cánh tay ôm ngang eo cô, ép cô vào sát người anh, và cô có cảm giác thân quen như thân người mình tan chảy khi hiện diện bên anh.
“Britta đang chờ em.”
“Thế hả? Trong ít phút cô bé sẽ không nhận biết.”
Khó mà giữ tư cách cho có chừng mực, ngay cả trong một cộng đồng tôn giáo khắt khe như ở đây. Anh đang hôn lên cổ cô, đôi môi nóng bỏng lướt trên làn da cô. Nếu không rời xa anh bây giờ thì xem như cô đầu hàng hẳn.
“Bây giờ không phải lúc.” Cô luồn người ra khỏi vòng tay anh, hơi thở gấp gáp.
“Trời ơi, hôm nay em trông đẹp quá. Anh có thể…”
“Dừng lại!”
Cô yêu thích tia mắt khẩn cầu của anh. Quả là tuyệt diệu được biết cô có năng lực làm cho một người hạnh phúc đến thế. Nhưng nếu cô không đi ra khỏi nhà nuôi gà ngay bây giờ, anh có thể bắt đầu nói ra những ngôn từ ấy khiến cho máu dồn lên mặt cô, xóa nhòa mọi lý lẽ phải trái. Những ngôn từ xấu xa, thô tục mà cô không bao giờ nói ra, nhưng tạo mãnh lực lạ kỳ, gần như là phép mầu, áp đảo cô hoàn toàn. Janni không hề ăn nói như thế, nhưng chỉ vì không giỏi ăn nói. Đúng là trước đây cô chưa từng kinh qua cách mình cảm nhận về Espen; có vẻ như cô đang thay đổi theo cách mà đôi lúc cô cảm thấy đáng báo động, như thể đang ngồi trên một chiếc ca nô mỏng manh như giấy vượt qua con lũ - bồng bềnh, hồ hởi, nhưng không chắc mình kiểm soát được.
Cô cố lách mình ra xa, nhưng trong sâu thẳm cô khát khao anh, rồi mỉm cười, giống như trong khoảnh khắc vừa qua, để anh không nghĩ - lạy Trời - rằng cô đã không quan tâm.
Bên ngoài nhà nuôi gà cô xóa đi nụ cười trên môi, cố nghĩ đến cái gì khác; cái gì đó khó chịu, như mùi hôi của các con heo, chứ không phải Espen và đôi môi ngọt dịu nhưng thô tục. Cô sẽ ngồi cùng Britta để làm công việc may vá, và gần đây Britta thường nhìn cô với cặp mắt sắc lẻm, có ý hạch hỏi. Cô không thể nào biết được, nhưng có lẽ cô đã để lộ ra dáng vẻ gì đó. Cô cố nghĩ về đứa con trai đau yếu, nhưng hình như không tạo hiệu quả. Thay vào đó, cô tưởng tượng mình đang nhấc lên tấm chăn và nhìn xuống thân thể trần trụi của anh. Cô đã trông thấy rõ làn da màu đồng hấp dẫn, cảm nhận sự mượt mà...
Trời ơi! Espen đã làm vẩn đục cả tâm tư cô. Có lẽ cô nên lẻn vào nhà thờ trong ít phút mà cầu nguyện; cố nghĩ ra chuyện gì đó khiến cho cô phải tủi thẹn.
***
Trời đang lạnh giá: ngày lạnh nhất trong năm ngày họ đang đi theo dấu mòn. Một trận gió thổi xuống từ vùng Cực Bắc quất mưa đá vào mặt họ. Đôi mắt Donald cay sè, nước mắt đông cứng trên đôi má anh, khiến cho làn da nứt nẻ và thô ráp. Nước từ đâu đó cũng đông lại trên bộ ria anh, nên anh kéo chiếc túi che mặt bao quanh phần dưới khuôn mặt, cho đến lúc nó đông cứng vì độ ẩm trong hơi thở anh, và anh phải tháo nó ra trong đau rát để tránh ngộp thở. Anh cảm thấy lạnh cóng và đuối hơi tuy rằng Jacob mang phần lớn vật dụng, vì Donald không thể theo kịp nếu chia sẻ mang phân nửa.
Sau ngày thứ hai, Donald thấy mỗi cử động đều gây đau nhức ở đâu đó trên thân người mình. Trước đây, anh vẫn thường nghĩ mình là một chàng trai trẻ khỏe mạnh, nhưng bây giờ thấy rằng mình đang bắt đầu hiểu ra sự chịu đựng là như thế nào. Jacob lầm lũi đi trước, vai mang trọng lượng nặng, theo những lối tắt để thăm dò dấu mòn. Đến chiều tà, hai người dừng lại, Jacob thu nhặt cành khô rồi đốt một đống lửa, lại đi chặt cành cây làm chỗ trú ẩn cho hai người. Lúc đầu, Donald tỏ ý muốn tự làm lấy phần mình, nhưng rồi anh quá mệt và vụng về nên không giúp gì được; nếu để cho Jacob làm mọi việc thì có thể dựng lên chỗ trú ẩn nhanh hơn. Một cách hiền từ nhưng cương quyết, Jacob bảo anh ngồi xuống mà lo đun ít nước.
Sáng sớm ngày này, họ rời khỏi vùng rừng cây, bắt đầu đi qua một cao nguyên trơ trụi có nhiều gò đống, nơi mà dường như không có gì che chắn cho họ chống lại ngọn gió từ Vịnh Hudson đã đóng băng. Mặc cho quần áo dày cộm, ngọn gió vẫn len lỏi vào những vùng da mềm với những cú quất rát buốt. Họ nhanh chóng nhận ra rằng cao nguyên này là một bãi lầy mênh mông. Những vũng nước màu đen rỉ lên từ lớp đất bên dưới, đóng băng trên bề mặt. Lau sậy và liễu đón nhận những bông tuyết thổi đến rồi giữ lại thành cuộn. Khó mà tìm được một khoảnh đất cứng để có vài bước liên tiếp vững chắc. Jacob không còn cố giữ cho chân mình được khô, mà đành phải theo những bước đều đặn lên gò này xuống vũng khác. Dù cho đã quyết chí theo kịp, ba lần Donald đã phải kêu Jacob chậm chân lại, và bây giờ Jacob thường dừng bước để chờ anh. Jacob cố ra vẻ như không phải anh yếu đuối, mà dừng lại để nói cho anh biết về tình hình của dấu mòn. Rõ ràng là Jacob thấy khó khăn hơn mà dõi theo dấu mòn trên địa hình như thế này, nhưng anh càng không màng. Hôm qua anh thấy khó mà quan tâm đến việc họ sẽ tìm được Francis hay không; hôm nay anh chợt nghĩ ra rằng thậm chí mình có thể không trở về được từ chuyến đi này. Anh không chắc mình có màng đến một trong hai việc hay không.
Hai người càng đi qua thêm nhiều xác chết thú rừng. Bây giờ họ đi qua bộ xương của một con nai hẳn đã nằm ở đây từ lâu vì thịt đã được rỉa hết, chỉ còn lại màu nâu vàng. Cái đầu lâu con thú hướng về phía họ, chung quanh là những khúc xương khác vương vãi, nhìn Donald qua lõm mắt, thầm nhắc anh về nỗ lực vô vọng.
Donald cố chuyển tâm tư của mình hướng đến Susannah, để đóng sập cánh cửa giữa thể chất đang chịu đựng và tinh thần đang cảm nhận. Thay vào đó, anh thất vọng mà nghe văng vẳng tiếng của người cha rao giảng cho anh: “Hãy chú tâm vào sự việc, Donnie[32]. Hãy chú tâm vào sự việc. Tự vực mình lên! Ta phải làm những việc ta không muốn làm.” Anh cảm nhận lại nỗi bực tức ngày xưa dâng trào lên bề mặt như khí đầm lầy. Cha anh - một kế toán viên ở Bearsden - không bao giờ phải đi qua một đầm lầy vô tận trong mùa đông Canada.
[32] Donnie: tên gọi thân mật trong gia đình của Donald.
Được nhét bên trong lớp áo, gần quả tim anh, là ba lá thư anh đã viết cho Susannah. Anh thất vọng vì ngôn từ mình thiếu hùng biện, nhưng tự an ủi là khó mà viết cho dí dỏm trong khi cố ngồi sát vào đống lửa để nhìn cho rõ mà không cháy tóc. Anh e sợ các trang thư bị ố nhòe và bám bùn đất, lại còn có lẽ hôi mùi khói, nếu không tệ hại hơn. Có lẽ, nếu họ gặp khu dân cư, anh có thể chép lại trên giấy sạch sẽ, hoặc thậm chí viết lại từ đầu theo văn phong cải thiện. Như thế có lẽ là hay nhất.
