Having your book turned into a movie is like seeing your oxen turned into bouillon cubes.

John LeCarre

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9
nox cảm thấy bứt rứt dồn dập vì những sự kiện diễn ra trong buổi tối. Vì thái độ nhiễu sự và cả quyết của Mackinley, vì sự hiện diện quê kệch và mạnh mẽ của người bị cầm giữ, thậm chí vì anh chàng Jammet bất hạnh và cái chết nhếch nhác của anh này. Cộng đồng non trẻ ở Caulfield vẫn luôn an bình, không có nhà tù và chưa bao giờ cần đến nhà tù. Bây giờ, trong ít ngày qua, ở đâu ông cũng nhìn thấy bạo lực và nỗi chua cay.
Vợ ông vẫn còn thức khi ông đi lên lầu. Ngay cả khi người đàn ông tên Parker đã mất dạng, ông này vẫn còn làm vướng bận tâm trí mọi người. Tên sát nhân có thể đang lảng vảng trong thị trấn, chỉ ngăn cách với họ bởi mấy bức tường bằng ván gỗ mỏng. Người đàn ông ấy có vẻ gì đó khiến cho người ta dễ dàng tin rằng ông có tội. Dĩ nhiên là ông ấy không thể làm gì với dung mạo của mình, và không nên bị phán xét theo bề ngoài. Liệu ông có đang làm thế hay không?
Trong khi thay quần áo, ông nhận xét: “Có người dễ làm cho ta thấy khó ưa.”
“Anh đang nói đến người bị cầm giữ, hay là ông Mackinley?”
Knox cố ghìm giữ nụ cười. Ông nhìn vợ và thấy bà có vẻ mệt mỏi: “Em ổn chứ?”
Ông thích mái tóc bà gợn sóng được thả lỏng, cũng có màu nâu bóng như khi họ cưới nhau. Bà lấy làm hãnh diện với mái tóc mình, mỗi đêm đều dành năm phút để chải cho đến khi tóc gẫy và bám vào chiếc lược.
“Em định hỏi anh cùng câu hỏi ấy.”
“Anh ổn. Anh mong chuyện này chóng xong xuôi. Anh yêu thích Caulfield khi nó an bình và nhàm chán.”
Bà nhích vào trong khi ông nằm lên giường giữa hai tấm chăn: “Anh có nghe tin tức gì khác không?”
Qua giọng bà, ông có thể đoán ra rằng đấy không phải là tin vui. “Tin tức khác à? Tin gì thế?”
Bà thở dài: “Sturrock đang ở đây.”
“Sturrock Người Dò tìm hở? Ở Caulfield?”
“Vâng. Anh Moody đã gặp ông ấy. Có vẻ như ông ấy quen biết Jammet.”
“Trời đất!” Ông không bao giờ thôi ngạc nhiên bởi những gì bà vợ nghe qua từ lời đồn đại. Ông nhỏ nhẹ lặp lại: “Trời đất!” Ông nằm xuống, bao nỗi hồ nghi vẫn đọng đầy trong trí óc. Ai lại nghĩ Jammet có nhiều mối quan hệ vô hình như thế? Một mãnh lực kỳ lạ lan rộng từ ngôi nhà gỗ trống trơn, lôi kéo những người khó tin và khó ưa đến Caulfield để tìm kiếm cái gì không ai biết. Trong mười năm ông chưa gặp lại Thomas Sturrock, kể từ một thời gian ngắn trước khi Charles qua đời. Ông đã cố quên lần gặp gỡ ấy. Bây giờ ông không thể nào nghĩ đến một lý do vô thưởng vô phạt khiến cho Sturrock hiện diện ở đây.
“Anh có nghĩ ông ấy là kẻ giết người không?”
“Ai?” Trong một khoảnh khắc, ông không nhớ bà đang nói đến ai.
“Còn ai nữa! Dĩ nhiên là người bị cầm giữ. Anh có nghĩ ông ấy đã làm điều đó không?”
Knox nói: “Em ngủ đi.” Rồi ông hôn bà.
***
Vào ngày trước khi họ ra về, Donald dành thời giờ quý báu để xem qua cửa hàng của Scott nhằm tìm một món quà cho Susannah. Anh định mua cho cô một cây bút mực; tuy nó là món quà chia tay thích hợp, nhưng có thể cô thấy đó là lời nhắc nhở lộ liễu về lời hứa sẽ viết thư cho anh. Không có nhiều thứ để lựa chọn, cuối cùng anh mua một chiếc khăn tay thêu, bỏ qua ngụ ý rằng anh nghĩ cô sẽ khóc khi xa anh - có lẽ cô sẽ không nghĩ đến điều này.
Chiều hôm ấy, Susannah thơ thẩn nhiều tiếng đồng hồ trong phòng đọc sách của gia đình, chờ cho Donald gặp cô do tình cờ, trong khi lật qua một quyển sách. Cô có cơ hội đọc xong cả quyển sách cho đến lúc anh nhận biết chuyện gì đang diễn ra, nhưng cô không đọc xong; phần lớn các tiểu thuyết trong phòng đều gây nhàm chán, được chọn lựa bởi cha cô khi còn trẻ, hoặc bởi Maria vốn có sở thích lạ kỳ. Donald nghe tiếng ho của cô, và rón rén mở cánh cửa, giữ một tay sau lưng.
“Chúng tôi sẽ ra về ngày mai, trước khi trời sáng, nên chúng tôi không thể từ giã cô lúc đó.”
Cô vội đặt xuống quyển sách về đề tài câu cá và nghiêng người nhìn Donald: “Không có anh thì ở đây sẽ buồn tẻ.”
Donald mỉm cười, quả tim muốn nổi loạn trong lồng ngực: “Tôi mong cô không cho là tôi quá tự tiện, nhưng tôi mua cho cô món này. Tôi muốn tặng cô món gì đó trước khi ra về.”
Anh giơ ra một chiếc hộp nhỏ, được gói trong giấy dầu của cửa hàng và được cột lại bằng ruy băng.
Susannah mỉm cười, tháo chiếc hộp, mở ra chiếc khăn tay: “Ôi, đẹp quá! Anh Moody, anh thật là tử tế.”
“Xin gọi tôi là Donald.”
“Ôi, Donald. Cảm ơn anh nhiều. Tôi sẽ giữ nó luôn bên mình.”
“Tôi thấy không có vinh dự nào lớn hơn.”
Anh suýt nói ra rằng anh ghen tị biết bao với chiếc khăn tay, nhưng anh mất tự tin, có lẽ như thế là điều may. Anh không biết Susannah đã có một chiếc khăn tay giống như thế, mua ở cùng cửa hàng, được một anh trai trẻ tặng năm trước. Nhưng bây giờ Susannah đang ửng hồng đôi má, trông như cô đang rạng rỡ từ bên trong.
“Bây giờ tôi thấy ngượng vì không có gì tặng anh để đáp lại.”
“Tôi không mong được đáp lại gì cả.” Anh suýt dám nói ra rằng mình muốn có một nụ hôn, nhưng lại không đủ can đảm. “Chỉ cần thỉnh thoảng cô biên thư cho tôi, nếu cô không quá bận.”
“À vâng, tôi sẽ viết thư cho anh. Và có lẽ, nếu không quá bận, anh có thể thỉnh thoảng gửi thư cho tôi.”
“Mỗi ngày!” Anh đã nói ra một cách khinh suất.
“Ôi, tôi nghĩ anh sẽ quá bận. Tôi chỉ mong việc này sẽ không... nguy hiểm.”
Những phút còn lại trong phòng đọc sách trôi qua trong không khí mê mẩn ngọt ngào. Donald không biết nói gì thêm, nhưng nhận ra rằng quả bóng đang ở bên phần sân mình, và cuối cùng anh thu hết can đảm để nắm lấy bàn tay cô. Rồi có ai đó đánh lên tiếng kẻng trong tiền sảnh - hiệu báo giờ dùng bữa tối - và cô thu bàn tay về, nếu không thì ai biết được chuyện gì kế tiếp sẽ diễn ra. Chỉ nghĩ đến đó là anh đã cảm thấy quay cuồng.
Chỉ có hai con đường rời khỏi Sông Dove: hướng nam đi về vịnh, hoặc hướng bắc dọc theo con sông qua khu rừng. Jacob chọn con đường mòn vượt quá trang trại Price. Angus Ross đã bảo họ ông thấy những dấu hiệu là Francis đã đi qua Hồ Swallow, và Jacob chỉ dừng lại để xem xét dấu vết xem đó có phải là dấu vết của Francis hay không. Con đường mòn thoáng đãng; họ bước nhanh, đi qua hồ nước sau giữa trưa. Jacob quỳ xuống để xem xét gần hơn.
“Dấu vết đã cũ vài ngày, nhưng có hơn một người đàn ông đi qua đây.”
“Cùng lúc hay sao?”
Jacob nhún vai.
“Có thể là nhà buôn người Pháp đó. Ông ta đi qua đây phải không?”
“Hơn một người đàn ông đi theo hướng này: hai loại dấu chân, kích thước khác nhau.”
Họ đi thêm vài dặm theo dấu chân. Đến một nhánh sông hợp lưu với hồ nước, dấu mòn rẽ về hướng tây và nối tiếp theo đó, qua vùng đất đá không có dấu chân người. Donald bước theo Jacob vì nghĩ anh này biết phải làm gì, rồi nhẹ nhõm khi thấy một khoảnh đất gần dòng nước, nơi các dấu chân ép lá cây và rêu xuống mặt bùn.
“Người này đã đi bộ cả sáu, bảy ngày. Đã mệt mỏi và đói. Tôi nghĩ ta nên đi nhanh hơn. Ta có thể bắt kịp.”
“Nhưng hắn đi đâu? Đường này dẫn đến đâu?”
Jacob không biết. Dấu mòn vẫn nối dài, ngoằn ngoèo qua rừng cây dọc con sông, luôn dốc cao lên, nhưng không có dấu hiệu cho thấy nó dẫn đến đâu ngoại trừ đi vào vùng hoang dã mênh mông.
Họ dừng lại để nghỉ trong khi còn ánh nắng. Jacob chỉ cho Donald cách chặt cành cây để làm chỗ trú. Dù đã sống ở Canada hơn một năm, đây là lần đầu tiên Donald nếm trải cuộc sống bản địa, và anh vui vì bao điều mới lạ. Anh đang xóa đi quá khứ và vỏ bọc mọt sách, cầu kỳ, để cuối cùng trở thành con người của hành động, con người gian truân vùng biên cương, nhà Phiêu lưu đích thực của Công ty. Anh thích thú nghĩ đến lúc kể lại kinh nghiệm của mình cho đám đàn ông ở Pháo đài Edgar.
Sau khi họ dựng chỗ trú rồi đốt đống lửa và Jacob dọn món cháo bắp nấu với thịt, Donald ngồi gập người bên đống lửa, lấy giấy bút ra biên thư cho Susannah. Anh chưa nghĩ đến việc gửi lá thư cho cô bằng cách nào, nhưng đoán có cư dân sống dọc đường để nhờ gửi đi. Anh viết “Susannah thân mến” rồi dừng lại. Liệu anh có nên mô tả dấu mòn hôm nay, khu rừng với tán lá xanh đậm và vàng chói, những tảng đá màu tím nhạt dưới lớp rêu sáng loáng, cách thu xếp chỗ ngủ? Anh bác bỏ các chi tiết này vì e cô sẽ thấy chán ngắt, rồi viết “Quả là điều thú vị nhất...”, rồi không hiểu sao sức nóng của ngọn lửa khiến anh ngã ra bất tỉnh, đến nỗi Jacob phải xốc anh lên cho tỉnh lại và đặt anh ngồi dưới mái lá bulô, nhưng anh lại ngã ra trên các cành cây linh sam. Cơn kiệt sức ập đến người anh như búa bổ, và anh quá mệt nên không thấy vầng trăng đang soi rọi tạo những bóng tối thần tiên trên cành cây kẽ lá. Chắc chắn là anh quá mệt nên không thấy Jacob đang quan sát những tinh thể băng sáng lòa chung quanh, và nhíu mày suy tư.
***
Qua nhiều năm tôi đã gầy dựng được một bộ sưu tập sách hay tuy rằng gò bó về chủ đề, và tôi đã cho Ida mượn một số sách. Không như bà mẹ, cô bé lấy làm cảm kích và có vẻ như cảm động vì tôi đã tin tưởng cô mà cho mượn những thứ quý giá như thế. Nhưng bây giờ, dường như đầu sách quý giá nhất vẫn không quan trọng. Một trong những quyển sách tôi cho cô bé mượn là từ điển, quyển sách mà tôi quý trọng cả hai mươi năm. Tôi đã giữ quyển từ điển này bên mình khi ở trong bệnh viện tâm thần để bù lại phần giáo dục bị dở dang, nhưng Ida đặc biệt xin mượn vì nhà Pretty chưa hề trông thấy quyển sách nào như thế.
Mẹ tôi cho tôi quyển từ điển ấy một thời gian ngắn trước khi bà qua đời, như là để đền bù cho nỗi mất mát diễn ra sau đấy. Bạn có thể nghĩ đây chỉ là phần đền bù nhỏ bé, nhưng nó không phải hoàn toàn vô dụng. Tôi ghét gặp phải những từ ngữ trong sách mà mình không hiểu rõ nghĩa nên vẫn kiên trì tra cứu những từ này: “trong trẻo”, “lắm điều”, “được hàm ý”[23]. Tôi tra cứu từ “tự tử” sau khi mẹ tôi qua đời. Tôi nghĩ việc này có thể giúp tôi hiểu được tại sao bà làm thế. Định nghĩa là chuẩn xác và súc tích, là hai tố chất mà bà không có. “Hành động tự hủy diệt” nghe như là cố tình và quá khích, trong khi mẹ tôi có tính mơ mộng và hiền hòa, thường đãng trí. Tôi hỏi cha tôi, để xem ông có thể giải thích được không - tôi đoán ông hiểu rõ bà trong khi tôi còn hoang mang. Ông quát tháo và huyên thuyên rằng đấy là việc càn bậy - mẹ tôi hẳn không bao giờ làm thế, thậm chí mới nghĩ đến việc này đã là tội lỗi. Thế rồi, ông khóc, khiến cho tôi bối rối cùng cực. Tôi vòng tay ôm lấy ông, cố an ủi trong khi ông nức nở. Sau một hoặc hai phút, hai cha con đứng bên nhau trong trạng thái vờ vịt của tình phụ tử vốn không tạo bất kỳ sự khác biệt nào - một hoặc hai phút mà tưởng chừng kéo dài cả giờ - rồi tôi buông ông ra mà bước khỏi phòng. Có vẻ như ông không để ý.
[23] Những từ này khi được dịch ra Việt ngữ thì không có gì khó hiểu, nhưng trong nguyên bản là các từ xa lạ của Anh ngữ: “limpid”, “termagant”, “intimated”.
Tôi nghĩ cả hai cha con tôi đều không hiểu nhiều về bà.
Sau này, tôi nhận ra rằng cha tôi tức giận bởi vì tôi đã đoán ra sự thật. Giờ đây, gần đến tuổi của mẹ tôi khi bà qua đời, tôi không biết mình đã thành công trên đường đời ra sao: đứa con độc nhất của tôi đã bỏ nhà ra đi trong những tình huống kinh khủng, và rõ ràng là tôi không thể đổ lỗi mọi chuyện cho dòng máu Ireland của nó. Tôi đã dự phần trong số mệnh của nó, mà tôi chưa biết sẽ tổn hại ra sao.
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm phần nào khi trò chuyện cùng Ida. Hôm nay, cô bé tươi vui hơn; lại thêm hương vị ngồi lê đôi mách về người đàn ông bị cầm giữ trong kho chứa hàng. Ida nhại lại thái độ mặt sưng mày sỉa của Scott khi cho phép sử dụng một phần bất động sản quý giá của ông cho mục đích như thế. Cô bé cũng dặm thêm một ít chi tiết thú vị - các anh cô đã tìm thấy dấu hiệu cho biết người đàn ông này đã đi ngang trang trại của họ trên đường đến ngôi nhà gỗ của Jammet, như thế có nghĩa là ông đã đi từ hướng bắc. Nghĩa là có thể ông đã gặp Francis. Nghĩa là tôi nên đi dọ hỏi ông, cho dù ông là kẻ giết người chăng nữa.
Cô bé cũng nhắc đến Thomas Sturrock, người đang ngụ trong nhà Scott. Liệu tôi có biết rằng ông này là Người Dò tìm nổi tiếng nhưng đã thất bại trong vụ hai cô con gái nhà Seton? Cả thị trấn đang kháo nhau về ông. Tôi gật đầu một cách mập mờ, và nói tôi chưa từng nghe gì cả. Tôi thắc mắc tại sao ông không nhắc đến vụ kia khi chúng tôi trao đổi với nhau về vụ án mạng ở đây. Lại thêm một trường hợp mà tôi là người biết sau cùng.
Tôi đã đoán trước Knox sẽ kiếm chuyện rầy rà vì tôi muốn tiếp xúc người bị cầm giữ. Ông cho rằng tôi sẽ không thu lượm được gì, rằng họ đã cật vấn ông, rằng việc này gây bất lợi, rằng việc này là không phù hợp, và cuối cùng, rằng việc này là nguy hiểm. Tôi vẫn giữ thái độ đúng lý. Tôi biết nếu mình kiên trì thì ông sẽ nhượng bộ, và đúng là ông nhượng bộ sau nhiều cái lắc đầu và nhiều tiếng thở dài. Tôi trấn an ông là tôi không sợ ông ấy, dù cho ông ấy trông dễ sợ đến đâu - ông ấy sẽ chịu thiệt nếu có thái độ không hay (ngoại trừ khi đã bị kết tội, khi tôi đoán ông bị kết tội trong bao nhiêu vụ án mạng thì vẫn thế, nhưng tôi không nói ra suy nghĩ này). Dù sao chăng nữa, Knox kiên quyết phái gia nhân của ông đi với tôi, với lời căn dặn phải ngồi ở cửa kho chứa hàng và để mắt trông chừng mọi việc.
Adam mở khóa cửa kho chứa hàng; lúc này một ít hàng hóa khô bên trong đã được thu dọn đi để người bị giam giữ có nhiều khoảng trống. Có hai cửa sổ gần trần nhà tạo cơ hội trốn thoát nhỏ nhoi, nhưng ông ngồi gục đầu trên một tấm nâng hàng và không quan tâm khi cửa mở. Có lẽ ông đang ngủ - chỉ cựa mình khi Adam gọi ông, rồi chậm chạp ngồi lên, kéo một tấm chăn mỏng quanh người. Không có lửa sưởi ấm; có vẻ như bên trong lạnh khắc nghiệt hơn và thấm sâu hơn so với bên ngoài.
Tôi quay qua Adam: “Các anh định để cho ông ấy chết cóng hay sao?”
Adam lẩm bẩm - nghe như là việc đốt trụi tất cả chúng tôi - và tôi ra lệnh cho anh đi tìm ít viên đá nóng để hơ chân, và ít cà phê. Adam ngạc nhiên nhìn tôi: “Tôi không được phép rời khỏi bà.”
“Đi tìm ngay. Đừng có nhố nhăng; chúng tôi không thể ngồi nói chuyện ở đây trong cái lạnh như thế này. Tôi chắc chắc sẽ ổn cho đến khi anh quay lại.” Tôi trừng mắt nhìn anh một cách nghiêm khắc cho đến khi anh quay đi, luống cuống khóa lại cánh cửa sau khi bước ra ngoài.
Người bị giam giữ không nhìn đến tôi, mà ngồi như tượng đá. Tôi kéo một chiếc ghế đến gần tấm nâng hàng và ngồi xuống. Tôi lo lắng nhưng cố không lộ trên nét mặt. Nếu muốn ông giúp thì tôi nên ra vẻ như mình tin cậy nơi ông. Rốt cuộc, tôi đã suy nghĩ phải ăn nói ra sao với ông.
“Ông Parker ạ, tên tôi là Bà Ross. Tôi đến đây để nhờ ông giúp đỡ. Tôi xin lỗi đã lợi dụng việc ông bị... cầm giữ.”
Ông không nhìn tôi mà cũng không tỏ vẻ rằng tôi đang hiện diện ở đấy. Tôi chợt nghĩ ra rằng có lẽ ông lãng tai.
Tôi tiếp tục, lần này nói lớn hơn: “Ông Parker, tôi được biết ông đi từ phía bắc, ngang qua Hồ Swallow, phải không?”
Sau một chốc, ông nói nhỏ nhẹ: “Chuyện này liên quan tới bà ra sao?”
“Chuyện là thế này: tôi có một đứa con trai, Francis. Bảy ngày trước nó đi khỏi nhà. Tôi nghĩ nó đi về hướng bắc. Nó không quen biết ai ở đấy. Tôi đang lo lắng. Tôi muốn hỏi ông đã trông thấy dấu hiệu nào...? Nó chỉ mười bảy tuổi. Nó có... tóc đen. Người hơi mảnh khảnh.”
Chỉ có thế. Không thể nói cách nào khác, và dù sao chăng nữa tôi thấy cổ họng mình thắt nghẹn đến mức tôi không chắc mình nói được thông suốt.
Có vẻ như Parker đang suy tư: khuôn mặt ông không còn trông lạnh lùng như trước, và đôi mắt đen của ông nhìn thẳng vào mắt tôi: “Bảy ngày trước hả?”
Tôi có thể tự trách mình. Đáng lẽ tôi phải nói tám. Hoặc chín. Tôi gật đầu.
“Và người ta tìm thấy Jammet sáu ngày trước.”
“Ông Parker ạ, con tôi không giết anh ấy.”
“Làm sao bà biết được?”
Tôi cảm thấy cơn giận dữ dâng trào với lời lẽ hạch sách của ông. Dĩ nhiên là tôi biết. Tôi là mẹ của nó mà. “Tôi còn giống như là bạn thân thiết của nó.”
Lúc ấy, Parker có thái độ bất ngờ: ông bật cười. Giống như giọng nói, tiếng cười của ông trầm trầm và khô khan, nhưng không phải khó chịu. “Tôi cũng là bạn thân thiết của Jammet. Tuy vậy, có vẻ như Ông Knox và Ông Mackinley nghĩ tôi giết anh ấy.”
Tôi bị lùi vào thế thụ động vì câu nói này. “À... tôi đoán họ không hiểu rõ ông. Nhưng tôi nghĩ một người vô tội sẽ làm hết sức mình để giúp đỡ một phụ nữ trong hoàn cảnh của tôi. Việc làm này sẽ xác định người ấy có tư cách tốt.”
Liệu tôi đang tưởng tượng, hoặc đúng thực là ông đang mỉm cười? Đôi môi ông xoắn lại một tí: “Thế thì nếu tôi giúp bà, bà nghĩ Ông Mackinley sẽ thả tôi ra hay không?”
Tôi không thể nói ông đang mỉa mai hay không, “Ông Parker ạ, việc này tùy thuộc vào những tình huống mà tôi không biết gì hết, chẳng hạn như ông có phạm tội hay không.”
“Tôi không phạm tội. Bà có phạm tội không?”
“Tôi...” Tôi không biết nói gì cho thông suốt. “Tôi tìm thấy anh ấy. Tôi trông thấy những gì đã gây ra cho anh ấy.”
Bây giờ, ông có vẻ thực sự ngạc nhiên. Tôi có cảm tưởng xác đáng rằng ông muốn biết tôi đã trông thấy những gì. Và, tôi nghĩ nhanh trong đầu, nếu ông muốn biết, thì có lý do cho rằng ông không phải là hung thủ.
“Bà tìm thấy anh ấy hả? Họ không cho tôi biết chuyện xảy ra như thế nào.”
Nếu ông nói dối, thì quả thực ông đóng kịch rất tài tình, ông nghiêng người về phía trước. Tôi cố gắng không nghiêng người tránh ra xa, nhưng khuôn mặt của ông trông kinh khiếp. Tôi có thể cảm nhận cơn giận dữ toát ra từ ông.
“Kể cho tôi bà đã trông thấy những gì. Rồi tôi có thể giúp bà.”
“Tôi không làm thế được. Tôi không thể mặc cả với ông.”
“Vậy thì tại sao tôi phải giúp bà?”
“Tại sao ông không chịu giúp?”
Thình lình ông đứng dậy, bước nhanh đến bức tường của kho chứa hàng - chỉ vài bước, nhưng tôi nao núng trước khi trấn tĩnh lại được, ông thở dài. Có lẽ ông đã quá quen với việc người ta sợ ông. Tôi thắc mắc Adam đang ở đâu với cà phê - có vẻ như anh ta đã đi hàng tiếng đồng hồ.
“Tôi là đứa con hai dòng máu, bị kết tội giết một người da trắng. Bà có nghĩ họ quan tâm đến tình tiết tôi là bạn anh ấy không? Bà có nghĩ họ tin vào những lời tôi nói không?”
Parker đang đứng trong một vùng tối của kho chứa hàng, và tôi không thể nhìn rõ nét mặt ông. Rồi ông quay lại tấm nâng hàng: “Tôi mệt mỏi rồi. Tôi sẽ cố nhớ lại. Ngày mai bà hãy hỏi tôi.”
Ông nằm xuống trên chiếc giường, kéo tấm chăn lên người, quay lưng về phía tôi.
“Ông Parker ạ, tôi xin ông suy nghĩ về chuyện này.” Tôi không chắc mình biện luận có kết quả. “Ông Parker...?”
Khi Adam quay lại, tôi đang đứng chờ bên trong cánh cửa. Anh nhìn tôi với vẻ kinh ngạc, bình cà phê bốc hơi như là một núi lửa bé tí trong không khí ẩm ướt.
Tôi bảo anh: “Ông Parker và tôi đã trao đổi tạm xong. Nhưng anh cứ để cà phê lại đây.”
Adam có vẻ không vui nhưng vẫn làm theo lời tôi, thận trọng đặt cái bình và chiếc cốc một khoảng cách xa khỏi ông.
Và có vẻ như mọi việc là thế.
***
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói