Love at first sight is often cured by a second look.

Love is sweet when it’s new, but sweeter when it’s true.

 
 
 
 
 
Tác giả: Step Penney
Thể loại: Kinh Dị
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 42
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 743 / 9
Cập nhật: 2016-06-26 12:21:01 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
aria Knox đang quan sát một hiện tượng mà lúc trước cô đã thấy nhiều lần: ảnh hưởng của em gái đối với một anh trai trẻ. Cô đã quen với điều này, kể từ lúc cô lên mười bốn và cô em mười hai, các cậu con trai đã vây quanh Susannah, và thay đổi thái độ sau khi gặp gỡ, trở nên thô lỗ, nhút nhát, lớn tiếng hoặc huênh hoang - tùy bản chất từng người. Bọn con trai phớt lờ Maria; họ không thích chơi với cái cô thô kệch và thích châm biếm này, và cũng không thích chép bài làm ở nhà của cô. Nhưng Susannah có dáng vẻ tươi tắn, và khi lớn lên thêm điều hiển nhiên là cô em đẹp hơn chị. Cô không bao giờ kiểu cách; cô tỏ ra khéo léo trong các trò chơi, nếu biết mình đẹp (dĩ nhiên là cô biết) thì cô vẫn tỏ ra khiêm tốn, thậm chí tỏ ra bực bội khi người ta chú ý đến cô vì vẻ đẹp. Vì các thành viên của một gia đình (và hẳn là của xã hội nữa) nhận lãnh vai trò cho riêng mình và rồi bị gò bó vào đó, thế nên Susannah trở thành đứa con cưng của họ: được nuông chiều nhưng cũng được chỉ dạy nhằm bảo vệ tránh chuyện thiệt thòi trong xã hội như nhà vệ sinh bị tắc hoặc việc nộp thuế.
Cùng lúc, Maria trở thành một nữ học giả thích tranh cãi, đọc rất nhiều sách từ những năm mới trưởng thành, chú tâm đến Chủ nghĩa Bành trướng, chiến tranh ở miền Nam và những đề tài thường được cho là không thích hợp với các cô gái trẻ. Trong vòng ba năm trở lại đây, cô đã tự đặt mua một số báo Canada và nước ngoài. Cô công khai ủng hộ Đảng Cải cách (nhưng ngầm thiên về Đảng Tự do[10]), ngưỡng mộ Tupper[11], và tranh luận với người cha về việc ông thích George Brown[12]. Tất cả những chuyện này hiện diện ở một thị trấn, nơi mà phụ nữ đọc một tờ báo bị xem là điều kỳ dị.
Nhưng Maria nhận ra rằng không có khác biệt nhiều về năng lực trí óc của Susannah và của chính cô. Trong khi Susannah tỏ ra giản đơn và vì thế được phép muốn làm gì thì làm tùy thích, thì có lẽ cô chị có khả năng biến mình thành một nhà trí thức. Và cô tỏ ra đủ khiêm tốn để nhìn nhận là nếu mình có ngoại hình khá hơn thì có lẽ hẳn đã biếng nhác hơn trong khi theo đuổi kiến thức. Chỉ có mấy khác biệt nhỏ như vậy mà quyết định chiều hướng của đời người.
[10] Đảng Cải cách và Đảng Tự do: hai trong số ba đảng lớn ở Canada thời bấy giờ, đảng thứ ba là Đảng Bảo thủ.
[11] Tupper: Sir Charles Tupper (1821-1915), thủ tướng thứ sáu của Canada chỉ trong hai tháng năm 1896.
[12] George Brown (1818-1880): nhà báo và chính khách người Canada, thành lập và làm tổng biên tập tờ báo nổi tiếng Globe, nghị viên liên bang Canada, thượng nghị sĩ.
Maria thường nêu lên những chủ đề trong trường đại học - cô đã hai mươi tuổi và bắt đầu nhận ra nếu không vào đại học ngay thì là điều đáng xấu hổ. Nhưng gia đình cô cho biết họ cần cô ở nhà, và chứng tỏ việc này bằng cách bắt cô tham gia vào tất cả sự việc trong nhà. Bà mẹ hỏi ý kiến cô về hầu hết mọi chuyện của gia đình, mà bà cho rằng mình không kham nổi. (Maria hỏi một cách hùng hồn: “Thế thì mẹ làm gì khi con còn nhỏ?”) Người cha cũng mang chuyện của mình ra hỏi con gái.
Đối với Susannah, cô này quàng hai cánh tay qua cổ chị và than van rằng mình không thể sống mà thiếu chị. Dĩ nhiên, có thể là Susannah thiếu can đảm để thoát ly khỏi Caulfield. Cô đã băn khoăn về điều này, nhưng cứ bận tâm mãi lại đâm ra ngã lòng, thế nên khi có nguy cơ phải suy nghĩ thì cô vớ lấy một tờ báo khác và gạt ý nghĩ sang một bên. Hơn nữa, nếu mùa thu này cô đi học đại học, cô hẳn đã không có mặt ở nhà để hỗ trợ gia đình trong thời gian thử thách này. Mẹ cô ra vẻ cứng cỏi, nhưng đôi mắt bà tỏ lộ lo lắng - ngoài mặt là về việc lo thu xếp cho hai người xa lạ ở nhờ trong nhà, nhưng trong lòng là về tên hung thủ giỏi trốn lánh trong vùng hoang vu.
Trong hai ngày, Maria đã tìm cách nói chuyện riêng với người cha để hỏi han về vụ việc, nhưng mãi đến tối nay cô mới có cơ hội. Cô tự tin là ông sẽ chia sẻ cảm nghĩ với mình, và tha thiết muốn thảo luận những giả thuyết của riêng mình. Nhưng sau khi hai nhân viên Công ty đã đi ngủ, gương mặt của ông hầu như xám hẳn đi vì mệt mỏi, tuy thường ngày vẫn không được hồng hào lắm. Đôi mắt ông lõm sâu, cánh mũi vươn cao hơn bao giờ.
Cô chỉ biết vòng hai cánh tay ôm lấy ông: “Pa-pa ạ, đừng lo, chẳng bao lâu vụ việc sẽ được xử lý xong xuôi rồi chỉ còn là hoài niệm.”
“Mamie, cha hy vọng là thế.”
Trong thâm tâm, Maria thích được gọi bằng cái tên này - một tên riêng từ thuở cô còn nhỏ mà tuyệt đối không ai khác được phép dùng.
“Họ sẽ lưu lại đây bao lâu?”
“Cha đoán cho đến khi nào họ thẩm vấn xong những người họ muốn thẩm vấn. Họ định chờ cho đến khi Francis Ross trở về.”
“Francis Ross à? Thật vậy sao?” Francis nhỏ hơn cô ba tuổi và vì thế cô vẫn nghĩ về anh ta như là một cậu bé lầm lì, đẹp trai, thích cười khúc khích về các cô gái ở trường trung học cấp ba. “À, họ không cần phải ở với chúng ta. Họ có thể đến nhà Scott. Con nghĩ Công ty họ chi trả được.”
“Cha tin chắc thế. Làm thế nào mẹ con và Susannah thích ứng với tình hình này?”
Maria ngập ngừng để suy nghĩ nghiêm túc: “Nếu không có khách thì Ma-man thích hơn.”
“À...”
“Còn Susannah thì ổn. Thay đổi nếp sống hàng ngày kể cũng hào hứng. Tuy rằng hôm nay con bắt gặp nó suýt kể cho anh Moody nghe chuyện về các chị họ của chúng con, và con gần nổi giận. Con không hiểu tại sao. Anh ấy không dính dáng gì đến chuyện này, phải không?” Ngừng một chốc, cô thêm, tuy cảm thấy xấu hổ một tí: “Con nghĩ nó muốn tạo ấn tượng đối với anh ấy. Nhưng nó không cần phải nỗ lực.”
Người cha mỉm cười: “Cha cũng nghĩ vậy. Chỉ có điều nó không có nhiều cơ hội được người ta trọng vọng.”
Maria cười: “Cha có ý gì? Theo con thấy thì nó chẳng có gì cho người ta trọng vọng.”
“Mamie à, đúng là theo một khía cạnh nó được ngưỡng mộ, nhưng không được người ta quan tâm theo cách họ quan tâm đến con, pha một ít kính sợ.”
Ông nhìn con gái. Maria mỉm cười, cảm thấy đôi má nóng bừng. Cô thích ý nghĩ mình được quan tâm pha kính sợ.
“Cha không có ý tâng bốc con.”
“Đừng lo, con không cảm thấy được tâng bốc nếu so với Thác Niagara[13] hoặc Heights of Abraham[14].”
[13] Niagara: thác hùng vĩ nằm giữa miền tây Bang New York của Mỹ và miền đông-nam tỉnh Ontario của Canada, là một phần của biên giới Mỹ-Canada, thu hút nhiều khách du lịch.
[14] Heights of Abraham: Đỉnh núi Abraham, thắng cảnh du lịch ở Matlock Bath, Derbyshire, Anh quốc, gồm những hang động và quặng mỏ cho du khách tham quan, có tuyến cáp treo.
“À, khi nào mà cha không...”
Maria nhìn người cha bước lên thang lầu - bước chân cứng nhắc, có nghĩa là các khớp của ông vẫn còn đau nhức. Quả là khổ sở khi thấy ông đã già và biết rằng các cơn đau yếu ngày một nặng thêm, cho đến lúc ông suy sụp hẳn. Maria đã có cái nhìn khá tiêu cực về cuộc đời, có lẽ vì cô có một cô em đẹp. Người đã có sức thu hút thiếu chín chắn như tự bao giờ đối với anh Moody.
Maria quan tâm đến anh không phải vì chính mình. Hoàn toàn không phải thế. Nhưng, đôi lúc kể cũng tốt nếu cô còn có cơ hội.
***
Tôi nhận ra rõ ràng rằng mình phải làm việc gì đấy. Sau khi Mackinley kiếu từ, tôi đi đi lại lại trong gian bếp cho đến khi Angus trở về, và tôi không cần phải nói cho anh biết rằng Francis vẫn chưa về nhà. Tôi nói với anh các cần câu vẫn còn ở nhà, và tôi đã giấu đi một cần. Bây giờ anh lộ vẻ bất an.
Tôi nói: “Anh phải đi tìm nó.”
“Chưa đến ba ngày. Nó không phải là đứa con nít.”
“Nó có thể bị tai nạn. Trời đang lạnh. Nó không mang theo tấm chăn nào.”
Angus suy nghĩ, rồi nói ngày mai anh sẽ đi Hồ Swallow. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm và ôm lấy anh, nhưng anh chỉ đáp lại bằng thái độ xơ cứng và không khoan nhượng. Anh chỉ chờ cho tôi buông anh ra, rồi quay đi như thể không có chuyện gì xảy ra.
Cuộc hôn nhân của chúng tôi vẫn tốt lành khi nào mà tôi không nghĩ về vấn đề ấy. Bây giờ thì tôi không rõ, tôi càng quan ngại về người khác thì họ lại càng không thích. Khi chỉ nghĩ đến mình thì tôi chỉ việc búng ngón tay, thế là các ông sẵn lòng làm theo bất kỳ việc gì tôi muốn. Rồi tôi cố trở thành người tốt hơn và hãy nhìn kết quả: chồng tôi quay người đi và không muốn nhìn vào mặt tôi. Hoặc có lẽ không có vấn đề gì, mà chỉ là do tuổi tác - khi người phụ nữ già đi thì mất sức thu hút và thuyết phục, thế nên họ không làm gì được.
Tôi nói: “Em đi với anh.”
“Đừng có ngốc.”
“Em không chịu nổi khi chờ đợi. Nếu có chuyện gì... xảy ra thì sao?”
Angus thở dài, hai bờ vai chùng xuống trông như ông cụ già. “Rhu[15] ơi...” Anh thì thào ngôn từ âu yếm ngày xưa, khiến cho tôi khẽ rung động. “Anh tin nó sẽ ổn thôi. Nó sẽ sớm trở về.”
[15] Rhu: tên thân mật của Bà Ross.
Tôi gật đầu, cảm thấy xúc động vì ngôn từ có tình cảm. Thật ra, tôi bám víu lấy ngôn từ này như là sợi dây cứu hộ - dù rằng khi nghĩ lại, nếu tôi thật sự vẫn là người anh yêu mến, tại sao anh không nhìn đến tôi khi chuyện trò?
Khi ánh sáng lịm tắt, tôi cất bước đi dạo, hai túi của chiếc váy phồng lên. Ít nhất tôi nói với Angus như thế; không thể nào biết được anh tin tôi hay không. Vào giờ này trong ngày, mọi người ở Sông Dove đều ngồi dùng bữa, theo đúng giờ giấc như một đàn bò, thế nên không ai đi ra khỏi nhà. Không ai ngoại trừ tôi.
Cả ngày tôi đã nghĩ về việc này, rồi quyết định rằng buổi tối là thời gian thích hợp nhất. Tôi có thể đợi đến hừng đông, nhưng không muốn chần chừ thêm nữa. Nước sông chảy cuồn cuộn và dâng cao - đã có mưa ở phía bắc. Nhưng tảng đá nơi Doc Wade giã biệt cuộc đời vẫn khô - chỉ có cơn lũ mùa xuân mới làm ngập.
Nhưng dù vậy, có một dấu chân trên đấy. Một dấu sẫm màu và ướt. Ngay cả trong bóng tối nhá nhem tôi vẫn trông thấy được. Có lẽ cuối cùng thì Knox đã sắp xếp người canh gác - nhưng người này đã cảm thấy buồn chán và đi chèo thuyền. Thoạt đầu tôi không tin thế, nên tôi đi nhè nhẹ xuống dọc ngôi nhà gỗ để khuất dạng mà tránh khung cửa trước. Khung cảnh hoàn toàn im ắng. Có lẽ tôi chỉ tưởng tượng - tôi không còn trông thấy hòn đá. Tôi đã mang theo một con dao trong túi, mà bây giờ tôi cầm trên tay, nắm chặt hơn mức cần thiết. Tôi thực sự không nghĩ hung thủ sẽ quay trở lại - để làm gì? - nhưng tôi vẫn len lén đi tới, một tay vịn trên tường ngôi nhà, cho đến lúc tôi có thể nghe được âm thanh từ bên trong vọng ra qua khung cửa sổ. Tôi đứng đấy hồi lâu đến mức hai chân tê dại hẳn đi, và tôi không nghe tiếng động nào dù là tiếng muỗi kêu. Tôi bước đến cánh cửa lúc ấy vẫn còn đóng kín nhờ được cột dây kẽm, lấy ra cây kềm và cậy cái chốt. Bên trong tối lờ mờ nhưng tôi vẫn khép cánh cửa lại để phòng xa.
Ngôi nhà gỗ vẫn y nguyên theo những gì tôi còn nhớ, ngoại trừ là chiếc giường bây giờ trống trơn, vẫn còn có mùi khó chịu bốc lên từ tấm thảm và các tấm chăn đang được cuộn sát bức tường. Tôi thắc mắc ai sẽ giặt các tấm chăn này - hoặc chỉ việc mang đi đốt? Bà mẹ già của anh hẳn không muốn nhận các món này.
Tôi đi lên tầng trên. Có vẻ như Jammet ít khi lên đây - có những hộp và thùng chất lên nhau dựa chân tường, mọi thứ đều phủ bụi, cho thấy dấu chân những người đi lên ngày hôm qua, chân của họ chà xát những khoảnh nhỏ khi họ dừng lại và xem xét cái gì đấy. Tôi đặt cái đèn xuống và bắt đầu lục lọi trong chiếc hộp gần nhất chứa những bộ quần áo tốt nhất của anh - một áo choàng đen kiểu cổ và quần dài, mà tôi có thể nói quá nhỏ đối với anh. Liệu quần áo này là của anh khi còn nhỏ, hoặc của cha anh? Tôi lục lọi qua các thùng khác: có thêm quần áo, vài giấy tờ từ Công ty Vịnh Hudson, chủ yếu liên quan đến chế độ nghỉ hưu sau “một tai nạn xảy ra trong khi thi hành nhiệm vụ”.
Vài món hé lộ cuộc đời của Jammet trước khi anh đến Sông Dove. Tôi cố không nghĩ nhiều đến vài món: ví dụ một cánh hoa bằng lụa ép, đã phai màu theo thời gian - biểu tượng cho tình yêu của một phụ nữ, hoặc biểu tượng anh định trao nhưng đã không trao? Tôi thắc mắc về người phụ nữ vô hình trong cuộc đời của anh. Và đây là một vật hiếm hoi - một tấm ảnh cho thấy Jammet lúc còn là trai trẻ, miệng nở nụ cười khiến người ta dễ cười theo. Cùng hiện diện trong tấm ảnh là vài người đàn ông mà tôi đoán là nhân viên tải hàng, tất cả đều mang khăn quàng cổ, mặc áo choàng có mũ trùm đầu, mắt hấp háy trong tia nắng, đứng xúm xít quanh một núi những thùng và ca nô, nhưng chỉ có anh là giữ nụ cười được lâu đến thế. Vào dịp nào đáng giá đến mức cần chụp ảnh? Có lẽ họ vừa phá một kỷ lục cho một chuyến tải hàng gian khổ. Người đi buôn lấy làm hãnh diện đối với mấy việc như thế.
Sau khi đã xem xét qua các chiếc hộp, tôi đẩy chúng ra xa khỏi chân tường. Tôi không chắc mình có thể tìm được gì ở đây, vì chỉ có bụi bặm và phân chuột, thêm những mảnh vỏ khô của ong vò vẽ.
Tôi bước xuống tầng dưới mà cảm thấy chán nản. Tôi không biết mình đi tìm cái gì, mà chỉ là cái gì đấy nhằm xác định Francis không có dính dáng trong vụ này, mà dĩ nhiên là tôi đã biết như thế. Tôi không thể mường tượng ra điều gì khác.
Tôi nhận ra rằng mình đang thở dốc khi xem qua các món thực phẩm của anh. Mùi thực phẩm lan tỏa cả ngôi nhà, còn tệ hại hơn là khi anh còn sống ở đây. Để tìm hiểu cặn kẽ hầu không bị dằn vặt trong đêm và phải trở về, tôi chọc bàn tay vào các hũ ngũ cốc và bột, và đấy là khi tôi tìm ra nó. Trong hũ bột, tay tôi chạm phải cái gì đấy khiến cho tôi giật tay lại và thốt lên một tiếng trước khi tôi dừng lại được, ném bột tứ tung khắp nơi. Đấy là một mẩu giấy được xé ra từ một miếng giấy to hơn, có những con số và chữ cái: “61HBKW”. Không có gì khác. Tôi không thể mường tượng ra thứ gì vô dụng hơn. Tại sao phải giấu một mẩu giấy trong một hũ bột nếu nó có hàng chữ vô nghĩa? Tôi đặt mẩu giấy vào trong túi mình rồi mới nghĩ ra rằng có thể nó rơi vào hũ bột do tình cờ. Nếu đúng thế, nó cũng có thể rơi vào bột ở bất kỳ nơi nào khác; ví dụ như trong kho chứa hàng của Scott. Dù cho nếu Jammet cố tình cất giấu, thì nó khó có thể giúp tôi xác định kẻ đã giết anh.
Cho đến lúc này tôi đã tránh khu vực chung quanh chiếc giường, và không muốn đặt tay lên. Đáng lẽ tôi nên mang găng tay, nhưng đấy là một món mà tôi đã không nghĩ ra. Tôi nhìn vào bên trong lò sưởi khi suy nghĩ về chuyện này. Thế rồi có cái gì đấy xảy ra khiến cho tôi gần ngất đi vì bị sốc: có tiếng gõ cửa.
Trong vài giây đồng hồ tôi hoàn toàn bất động, nhưng giả vờ mình không hiện diện ở đây là điều ngu xuẩn, với ánh sáng ngọn đèn bão đang chiếu qua cửa sổ mờ đục. Trong vài giây đồng hồ kế tiếp tôi cố nghĩ ra lý do chính đáng cho việc mình đang ở đây, nhưng vẫn chưa nghĩ được thì cánh cửa mở ra, và tôi đối diện với một người đàn ông mình chưa gặp trước đây bao giờ.
***
Ít lâu sau tuổi trưởng thành, Donald phải nhìn nhận rằng mình khó nhìn rõ ở khoảng cách xa. Bất kỳ thứ gì xa khỏi tầm tay anh đều mờ nhòe; anh không thể thấy vật nhỏ, còn người thì trở nên vô danh. Anh không còn nhận ra bạn bè hoặc thậm chí người trong gia đình mình, và anh thôi ra dấu cho người ở khoảng cách xa vì không biết họ là ai. Anh kể cho bà mẹ về chuyện phiền toái này và được cấp một cặp kính gọng kẽm mang thiếu thoải mái. Đấy là phép lạ đầu tiên trong đời anh - cách thức mà cặp kính mang anh trở lại vào thế giới.
Phép lạ thứ hai diễn ra vào một buổi tối chẳng bao lâu sau đó. Đấy là tháng Mười một, vào một đêm trời trong khác thường, và anh đang trên đường đi bộ từ trường về nhà. Anh nhìn lên và đứng sững lại trong nỗi kinh ngạc, vầng trăng tròn treo thấp vành vạnh trước mắt anh, đổ bóng người anh dài trên mặt đường. Nhưng điều khiến cho anh há hốc miệng là vầng trăng trông thật sắc nét. Anh đã ngỡ (mà không nghĩ ngợi gì nhiều) rằng đối với mọi người thì vầng trăng phải là một đĩa tròn mờ đục. Nhưng ở đây nó rất sắc nét, hiện rõ mọi chi tiết - bề mặt nhăn nheo, lỗ chỗ, những bình nguyên sáng sủa và những hố sâu tăm tối. Tầm nhìn mới của anh không chỉ vươn đến phía bên kia đường, mà còn lan xa vô số dặm trong không gian. Ngừng thở, anh tháo cặp kính ra - vầng trăng trông mềm mại hơn, lớn hơn, có phần ở gần hơn. Khung cảnh chung quanh thu gần lại, thân mật hơn nhưng cũng có vẻ đe dọa hơn. Anh lại mang vào cặp kính, và khung cảnh đằng xa lại hiện lên rõ mồn một.
Đêm ấy, anh đi về nhà với nỗi sướng thỏa vô bờ. Anh cất tiếng cười vang khiến cho những người đi đường phải ngạc nhiên. Anh muốn hét với họ và nói cho họ biết khám phá của mình. Anh biết điều này không có ý nghĩ gì với họ, vốn đã có thị lực tốt từ lâu. Nhưng anh thấy tiếc cho họ, vì đã không biết đánh giá cao một món quà quý giá như thị lực đã được phục hồi sau khi bị tổn hại.
Từ lúc ấy, đã bao lần anh lấy lại niềm vui sướng tuyệt vời như thế? Sự thực là không có lần nào cả.
Donald nằm trên chiếc giường hẹp, thiếu thoải mái mà nhìn lên vầng trăng phía trên Caulfield. Anh tháo cặp kính ra rồi đặt lại trên mắt, để sống lại cảm giác xuất thần của sự khám phá. Anh nhớ chắc chắn mình đã nhìn thoáng qua cái gì đấy báo hiệu điềm gở, tuy không biết ý nghĩa là gì. Giờ đây, dường như nó không có ý nghĩa gì nhiều. Nhưng anh đã quen với việc nhìn sự vật từ khoảng cách xa, hầu nhìn được rõ nét. Có lẽ vì vậy mà anh hướng tới công việc với các con số, bị thu hút bởi tính giản, đơn thầm lặng của các con số này. Con số lúc nào vẫn chỉ là con số. Nếu các sự vật được quy về con số thì chúng có thể được sắp xếp có thứ tự và được cân đối. Hãy xem xét cộng đồng những gia đình người bản địa sống bên kia vực núi của Pháo đài Edgar và luôn gây đau đầu cho các nhà quản trị. Số người làm nghề tải hàng tăng nhanh chóng, càng lúc càng tạo thêm miệng ăn mà Công ty phải lo nuôi nấng. Đã có nhiều lời than phiền về lượng thực phẩm và dịch vụ y tế cung ứng cho họ, thế nên Donald phải lo xem xét những công việc mà phụ nữ làm được cho Pháo đài. Anh liệt kê mấy công việc giặt giũ, trồng rau, thuộc da, làm giày đi trên tuyết... và định tiền công cho mỗi việc, để chứng tỏ là Công ty đang hưởng lợi từ người bản địa ngang bằng người bản địa hưởng lợi từ Công ty. Anh lấy làm tự hào về thành tựu này, càng vui hơn khi có cơ hội làm quen với vợ và các con của Jacob - hai đứa con gái cứ nhìn chăm chăm người bạn da trắng của cha với đôi mắt nâu mở to. Những đứa trẻ này - với ánh mắt tin tưởng và những cái tên khó hiểu - được so sánh đối chiếu với các loại lông thú mà Công ty buôn bán, dù nói thật ra, ai cũng biết bên nào quan trọng hơn.
Khi lần đầu tiên đến Pháo đài Edgar, anh được người thủ kho tên Bell dẫn đi một vòng quanh thương điếm. Donald nhìn thấy những văn phòng, khu cư xá đông đúc, quầy giao dịch, ngôi làng người Da Đỏ bên kia vực núi (cách xa một khoảng thích hợp), nhà thờ xây bằng gỗ súc, nghĩa trang... và cuối cùng là phòng trữ lạnh khổng lồ nơi các tấm lông thú được chất lên nhau, sẵn sàng cho chuyến đi hào hùng đến London để Công ty thu tiền. Bell lén lút nhìn qua lại rồi mở một bành lông thú ra, và từng tấm da sống bóng loáng tuôn xuống nền nhà dơ bẩn.
Anh nói trong ngữ âm miền Edinburgh[16]: “Này, đây là những gì cốt yếu. Bao nhiêu đây sẽ có giá vài đồngguinea[17] ở London. Xem nào...” Anh lấy tay xoa một tấm da. “Đây là loài chồn marten[18]. Anh có thể thấy tại sao chúng ta không muốn họ bắn con thú - bẫy chỉ để lại một vết khó nhận ra, xem đây!”
[16] Edinburgh: thủ đô của nước Scotland.
[17] Guinea: đồng tiền vàng vào thời này, có giá trị hơn 1 bảng Anh chút ít.
[18] Chồn marten: tên chỉ chung một số loài chồn nhỏ thuộc chi Martes, có thân thuôn dài, chân ngắn, bộ lông rất được ưa chuộng.
Anh nắm chân của cái xác con vật vẫy vẫy về phía Donald. Cái đầu con vật vẫn còn dính vào tấm da - mặt nhỏ, nhọn với đôi mắt nhắm nghiền, như thể nó không muốn nhớ chuyện gì đã xảy ra cho nó.
Bell đặt cái xác xuống và chọc tay vào các tấm lông, nhanh chóng lôi ra từng tấm cho Donald xem như động tác của một nhà ảo thuật: “Các loại này ít giá trị hơn, của hải ly, chó sói, gấu; tuy có phần hữu dụng - để gói bên ngoài các loại lông khác. Hãy sờ xem lông nhám như thế nào...”
Tấm da sống bóng loáng gợn sóng trên tay Bell, các cẳng chân được gấp lại phía dưới tấm da. Donald nhận lấy tấm da và ngạc nhiên vì cảm giác trên bàn tay. Trước đó, anh đã cảm thấy ghê tởm về nhà kho chứa mấy xác chết thú rừng, nhưng khi lùa bàn tay vào giữa các lớp lông mát dịu, anh có cảm giác muốn đưa lên môi. Dĩ nhiên là anh kiềm chế, nhưng hiểu ra tại sao phụ nữ muốn có vật như thế quấn quanh cổ, và rồi chỉ khẽ nghiêng đầu là lớp lông quét trên gò má.
Bell vẫn cất tiếng giảng giải, hầu như là độc thoại: “Nhưng sản phẩm quý nhất... à, đây là chồn bạc - thứ này có giá cao như vàng.” Đôi mắt anh sáng rỡ trong ánh sáng tù mù.
Donald đưa tay muốn nắm lấy, và Bell gần như ngần ngại. Lớp lông có màu xám, trắng và đen, xen kẽ với nhau thành một lớp óng ánh như bạc, dày và mềm mại, trông như dòng nước chảy. Donald rút tay lại, trong khi Bell có vẻ như không muốn buông ra.
“Chỉ có một thứ quý hơn là chồn đen - cũng sống xa về miền bắc, nhưng rất hiếm. Bộ lông này có giá đến một trăm guinea ở London.”
Donald lắc đầu tỏ vẻ ngạc nhiên. Trong khi Bell bắt đầu đặt các tấm da vào cái khuôn gỗ rồi nhẹ nhàng đặt tấm da cáo trắng ở giữa, Donald cảm thấy ngượng nghịu như thể mình đang tham gia trò giải trí bí mật cho dù Bell cố giấu giếm.
Donald cố hướng tâm trí trở về thực tại. Anh muốn suy nghĩ về cuộc trao đổi với Jacob, để tổng kết các dữ kiện trước khi đi đến một giải pháp thông minh hầu giúp mọi việc được thông suốt, nhưng anh không có đủ dữ kiện. Một người đàn ông bị giết nhưng không ai biết tại sao, lại càng không biết ai là hung thủ. Nếu họ có thể dò xét cuộc đời của Jammet từ lúc lìa trần ngược về quá khứ, nếu có thể biết được mọi chi tiết về anh ấy, thì liệu họ sẽ phăng ra được sự thật không? Anh thấy đó là ý nghĩ vẩn vơ; anh không thể hình dung Công ty chịu bỏ ra nhiều ngày công và thời giờ để tìm ra. Nhất là đối với một nhà buôn hành nghề tự do.
Tâm trí anh lại hướng tới Susannah. Anh đã ngồi với cô ở tiền sảnh trong nhiều phút mà không có khoảng thời gian im lặng ngượng ngập; và có vẻ như cô thấy thú vị đối với anh, cô muốn kể với anh nhiều chuyện và muốn nghe anh chuyện trò. Anh đã quá lo âu nên không cảm thấy thoải mái, nhưng ở đây có điều gì đó gần như là hạnh phúc, dần hé lộ như chồi non sau mùa đông Canada. Anh gấp lại cặp kính, và vì không có bàn ngủ nên phải đặt nó lên sàn nhà kề bên mình, hy vọng sáng mai khi thức dậy sẽ không dẫm lên nó.
Sự Hiền Hòa Của Sói Sự Hiền Hòa Của Sói - Step Penney Sự Hiền Hòa Của Sói