Lúc bốn giờ chiều, Jacob tỏ ra hoang mang. Anh bảo Donald ngồi chờ trong khi anh thăm dò theo một vòng tròn rộng, rồi ra dấu cho Donald đi theo mình. Trong một thời gian, họ đi lần theo những dấu chân. Donald thầm rủa cái công việc vô giá trị, nhưng vì quá mệt nên không hỏi han gì. Một màn tuyết mỏng đang rơi xuống, và tầm nhìn xa bị hạn chế. Không khí vừa ẩm ướt vừa sắc buốt. Jacob thở ra những hơi dài, thói quen mỗi khi anh suy tư cật lực.
“Tôi nghĩ ở đây họ đi theo những đường khác nhau.”
Donald xem xét mặt đất nhưng không thấy cái gì chỉ ra rằng đã có người đi qua đây.
“Họ rời khỏi vùng rừng cây cùng một lúc. Cho đến điểm đó thì dấu vết rất rõ, nhưng tôi nghĩ người thứ hai đi chậm lại. Bây giờ một người đi theo đường kia, bởi vì có một dấu chân đóng băng trong bùn chỉ về hướng đó. Nhưng ở khoảng cách xa và khó mà theo dấu chân trong đầm lầy. Tôi nghĩ người thứ hai mất dấu, đi theo đường này…” Anh chỉ đến chỗ mặt đất dốc lõm xuống thành một dấu cạn: “Đây là dấu vết cho thấy chân ai đó bị lún, rồi tiếp tục đi. Đáng lẽ tôi đã nhận ra từ trước.”
Donald thầm công nhận là đúng. “Anh nghĩ Francis là dấu mòn thứ hai hả?”
“Dấu mòn thứ nhất là một người đi nhanh, đã quen với việc đi đường dài. Anh ta biết phải đi đâu mà không cần phải dừng lại để định hướng. À vâng, dấu mòn thứ hai là một thanh niên, và anh ta đã mệt.”
“Nhưng họ muốn đến cái chỗ chết tiệt nào vậy? Tôi có ý nói rừng cây là một chuyện, nhưng ở đây... Trời đất ơi, nhìn xem! Không ai sống ở đây được!”
Theo tầm mắt họ có thể nhìn phóng tới thì không có gì cả, chỉ có mấy lùm bụi và vũng lầy. Địa hình không có sắc thái gì để được gọi là hấp dẫn (Donald nghĩ đúng thế) - không có nét tương phản giữa núi non và thung lũng, không có hồ, không có cây cối. Nếu vùng đất này có đặc tính, thì đó là ảm đạm, vô cảm, thù nghịch.
Jacob nói: “Tôi không biết rõ vùng này, nhưng có những trạm tiền tiêu đâu đó, xa hơn về phía bắc.”
“Trời đất! Tội nghiệp cái bọn đáng thương phải sống ở đó.”
Jacob mỉm cười. Donald đã rơi vào vai trò của một tay mơ và anh là trợ giáo, một tình huống dễ thở. Dễ biết phải nói gì. Dễ biết người kia sẽ phản ứng ra sao. Trong mấy ngày qua, họ đã thiết lập mối quan hệ tương tự.
“Người ta sống ở khắp nơi. Nhưng họ nói đây là Xứ Chết đói.”
Donald thốt lên câu phạm thánh. “Thế thì ta nên tìm ra anh ấy càng sớm càng tốt.” Anh không cần phải nói ra lựa chọn thứ hai.
“Có lẽ người đầu tiên đang đi đến một trong những trạm tiền tiêu phía trên kia.” Jacob chỉ vào ngọn gió đang gầm rít, theo một hướng trông không có vẻ gì là hứa hẹn hơn các hướng khác.
“Còn người thứ hai thì sao?”
“Tôi không biết. Có lẽ đã bị lạc đường.”
Họ lại tiếp tục chuyến đi khổ sở, lần theo những bụi cỏ và tảng đá thình lình nhô lên giữa trảng thực vật đầm lầy. Những tảng đá này có nhiều màu kỳ lạ - xanh lục đậm, hoặc tím, hoặc màu cam u tối. Đôi lúc có một vũng nước đen đá đóng băng cứng rắn, những lúc khác chân họ đạp xuống một mảng băng mỏng rồi ngập trong một vũng tối đen kinh khủng của nước và bùn lạnh buốt. Donald cảm thấy kinh hoàng với ý nghĩ họ sẽ chỉ tìm thấy một thi hài - là khả năng rất dễ xảy ra. Làm thế nào có ai đó sống sót ở đây, lạc đường và cô độc? Anh cố tự nhủ rằng hai người không còn cách xa phía sau cái xác, rồi lại có ý nghĩ khủng khiếp là Jacob có thể bỏ anh lại, mà không có chủ ý, và rồi anh, Donald, sẽ cô độc y như chàng trai trẻ kia. Anh sẽ sống sót được bao lâu? Anh cố bám theo cái bóng đen đi phía trước, nhất quyết không để chuyện đó xảy ra. Lại có hiện tượng sinh lý học trái khoáy là vết thương ở mạn sườn đau nhức trở lại, nhắc cho anh nhớ về thể chất mỏng manh của mình - hoặc có phải nó nhắc cho anh rằng Jacob, bây giờ là người bảo vệ mạng sống của anh, mới gần đây đã cầm dao đâm anh?
Cuối cùng, hai người đi đến một dòng sông nhỏ chảy ngoằn ngoèo vô hình qua vùng đất. Đen như dầu thô giữa hai bờ băng giá.
Jacob dừng anh lại, chỉ đến một vũng bùn hỗn độn đã đóng băng thành những chỏm và khe: “Có những người ở đây. Và một con ngựa. Tôi có thể nói anh ta nhập đoàn với họ.”
Jacob mỉm cười, và Donald cố tỏ vẻ vui lòng. Nhưng chủ yếu anh thấy mình không đi tiếp được nữa. Anh mang trong lòng nỗi căm ghét đối với địa hình mà trước đây anh chưa từng thấy. Con người không có mục đích gì để đi đến đây. Ý nghĩ về một người cưỡi ngựa nhặt được anh trai trẻ càng thêm khủng khiếp - có Trời biết được bây giờ hai người mình phải đi bộ bao xa. Anh không hiểu được tại sao Jacob không chịu đi ngựa; anh lại nghĩ đến khả năng là toàn thể vụ việc chỉ là để làm nốt cái thủ đoạn mà con dao kia làm chưa đến nơi đến chốn.
Jacob dẫn đường đi xa khỏi con sông, và Donald lê lếch đi theo, đôi mắt vẫn dán lên mặt đất xảo trá, chết lặng dưới bước chân của họ.
Thình lình Jacob dừng bước và Donald bước ngay đến sau lưng anh ta, cảm giác anh mờ mịt về quanh cảnh chung quanh. Jacob nắm lấy cánh tay anh, và cười vào mặt anh: “Anh Moody, nhìn kìa! Nhìn!”
Anh ta đang chỉ xuống mặt tuyết và bóng tối nhá nhem đang âm thầm bao phủ quanh họ. Và trong khoảng màu xám xoáy lốc, anh nhìn ra những điểm ánh sáng. Anh cười nhăn nhở, và cảm thấy bầu máu nóng dâng lên đến cằm - đôi môi anh đã nứt nẻ. Nhưng không có gì dập tắt được niềm vui. Sẽ có những ngôi nhà, cư dân, sự ấm cúng... sẽ có ngọn lửa, và thậm chí tốt hơn nữa, những bức tường! Những bức tường ngăn cách giữa anh và thời tiết. Trong một khoảnh khắc sướng thỏa, anh sống lại nỗi kích động lúc trước khi nhìn thấy vầng trăng, anh cảm nhận lại niềm vui vô bờ của một đứa con trai mười bốn tuổi, và anh kinh qua niềm hạnh phúc thuần khiết mà có vẻ như tất cả mệt nhọc trong mấy ngày qua, tất cả thiếu thốn trong năm rưỡi qua, đều rất đáng giá. Anh lập cập vỗ vai Jacob, tin chắc rằng anh chàng này là người giỏi nhất, người cao quý nhất mà mình từng gặp trong đời.
Bốn mươi phút sau, họ đi vào một khoảnh sân rộng, bao quanh là những ngôi nhà tề chỉnh bằng gỗ. Có những chuồng gia súc được quây rào kín, bên trong bốc hơi nước; một ngôi nhà thờ với ngọn tháp, trên cùng là cây thánh giá sơn màu đỏ nhòe. Ánh sáng tỏa ra từ các cửa sổ soi rọi khoảnh sân băng giá, trông như xứ thần tiên. Donald kiềm chế những giọt lệ biết ơn khi hai người đi đến tòa nhà lớn nhất, và gõ trên cánh cửa.
***
Lúc còn là đứa con gái nhỏ cũng như lúc ở trong bệnh viện tâm thần, tôi thường nghĩ rằng khi kết hôn thì người ta sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn nữa. Có lúc tôi hồ nghi liệu mình còn hết cô đơn hay không; tôi đoán số phận mình là kẻ bên lề xã hội, hoặc tệ hại hơn, là gái già không chồng. Tôi có bạn bè trong bệnh viện tâm thần, ngay cả bác sĩ Watson cũng là một người bạn đặc biệt; nhưng làm bệnh nhân của một bác sĩ chữa bệnh điên không giúp cho tôi cảm nhận mình sống trong một thế giới bình thường, hoặc được an toàn. Chồng tôi đã mang lại cho tôi điều mà tôi không hề mong đợi trước đấy: cảm nhận về tính cách hợp pháp. Và cảm nhận rằng ở đây, có một người mà tôi có thể bộc bạch tất cả. Tôi không cần phải giả vờ. Tôi nghĩ điều tôi đang nói là, tôi đã yêu anh ấy. Tôi biết anh ấy đã yêu tôi, tôi chỉ không biết khi nào điều này không còn là sự thật.
Đêm đã khuya; tôi lại mất ngủ vì nghĩ ngợi về cuộc gặp gỡ kế tiếp với người bị giam giữ; Knox đã đồng ý cho tôi quay lại, miễn là tôi phải rất kín đáo. Tôi nghĩ ông cảm thấy xúc phạm vì tôi đã lợi dụng thảm kịch của vợ ông mà chống lại ông, và tôi phải thầm cảm ơn ông đã đồng ý. Ông e sợ người nhân viên của Công ty. Ông cũng sợ rằng mình suy nghĩ quá yếu mềm. Tôi nằm kề bên chồng tôi, và Angus trong giấc ngủ quay người ôm lấy tôi, là hành động mà anh không hề thể hiện trong một thời gian dài. Tôi không dám nhúc nhích, tự hỏi anh biết - hoặc mơ thấy - anh đang làm gì hay không. Sau một lúc, anh khụt khịt rồi quay người đi, lại đưa lưng về phía tôi. Và tôi chưa từng cảm thấy cô đơn đến thế, ngay cả trong những khoảnh khắc đen tối nhất ở bệnh viện tâm thần sau khi cha tôi qua đời. Nếu Olivia còn sống, liệu mọi việc sẽ khác biệt không? Nếu Francis không bao giờ đến với hai vợ chồng tôi?
Mấy câu hỏi không đâu vào đâu. Cách thức tôi thích hỏi.
Tôi ghét tính yếu mềm trong con người mình - cách độc thoại không có điểm dừng thay cho hành động, và nhiều lúc (thường là trong đêm khuya) tôi ước gì mình giống như Ann Pretty. Chị có thể không may mà mang họ Pretty, nhưng đôi lúc tôi nghĩ chị là mẫu người hoàn chỉnh của nhà tiên phong trong vùng hoang dã, cá thể có xương sống giỏi sinh tồn, mạnh mẽ, không giàu tưởng tượng, không tẩn mẩn. Chị sẽ không phải thức trong đêm mà thắc mắc chồng mình - hoặc bất kỳ ai khác - nghĩ về mình ra sao. Chị sẽ không mất đứa con mình trong vùng hoang dã.
Tôi bước ra khỏi giường, và rồi để kiếm việc nào đó mà làm, tôi bắt đầu chuẩn bị một cái túi cho cuộc hành trình mà tôi đang trù định. Thật sự mà nói, tôi không thiết tha lắm với việc này; tôi sẽ phải đối diện với cơn sợ hãi vùng hoang dã, tôi thiếu can đảm. Ai biết được, có lẽ Moody và anh kia sẽ về đây cùng với Francis. Tôi không màng nếu họ bắt giữ nó, miễn là họ tìm được nó và nó bình an. Rồi có lẽ chính nó sẽ bị giam trong kho chứa hàng ở Caulfield, run rẩy trong khoảng không gian trống trải như hang động mờ mịt, nhưng được an toàn. Tự nhủ lòng mình như thế, tôi thu nhặt những bộ quần áo dày nhất và thực phẩm trữ được lâu. Đấy có phần giống như chuẩn bị đi picnic; nếu tôi nghĩ như thế thì sự việc xem dường không tồi tệ lắm.
Tiếng gõ cửa khe khẽ không làm cho tôi ngạc nhiên lắm: tôi đang nghĩ về Francis, thế nên có lẽ chuyện phải đến là niềm khát khao của tôi đã được đáp ứng. Tôi nắm chặt cánh cửa trong nỗi vui mừng để chuẩn bị kéo cánh cửa mở rộng, tập trung ngôn từ để thốt ra với con tôi, cùng với những dòng lệ, trong màn đêm vẫn còn bao trùm. Tôi nhìn quanh, thì thầm tên của nó - điều kỳ lạ là tôi thì thầm, như thể tôi có linh cảm.
Một người đang đứng trong bóng tối - tôi đoán để làm nhẹ cơn sốc, hầu đôi mắt tôi phải tìm kiếm nó, và chỉ dần dần tôi mới nhận ra người ấy là ai.
Người bị giam giữ giơ bàn tay lên trong cử chỉ làm nguôi giận: “Xin bà đừng la lớn.”
Tôi trân trối nhìn. Tôi sẽ không la lớn. Tôi lấy làm hãnh diện không phải vì la lớn, ngay cả trong hoàn cảnh gay go.
“Tôi xin lỗi đã làm bà giật mình. Knox đã trả tự do cho tôi. Tôi định đì tìm con trai bà, bởi vì tôi nghĩ anh ấy trông thấy kẻ sát nhân. Nhưng tôi cần đồ tiếp tế, và khẩu súng của tôi bị tịch thu. Và tôi tin bà đang giữ các con chó của tôi.”
Tôi chăm chăm nhìn ông mà thấy khó tin, không hiểu lắm ông nói gì.
“Bà Ross ạ, tôi cần bà giúp, và bà cần tôi giúp.”
Thế là, sự việc diễn ra như sau: hai người cần nhau thì hợp tác với nhau; không liên quan gì đến sự tin cậy hoặc lòng tử tế hoặc ý niệm tình cảm. Tôi hiểu rõ việc ông nói về Knox và tại sao ông ấy trả tự do cho ông theo cách lén lút như thế, nhưng xem qua khuôn mặt bị thương tích của ông tôi có thể tin rằng Mackinley đã gây ra việc này. Parker cần khẩu súng và thực phẩm và các con chó, còn tôi cần người hướng đạo để theo dấu Francis, và có thể ông nghĩ Francis sẽ ăn nói cởi mở hơn nếu có tôi ở đấy - Francis cũng cần một thứ. Thế là trong khi chồng tôi đang ngủ say trên lầu, chúng tôi sắp xếp hành trang, riêng tôi chuẩn bị đi ra vùng hoang dã với một nghi phạm trong vụ án mạng. Điều tệ hại hơn nữa là đi với một người mà tôi chưa được giới thiệu đàng hoàng. Tôi quá sốc nên không cảm thấy sợ hãi, quá kích xúc nên không màng về hành động không phải phép này. Tôi đoán nếu bạn đã mất đi cái gì quý giá nhất, thì tiếng tăm và danh dự chỉ là chuyện tầm phào. (Hơn nữa, trong tình huống tồi tệ nhất, tôi có thể tự nhắc nhở rằng có lúc tôi đã bán danh dự của mình còn rẻ hơn thế này. Tôi có thể tự nhắc nhở như thế khi cần.)
Một màn tuyết mỏng rơi xuống từ phía Sông Dove, hai con chó âm thầm chạy bên cạnh Parker. Một tiếng đồng hồ sau khi qua khỏi ngôi nhà của Pretty, ông đi đến một chỗ cất giấu giữa các đám rễ cây và nhanh chóng làm một chiếc xe trượt tuyết từ những vật liệu ông tìm được ở đây - một loại cỗ xe nhẹ, mảnh mai bằng gỗ liễu với một vị trí trông giống như một kiểu chỗ ngồi được lót bằng da thuộc. Tôi suýt cảm ơn ông về tính chu đáo này thì ông đã chất thực phẩm và chăn mền lên chỗ ngồi đó. Hai con chó bị kích động vì tuyết và xe trượt, sủa lên vài tiếng. Suốt việc này, kéo dài khoảng nửa tiếng đồng hồ, Parker không nhìn đến tôi hoặc nói một lời. Tôi không nghĩ ông màng đến việc tách tôi ra khỏi danh dự của tôi. Ông giật giây cương rồi tiếp tục lên đường, tiến về phía bắc, dọc Sông Dove, chỉ được hướng dẫn bởi âm thanh của dòng nước, và một ánh lờ mờ, vô định hình, dường như xuất phát từ tuyết.
Tôi đi theo ông, hay va vấp vì loại giày da đanh mà tôi không quen thuộc nhưng ông cứ bắt buộc tôi mang. Tôi nhất quyết sẽ không phàn nàn, cho dù sự thể sẽ ra sao.
***
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói