TV. If kids are entertained by two letters, imagine the fun they'll have with twenty-six. Open your child's imagination. Open a book.

Author Unknown

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Drifters
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Vũ Phương Vân
Số chương: 7
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1007 / 119
Cập nhật: 2018-09-19 19:36:32 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6: Gretchen
appho[54] là một người đàn bà Hy Lạp đa cảm.
Đó sẽ là một ngày đáng buồn trong lịch sử luật pháp Mỹ, khi tòa án của chúng ta từ chối bênh vực người không tắm rửa, không đi giày, không chải đầu, không ăn mặc gọn gàng và không tuân thủ phép tắc.
Frodo chưa chết. Anh ta đang ẩn mình ở Chicago chờ ngày Thị trưởng Daley[55] rút lui.
Tôi đã phải nghe hàng chục gia đình phàn nàn về sự dửng dưng của con cái và cầu mong chúng tỏ ra quan tâm đến điều gì đó. Nhưng ngay khi bọn trẻ cho thấy bất kỳ dấu hiệu quan tâm nào đối với các phong trào chính trị thì các bậc cha mẹ lại giật mình và kết tội chúng là cấp tiến. Điều những người làm cha làm mẹ đó thực sự mong muốn là con cái họ sẽ quan tâm đến những thứ họ đã quan tâm ba mươi năm trước.
Hãy thuê người tật nguyền. Thật vui khi quan sát họ làm việc.
Nỗi luyến tiếc quá khứ đâu còn như xưa nữa.
Không câu nói nào của giới trẻ mang tính cách mạng hơn khẩu hiệu kỳ quặc “Hãy hạ gục họ bằng siêu tình yêu.” Nếu câu này trở thành cách xử thế phổ biến thì nó có thể làm suy sụp cái xã hội được thiết lập như hiện nay. Nếu một cảnh sát trưởng miền Nam cho chó nghiệp vụ săn đuổi một nhóm người da đen, và những người này hát bài dân ca tôn giáo về sự tha thứ và cầu nguyện cho ông ta với sự yêu mến rõ rệt thì họ sẽ thực hiện được phép màu đấy. Nếu một nữ sinh viên có thể chấp nhận bị đánh đập bằng dùi cui và sau đó có thể hôn tay những kẻ hành hung mình và trao cho họ tình yêu thương thì việc đó sẽ đảo lộn hết chương trình của họ. Đức Chúa Jesus đã nghĩ ra cách xử thế này hơn hai nghìn năm trước, và nhờ nó người đã góp phần làm lụn bại cả Đế chế La Mã.
Người nghị hòa gần đây nhất từ phía Hà Nội vừa bị bắt tại Central Park.
Thanh niên một quốc gia là những người được ủy thác trông nom thế hệ sau.
• Disraeli
Tôi yêu nước Mỹ nhất khi tôi bị kẹt trong những vấn đề chính trị của nó... trong những cuộc đấu đá bẩn thỉu mà nhờ đó các tổ chức xã hội giành chiến thắng tìm cách đoạt lấy phần quyền lợi không xứng đáng của họ. Tôi thích chứng kiến tín đồ đạo Thiên Chúa chiến đấu giành cho trường học của họ thêm chút tiền, người Do Thái đấu tranh cải thiện mối quan hệ giữa Washington và Jerusalem, các công ty dầu lửa tìm cách thoát khỏi sự kiểm soát của chính phủ, và người phát triển một loại thuốc mới dùng mọi thủ đoạn để thoát khỏi con mắt của thanh tra y tế. Với tôi, một thành phố như Newark, nơi người theo đạo Tin lành kỳ cựu phải nhượng bộ người Ý mới, vốn là những người sẽ không chịu nhường một phần nào cho người da đen mới, còn hấp dẫn hơn chiến trường Troy, vì theo quan niệm của tôi đó là trận chiến thực sự trong thời đại tôi đang sống. Đó chính là lý do khiến tôi thích thú theo dõi Hội nghị Đảng Dân chủ ở Chicago[56] đến thế. Bạn chỉ việc ngồi dán mắt vào màn hình vô tuyến xem lũ khủng long phương Tây nặng nề lê bước về ngọn núi lửa diệt vong mà không hề nhận thức được chút gì về cuộc hành quân ấy. Nó còn khiến tôi hồi hộp phấn chấn hơn cả sự diệt vong của Dòng họ Atreus[57], vì tự sát tập thể không thể không làm người ta xúc động, như người Nhật đã biết từ xa xưa.
Mụ bèn rút phắt con dao nhỏ,
Và đâm chết em bé dễ thương.
Khi đi đến nhà thờ mụ thấy
Trên bậc cửa, một em bé dễ thương.
“Ôi bé yêu, con là của ta,
Ta sẽ bọc con trong lụa là đẹp đẽ.”
“Ôi mẹ yêu, khi con là của mẹ,
Mẹ đã không tử tế với con.”
• Child 20
Mỗi ngày bên họ lại có thêm người chết, bên ta lại thêm trẻ ra đời.
Cuối năm 1967, trụ sở chính ở Geneva cử tôi tới Boston nghiên cứu khả năng bỏ vốn cho một khu chung cư tương đối lớn dự định đặt ở vùng Fenway Park, và trong quá trình thảo luận, hàng ngày tôi được tiếp xúc với một nhà tư bản tài chính nổi tiếng người Boston, ông Frederick Cole. Tôi thấy ông là người xa cách nhưng có năng lực; hầu như trong mọi cuộc đàm phán ông luôn phản bác tôi, đánh giá mọi việc trái ngược với tôi, và cũng hiếm khi tôi gặp một người mà mỗi lần trình bày dữ kiện bổ sung tôi đều có thể yên tâm là ông sẽ kiểm tra một cách khách quan và sẽ thay đổi quan điểm trước của mình nếu cần. Đây là một khả năng khác thường, vì khi khăng khăng giữ lập trường của mình, hầu hết chúng ta đều dùng dữ liệu bổ sung chỉ đơn thuần như những phần thêm thắt củng cố cho lý lẽ của mình. Ông Cole thì biết lẽ phải.
Sau một buổi làm việc khó khăn, khi sự định giá của hai chúng tôi chênh lệch nhau tới hơn tám triệu đô la và ông lạnh lùng bảo vệ con số của mình, tôi phải tìm cách kết thúc phần tranh luận đó một cách êm thấm, vì vậy tôi nói, “Một người Ailen tên là Frederick thì kể cũng lạ.” Ông bật cười nói, “Không phải người Ailen, người Đức. Khi cụ cố tôi chuyển tới đây sau Cách mạng 1848, họ của cụ là Kohl, nhưng cụ e dân Boston có thể tưởng cụ là người Do Thái, vì vậy cụ đổi thành Cole, và thế là mọi người lại cho cụ là người Ailen, vốn thời ấy còn tệ hơn nhiều.” Tôi phá lên cười, và với thái độ lạnh lùng thường lệ, ông hỏi tôi liệu có vui lòng dùng bữa với ông tối hôm ấy không, và cuộc hẹn đột xuất đã được thu xếp.
Tôi đoán ông định đưa chúng tôi ghé vào một nhà hàng nào đó nhưng ông lại có kế hoạch khác. Ông gọi điện cho vợ thông báo ông mời tôi về nhà và chúng tôi sẽ ăn bất cứ món gì có sẵn. Chúng tôi bắt taxi, ra đại lộ Huntington rồi đến khu vực sang trọng hơn của Brookline, tại đây chúng tôi rẽ vào một gara nằm giữa đám cây cối và lùm bụi được chăm sóc cẩn thận. Trong thế kỷ trước, ngôi nhà có ván che màu trắng này thuộc sở hữu của một giáo sư Harvard nổi tiếng và đã được truyền từ đời này sang đời khác đến tay bà Cole, người hiển nhiên thuộc dòng dõi danh giá.
Ba chúng tôi vừa ngồi xuống bàn thưởng thức bữa ăn đơn giản gồm thịt bò nấu khoai tây, điểm chút hương vị New England với táo dại ướp gia vị và bánh mì phết mứt mộc qua, thì cô con gái của ông bà Cole, hiện đang học ở trường Radcliffe gần đó, bất ngờ đến nhập hội. Cô cao lớn, rám nắng, mái tóc nâu dài tết thành hai bím. Bộ váy áo bằng vải tuýt của cô là thứ vẫn được chúng tôi gọi là “món đồ xa xỉ kiểu nhà quê” và cách cư xử của cô toát lên vẻ quý phái theo cái nghĩa tốt đẹp nhất mà dân Boston dùng cho từ này. Cô tỏ ra vô cùng nhanh nhạy trong việc đánh giá tình hình và không cần ai nói cũng hiểu ngay tại sao tôi có mặt ở đó. Vì vậy, tôi không lấy làm lạ khi cha cô khoe lúc cô vào rửa tay, “Cháu Gretchen mới mười chín tuổi thôi mà đã tốt nghiệp đại học Radcliffe loại xuất sắc. Đến tháng Giêng này, cháu sẽ vào trường cao học.”
“Ấy là,” mẹ cô nói, “nếu chúng tôi có thể làm cho cháu dứt khỏi cái trò vô nghĩa của Thượng Nghị sĩ McCarthy.”
Lúc này Gretchen đã quay lại và chúng tôi được thưởng thức một bữa ăn thú vị với những trận cười sảng khoái khi cô kể về sự thiếu trình độ của phần lớn thanh niên trong tổng hành dinh của McCarthy. “Họ thực sự cho rằng hoạt động chính trị hoặc là năm 1810 với các cuộc diễu hành đuốc hoặc là năm 2010 với những trí tuệ siêu phàm đi đến những quyết định siêu phàm. Họ không có khái niệm gì về tình trạng bẩn thỉu của năm 1967, và biết rất ít về nó.”
Nhưng trong đêm đầu tiên tới thăm gia đình Cole, hoạt động chính trị không phải thứ khiến tôi ghi nhớ sâu sắc đến vậy. Sau bữa tối, Gretchen định đến dự một cuộc mít tinh ở trường Harvard - cô bắt buộc phải có mặt ở đó vì là đồng chủ tọa - thì cha cô bảo, “Gretchen, trông con có vẻ mệt mỏi. Sao con không nghỉ ngơi khoảng nửa tiếng và hát cho chúng ta nghe?” Có vẻ như cô đã được thừa hưởng sự hiểu biết từ cha mình, vì cô dừng lại, cân nhắc lời đề nghị một lúc, gật mạnh đầu, và nói, “Ý kiến hay tuyệt. Con đã làm việc cả ngày rồi.”
Cô ném áo khoác sang một bên, đến bên tủ và quay lại với một cây đàn guitar khá to, cây đàn mà khi mới nhìn, tôi cảm thấy nó có vẻ hơi quá lớn so với cô. Tuy nhiên, cô đã ngồi xuống một chiếc ghế đẩu thấp, hất đầu để đôi bím tóc màu nâu khỏi vướng và khẽ nói, “Child 243”. Tôi định hỏi tên bài hát có nghĩa gì thì cô đã bập bùng hai tiếng và bắt đầu chơi một giai điệu êm dịu, sau đó, bằng một giọng rất hay và trong trẻo, cô hát câu chuyện cổ về người phụ nữ lấy một anh thợ mộc đóng thuyền sau khi biết chắc chồng chưa cưới đã chết ở phương xa. Bốn năm sau, khi cô và anh thợ mộc đã có ba con thì người yêu cô trở về:
“Con vua ta có dễ dàng,
Yêu ta say đắm, vui lòng lấy ta;
Lòng ta chỉ nhớ tới nàng,
Bạc vàng, châu báu chẳng màng đến chi.”
“Vì chồng em là chàng thợ mộc,
Thợ đóng tàu trẻ chính là chồng em.
Và bé trai nhỏ xinh đã ra đời,
Nếu không, chàng hỡi, em nguyện theo chàng.”
Người đàn bà bỏ chồng, trốn đi với mối tình đầu để rồi phát hiện ra anh ta không còn là người nữa mà đã trở thành quỷ. Tiếng hát của Gretchen trở nên mong manh và đầy dự cảm khi đến đoạn kết:
“Cột buồm chính, tay hắn bẻ gãy,
Cột buồm trước, đầu gối hắn đè,
Và bóp vỡ chiếc tàu thành hai mảnh,
Hắn nhấn chìm nó xuống biển khơi.”
“Tên bài này là gì?” tôi hỏi.
“Child 243,” cô đáp, rồi bật cười. “Đó là tên chúng cháu thường dùng. Thực ra, đây là khúc ‘Người tình Yêu quái’. Còn Child số bao nhiêu là do một người bạn thời xưa của gia đình cháu đặt.”
Bà Cole giải thích rằng suốt những năm cuối thế kỷ trước, trong một ngôi nhà cách chỗ chúng tôi đang ngồi không xa lắm, một giáo sư Harvard nổi tiếng, ông Francis James Child, sưu tầm những khúc ballad cổ bấy giờ đang dần bị quên lãng. Ông dành gần năm mươi năm cho nhiệm vụ này, tập hợp mọi dị bản được biết đến của từng khúc ballad. Trước khi mất không lâu, ông xuất bản công trình sưu tầm của mình thành mười tập lớn ghi lại lịch sử ra đời và tồn tại của 305 khúc ballad cổ điển.
“Điều thú vị,” bà Cole nói tiếp, “là cứ đến mùa xuân, giáo sư Child đáng kính thường lại rời Boston lang thang khắp nước Anh và Scotland tìm kiếm những khúc ballad quý giá của mình. Ông đã thực sự tiêu hết của cải và sức lực vào việc đó. Nhưng cùng khoảng thời gian ấy, một học giả người Anh cũng dành tiền bạc và những kỳ nghỉ của mình lang thang quanh vùng núi Kentucky và Tennessee, sưu tầm chính những khúc ballad kia. Bởi vì, như ông biết đấy, những người Anh đầu tiên đến định cư ẩn náu trong vùng núi phương Nam của chúng ta đã mang theo các khúc ballad ấy. Thường thì dân miền núi Kentucky giữ gìn chúng dưới dạng gần với nguyên bản hơn chính người Anh.”
“Bà Cole nhà tôi hiểu khá rõ vấn đề này,” chồng bà giải thích, “vì giáo sư Child đã dạy mẹ vợ tôi hát khá nhiều khúc ballad. Chính tại phòng này, Gretchen học những bài đó từ bà ngoại, vì vậy giọng cháu khá trong sáng.”
“Tôi xem một quyển được không?” tôi hỏi.
“Thật không may, hiện nay chúng có giá trị khá lớn,” ông Cole đáp, “và gia đình chúng tôi chưa bao giờ được sở hữu một bộ. Gretchen phải đến thư viện mới xem được. Con gái yêu, hát cho chúng ta nghe khúc 173 đi.”
Tôi không đủ hiểu biết về ballad để có thể nói được khúc nào là vua. Sau này tôi còn được nghe Gretchen và bạn bè cô hát nhiều khúc ca hùng dũng về các hiệp sĩ dũng cảm và các thuyền trưởng gan dạ, một vài khúc trong số đó rất hấp dẫn; nhưng tôi khá chắc chắn đâu là khúc ballad nữ hoàng. Nó phải là Child 173. Ngay từ phút giây đầu tiên Gretchen gảy một loạt hợp âm báo điềm chẳng lành trên chiếc guitar, tôi đã bị quyến rũ bởi câu chuyện về Mary Hamilton, cô thôn nữ tới Edinburgh để trở thành một trong số bốn cô gái cùng tên Mary làm người hầu cho Mary, nữ hoàng Scotland. Không may, chồng nữ hoàng đem lòng yêu thương nàng và làm nàng mang thai. Bi kịch bắt đầu với một trong những khổ thơ đơn xuất sắc nhất của nền thi ca dân gian Anh:
Lời đồn bay đến bếp xa,
Lời đồn bay khắp hoàng gia,
Lời đồn lên tới tai nữ hoàng,
Và chuyện bẽ bàng nhất lại là,
Nàng Mary Hamilton đã sinh một đứa con,
Cho đức vua Stewart anh minh.
Sau này, khi nghiên cứu khúc ballad tuyệt vời ấy, tôi đi đến kết luận rằng sự tiến triển của ba dòng đầu, cách miêu tả tin đồn loang khắp hoàng cung - bay đến, bay khắp, lên tới - là thơ ca dân gian ở đỉnh cao nhất. Toàn bộ sự đau khổ của khúc ballad được báo trước trong những câu ca dồn dập không kịp thở đó, và lần đầu tiên tôi nghe Gretchen Cole hát những câu đó, cô đã truyền cho chúng một ý nghĩa lịch sử tuyệt vời. Mary Hamilton là cô gái có thật, bị rơi vào một vụ tai tiếng vô phương chối cãi; đây là sự khởi đầu chỉ có thể kết thúc trên đoạn đầu đài, và những tình huống hấp dẫn như vậy là chất liệu của thơ ca.
Đến đoạn cuối, cũng hay một cách u sầu không kém gì đoạn đầu, Gretchen hát với sự trầm lắng và đau buồn học từ bà ngoại, học trò của ông giáo sư; tôi chưa bao giờ nghe đoạn kết một khúc hát dân gian nào mang đến cho tôi cảm giác hoàn toàn thỏa mãn như khúc này, có lẽ vì mỗi khi lắng nghe tôi lại nhớ đến không khí im lặng luôn tràn ngập căn phòng khi Gretchen Cole hát những lời cuối:
Tối qua nữ hoàng có bốn Mary,
Đêm nay, bà chỉ còn ba;
Trước đó có Mary Beaton, Mary Seaton,
Và Mary Carmichael, và ta.
Hai dòng đầu là bản chất của bi kịch, được miêu tả sơ sài; hai dòng cuối, với chuỗi tên thật rất ấn tượng của các cô gái, mang bi kịch trở về thực tế và nhắc chúng ta nhớ rằng một cô gái có thật sắp bị treo cổ.
Bởi vậy tôi giật mình khi bà Cole nói với tôi, “Lần nào hát khúc 173, mẹ cũng sẽ kể cho bọn trẻ chúng tôi nghe câu chuyện thực sự về Mary Hamilton, như giáo sư Child đã kể cho bà, và nó luôn làm chúng tôi rùng mình sợ hãi.”
“Bà ngoại kể cho cháu nghe câu chuyện này khi cháu còn nhỏ,” Gretchen xen vào, “và ngay cả bây giờ, cháu vẫn ứa nước mắt mỗi lần hát đoạn cuối. Đôi khi có người bảo cháu, ‘Đoạn cuối cô hát quá xúc động.’ Cháu không cho họ biết đó là vì bà ngoại đã diễn tả trong ấy câu chuyện về nàng Mary Hamilton thực.”
“Nàng là ai?”
Bà Cole đáp, “Theo những tài liệu của triều đình Elizabeth, khi Mary xứ Scotland còn trẻ và ở Pháp, đúng là bà có bốn cô hầu xinh đẹp đều tên Mary. Nhưng không phải một trong bốn cô đó bị treo cổ. Đó là một người đàn bà gian hùng xinh đẹp người Scotland đến Leningrad một thế kỷ sau đó... thời Pie Đại đế. Bằng cách nào đó nàng ta lọt được vào triều đình, và theo như một số người nói, nàng ta đã trở thành người tình của Pie. Dù thế nào đi chăng nữa, nàng ta đã sinh một đứa con hoang, bọc nó vào trong tã và vứt xuống giếng. Bà ta bị kết án tử hình, không phải vì Pie muốn thế mà vì ông ta vừa ban hành sắc lệnh tuyên bố xử tử những người đàn bà giết con hoang của mình. Vụ xử trảm đó rất nổi tiếng, với nàng Mary Hamilton diện bộ đồ bằng lụa hảo hạng. Khi đầu nàng ta lăn ngoài phố, Nga Hoàng đã nhặt lên, hôn hai lần, rồi đọc một bài điếu văn. Rồi ông ta hôn nó lần nữa và ném xuống rãnh.”
Đầu năm 1968, sau thời gian thương lượng căng thẳng, Frederick Cole và tôi đã đạt được thỏa thuận về dự án Fenway Park, và để ăn mừng ông lại mời tôi tới Brookline dùng bữa tối và uống sâm banh, tôi mang theo một món quà đặc biệt tình cờ mua được ở London, nhưng khi chúng tôi ngồi vào bàn rồi, tôi mới thất vọng nhận ra Gretchen sẽ không ăn cùng chúng tôi. “Nó đang ở New Hampshire điều hành một văn phòng của McCarthy,” mẹ cô nói có phần phẫn nộ. “Nó nghiêm chỉnh chấp hành khẩu hiệu ‘Hãy Sạch sẽ vì Gene’[58] và đã thuê hẳn một tay thợ cạo đến cắt tóc miễn phí cho các tình nguyện viên nam.”
Khi tôi phát biểu rằng tôi khá vui vì thấy thanh niên quan tâm tới chính trị, bà Cole nói, “Ồ, tôi không phiền gì chuyện đó. Ông Frederick và tôi đều thuộc phái Cộng hòa, tất nhiên, và chắc ông cũng vậy, và tôi phải thừa nhận kể cũng lạ khi chúng tôi lại có đứa con gái tích cực hoạt động cho một đảng viên đảng Dân chủ. Nhưng chúng tôi có thể thích nghi với chuyện này. Điều khiến tôi lo lắng là nó đã bỏ trường cao học. Thậm chí còn không tham dự những giờ học đầu tiên. Tôi nghĩ điều đó thật đáng tiếc.”
“Con hãy còn trẻ mà em,” ông Cole nói. “Một năm trưởng thành hơn cũng tốt cho nó.”
Vậy là tối đó tôi không có cơ hội trao quà, nhưng khi Gretchen về Boston sau chiến thắng ly kỳ của McCarthy ở New Hampshire, gia đình Cole lại mời tôi tới, và tôi thấy cô thiếu nữ Gretchen, lúc này đã hai mươi tuổi, thậm chí còn tươi tắn và lôi cuốn hơn trước. Cô có vô số câu chuyện về hội nghị tuyển chọn ứng cử viên ở New Hampshire: “Tổng thống Johnson dứt khoát là xong rồi. Tất cả bọn con sẽ đi Wisconsin... cả đội... cả nhà nên thấy tận mắt tinh thần của chúng con. Con bảo đảm chúng ta sẽ thay đổi hoạt động chính trị ở đất nước này. Sẽ không còn ai có thể gây ra bất kỳ thứ gì như cuộc chiến tranh Việt Nam được nữa.”
“Con cũng nên xuống thang một chút đi,” ông Cole khuyên. “Ông Fairbanks có quà cho con đấy.”
Lúc này Gretchen lại trở thành cô gái nhỏ vui sướng vì sắp được quà, rồi khi tôi cho cô xem một cái hộp khá lớn và nặng, cô áp chặt mấy đầu ngón tay vào miệng, cố đoán xem đó là gì. Tôi tin chắc cô không thể biết được, vì ngay cả khi đã mở lớp giấy bọc để lộ hộp bìa nặng bên trong, rõ ràng cô vẫn vô cùng bối rối. Mở nắp hộp rồi, cô lại gặp phải những nùi giấy lụa và kêu lên, “Cái gì thế này? Ông làm cháu phát điên mất!”
Đám giấy lụa đã được lôi ra hết đâu đấy, cô nhìn thấy mười tập đồ sộ Những bản ballad dân gian Anh và Scotland, 1882 - 1898 của giáo sư Child được người chủ trước nào đó ở London đóng bìa da dày cộp. Cô không thốt lên được lời nào. Những tập sách này không chỉ là một trong những thành quả hàng đầu của sự uyên bác Mỹ; chúng còn là công trình của một người từng là hàng xóm của bà ngoại cô, là cảm hứng của toàn thể lớp trẻ hát ballad ở Mỹ và Anh, những người vẫn ca ngợi chất thơ ám ảnh được ông Child cứu vãn. Đây không chỉ là một bộ sách mười tập; đây là bản di chúc cơ bản cho thế hệ của Gretchen.
Chọn ngẫu nhiên một tập sách, cô giở qua các trang mà cô vốn biết rất rõ qua những buổi nghiên cứu tại thư viện và reo lên, “Đây là khúc cháu sẽ hát như một lời cảm tạ,” rồi cô mang guitar ra phòng khách, đưa cho tôi tập IV đã mở sẵn ở trang cuối: Child 113 - The Great Silkie ol Sule Skerrie.
“Cái tên khá lạ,” tôi nhận xét.
“Silkie là hải cẩu.” Thấy tôi nhún vai, cô nói, “Một con hải cẩu bơi trong nước. Khi lên đất liền, nó biến thành một người đàn ông. Con hải cẩu này có một đứa con trai với cô giữ trẻ đã bị nó quyến rũ. Nó quay lại để thăm con.
“Rồi vào một ngày nóng nực,
Khi mặt trời chiếu rọi từng tảng đá,
Ta sẽ đưa đứa con trai bé bỏng đi,
Và dạy con bơi trong biển xa.”
Phần nhạc đệm cho những lời hát kỳ lạ này thật ám ảnh; người ta có thể nghe thấy tiếng thì thầm của biển Scotland lạnh giá và sự huyền bí của một thời đại khi hải cẩu và con người trao đổi sự sống cho nhau. Đây là kiểu ballad được thanh niên thế hệ này ưa thích vì nó vừa có sự giản dị mà họ khao khát lại vừa có vẻ đẹp mà họ quý trọng. Tôi ngẫm nghĩ về những điều này trong khi Gretchen chơi một đoạn chuyển tiếp điệu thứ trên guitar. Rồi cô bắt đầu hát đoạn cuối, và tôi lặng người kinh ngạc trước nội dung của nó, không giống trong bất kỳ khúc ballad nào trước đây tôi đã được nghe. Con hải cẩu nói với cô gái rằng sau khi nó mang con trai rời khỏi đất liền và dạy đứa bé trở thành một chú hải cẩu giỏi giang, cô sẽ tìm được cho mình cuộc sống tốt đẹp với số vàng nó đã trao cho cô.
“Và em sẽ cưới một chàng pháo thủ tài ba,
Và ta tin chắc anh ta là một chàng pháo thủ tài ba,
Và phát đại bác đầu tiên chàng nhắm bắn,
Chàng sẽ bắn cả con trai bé bỏng của ta và ta.”
Dường như khúc ballad cổ này đã đoán trước được chiều hướng bi kịch sẽ bất ngờ xảy đến với thanh niên Mỹ thời bấy giờ. Không từ nào trong những đoạn trước chuẩn bị tinh thần cho người ta tiếp nhận linh cảm của con hải cẩu về cái chết của mình dưới bàn tay chàng pháo thủ ngang tàng; người nghe bất chợt có cảm giác về một kiểu phi lý tuyệt diệu. Tôi thường có cảm giác hẫng hụt tương tự mỗi khi tranh luận về chế độ quân dịch với những thanh niên như Joe hoặc về quan hệ sắc tộc với Cato. Bằng trực giác, họ cảm nhận được các khía cạnh của tương lai mà tôi không thể.
Trong những tháng kế tiếp, khi ở Boston khởi động cho dự án, tôi có khá nhiều dịp gặp gỡ gia đình Cole, và mặc dù Gretchen thường xuyên vắng nhà vì bận làm việc cho Thượng nghị sĩ McCarthy, nhưng bất cứ lúc nào có mặt ở đó, cô đều để cho tôi góp ý về những chuyện đang diễn ra. Tôi phát hiện cô còn hát hay hơn rất nhiều so với sự phỏng đoán của tôi khi mua tặng cô mười tập sách đó; cô thường hát ở các quán cà phê và đôi khi trình diễn cùng các nhóm nhạc trong một số chương trình hòa nhạc được lên lịch từ trước có sự tham dự của sinh viên quanh khu vực Boston, và trong khi những người khác chuyên hát các bài phản kháng cho đến tận khi tưởng như cách mạng sắp nổ ra đến nơi, cô vẫn giữ những bản ballad của Child, và dù xuất hiện ở bất cứ buổi hòa nhạc nào thì cô chắc chắn luôn là một ngôi sao.
Cô vẫn để bím tóc, vẫn thích giày màu nâu đế thấp và quần áo giản dị. Cô có nước da sáng không cần trang điểm cầu kỳ và có nhan sắc đủ để thu hút sự chú ý. Tác phong của cô thì nhanh nhẹn, không kiểu cách; cô không bắt chước giọng miền núi thất học vốn rất được giới làm trò mua vui thời đó ưa chuộng mà cũng không tầm thường hóa ca khúc bằng các bóng gió mang tính thời sự hay bằng sự khêu gợi tình dục. Cô nghiêm túc giữ nguyên ca từ của Child, như thể bất cứ lúc nào ông giáo sư già cũng có thể hiện về kiểm tra xem tác phẩm của mình được sử dụng ra sao. Một đêm cô nói với tôi, “Khi chọn lọc lời ca, ông càng quay về quá khứ thì càng có khả năng là ông đúng.” Tôi hỏi ý cô là gì, và cô đưa cho tôi xem một tập trong số sách của mình. Chỉ riêng Child 12, khúc ballad có lẽ được ưa thích nhất trong tổng số 305 khúc kể về việc huân tước Randal bị người yêu đầu độc - đã có mười lăm bản phóng tác khác nhau, trong đó có một bản do Ngài Walter Scott biên tập, cô nói, “Nếu cháu sử dụng bản mới nhất, ông sẽ thấy nó đã được thêm thắt một số chi tiết nhằm làm cho nó hay hơn. Ông quay về bản cổ nhất và sẽ luôn thấy nó rất mạnh mẽ, gay gắt và rất gần với cảm xúc con người. Cháu nghĩ chính vì vậy mà giới trẻ thích ballad đến thế.”
Rồi thì tôi cũng trở nên khá quen thuộc với một số khúc ballad của Child, nhưng trong bất cứ buổi biểu diễn nào thì cao điểm vẫn là lúc Gretchen tuyên bố bằng giọng dịu dàng, “Bây giờ tôi sẽ hát Child 173”, vì khi đó cử tọa sẽ hoan nghênh nhiệt liệt; trong khu vực Boston, bài “Mary Hamilton” vốn nổi tiếng là bài đỉnh cao của Gretchen. Nhưng tôi lại dành nhiều tình cảm hơn cho Child 113, khúc ballad ám ảnh nói đến linh cảm của chàng hải cẩu về cái chết. Không phải buổi hòa nhạc nào Gretchen cũng hát, vì đôi khi tâm trạng của khán giả không thích hợp, nhưng có những đêm, khi đám đông phần lớn là thanh niên đang lo lắng về chiến tranh Việt Nam, cô sẽ hát khúc ca này, và phần kết kỳ lạ đó sẽ khiến mọi người sững sờ, như thể cô nữ sinh Radcliffe thông minh này đã thấu hiểu tâm tư và nói lên suy nghĩ thực của họ:
“Và phát đại bác đầu tiên chàng nhắm bắn,
Chàng sẽ bắn cả con trai bé bỏng của ta cùng với ta.”
Một buổi chiều, lần đầu tiên tôi nhận thức được Gretchen có thể gặp rắc rối khi cô đột ngột bước vào văn phòng tôi ở gần Fenway Park mà hỏi, “Ông có thể cho cháu vay hai trăm đô la được không... ngay bây giờ?”
Yêu cầu của cô quá bất ngờ và về một mặt nào đó thì đúng là phi lý vì gia đình cô thuộc loại khá giả, đến nỗi tôi phải hỏi, “Để làm gì?”
Cô nhìn tôi vẻ nôn nóng và hỏi lại, “Ông có thực sự muốn biết không?” Khi tôi gật đầu, cô nói, “Thôi được, không phải để nạo thai, cháu tin chắc ông đang nghĩ thế. Và cháu cũng không định bỏ nhà đâu.”
“Như vậy là loại trừ được hai lý do đáng lưu ý,” tôi nói.
“Nhưng ông vẫn muốn biết?” Cô hỏi, có phần bực bội.
“Nếu là hai trăm đô la thì đúng.”
“Ông sẽ không vui đâu,” cô báo trước, rồi rời văn phòng của tôi, đứng ở hành lang huýt sáo. Ngay sau đó bên cạnh cô xuất hiện hai thanh niên, hai kẻ khốn khổ chưa từng thấy, ngoại trừ trong bản tin thời sự trên ti vi. Người thứ nhất cao gầy, râu ria xồm xoàm, quần áo không là và dơ dáy hết mức. Kẻ thứ hai bè bè chắc nịch, tóc cắt rất ngắn và có vẻ giận đời. Cả hai có lẽ trạc tuổi Gretchen nhưng thiếu tự tin hơn nhiều. Thực ra, thứ có triển vọng duy nhất mà tôi nhận thấy ở họ là răng họ trắng và rất đều, có vẻ như họ thường xuyên được cha mẹ đưa đến bác sĩ nha khoa.
“Đây là Harry ở Phoenix và Carl ở New Orleans. Mỗi người cần một trăm đô la.”
“Để làm gì?” Tôi hỏi, ngờ rằng có lẽ Gretchen đã đúng khi nói tôi sẽ không muốn biết.
Cô đáp lại với vẻ vô cùng điềm đạm, “Họ phải vượt biên... sang Canada. Harry phải trốn quân dịch. Carl đã vào quân đội... cậu ấy đào ngũ.”
Khi cô nói câu này, hàng loạt ý kiến phản đối lóe lên trong tâm trí tôi, một phản ứng chắc hẳn Gretchen từng gặp: Đầu tiên ông ta nghĩ, “Đồ bỏ đi chết tiệt, đi xin tiền của một đứa con gái.” Rồi ông ta nghĩ, “Quân đội sẽ dạy cho chúng nhiều điều bổ ích. Mình nên gọi cảnh sát.” Ông ta lại nghĩ, “Mình sẽ gặp cả đống rắc rối nếu cho anh chàng Phoenix tiền để trốn quân dịch. Thậm chí nếu mình giúp anh chàng kia đào ngũ thì còn tệ hơn. Người ta có thể bắt giam mình vì tội xúi giục và giúp đỡ tội phạm. Và cuối cùng, ông ta nghĩ, “Mình không muốn dính líu vào vụ này.”
Tôi nghiêm nghị hỏi Gretchen, “Cô có biết việc cô đang làm là phạm pháp không?”
“Và cần thiết.”
Quay sang hai cậu thanh niên, tôi hỏi, “Tại sao các cậu lại thấy cần phải trốn?” Họ nhún vai như thể muốn nói, “Này ông, chúng tôi không thể nhai đi nhai lại câu chuyện làm quà ấy. Ông có thể đưa hoặc không đưa cho chúng tôi hai trăm, nhưng vì Chúa, xin miễn răn dạy chúng tôi.” Tôi nói, “Tôi không muốn biết tên các cậu. Tôi không muốn biết bất cứ điều gì về chuyện này. Gretchen, tôi sẽ cho cô vay hai trăm đô la, nhưng tôi muốn thư ký của tôi trao cho cô - trực tiếp - trước mặt nhân chứng.” Tôi chỉ cánh cửa cho hai kẻ đào tẩu và họ ra ngoài. Khi cả hai đã đi khuất hẳn, tôi gọi cô thư ký vào bảo, “Cô Cole muốn vay hai trăm đô la. Cô làm ơn ra lấy tiền ở chỗ thủ quỹ.”
“Từ tài khoản cá nhân của ông ạ?”
“Tất nhiên rồi.” Khi cô thư ký đi khỏi, Gretchen nói, “Ông khá thận trọng đấy, đúng không?” Tôi bèn đáp, “Xem này, thưa quý cô. Tôi từng làm việc tại hơn một chục nước khác nhau cách xa Geneva rồi. Khối kẻ chỉ mong bắt được tôi đang chơi trò chợ đen, buôn tiền hay buôn ma túy... hoặc giúp mấy thằng thanh niên vô dụng trốn nghĩa vụ quân sự. Nếu đó là mối quan tâm của cô thì được thôi. Không phải vấn đề của tôi.” Tôi gọi hai nhân viên thiết kế đến, làm ra vẻ như xem xét phần việc của họ. Tôi muốn họ có mặt khi cô thư ký quay lại văn phòng tôi mang theo hai trăm đô la. Họ sẽ chứng kiến tôi đưa tiền cho Gretchen và nghe thấy tôi nói, “Đây là hai trăm đô la tôi cho vay đến thứ Sáu tuần sau. Đừng tiêu pha phung phí nhé.”
Cuối buổi chiều hôm đó, Gretchen quay lại văn phòng cảm ơn tôi. “Tình hình thật sự cấp bách,” cô nói. “Hai cậu thanh niên tội nghiệp ấy chỉ còn một ngày nữa là rắc rối to. Giờ này ngày mai, họ sẽ được an toàn ngoài biên giới.”
Giọng cô có vẻ bí ẩn đến nỗi tôi phải hỏi, “Cô vẫn thường xuyên làm những việc như vậy sao?” Và cô phản công luôn, “Ông có đoán được tại sao cháu hát ở quán cà phê nhiều đến thế không? Từng xu cháu kiếm được đều dành để giúp đỡ những thanh niên trốn quân dịch. Cả tiền tiêu vặt của cháu nữa.”
“Nhưng vì sao?”
“Vì chúng cháu đang bị kẹt trong một tình huống ác nghiệt và vô lý. Năm ngoái, khoảng hai mươi nữ sinh Radcliffe chúng cháu học cùng với sinh viên năm thứ nhất trường Harvard. Chúng cháu mau chóng hiểu ra rằng nếu chúng cháu giành được điểm cao nhất, các bạn nam ấy sẽ chỉ còn lại điểm thấp hơn, có nghĩa là họ sẽ mất quyền được hoãn quân dịch và bị quân đội tóm ngay. Vì vậy cháu tập hợp đám con gái lại thành nhóm. Chúng cháu nhất trí giả vờ ngốc nghếch... để các bạn nam giành được điểm cao. Nhưng sau bài thi thứ nhất, giáo sư gọi chúng cháu đến mà bảo, ‘Tôi biết các cô đang làm trò gì. Các cô thông minh hơn nhiều so với những gì thể hiện trong bài thi. Thôi ngay cái trò ấy đi.’ Khi chúng cháu cố gắng giải thích về vấn đề quân dịch, giáo sư ngắt lời, ‘Trước khi khóa học bắt đầu, tôi đã quyết định hạ của mỗi nữ sinh hai điểm và nâng cho nam sinh một điểm rồi. Vậy nên xin các cô thi cử cho thật tốt, tiếp thu lấy tri thức, còn bảo vệ các chàng trai thì để tôi lo.’ Điểm C duy nhất có được. Cháu quý nó lắm.”
Tôi đưa cô đi ăn tối và lắng nghe cô tả sơ qua về mọi trò gian dối cô đã sử dụng để giúp đám nam sinh không phải nhập ngũ: thuốc gây nhiệt độ cao trước khi khám sức khỏe, mấy thứ thuốc khác giả tiếng tim, phiếu khám sức khỏe giả, hồ sơ giáo dục giả, và một đường dây bí mật bằng tàu hỏa giống như hệ thống được dân nô lệ sử dụng trong thập kỷ 1850, đi từ New York đến New Haven, Boston, Montreal. Một người bạn cùng lớp với cô tại Radcliffe, con gái một mục sư, chuyên dạy những thanh niên vô thần đóng giả làm người từ chối nhập ngũ vì lương tâm không cho phép với sự hỗ trợ của giấy tờ giả do các giáo sĩ giả cung cấp... Một bầu không khí mục nát độc hại nảy sinh từ cuộc chiến tranh Việt Nam, và Gretchen Cole ở chính giữa.
“Cháu biết, việc ấy không hay ho gì - đưa các chàng Tarzan trẻ trung khỏe mạnh vượt biên sang Canada - nhưng chẳng có gì chúng cháu làm lại có thể đem so với một tội ác còn lớn hơn nữa, đó là tiến hành cuộc chiến tranh không tuyên bố khiến biết bao thanh niên Mỹ phải bỏ mạng và để cho những người như ông hoặc cha cháu cứ việc tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường của mình. Ông Fairbanks, hai trăm đô la ấy không phải tiền vay. Đó là tiền thuế.”
Sau bữa tối, chúng tôi đến câu lạc bộ nơi Gretchen thường hát, và khi nhìn thấy cô ngồi dưới ánh đèn, cây đàn guitar to che khuất cả người, đôi bím tóc chạm bờ vai, tôi đã nghĩ đây chính là một cô gái thuần khiết như pha lê; cô như một con suối rừng ngày đông, trong trẻo và mát lạnh, hai bên bờ không có lấy một chiếc lá mủn nào. Khi hát các khúc ballad cổ, cô dường như đã mang chúng ra từ kho tàng kinh nghiệm sâu xa và được bảo vệ cẩn thận của nhân loại, cô gần như là một nữ giáo sĩ chịu trách nhiệm gìn giữ những thứ được cho là tốt đẹp. Cô không phải người con gái bình thường, đúng thế. Cô là người đáng tin cậy, là sự kết hợp hấp dẫn giữa trí tuệ, tính cách và đạo đức. Cô đã rất đúng khi tự giới hạn mình trong những khúc ballad cổ nguyên gốc, không bị làm hỏng bởi những quan điểm hiện đại được đưa vào nhằm làm chúng dễ tiếp thu hơn, vì chúng thể hiện con người cô và truyền đạt tư tưởng của cô đến các thính giả trẻ.
“Bây giờ tôi sẽ hát Child 286,” cô thông báo trước khi hát tặng một khúc ballad tôi chưa được nghe bao giờ. Giống như những khúc hát khác, khúc này khá vụng về, không được trau chuốt và làm người ta tức điên. Chuyện kể về hành động của Ngài Walter Raleigh khi con tàu The Golden Vanity của ông ta tình cờ gặp chiến thuyền Thổ Nhĩ Kỳ tốt hơn. Khi Raleigh xem chừng có nguy cơ bị mất tàu thì lại tìm được sự giúp đỡ bất ngờ:
Rồi chàng bồi tàu bé nhỏ của chúng ta đứng dậy,
Thưa rằng, “Bẩm chủ nhân, nếu con phá tàu, ngài sẽ thưởng chi đây?”
“Ta sẽ ban cho mi kho hàng, ta sẽ ban cho mi vàng bạc,
Cả con gái ta cũng thuộc về mi, khi ta quay trở lại đất liền,
Nếu mi đánh đắm được chúng ở Low Lands Low.”
Chàng trai táo bạo bèn lặn xuống nước bơi tới chỗ kẻ thù Thổ Nhĩ Kỳ, đục nhiều lỗ ở bên mạn và đánh đắm tàu địch, nhưng khi chàng bơi trở lại The Golden Vanity, Ngài Walter lại thay lòng đổi dạ, ngài thấy thật nhục nhã nếu đem vàng bạc và con gái cho một gã bồi tàu.
Chàng cầu xin chủ nhân, “Con sẽ không trách móc ngài đâu,”
Chủ nhân đáp lại, “Ta sẽ không cho mi lên tàu đâu,
Ta sẽ giết mi, ta sẽ bắn mi, ta sẽ ném mi vào dòng nước,
Ta sẽ cho mi chìm nghỉm ở Low Lands Low.”
Chàng trai bơi mãi, bơi mãi quanh mạn phải;
Họ vớt chàng lên boong, và chẳng mấy chốc chàng qua đời;
Rồi họ khâu chàng trong tấm da bò già,
Và ném chàng qua mạn tàu rơi xuống nước,
Họ để chàng chìm nghỉm ở Low Lands Low.
Khi Gretchen hát xong, tiếng vỗ tay hoan hô chứng tỏ mọi người đều tán thành, vì hành vi vô đạo đức thô bỉ của Raleigh nhắc các thính giả trẻ nhớ đến cái thế giới bất công mà họ phải đương đầu, và khi đêm dần trôi, với các nhóm chuyên nghiệp tiếp tục hát các ca khúc thịnh hành thời đó, tôi ngồi một mình suy ngẫm đến việc mình hiểu biết ít ỏi như thế nào về thứ âm nhạc trong mấy cái đĩa hát tôi tặng Monica và Yigal và nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhường nào tới thế hệ này.
Thật mỉa mai: con cái các gia đình khá giả ngồi trong những căn hầm ở Haifa hoặc nhà gỗ ở Vwarda lắng nghe ca khúc ai oán về bọn sát nhân, cướp ngân hàng, bọn vô công rồi nghề, các nhà cách mạng, các chàng Robin Hood cưỡi xe máy, tất cả đều do các thanh niên râu ria không cạo mặc đồ bằng vải bông thô kiếm mỗi năm một triệu đô la thể hiện. Các ca khúc tôi nghe ở Boston mùa đông năm ấy toàn lời kêu gọi nổi loạn, và lần đầu tiên tôi nhận ra, nếu những thanh niên ưu tú như Gretchen được nuôi dưỡng bằng những bài ca kiểu ấy trong suốt mười năm qua - những năm ảnh hưởng lớn nhất đến sự hình thành tính cách của cuộc đời họ - thì mọi sự trong thế giới người trưởng thành sẽ buộc phải thay đổi.
Đối với tôi, khám phá đó mới mẻ đến nỗi một đêm tôi không nghe nhạc nữa mà chỉ chú tâm đến các ca từ mà một ca sĩ solo nổi tiếng đang trình bày; trong một chùm ca khúc bốn bài, anh ta cổ vũ cho một cuộc trốn tù, đánh bom ngân hàng, dụ dỗ hai cô bé mười bốn tuổi, và một bữa tiệc ma túy kéo dài. Đó là thứ rượu bia nồng độ mạnh do các ca sĩ kiểu ấy pha chế, và tôi có thể hiểu được tại sao Gretchen, vốn đã được luyện cho quen với những quan điểm như vậy cộng thêm các khúc ballad cổ thuật lại những chuyện tương tự trong thời của chúng, lại quyết định rằng mình phải ủng hộ những kẻ trốn lính và đào ngũ.
Vì vậy tôi nhẹ cả người khi cô lên sân khấu hát một bản tình ca giản dị: Child 84. Nó kể về nàng Barbara Allan, người có trái tim băng giá đã từ chối tình yêu của một chàng trai:
Chàng bèn sai người đi khắp thành,
Tìm đến ngôi nhà nàng đang sống:
“Xin nàng mau tới thăm chủ nhân của tôi,
Nếu quả nàng là Barbara Allan.”
Nàng bật dậy, vội vội vàng vàng,
Tìm đến giường bệnh chàng nằm,
Và khi nàng kéo rèm sang bên,
“Chàng trai, ta tưởng chàng đang hấp hối.”
Tôi bật cười vì tính phi lý của câu cuối, nhưng đám khán giả trẻ ngồi nghiêm trang xung quanh quay sang nhìn tôi chằm chằm như thể tôi đã phạm tội báng bổ thần linh, vì vậy tôi phải lấy tay che miệng và lắng nghe.
Khi cô kết thúc khúc ca ai oán ấy, tôi chợt nghĩ mình chưa bao giờ thấy Gretchen đi cùng bạn trai, ngoại trừ trong một nhóm, và tôi tự hỏi vì sao một cô gái hấp dẫn, đa tài như thế lại không có một chàng trai cho riêng mình. Gần giống như cô là nhân vật nữ chính của một trong các khúc ballad của cô; nàng Barbara Allan trái tim băng giá hay có thể là cô gái phải lòng con quỷ.
Tôi đang ngẫm nghĩ về những vấn đề này thì Gretchen đến ngồi cùng, và trong lúc chúng tôi uống nốt cốc nước của mình - cô dùng nước gừng có ga - thì một giáo sư trường Harvard dừng lại bên bàn chúng tôi để nói với cô, “Gret, cảm ơn cô đã giúp hai cậu đó. Trước khi lên phương Bắc, họ đã kể mọi chuyện với tôi.” Cô gật đầu, và trong một thời gian khá dài đó là điều cuối cùng tôi biết về cô hay những vấn đề của cô vì hôm sau tôi nhận được bức điện của Sir Charles Braham ở Vwarda nhờ tìm cho con gái ông một ngôi trường bên Anh. Tôi liền bay đi để thực hiện nhiệm vụ thú vị ấy.
Tháng Ba, Gretchen cùng nhóm sinh viên lái xe sang miền Tây để giúp Thượng nghị sĩ McCarthy trong hội nghị tuyển lựa ứng cử viên tổng thống ở bang Wisconsin, và chính trong thời gian làm việc tại đại bản doanh Milwaukee, cô đã nghe thấy một phụ nữ lớn tuổi hơn nói với một nhóm tình nguyện viên, “Nếu Thượng nghị sĩ được chỉ định là ứng cử viên, ông ấy nên bổ nhiệm một người như Gretchen Cole lãnh đạo ủy ban toàn quốc Những người Cộng hòa trẻ ủng hộ McCarthy,” và một sinh viên trong nhóm đó nói lại, “Ủy ban là thế nào, cô ấy nên tham gia chính phủ mới đúng,” thế rồi người phụ nữ kia giải thích, “Bây giờ lãnh đạo ủy ban là cách để sau này tham gia chính phủ.”
Dù sao đi nữa, mọi người ở Wisconsin đều coi trọng cô, và vào buổi tối tổng thống Johnson tuyên bố rút lui khỏi cuộc chạy đua giành ghế tổng thống, đám thanh niên liền tổ chức ăn mừng vui vẻ, vì họ cảm nhận được một cách đúng đắn rằng cuối cùng họ đã tác động đến đời sống chính trị nước nhà. “Johnson biết ông ta đang làm gì,” đám thanh niên hăng hái phát biểu. “Chúng ta sẽ làm ông ta bẽ mặt trong hội nghị tuyển lựa ứng cử viên này... cả ở Oregon và California nữa.” Gần sáng, khi đám đông đã vãn, hai sinh viên trường Berkeley kéo Gretchen ra một chỗ và cảnh báo, “Thử thách thực sự là ở California. Bobby Kennedy sẽ muốn làm một cuộc phô trương thanh thế ra trò cho mà xem, khi bây giờ Gene đã buộc Johnson rút lui rồi. Nhà Kennedy sẽ rót tiền như rót nước vào bang chúng ta.”
“Các bạn có cho rằng Gene nhất định phải thắng ở California thì mới tiếp tục được không?” cô hỏi.
“Dứt khoát rồi. Tốt hơn hết bạn nên đưa cả nhóm đi... và nhanh chân lên. Bạn có gom được khoản tiền lớn nào không?”
“Không, nhưng tôi có thể tìm được người sẽ làm được việc này.”
“Nhớ có mặt ở đó nhé.”
Vậy là cuối tháng Tư, Gretchen cùng mười lăm cô gái từ các trường đại học uy tín ở miền Đông thu xếp được mấy chiếc xe và lái xuyên đất nước đến Sacramento, tại đó họ phối hợp với những người bạn California đang ủng hộ McCarthy, nhưng trong chiến dịch này họ phải đối phó với một yếu tố mới. Bobby Kennedy là một người đàn ông trẻ trung vô cùng quyến rũ, mang trong mình những tư tưởng mà họ có thể tán thành, và trong khi họ dễ dàng phản đối tổng thống Johnson khi coi ông ta là người McCarthy phải đánh bại thì họ lại không dứt khoát được như thế khi Kennedy là đối thủ. Trên thực tế, hai cô trong nhóm đã đột ngột chuyển sang trung thành với Kennedy khi được tiếp xúc với sức thu hút của ông.
Hậu quả là, nhiều bạn trẻ quanh Gretchen đã trải qua những cảm xúc mâu thuẫn khi Kennedy đánh bại McCarthy ở California. Họ bắt đầu ngờ rằng McCarthy có thể không đủ khả năng đi hết chặng đường, rằng rốt cuộc các lực lượng hùng mạnh sẽ hiệp lực để phản đối việc chỉ định ông ta, và họ đã chuẩn bị sẵn tư tưởng rồi sẽ có một chính trị gia tầm thường mờ nhạt nào đó phỗng tay trên. Vì thế họ thấy nhẹ cả người khi Kennedy lờ mờ xuất hiện như một khả năng chọn lựa khác. “Tôi có thể chấp nhận Kennedy được,” nhiều thanh niên tuyên bố, sớm tự an ủi mình về những gì báo trước sẽ là một thất bại hoàn toàn của McCarthy.
Nhưng Gretchen Cole thì không. Cô có lòng tận tụy chuyên tâm bẩm sinh mà người ta thường gặp ở New England, đặc biệt ở giới phụ nữ có học. Qua quá trình lao tâm khổ tứ, cô đã rút ra kết luận từ một năm trước, lúc những người khác chỉ mới nghe nói đến McCarthy, rằng ông là người điềm đạm có thể mang ổn định đến cho tình trạng hết sức rối loạn của thời đại này, và với sự chuyên tâm hiếm hoi, cô đã giữ vững quan điểm đó; khi McCarthy giành thắng lợi ở New Hampshire và Wisconsin, cô càng cảm thấy tin tưởng vào phán đoán trước đây của mình, và cô phấn khởi đến mức giờ đây có thể chấp nhận thất bại tạm thời ở California. Bobby Kennedy gây cho cô ấn tượng về một thượng nghị sĩ tài giỏi, nhưng cô chưa bao giờ coi ông là người ngang tầm với Eugene McCarthy về mặt đạo đức.
Sau thất bại, cô ở lại California làm việc với một vài nhóm ủng hộ McCarthy, chuẩn bị cho cuộc tấn công lớn tại hội nghị Chicago, và sáng sớm ngày thứ Tư, khi cô đang ở đại bản doanh Los Angeles yên tĩnh và gần như vắng tanh vắng ngắt thì một người Ả rập đầu óc không tỉnh táo nảy ra ý nghĩ rằng anh ta có thể giải quyết những vấn đề của vùng mình bằng cách bắn một trong những người được cho là có khả năng tháo gỡ chúng nhất. Gretchen đang ngồi lập danh sách bên bàn làm việc thì nam sinh viên trường Brigham Young lao vào phòng, kêu lên, “Chúng bắn Kennedy rồi!”
Những người khác từ ngoài phố ùa vào trụ sở, và cho đến quá nửa đêm cảnh tình vẫn vô cùng hỗn loạn khi hết tin đồn này đến tin đồn khác dồn dập truyền khắp phòng. Chiếc radio xách tay được đem ra và bắt đầu một đêm thức trắng. Một nhân vật biết rõ Kennedy và đồng thời cũng có mặt tại hiện trường vụ mưu sát xuất hiện trên truyền hình để trấn an mọi người: “Bobby Kennedy sẽ lại chơi được bóng bầu dục thôi,” và những người ủng hộ McCarthy reo hò ầm ĩ, nhưng trong bản tin thời sự tối thứ Tư, một chuyên gia não ở New York, người chẩn đoán ca này từ cách xa ba nghìn dặm, đã lên tiếng cảnh báo, “Với kiểu chấn thương não mà Los Angeles thông báo thì ông ấy sống sót cũng chỉ có thể thành người thực vật thôi,” và sự kinh hãi trước tình hình này càng trở nên sâu sắc.
Hai giờ sáng thứ Năm thì tin buồn đến: Thượng Nghị sĩ Kennedy đã từ trần.
Một cảm giác tuyệt vọng khủng khiếp bao trùm phe McCarthy, vì điều phi lý họ hằng nỗ lực chống lại đã lần nữa chiến thắng, mang theo điềm báo mơ hồ về sự suy sụp trên mọi mặt trận. Người thay thế xứng đáng, nếu McCarthy phải thất bại, đã bị loại trừ. Gretchen ngồi lại bên bàn, cúi đầu trên chồng thẻ địa chỉ, như thể một cái gì đó vô cùng cần thiết cho sự sống đã bị hút cạn khỏi người cô, cái gì đó liên quan tới chủ nghĩa lý tưởng và hy vọng về một thế giới lành mạnh hơn.
Cô ở lại California, theo dõi lễ cầu hồn tại nhà thờ St. Patrick ở New York được tường thuật trên truyền hình, và đêm đó các tình nguyện viên ủng hộ McCarthy tụ họp với một số sinh viên từng làm việc cho Kennedy. Họ đến một quán bia nằm tại ngoại vi Los Angeles, nơi họ sẽ không bị làm phiền, xem xét lại tình hình trong tâm trạng đau đớn trống trải. Cậu thanh niên trường Brigham Young nói với vẻ đoán trước được tình hình, “Tôi thấy dường như người của Kennedy sẽ không tập hợp lại sau McCarthy đâu, vì vậy tất cả sẽ tiêu tan hết,” nhưng một anh chàng khôn ngoan từ trường đại học Virginia tranh luận, “Việc chúng ta cần làm là ngay bây giờ tất cả mọi người phải ủng hộ Teddy Kennedy. Nghe tôi đi, có ông ấy, chúng ta có thể thúc đẩy việc bổ nhiệm ở Chicago. Và ông ấy có thể tiếp tục chiến thắng.”
“Tôi không muốn Teddy Kennedy,” Gretchen tuyên bố.
“Vì sao lại không?” Anh chàng Virginia hỏi.
“Vì tôi biết ông ấy, và vì ông ấy còn quá trẻ. Năm 1972 hoặc 1976 thì tôi sẽ ủng hộ ông ấy - 1968 thì không.”
Họ xem xét hết khả năng thất bại này đến khả năng thất bại khác, cảm nhận thường trực một nỗi u sầu càng lúc càng sâu, cuối cùng một người ủng hộ Kennedy nói, “Gretchen, bạn khóc kìa!” Cô cúi đầu xuống. Bị mọi người gạn hỏi mãi, cô khẽ nói, “Chúng ta đã mất một người ưu tú. Ông ấy không phải người tôi ủng hộ nhưng ông ấy là một niềm hy vọng. Và khi chuyện ấy xảy ra thì nước mắt cũng tự nhiên rơi.” Không ai lên tiếng vì cô đã nói lên cảm nghĩ của tất cả mọi người. Anh bạn Virginia hỉ mũi, rồi bật ngón tay vui vẻ hỏi, “Có người nói với tôi bạn là ca sĩ, phải không Gretchen?”
“Cô ấy tuyệt lắm,” một người trong nhóm McCarthy nói. “Chỉ hát ballad.”
“Thề có Chúa,” anh chàng Virginia reo lên, “đây đúng là đêm dành cho ballad. Những cánh đồng hoang bị ma ám và những đôi tình nhân trên lưng ngựa. Bắt đầu nào.”
Gretchen giải thích nếu không có guitar thì cô không thể hát được, vậy là mọi người đổ xô đi tìm một cây đàn nhưng không có. Cô mỉm cười, nhún vai nói, “Thế thì không được rồi,” nhưng một người trong nhóm McCarthy động viên, “Tôi thấy điều này rất quan trọng, Gretchen. Bạn không cần guitar đâu.”
Mọi người thu xếp chỗ biểu diễn, và cô nhìn vào từng khuôn mặt trong nhóm ủng hộ Kennedy không còn thủ lĩnh, từng khuôn mặt trong nhóm ủng hộ McCarthy đã cảm thấy thất bại, và cô nói, thật dịu dàng, “Child 181.”
“Thế thì còn gì bằng,” một cô gái ở Wisconsin nói.
Với giọng trong vắt và điềm tĩnh, Gretchen bắt đầu khúc bi ca dành cho bá tước Murray. Đó là một trong những ca khúc về cái chết có sức tác động mạnh mẽ, ngang tầm “Khúc bi ca của McCrimmon” hay phần nhạc chậm trong bản giao hưởng Eroica hoặc đám tang của chàng Siegfried rồng rắn xuyên qua khu rừng, chỉ khác ở chỗ nó dữ dội và chân thực đến nỗi dường như nói về một người có thật mà cái chết là không thể tránh khỏi, trong khi các khúc ca khác chỉ hát về cái chết trừu tượng.
“Mi Highlands, và mi Lawlands,
Ôi hai mi đang ở phương nào?
Chúng đã giết bá tước Murray,
Và đặt chàng trên thảm cỏ xanh.”
“Hào hoa phong nhã và kiêu hãnh,
Chàng phi tuấn mã giữa vòng đua;
Và bá tước Murray dũng mãnh,
Ôi chàng thật xứng ngôi vua!”
“Hào hoa phong nhã và kiêu hãnh,
Chàng chơi bóng đá lối Scotland;
Và bá tước Murray dũng mãnh
Tinh hoa rực rỡ giữa muôn người.”
“Ôi người yêu dấu sẽ đợi chờ,
Ngước lên lâu đài Down nàng ngóng,
Chàng bá tước Murray
Đang phóng ngựa xuyên qua thành phố!”
Khi giọng cô nhỏ dần chỉ còn tiếng thì thầm, đám thanh niên ngồi lặng đi; hơn bất kỳ điều gì xảy ra sau vụ ám sát, khúc bi ca vượt thời gian dành cho một con người ưu tú đáng lẽ có thể trở thành vua đã thâu tóm nỗi buồn của họ. Một điều tốt đẹp và có tác động mạnh mẽ nào đó đã bị tước đoạt khỏi cuộc sống người dân Mỹ, và sự mất mát đó để lại một khoảng trống đau lòng.
Khi Gretchen trở về Boston, thái độ của cô còn trở nên nghiêm nghị hơn cả trước kia, và cha mẹ cô vô cùng lo lắng thấy cô tỏ ra chua xót đến thế trước vụ ám sát Kennedy em. Cô không muốn bàn luận chuyện đó với cha mẹ, nhưng một ngày, khi cả nhà đang ăn tối, cô nói, “Điều cấp bách bây giờ là chúng ta phải đề cử McCarthy ra tranh ghế tổng thống. Con sẽ đi Chicago, và chúng con sẽ cần toàn bộ số tiền xoay xở được.” Đoạn cô bình tĩnh nhìn cha cho đến khi ông phải lên tiếng, “Con có đề nghị gì?” Cô nói, “Sang năm, con tròn hai mươi mốt tuổi, con mới được nhận phần thừa kế của ông. Cha có thể...”
“Ứng trước cho con chứ gì? Không! Một trong những điều trái đạo đức nhất trên đời là ứng trước tiền thừa kế.” Ông ném khăn ăn xuống, một cử chỉ được giới chủ nhà băng Boston coi như dấu hiệu cho thấy một yêu cầu đặc biệt đã bị từ chối dứt khoát.
“Cha!” Cô cầu xin, nhưng ông đã nói tiếp, “Chỉ kẻ ngu ngốc và người vô trách nhiệm mới vay mượn dựa vào của thừa kế. Cha chắc là ở Boston có những tên vô lại sẽ sẵn sàng cho khách hàng tương lai vay tiền lãi suất hai mươi lăm phần trăm nhưng chúng ta không bảo trợ cho những kẻ đó. Không phải trong gia đình này.”
Cô hiểu rằng khả năng này không còn nữa. Vào sinh nhật thứ hai mươi mốt, cô sẽ có quyền kiểm soát khoản trợ cấp này; còn từ giờ đến lúc đó cô vẫn là vị thành niên, vẫn được đặt dưới sự giám sát của cha, và mọi người trong gia đình đều cho là cô sẽ chấp nhận việc này. “Thôi được,” cô nói, “cha sẽ cho con năm trăm đô la chứ?”
“Được,” ông Cole đáp. Bản thân ông ủng hộ Nixon và không ưa thượng nghị sĩ McCarthy cũng ngang với không thích thống đốc Rockefeller, nhưng như các bậc cha mẹ khác, ông cảm nhận được những ích lợi có thể đạt được từ sự tận tụy với lý tưởng của con gái, dù lúc này lý tưởng ấy có thể bị nhầm đường lạc lối. Ông đưa tiền cho con gái, và với số tiền này, Gretchen đi Chicago cùng nhóm bạn nhiệt tình.
Những gì cô trải qua ở Chicago cũng tương tự kinh nghiệm mà Dante[59] đã rút ra trong những năm cuối đời khi suy ngẫm về mấy chuyến du hành ngoài địa phận Florence. Cô dùng tiền riêng thuê mấy căn phòng tại khách sạn Hilton, ngay tầng trên đại bản doanh của McCarthy, dùng nơi này làm chỗ ngủ cho các sinh viên từng làm việc với cô ở New Hampshire, Wisconsin và California. Họ là những người hấp dẫn, hình thức đẹp và tận tuy. Với việc quả bóng Teddy Kennedy[60] phe Dân chủ bị xì hơi và Richard Nixon được chỉ định làm ứng cử viên của đảng Cộng hòa, đội ngũ ủng hộ McCarthy thấy dường như rất rõ rằng người của họ phải được chỉ định nhằm cung cấp cho cử tri một sự lựa chọn, rằng những thanh niên như Gretchen phải tin tưởng McCarthy có cơ hội rất lớn được chỉ định ra tranh cử, và sau đó giành chức tổng thống.
“Hãy nhìn thẳng vào vấn đề,” một sinh viên luật đại học Duke lập luận. Gretchen thích anh hơn người khác vì anh không những có đầu óc sắc sảo mà còn có một cây guitar vẫn thường dùng để chơi những bản phóng tác Kentucky của các khúc ballad cô học từ tài liệu gốc ở Anh. Anh lớn lên ở Đông Tennessee và giành được học bổng của trường Davidson, sau đó là khoản trợ cấp cao học của trường luật Duke. Anh có vẻ là mẫu người miền Nam điển hình, thận trọng nhưng rất dễ bị khích động khi mà những tư tưởng tốt đẹp đang lan truyền khắp nơi. “Nixon sẽ là đối thủ đáng gờm. Ông ta là nhà vận động tranh cử hàng đầu, nhưng lại bị mắc kẹt vào quan điểm của Johnson về Việt Nam và sẽ không bao giờ đưa chúng ta thoát ra được. Cử tri sẽ nhận ra vấn đề này và điều họ mong muốn là một sự lựa chọn dứt khoát, và người duy nhất có đủ khí phách để thực hiện điều này là McCarthy.”
Thứ Sáu và thứ Bảy trước hội nghị, nhóm ủng hộ McCarthy tràn ngập hy vọng, nhưng khi người ta bắt đầu công bố các biên bản của ủy ban bầu cử và diện mạo người được bổ nhiệm đã trở nên rõ ràng, cảm giác hoang mang sợ hãi bắt đầu lan khắp phòng các sinh viên, và khi cảnh phô trương sức mạnh, sự thờ ơ và thói côn đồ chính trị bảo thủ xuất hiện trên màn hình những chiếc ti vi thuê, các thanh niên bị xâm chiếm bởi cảm giác hoài nghi bi thảm. Việc này không thể xảy ra... ngài thượng nghị sĩ dũng cảm đã lãnh đạo cuộc đấu tranh hơn một năm trời... ông không thể bị gạt sang bên một cách lạnh lùng như vậy... những lá phiếu ông đã giành được ở Pennsylvania không thể bị cướp mất.
Đêm thứ tư, bị hàng rào cảnh sát ngăn không cho đến gần hội nghị và không thể làm gì hơn cho một sự nghiệp đã bị cuốn vào cơn lốc như đống chất thải trong bồn cầu, Gretchen và anh sinh viên luật trường Duke rời khách sạn đi ngang qua đại lộ Michigan để hòa vào đám người biểu tình trong Grant Park, đối diện hồ nước. Cả hai không ai giải thích nổi tại sao mình làm vậy, nhưng họ bước vào sau rào chắn của cảnh sát để có mặt ở nơi đông đúc sôi nổi nhất.
Trong ánh đèn công viên, đèn hiệu và đèn pha xe cảnh sát mờ nhạt, hai người trông thấy hàng nghìn thanh niên khác đi lại không mục đích, phần lớn ăn mặc không tươm tất bằng họ, và dường như tâm trạng thất vọng giận dữ rõ rệt đang lan khắp đám đông. Một vài câu nói chua chát được tung ra, và Gretchen không lấy làm lạ khi mấy cảnh sát đội mũ sắt chạy ra khỏi hàng để quật túi bụi một số sinh viên hò hét hăng nhất. “Có lẽ họ đáng bị đối xử như thế,” Gretchen nói với anh bạn đi cùng.
“Tôi không biết,” anh đáp, dừng lại cạnh một vòi nước quan sát cuộc xô xát. “Về phương diện hiến pháp, tôi phản đối sự đàn áp của cảnh sát. Bạn thấy tình trạng này thường xuyên xảy ra ở miền Nam, đó bao giờ cũng là hành động sai trái.”
Sự náo loạn đặc biệt này nhanh chóng lắng xuống. Đám sinh viên lùi lại và cảnh sát lại xếp thành hàng, không bên nào bị thiệt hại, nhưng ngang qua một khoảng trống khá rộng, Gretchen lờ mờ nhận ra một cuộc xung đột khác dường như sẽ không kết thúc đơn giản như vậy. Cô và anh bạn sinh viên luật chạy ngang qua thảm cỏ xem có chuyện gì, nhưng mấy cảnh vệ quốc gia đội mũ sắt, lăm lăm tay súng - các chàng trai chưa đầy hai mươi tuổi vung những cây súng trường nặng nề - ra lệnh cho họ lùi lại, vì vậy họ chỉ có thể thấy loáng thoáng những gì chắc phải nghiêm trọng hơn một cuộc ẩu đả thuần túy.
“Có chuyện gì thế?” Anh sinh viên luật hỏi một cảnh vệ.
“Tôi không biết, nhưng tốt hơn các cậu nên mừng là mình đang ở đây.”
“Có nổ súng không?”
“Không. Chỉ vài cú nện vào đầu thôi.” Anh ta vừa trả lời xong thì một tốp cảnh sát chạy ra khỏi đám lộn xộn tiến về phía đám cảnh vệ quốc gia, những người này bèn lùi lại nhường đường. Họ đang khiêng một cảnh sát người cứng đơ, mặt mũi bê bết máu.
“Tránh ra, lũ chết tiệt,” họ vừa hét vừa tìm cách mở lối đi xuyên qua đám khán giả tụ tập sau lưng Gretchen. Cô thấy một viên cảnh sát bối rối vung dùi cui, không tỏ ra ác ý mà có phần giống cây gậy của người nhạc trưởng, để mở đường tiến lên phía trước. Anh ta đập nhẹ vào một thanh niên, người này liền hầm hè, “Đồ con lợn,” thế là viên cảnh sát phía sau người mở đường nện mạnh vào đầu kẻ phản kháng. “Đồ con lợn, đồ con lợn!” Những người khác la ó, nhưng lúc này cảnh sát đã tới được xe cứu thương và đi mất. Anh thanh niên bị đánh đứng dựa vào thân cây, xoa xoa đầu, và Gretchen hỏi, “Bạn có bị thương không?” Anh ta đáp, “Không. Chỉ có điều lũ lợn ấy chạy đến cứ như thể chúng là chủ nơi này vậy.”
Gretchen và anh sinh viên luật trường Duke rời khỏi khu vực công viên, nhập vào một đám khá đông đang vây quanh sáu chàng trai và một cô gái mặt dính máu, nhưng không ai giải thích nổi việc xảy ra như thế nào. Xe cứu thương không đến, chỉ có một bác sĩ trẻ đứng trong đám đông hỏi xin khăn tay - chỉ khăn sạch thôi - và anh ta vừa cầm máu vừa nói với những người xung quanh, “Các bạn phải đưa cô này đến bệnh viện.” Cô gái có một vết thương dài và sâu ngang trán.
“Cô ấy bị đánh bằng báng súng,” một phụ nữ lớn tuổi kể. “Cô ấy chẳng làm gì cả, nhưng bọn lính chạy qua chỗ cô ấy.”
“Có nổ súng không?” Anh sinh viên trường Duke hỏi.
“Không. Không đâu. Công bằng mà nói, đó là tai nạn. Cô ấy chỉ vô tình cản đường thôi.”
Dù họ đi đến đâu thì chỗ đó cũng vừa xảy ra chuyện, chỉ là họ không nhìn thấy gì cả. Người bị thương nằm la liệt trên cỏ, chỉ là không ai chết, ngay khi xe cứu thương có thể lọt qua đám đông thì người bị thương đều được chở đi. Trong số người bị thương không có cảnh sát, nhưng một phóng viên nhiếp ảnh ngồi ở lề đường, trang thiết bị vỡ tan, đầu rách một mảng, anh ta nói với Gretchen, “Đồ con heo. Đồ con heo.” Gretchen hỏi ai là đồ con heo, nhưng anh ta chỉ nhắc đi nhắc lại, “Đồ con heo.” Trông anh ta như thể ngất đến nơi, vì vậy Gretchen phải ở lại trông chừng trong khi anh sinh viên luật cố gắng vẫy một chiếc xe cứu thương, song đám lính bảo vệ xe lại tưởng anh là kẻ gây rối liền thọc báng súng vào người anh. May sao anh nhảy lùi lại tránh được đòn, quay lại chỗ Gretchen, anh bảo, “Tốt hơn chúng ta rời khỏi đây thôi. Họ cứ nã súng không ngừng.” Gretchen nói họ không thể bỏ anh phóng viên nhiếp ảnh đang bất tỉnh lại được, vì vậy anh sinh viên luật lại tìm cách thu hút sự chú ý, và lần này có một toán cảnh sát đi đến chỗ người thanh niên nằm bất động kia.
“Tên phóng viên chết tiệt,” một viên cảnh sát càu nhàu, nhưng viên sĩ quan chỉ huy đã ra lệnh, “Đưa hắn tới bệnh viện, cầm camera của hắn theo luôn.” Ông ta thổi mấy hồi còi cho đến khi một chiếc xe tuần tra ầm ầm chạy tới, hai cảnh sát được phân công nhấc người đàn ông bất tỉnh lên xe thì một người vừa nguyền rủa vừa túm lấy vai anh phóng viên nhiếp ảnh, quẳng cái thân hình bất động ấy chúc đầu vào trong xe.
“Các ông làm gì thế?” Gretchen kêu lên, chạy lại gần chiếc xe tuần tra.
Bị đêm nay làm cho kiệt sức, tên cảnh sát đột ngột quay ngoắt lại, túm lấy áo Gretchen, giật cô lại phía mình, “Nếu không muốn mất hết răng thì hãy giữ mồm giữ miệng.” Hắn nhìn quanh xem cô là bạn của ai và dùng hết sức đẩy cô về phía anh sinh viên trường Duke. “Đưa cô này ra khỏi đây ngay,” hắn quát, nhảy lên chiếc xe tuần tra và vung dùi cui trong lúc xe rẽ đám đông chạy ra.
“Tôi nghĩ đó là lời khuyên đúng đấy,” anh thanh niên nói và đưa cô bạn Gretchen đang hoảng hốt ra khỏi công viên trở về phòng khách sạn.
Những gì xảy ra tiếp theo thật khó mà kể ra được. Báo cáo của cảnh sát, được đệ trình sau đó, khẳng định là từ trên tầng của khách sạn Hilton, nơi Gretchen và các sinh viên bạn cô ở trọ, một số người đã ném túi giấy đựng phân xuống đầu cảnh sát đứng gác phía dưới. Ủy ban của Gretchen phủ nhận điều đó. Có điều chắc chắn là một lực lượng cảnh sát nòng cốt bị kích động mạnh đã xông lên tầng, đá tung mọi cánh cửa, lôi các bạn trẻ ra khỏi giường rồi dùng dùi cui, quả đấm sắt và nắm tay trần đánh đập họ tàn nhẫn.
Không nói một lời, bốn cảnh sát ùa vào phòng Gretchen, lật úp giường và bắt đầu vụt dùi cui vào người cô trong khi cô nằm co quắp trên sàn. Một người đá cô nhưng chỉ trúng gối; người khác đấm vào đầu cô. Cô không nhìn thấy mặt người nào vì quá hoảng sợ đến nỗi không hiểu chuyện gì đang xảy ra, nhưng khi họ lao ra khỏi phòng cô để sang tấn công tiếp phòng khác, cô nghe thấy một tên lẩm bẩm bằng giọng giận dữ và thất vọng cay độc, “Lần sau thì cứ ở yên trong trường, đồ cặn bã láu cá.”
Gretchen không bị thương, thậm chí bầm tím cũng không, vì dùi cui của cảnh sát vướng vào chăn gối, còn người đàn ông định đấm vào đầu cô lại rất kém cỏi, nhưng khi chạy ra hành lang, cô nhìn thấy một cảnh tượng khiến cô không bao giờ quên. Anh sinh viên luật trường Duke bị lôi ra khỏi phòng, và dưới ánh đèn hành lang chiếu sáng cho những kẻ tấn công, anh bị đánh bằng dùi cui cho đến khi đầu và mặt thành một đống máu bê bết. Hàm anh bị gãy và trẹo sang bên trông rất đáng sợ, vai trái bị đánh tàn bạo đến nỗi xương đòn cũng bị gãy. Anh bước bốn bước về phía Gretchen và đổ sụp xuống.
Trong lúc quỳ xuống đỡ cái đầu bị đánh đập tàn tệ của anh, Gretchen ngó vào căn phòng mà anh vừa bị lôi ra. Cảnh sát đã đá vỡ bóng hình ti vi, vì vậy không xem được hình ảnh nữa, nhưng bộ phận âm thanh vẫn hoạt động và một giọng nói phát từ phòng họp lớn của hội nghị đang báo tin, “Lúc này chúng ta có thể khẳng định chiến dịch đơn độc của Thượng nghị sĩ Eugene McCarthy đã không đi đến kết quả. Ông có thể đối phó với tổng thống Johnson ở New Hampshire và cố Thượng nghị sĩ Kennedy ở California, nhưng lại bất lực trước bộ máy ở Chicago.”
Anh sinh viên luật trường Duke bị đánh nhừ tử đã vô tình làm hại Gretchen khiến cuộc đời cô hoàn toàn thay đổi. Khi ghé vào bệnh viện hỏi thăm thương tích và nán lại chia sẻ với anh nỗi ái ngại trước thất bại của Đảng Dân chủ, cô so sánh anh với mình rồi phá lên cười: “Trông chúng ta như hai chiến sĩ Thập tự quân thời trung cổ áo giáp sáng loáng lên đường thực hiện những kỳ công ở Đất Thánh ấy. Bọn cướp lại tấn công chúng ta trước khi chúng ta lên tàu. Chúng ta đúng là hai kẻ ngớ ngẩn.”
“Trận đấu này thất bại rồi,” anh nói qua hai hàm được cố định bằng dây thép. “Nhưng sau này bọn chúng sẽ phải trả lời chúng ta. Vì chúng ta có chính nghĩa.”
“Bạn có đủ tiền để về nhà không?”
“Đủ. Nhưng bạn có thể làm giúp tôi một việc. Hôm nay bạn có ngó vào phòng tôi không?”
“Một mớ lộn xộn.”
Anh rên rỉ, nhún đôi vai nhức nhối và nói, “Tôi chắc chúng đã làm vỡ cây guitar rồi.”
“Tôi không thấy cái nào cả.”
“Lũ lợn ấy.”
“Đừng dùng từ ấy. Đó là từ của trẻ con.”
“Ngay cả sau những việc chúng làm đêm qua ư?”
“Đừng dùng từ ấy.”
“Có khả năng bọn chúng bỏ qua cây đàn. Nó được để trong tủ tường. Ngăn trên cùng. Nếu nó còn ở đó thì nhờ bạn mang về nhà, sau này gửi lại cho tôi. Đó là cây đàn Kentucky thực sự đấy.”
Khi quay về khách sạn, cô lên căn phòng bừa bộn của anh, ở đó khách sạn đang cho người chụp ảnh để làm việc với hãng bảo hiểm, và ngó vào tủ, nơi cất giấu an toàn của cây đàn guitar kiểu cổ khá to nhẵn bóng. Cô gảy vài hợp âm, hài lòng về chất lượng âm thanh.
Gretchen chưa bao giờ mang guitar theo khi đi xa vì cô cho rằng làm vậy chỉ gây sự chú ý không cần thiết, và đó là kiểu hành động của các cô gái thích làm giàu. Vì vậy cô không mấy thích thú với việc anh sinh viên trường Duke nhờ, nhưng khi nghĩ đến tình trạng đau yếu của anh, cô lại thấy đó là một sự nhờ vả không đáng kể gì.
Nhưng trực giác của cô đã đúng. Khi cô và nhóm bạn đến thành phố Patrick Henry ở Đông Chicago, hai cảnh sát bắt họ dừng lại và cho xe đỗ vào ven đường cao tốc, rồi lẩm bẩm với vẻ đắc ý khi thấy cây guitar, “Chắc chắn đây là một đứa trong bọn đó,” họ bảo nhau. “Cô đi theo chúng tôi.”
Họ lôi Gretchen ra đẩy cô lên xe tuần tra. Một người quay lại chộp lấy cây đàn ngứa mắt ấy ném phịch xuống ghế sau xe cảnh sát. “Còn cậu,” họ làu bàu với anh thanh niên lái xe, “đưa đám này cút khỏi đây ngay.”
“Các ông định làm gì cô ấy?” anh bạn lái xe kêu.
Viên cảnh sát lớn tuổi hơn quay phắt lại, xông tới chiếc xe nói với giọng thất vọng và tràn đầy tức tối, “Này, lũ trẻ ranh vắt mũi chưa sạch kia, chúng tao hết chịu nổi bọn mày rồi. Một câu láo lếu nữa... chỉ một câu thôi... là tao sẽ xé xác chúng mày ra cho mà xem. Giờ thì lái xe cút đi... nhanh lên.”
Anh bạn lái xe, một sinh viên được nhận bằng danh dự về văn học Anh của trường Yale, cũng hết chịu nổi đám cảnh sát, vì vậy anh bình tĩnh mở ngăn để găng tay, lấy ra một tập giấy và ghi lại số phù hiệu của hai cảnh sát kèm theo biển chiếc xe tuần tra. Sau đó, với vẻ thận trọng cố ý, anh kéo cần số dưới sàn xe và lái đi.
Mặt đỏ gay vì không kịp nghĩ ra câu gì ấn tượng để khiến mấy tên nhãi con vô dụng ấy hoảng sợ, viên cảnh sát tức tối quay lại xe, đùng đùng gài số rồi phóng vun vút đến sở chỉ huy, tại đây hắn ta lôi Gretchen xuống vỉa hè rồi đi vào một tòa nhà bằng gạch đỏ. Xô cô đến trước mặt viên trung sĩ trực ban béo ị, hắn làu bàu, “Ghi tên cô ta vào sổ,” và khi công việc chiếu lệ này đã được hoàn tất, hắn lôi cô dọc theo hành lang và tống cô vào một phòng trống, sau đó quẳng cả cây đàn vào. Chỉ vài phút sau căn phòng đã có thêm bốn cảnh sát và một thám tử mặc thường phục.
“Nó là con bé đập gạch vào mặt một cảnh sát,” tên sĩ quan đã bắt giữ cô nói, đọc to bức điện báo, “Tóc bím, đàn guitar, quần áo đẹp. Đúng cô ta rồi. Chúng ta sẽ gửi cô ta về Chicago.”
Trong năm người đàn ông có mặt tại căn phòng đó, hai người không nói câu nào suốt cuộc thẩm vấn, đó là thám tử mặc thường phục và viên cảnh sát trẻ hơn trong số hai người bắt cô. Những người khác gọi hắn là Woiczinsky. Hắn có vẻ trầm lặng, khỏe mạnh và nhìn bề ngoài thì dường như là lính mới.
Ba tên tra hỏi cô đều thuộc loại người có bề ngoài dễ phân biệt. Tên cảnh sát đã bắt cô người vạm vỡ, mặt đỏ gay. Tên thứ hai cao và nói giọng nhỏ nhẹ. Tên thứ ba thấp, gầy, nhanh nhẹn và nét mặt giống chim. “Mặt Đỏ, Giọng Êm, Người Chim,” Gretchen nhẩm đi nhẩm lại trong lúc bị hỏi cung.
Người Chim muốn biết cô đã làm gì ở Chicago... Tại sao cô cho rằng tấn công cảnh sát thì vẫn được bình yên vô sự? Hắn quan tâm đến việc cô hút cần sa và việc heroin được tìm thấy trong phòng cô. “Tại sao một cô gái xinh đẹp như cô lại làm trò dại dột với cái thứ rác rưởi đó?” Hắn hỏi mấy lần liền.
Mặt Đỏ dùng chiến thuật uy hiếp mạnh hơn - nhảy bổ vào người và hét sát tai cô, “Tại sao đám sinh viên khôn ngoan các cô lại có thể đi lang thang và lấy gạch đập vào mặt cảnh sát chứ?”
Gretchen không sao mở miệng được, vẫn chưa lấy lại bình tĩnh sau cú sốc ở Chicago, cô không sao hiểu được chuyện gì đang xảy ra với mình lúc này. Cô chỉ có thể đứng lặng im.
Chính tên Giọng Êm là người khởi đầu cho rắc rối thực sự. Hạ giọng thật thấp, hắn hỏi những người khác, “Chúng ta làm sao biết được ngay lúc này cô ta có buôn bán heroin không?” Câu hỏi của hắn được đáp lại bằng sự im lặng, vì vậy hắn nói tiếp, “Tôi muốn nói, chúng ta biết được bằng cách nào? Nếu cô ta là dân nghiện thì sao?”
Người Chim ghé sát lại hỏi, “Cô là dân xì ke à? Cô là con nghiện ma túy à?”
Khi cô vẫn im lặng, Mặt Đỏ nhảy vào và quát, “Chúng tôi đang nói với cô đấy. Khôn hồn thì trả lời đi. Tại sao cô lại là dân xì ke?”
Đến lúc đó Gretchen mới nhận ra: Chúng sẽ không đánh mình. Nếu định đánh thì hắn đã đánh rồi. Mình có thể chịu được sự lăng mạ của chúng... nếu chúng không đánh đập mình. Qua thái độ thận trọng tránh chạm vào người cô, cô đoán họ đã nhận mệnh lệnh nghiêm ngặt: Không được đối xử thô bạo với tù nhân... nhất là con gái. Và cô cũng đoán, qua cách ba tên thẩm vấn cô thỉnh thoảng liếc nhìn người mặc thường phục, rằng hắn có mặt ở đó để thực thi mệnh lệnh.
Lúc này Giọng Êm lại tiếp tục lý lẽ của mình, “Bằng cách nào chúng ta có thể biết chắc cô ta không buôn bán heroin? Còn nhớ con bé giấu ma túy trong đàn guitar không?” Hắn nhìn người mặc thường phục, anh ta gật đầu, vậy là Giọng Êm cầm cây đàn lắc lắc, chọc ngón tay vào thùng đàn, ngắm nghía mọi phía, rồi bằng một động tác bất ngờ khiến Gretchen kinh hãi há hốc miệng, hắn vung cây đàn lên quá đầu và đập tan thành từng mảnh.
“Bây giờ cô khai ra đi thì hơn,” Mặt Đỏ nói vẻ đe dọa, “nếu không chúng tôi sẽ đập cô tan ra đúng như vậy đấy.”
“Không có heroin ở đây,” Giọng Êm thông báo khi đá đám gỗ vụn, “Có lẽ cô ta giấu đi rồi.” Căn phòng lại chìm trong im lặng, và Giọng Êm nhắc lại, gần như thì thầm, “Có lẽ cô ta giấu đi rồi.” Lần này sự im lặng kéo dài hơn, vì sao thì Gretchen không thể hiểu nổi. Cô đang quan sát gã đàn ông mặc thường phục và thấy hắn chậm chạp gật đầu.
“Cởi quần áo ra!” Mặt Đỏ hét vào mặt cô. “Tao bảo cởi quần áo!” Bối rối trước luồng ánh sáng chói lòa bất ngờ và những bộ mặt hăm dọa, Gretchen ra hiệu không hiểu họ muốn gì, vì vậy Giọng Êm ghé sát hơn và nói, giọng răn đe, “Ông ấy bảo cô thoát y. Cởi hết quần áo ra. Chúng tôi muốn tìm xem cô giấu heroin ở đâu. ”
“Tôi không thể,” Gretchen cố gắng mở miệng, nhưng cô quá kinh hoàng đến nỗi không thốt được thành lời.
“Cô nhạy cảm hay sao?” Mặt Đỏ quát. “Cô ngủ với bọn rác rưởi ấy trên xe. Cô ăn nằm với chúng mỗi đêm. Chắc hẳn là tình dục tập thể. Thế mà bây giờ cô còn nhạy cảm. Thưa công nương...”
Người Chim tiến lại gần nói, “Thưa công nương, cô đã bị bắt. Cô phải đối diện với một loạt lời buộc tội. Và giờ thì cô sẽ phải cởi quần áo. Ngay tức khắc!”
Gretchen quá bối rối, cô không thể cử động hoặc nói một lời nào, vậy là Giọng Êm tiến lại gần hơn nữa, tay lăm lăm sợi dây da nặng nề, “Tôi sẽ đếm đến sáu, nếu cô chưa bắt đầu cởi quần áo, tôi sẽ đánh cho cô một trận nhừ tử. Thực hiện đi.” Hắn bắt đầu thì thầm đếm giọng đe dọa, “Một, hai, ba,” và dù tin chắc hắn sẽ không đánh thật, nhưng Gretchen vẫn cảm thấy lòng tự tin bị suy giảm trước cái thực tế rằng người đàn ông này rõ ràng mắc bệnh thần kinh. Trong số năm người, hắn là kẻ có khả năng sẽ ra tay đánh cô, vì vậy trong trạng thái bàng hoàng kinh hãi, cô bắt đầu cởi khuy áo. “Tốt hơn rồi đấy,” Giọng Êm nói giọng trấn an. “Chúng tôi sẽ không cần roi da nữa.”
“Cởi hết ra,” Mặt Đỏ ra lệnh. “Phải, tất cả những thứ chết tiệt ấy. Bọn sinh viên nữ khôn ngoan các cô cho rằng ngủ với bất cứ ai cũng được cơ mà. Đạo đức mới, các cô gọi như vậy đấy. Được rồi, chúng ta sắp được xem một chút cái đạo đức mới ấy đây.”
Ai đó cười khúc khích, và Giọng Êm nói, “Mục đích của chúng tôi là xem cô giấu heroin ở đâu.”
Khi trên người chỉ còn quần lót và nịt ngực, cô chần chừ đứng im, vậy là Giọng Êm rít lên một cách hung tợn choáng váng, “Tất tần tật!” Hắn lại chộp lấy sợi dây da và dữ dằn ve vẩy dưới mũi cô. Cô ngập ngừng, và hắn vung roi quật xuống sàn nhà một phát mạnh khủng khiếp, chỉ cách chân trái cô khoảng ba phân. “Cởi ra, đồ quỷ tha ma bắt! Ngay tức khắc!”
Run rẩy, Gretchen tháo móc nịt ngực và thả nó rơi xuống. Cô lò mò nhận thấy cả năm tên đều ngả người về phía trước. Không ai lên tiếng, và cô kéo quần lót xuống. Trong không khí im lặng kéo dài, một người nào đó thở dài, rồi Giọng Êm thì thầm bóng gió, “Cậu có thích món quà như thế trong tất Giáng sinh của mình không, Woiczinsky?” Cả bọn bật cười gượng gạo, rồi Mặt Đỏ hỏi với vẻ lúng túng thực sự, “Thưa tiểu thư, tại sao một người hấp dẫn như cô lại ngu ngốc dính vào trò chính trị chứ? Tại sao cô không kiếm lấy cho mình một anh chàng tử tế rồi lên giường với anh ta và đẻ ra một đàn con?”
“Cô có bạn trai chứ?” Giọng Êm hỏi. “Ý tôi là một bạn trai đặc biệt ấy? Một người mà cô thường xuyên lên giường cùng ấy?”
“Cô có thích thú khi ở trên giường không?” Người Chim hỏi. “Ý tôi là cô có vui thú thực sự khi anh ta leo lên không?”
Gretchen nắm chặt tay và cố không ngất xỉu, nhưng dù đã tập trung hết chút sức lực còn lại, cô vẫn chưa chuẩn bị tinh thần cho những gì xảy ra tiếp theo. “Gập người xuống,” Giọng Êm hạ lệnh. Khi cô vẫn đứng bất động dưới ánh đèn, hắn dịu dàng nhắc lại, “Bây giờ cô phải cúi gập người xuống.” Khi cô vẫn không cử động, hắn bèn quất sợi dây da xuống đất cạnh chân cô và thét, “Gập người xuống, đồ đĩ điếm chết tiệt!”
“Chúng tôi muốn xem cô giấu heroin ở đâu,” Người Chim nói nhỏ, và lần đầu tiên một người trong bọn họ chạm vào cô. Người Chim giơ một cái thước kim loại, nhẹ nhàng đặt lên đầu cô, rồi khéo léo ấn xuống cho đến khi trán Gretchen gần chạm sàn nhà. Giọng Êm xoay một trong những đèn chiếu cho đến khi ánh sáng tập trung vào mông cô, rồi hài lòng nói, “Mục tiêu đêm nay. Anh thích những quả táo ấy như thế nào, Woiczinsky?”
Gretchen không thể nói chắc ai là người tiến lại gần sau đó, nhưng trong lúc cái thước kẻ thép của Người Chim vẫn nhẹ nhàng giữ đầu cô hạ thấp, một người khác đã lấy bút chì thọc vào cửa mình và hậu môn cô. “Ở đây không có ma túy,” Giọng Êm thông báo.
Cả bọn lùi ra xa, và Gretchen từ từ trở lại tư thế thẳng đứng. Mắt đau khổ tột cùng nhìn vào vòng tối lờ mờ, cô chỉ thốt ra được một câu: “Các ông đúng là đồ lợn.”
Từ trong bóng tối, Woiczinsky nhảy xổ ra, nắm tay đấm mạnh vào đầu cô, đánh cô ngã lăn vào một góc phòng.
“Đồ ngu!” người đàn ông mặc thường phục quát. “Đuổi cậu ta ra khỏi đây.”
Mặt Đỏ và Người Chim đẩy viên cảnh sát trẻ ra khỏi phòng, còn Giọng Êm thì lại góc phòng và lấy mũi giày thử lay người Gretchen. “Cô ta không bị thương,” hắn nói với người mặc thường phục, người này ném quần áo cho Gretchen và ra lệnh, “Mặc vào, đồ con gái hư đốn.”
Vẫn kinh hoàng tột độ, và đến lúc đó mới nhận thức được việc gì vừa xảy ra với mình, Gretchen co ro ở góc phòng tìm cách gỡ đống quần áo. Chiếc nịt ngực đã biến đâu mất, cô lê gót khắp phòng tìm kiếm một cách vô hiệu. Cô đang mải miết với cuộc tìm kiếm vô ích ấy thì nghe thấy tiếng người lao xao ngoài hành lang. Tiếng nói đến gần hơn, và ai đó đẩy cửa mở ra. Với một cảm giác nhẹ nhõm không thể diễn tả được, cô nhận ra người tài xế của mình, cậu sinh viên văn học Anh trường Yale. Anh đã hỏi ý kiến luật sư, người này bèn mời ông thị trưởng đến. Giờ đây cả ba người bước vào phòng và thấy Gretchen đứng trần truồng giữa mớ quần áo rải rác.
“Việc quái gì xảy ra ở đây thế này?” viên luật sư hỏi.
“Thôi nào, thôi nào!” ông thị trưởng an ủi. “Không ai bị thương cả.” Ông ta nhìn Gretchen và hỏi, “Cô không bị xâm hại tình dục đấy chứ?”
Khi thấy Gretchen lắc đầu ý nói không, ông luật sư nói, “Có rất nhiều cách khiến một cô gái bị xâm hại tình dục.”
“Nhưng chỉ một cách đáng được tính đến thôi,” ông thị trưởng nói. Trong khi Gretchen mặc quần áo, ông quan sát kỹ khuôn mặt cô và hỏi, “Không có bộ phận nào bị tổn thương, phải không?” Khi đã yên trí là không xảy ra thiệt hại thực sự nào, ông bảo Gretchen, “Đây là một sự nhầm lẫn, một trường hợp không may nhận dạng nhầm thôi. Dù sao đi nữa cô cũng không bị thương, phải không?”
Gretchen hiểu câu hỏi, hiểu cả hàm ý trong đó nữa. Cô đang được đề nghị hãy lẳng lặng ỉm đi một vụ tai nạn mà ai cũng thấy đáng tiếc và việc đưa vụ này ra trước công luận có thể gây rắc rối cho cô cũng như cho những người khác. Cô thực sự muốn trả lời là không có gì xảy ra cả, nhưng đúng lúc sắp đồng ý thì cô lại vô tình nhìn xuống sàn và thấy những mảnh vỡ của cây đàn guitar. Những kẻ đương quyền cố ý đập nát một cây guitar chỉ vì nó tượng trưng cho những điều họ không thể hiểu nổi thì không xứng đáng được bảo vệ.
“Có,” cô lặng lẽ nói, hoàn toàn nhận thức được điều mình đang làm, “Tôi bị hành hung... một cách tàn bạo... do viên cảnh sát tuần tra Woiczinsky.”
“Maggidorf!” ông thị trưởng gọi. Khi người đàn ông mặc thường phục bước vào phòng, ông thị trưởng quát, “Cô gái này nói Nick Woiczinsky đã hành hung cô ấy.”
“Woiczinsky!” viên thám tử ngạc nhiên há hốc miệng. “Cậu ta đang ở Gary. Ở đó cả ngày. Bắt thằng nhóc bị buộc tội giết người.” Hắn gọi ba tên cảnh sát kia vào, và cả ba đều khẳng định với ông thị trưởng là Nick Woiczinsky đã đi Gary từ sáng, mấy tiếng nữa mới về.
“Ông nghĩ tôi nghe được cái tên đó ở đâu chứ?” Gretchen bướng bỉnh vặn lại. Cô quay về phía viên luật sư, nhưng ông ta chỉ nhún vai.
“Điều khôn ngoan nhất các cô các cậu nên làm,” ông luật sư khuyên, “là quay ra xe và lái về miền Đông.” Khi Gretchen định phản đối, ông ta cảnh cáo, “Nếu không, cô có thể bị bắt vì tội vu khống cảnh sát đấy. Rõ ràng là cảnh sát viên Woiczinsky không thể hành hung cô được vì hôm nay anh ta không có mặt trong thành phố.”
Khi Gretchen bác bỏ sự thông đồng bỉ ối này, viên luật sư mỉm cười nhìn cô, không hề bối rối. Ông ta nhún vai nói, “Thưa tiểu thư, một khi bốn cảnh sát viên nghiêm túc này đã làm chứng là hôm nay Nicholas Woiczinsky không có mặt trong thành phố...”
Khi viên luật sư nói câu này, anh bạn sinh viên văn học Anh bước lên phía trước định lên tiếng, nhưng Gretchen đoán được anh sắp nói gì bèn ngăn anh lại. “Tôi nghĩ tốt hơn chúng ta nên đi thôi,” cô bình tĩnh nói.
“Thế mới là cô gái tốt,” ông thị trưởng trấn an. “Tôi tin là cô không bị thương, và tôi cũng tin là toàn bộ việc này sẽ đi vào quên lãng. Mấy ngày vừa qua... Chicago... tình hình đã gay go lắm rồi... đối với tất cả chúng ta.”
Khi họ đã ra hẳn khỏi thành phố và hướng về phía Đông, Gretchen hỏi anh lái xe, “Bạn định nói bạn có thể nhận mặt Woiczinsky phải không?”
“Tôi đã ghi được số phù hiệu của hắn,” anh lái xe đáp.
“Tốt.” Cô ngồi im một lúc, rồi nhắc lại, “Tốt. Khi nào chúng ta đến Cleveland, tôi muốn bạn đưa tôi tới hãng Associated Press. Vì tôi đã chịu đựng đủ rồi.”
Khi câu chuyện được trình bày nổi bật trên các tít báo, Gretchen phải nghe phản ứng từ ba nguồn xã hội Boston, thầy trò trường Cambridge và gia đình đang đau đớn khổ sở - và cô chưa được chuẩn bị để đối phó với cả ba.
Ở Boston, lớp người lớn tuổi nổi giận, không phải với cảnh sát Patrick Henry, “những người chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi,” mà với Gretchen vì đã phô bày công khai những hành vi thiếu đoan trang của mình. Một bà lập luận: “Đám sinh viên ấy phải được dạy cho biết là cảnh sát được trang bị dùi cui và súng để duy trì an ninh trật tự, và nếu kẻ nào cố vi phạm an ninh trật tự bằng cách phản kháng và biểu tình thì kẻ đó có bị đánh đập bằng dùi cui một chút cũng là chuyện bình thường.” Một người khác tổng kết dư luận Boston bằng cách đưa ra ý kiến: “Tất cả những người khôn ngoan đều biết thỉnh thoảng phụ nữ cũng bị hãm hiếp, nhưng họ không bao giờ chạy đến tòa báo. Đó là một rủi ro mà gia đình phải im lặng chấp nhận.” Tuy nhiên vấn đề nghiêm trọng hơn cả vẫn là, “Dù sao đi nữa thì một cô gái dễ thương như cô ấy làm gì ở một thành phố như Chicago nhỉ?” Người ta còn rì rầm to nhỏ với nhau những nghi ngờ về tính đúng mực của cô gái khi lái xe xuyên suốt đất nước cùng một thanh niên vừa quen biết, “dù anh ta có học ở trường Yale đi chăng nữa.” Và khi cả thị trưởng Patrick Henry lẫn cảnh sát trưởng ở đó đều thề là ngày hôm đó Nicholas Woiczinsky không có mặt trong thành phố, như vậy chứng tỏ câu chuyện của Gretchen là sản phẩm của trí tưởng tượng, thì dư luận càng có cơ sở vững chắc: “Lại thêm một thanh niên cấp tiến bị rơi vào chính cái bẫy của mình.”
Tại các trường đại học ở Cambridge, phản ứng lại khác hẳn. Sinh viên Harvard và MIT, cùng các cô gái Radcliffe, sẵn sàng chấp nhận câu chuyện của Gretchen đúng như lời cô kể; phần lớn đều quen biết bạn bè từng trải qua những kinh nghiệm ghê tởm với cảnh sát và cảnh vệ quốc gia, và khi bắt đầu xuất hiện nhiều bài phóng sự về việc lực lượng của thị trưởng Daley đã đối xử thô bạo với phóng viên như thế nào dù họ không tham gia biểu tình, thì những gì Gretchen tường thuật lại càng đáng tin hơn. Tại nhiều khoa, ở một mức độ nào đó, cô đã thành một nữ anh hùng, kể cả lớp giáo sư trẻ hơn cũng nói, “Bạn đã hành động thay mặt cho toàn bộ cộng đồng văn minh.” Một giáo sư luật trường Harvard khuyên cô, “Cô cứ kiện đến cùng. Người dân không buộc phải chấp nhận những điều sỉ nhục như vậy.” Ông tình nguyện đại diện miễn phí cho cô nếu vụ này ra trước tòa. Nhưng điều khiến cô hoảng sợ là phản ứng quá khích của những người bạn theo chủ nghĩa tự do của mình. Đám sinh viên da đen nói với cô, “Giờ thì bạn đã hiểu những gì chúng tôi thường nói rồi đấy. Giờ thì bạn đã biết tại sao phải có đấu súng ngoài phố rồi đấy.” Một ủy ban hành động của trường Harvard đến gặp cô và tuyên bố, “Sau sự kiện Chicago, nhất định phải tổ chức chống đối công khai. Một vài tòa nhà sẽ bị phóng hỏa.” Trong tâm trạng rối bời, cô cảm thấy mình hoàn toàn không có khả năng dẹp tan những mối đe dọa như vậy.
Nhưng chính phản ứng của cha mẹ khiến cô bối rối nhất. Tất nhiên, họ thấy phẫn uất vì con gái bị ngược đãi và họ bảo vệ cô một cách ngoan cường; nhưng cả hai cũng tỏ ra xấu hổ khi đứa con tự cho phép mình mắc vào mớ bòng bong như vậy, và cô đã bắt gặp cha mẹ mình buột ra những câu nói cho thấy họ ngờ rằng chính cảnh sát mới là người nói đúng sự thật. Họ dường như tỏ thái độ “Không có lửa thì sao có khói”. Và chuyện cô phơi bày sự ê chề của mình trên báo chí Cleveland, nào là chuyện cô bị lột trần, rồi chuyện cô bị năm gã đàn ông đểu cáng ngược đãi, đã vượt quá khả năng hiểu biết của hai bậc phụ huynh. “Mẹ cứ tưởng con muốn giữ kín chuyện ấy,” một buổi chiều bà Cole vừa nói vừa thấm nước mắt, và khi Gretchen đáp rằng ông giáo sư luật trường Harvard sắp đứng ra bảo vệ cô trong vụ kiện dân sự chống lại thành phố Patrick Henry, mẹ cô đâm ra rối trí.
Đến lúc này Frederick Cole mới cho thấy mình chính là con người kiên quyết tôi từng biết trong các cuộc đàm phán. “Nếu quả thật con gái chúng tôi phải chịu đựng những gì mà nó kể là đã xảy ra trong đồn cảnh sát ấy,” ông nói với họ hàng, “chúng tôi sẽ bảo vệ nó đến cùng. Không chỉ vì nó mà còn vì tất cả những thanh niên có thể gặp hoàn cảnh tương tự.”
“Ông muốn nói... lại đấu tranh trên tất cả các mặt báo ư?” Vợ ông hỏi. “Thế này thì quá lắm rồi. Gretchen, bảo cha con thôi đi.”
Để thỏa hiệp, ông Cole thuê một thám tử tư ở Brookline cố gắng làm sáng tỏ chuyện đã thực sự xảy ra. Đầu tháng Mười, viên thám tử này lên đường đi Patrick Henry, làm việc ở đó hai tuần và mang về những tin tức đáng lo ngại. Trong buổi họp kín có sự tham gia của Gretchen, cha mẹ và các cố vấn luật pháp của công ty, viên thám tử báo cáo, “Tôi đã kiểm tra toàn bộ hồ sơ, và mọi việc có vẻ khá rõ ràng. Cảnh sát Chicago đã phát lệnh bắt giam đúng thủ tục vì nghi ngờ cô đã tấn công một cảnh sát. Qua ảnh chụp, bốn nhân chứng ở Chicago nhận diện cô chính là người con gái mang đàn guitar đã đập vào mặt cảnh sát bằng một viên gạch... hay hòn đá... hoặc một vật nào đó.”
“Ở Chicago tôi làm gì có guitar,” Gretchen phản đối.
“Cảnh sát có ảnh cô mang một cây guitar,” thám tử đáp, đưa ra một tấm ảnh cô cầm cây đàn của anh sinh viên trường Duke bị vỡ hàm.
“Nhưng đó có phải là đàn của tôi đâu,” cô lại phản đối, vừa nói vừa quan sát nét mặt cha mẹ và các luật sư của gia đình, nhưng ai cũng có vẻ lầm lì, vì mọi người đều biết Gretchen có một cây đàn guitar.
“Giờ thì đến lượt thành phố Patrick Henry, bằng chứng cho thấy ngày hôm đó viên cảnh sát tuần tra Nicholas Woiczinsky không trực ở Patrick Henry là rất chắc chắn, tôi phải nói là gần như không thể bác được. Hơn nữa, thị trưởng và luật sư Halliman đều cung cấp lời khai có tuyên thệ rằng khi họ tới đồn cảnh sát thì cô vẫn mặc đầy đủ quần áo và không có chuyện gì xảy ra cả. Tôi có cảm giác chắc chắn rằng nếu dám quay lại Patrick Henry, cô sẽ bị tống giam ngay, hoặc vì vụ hành hung có đầy đủ chứng cớ ở Chicago hoặc vì tội làm chứng gian chống lại cảnh sát địa phương.”
“Nhưng còn anh bạn lái xe của chúng tôi thì sao? Anh ấy đã thấy Woiczinsky. Anh ấy đã nhìn thấy tôi ở đồn cảnh sát.”
Thám tử hắng giọng, “Tôi không muốn nêu vấn đề này ra, nhưng ở đây tôi có ba bản khai. Bản thứ nhất cho thấy cảnh sát đã tiến hành điều tra về cậu thanh niên đó và cậu ta từng bị kết án ở Connecticut... cô có đoán được vì tội gì không? Cần sa. Còn hai bản tiếp theo,” nói đến đây ông ta chuyển cho Gretchen hai văn bản có giá trị pháp luật, “có lẽ cô muốn giữ kín tài liệu này. Tôi chưa đưa cho cha mẹ cô xem đâu.”
Gretchen thấy bản thứ nhất liên quan đến nhà trọ Blue-and-Gray nằm ở Giao điểm Breezewood trên đường cao tốc Pennsylvania, trong đó nhân viên trực đêm của nhà trọ khai là đêm thứ năm, 29 tháng tám, Gretchen Cole ở Brookline, bang Massachussets, và Randolph Pepperdine ở New Haven, bang Connecticut, đã cùng đăng ký phòng. Bản khai thứ hai là của cô phục vụ, một cô Claribelle Foster ở Somerset, bang Pennsylvania, thề rằng hai người đã ở chung phòng. “Tội danh liên quan tới cần sa sẽ đánh bật lời làm chứng trước tòa của cậu thanh niên đó,” thám tử cảnh báo, “và xem ra hai văn bản này có thể làm cho cô rơi vào tình thế khó xử đấy. Hãy nghe lời khuyên của tôi, cất kỹ những giấy tờ này và quên mọi chuyện đi.”
Gretchen toan nghe theo lời khuyên ấy, nhưng một điều sâu kín nào đó đã buộc cô không thể đầu hàng, vậy là không cần nghĩ đến hậu quả, cô ném mấy bản khai trước mặt cha và hét lên, “Toàn là dối trá. Chúng con cùng đăng ký phòng ở nhà trọ đó... với các bạn khác nữa. Họ sẽ làm chứng con ở cùng phòng với hai bạn gái.”
Nhưng vừa dứt lời cô đã thất vọng nhận thấy chỉ một người trong phòng chấp nhận câu chuyện cô kể. Đối với những người khác, một sinh viên nói thật trong khi ông thị trưởng nói dối là điều không sao hiểu nổi. Cô còn trẻ, dính líu tới những triết lý lạ lùng, giao du với những kẻ còn lạ lùng hơn, và chẳng tội nào cô bị cáo buộc lại không có khả năng xảy ra trong thực tế. Giận dữ đến lặng người, cô nhìn hết bộ mặt nghiêm nghị này đến bộ mặt nghiêm nghị khác, và nhận ra mình đang nhìn thấy qua họ hình ảnh của chính đoàn bồi thẩm Patrick Henry sẽ xét xử vụ kiện này, và trong cô tràn ngập cảm giác về sự vô hiệu khủng khiếp của những ý kiến mình đưa ra. Chính những người đáng lẽ phải bênh vực cô lại trở thành kẻ buộc tội cô.
Đến lúc này cha cô mới lên tiếng. Ông chính là người tin tưởng cô. “Cha đã dành cả tuần trước điều tra về bốn thanh niên đi cùng xe với con, và cha tin chắc những gì con nói đều đúng sự thật.” Gretchen nhìn cha với tình cảm thương yêu xót xa mà thỉnh thoảng một cô gái vẫn dành cho cha mình khi cô đột nhiên nhìn ông như một người phải tranh đấu với cả thế giới, và cô chờ đợi ông yêu cầu các luật sư gia đình khởi kiện, nhưng thay vì vậy cô lại nghe ông nói, “Nhưng chúng ta hoàn toàn không thể làm gì. Bằng sự kết hợp những lời làm chứng dối trá rất ăn khớp với nhau đó, bọn họ khiến chúng ta phải bó tay rồi.”
“Ý cha là gì?” cô kêu lên.
“Ý cha là có những lúc một âm mưu có thể khiến người ta bất lực.”
“Hãy gượm đã, ông Cole!” viên thám tử phản đối. “Nếu ông cho rằng tôi ngốc nghếch đến nỗi không thể nhận ra một âm mưu thì...”
“Tất nhiên đó là một âm mưu,” ông Cole điềm đạm nói, “Tôi đã xem sổ tay của Randolph Pepperdine, cậu ta có ghi tên và số phù hiệu của Woiczinsky thật. Anh không bịa ra những chi tiết như vậy được.”
Gretchen sững sờ khi nghe câu kết luận này. Cô sửng sốt chỉ những tờ khai nằm trên bàn mà kêu lên, “Con tưởng cha cũng tin chúng?”
Ông Cole vòng tay ôm con gái, “Cha tin mình biết rõ chuyện xảy ra tại nhà trọ. Con có cho rằng mẹ con và cha sẽ tin những lời khai như vậy không?”
Gretchen nhìn đám luật sư, nhìn bà mẹ mắt đỏ hoe và viên thám tử ngoan cố. Trong cơn thất vọng, cô cúi đầu trước mặt tay thám tử và nói, “Chắc hẳn dân Brookline rất yên tâm vì đã có ông bảo vệ.” Rồi cô bỏ ra khỏi phòng, và khi cô đã đi khuất, mẹ cô gục đầu xuống bàn lẩm bẩm, “Ơn Chúa, vụ này sẽ không đi xa hơn nữa.”
Những tháng còn lại của năm 1968 là thời kỳ gay go cho gia đình Cole. Sau cuộc họp với viên thám tử và việc hủy bỏ vụ kiện của cô, Gretchen vẫn sống ở nhà nhưng cảm thấy không thể nói chuyện với cha mẹ được. Bà Cole cố gắng hòa giải với những lời cam đoan đại khái như “Cha mẹ đứng về phía con, con yêu, dù con có làm gì ở Chicago chăng nữa.” Gretchen đáp lại qua loa như một người khờ dại, mà cô thì không phải như vậy.
Ông Cole làm tất cả những gì có thể để hiểu được nỗi đau mà con gái ông phải chịu đựng; có lần ông viết thư tới Geneva cho tôi:
Khi chúng ta gặp nhau ở London, ông đã kể với tôi ông đang giúp một người Anh ở Vwarda đưa con gái ông ta trở lại trạng thái cân bằng. Tôi cầu Chúa sao cho ông cũng làm được như vậy cho tôi. Đứa trẻ đáng yêu với hai bím tóc và cây đàn guitar mà ông từng gặp đã phải chịu đựng một trải nghiệm khiến cuộc sống của cháu đảo lộn và đến bây giờ vẫn làm cháu choáng váng, còn tôi thì đứng bất lực bên cháu. Tôi đã cố gắng đảm bảo với cháu hết lần này đến lần khác rằng tôi hiểu và thông cảm với cháu, nhưng vô ích. Tôi đã bỏ rất nhiều công sức và đã vận động ngăn không cho cháu tiến hành vụ kiện chống lại những quan chức dễ mua chuộc, chỉ vì muốn giúp cháu, nhưng những cố gắng ấy đúng là gậy ông đập lưng ông.
Có lần ông nói nếu ông có một cậu con trai. Không hiểu nuôi dạy một đứa con trai có dễ hơn không?
Ông đã nhiều lần làm lành với con gái, công nhận mình nhầm khi thuyết phục cô từ bỏ vụ kiện cảnh sát, nhưng vẫn không thể giành lại tình cảm quý trọng của cô, và họ sống như kẻ thù trong chính ngôi nhà cô đã học ca hát.
Nhận thức được chuyện gì đang xảy ra, những người bạn sinh viên của Gretchen hỏi tại sao cô chịu ở lại ngôi nhà đó, thì cô giải thích, “Tháng Giêng tới tôi mới tròn hai mốt tuổi. Nhưng với khoản lợi tức thừa kế đầu tiên của mình... vĩnh biệt Brookline.”
Đến cuối tháng Mười, cô rõ ràng không thể tập trung vào việc học cao học tại trường Radcliffe và cũng không thể hào hứng với cuộc bầu cử được nữa, một khi cô tin rằng hoặc Nixon hoặc Humphrey sẽ tự giam mình trong những quan niệm cũ rích của chính quyền. Lần nào nghe một trong hai người đó nói đến luật pháp và trật tự, cô cũng đều cau mày, và khoảng giữa tháng Mười một, cô thậm chí thôi luôn cả việc giả vờ lên lớp.
Đầu tháng Mười hai, một số sinh viên luật trường Harvard cố gắng mời cô lãnh đạo ủy ban vận động giúp thẩm phán Abe Fortas được Quốc hội bổ nhiệm làm Chánh án tòa án tối cao nhưng cô không tài nào nhen lên trong lòng ngọn lửa nhiệt tình. Nhưng dù sao luật pháp vẫn mê hoặc cô và cô tự hỏi không biết các thanh niên cấp tiến có sai lầm không khi họ khuyên: “Mỗi khi xã hội làm nhục bạn, hãy hạ gục họ bằng siêu tình yêu.” Gác hết mọi việc sang một bên, cô dành cả ngày soạn thảo một lá thư lời lẽ khá thận trọng rồi gửi bảo đảm đi:
Brookline, Massachussets.
Ngày 10 tháng Mười hai năm 1968
Gửi Cảnh sát tuần tra Nicholas Woiczinsky
Sở Cảnh sát Patrick Henry, Indiana.
Thưa ngài sĩ quan Woiczinsky,
Tôi là người phụ nữ trẻ đã bị các đồng nghiệp của ông làm nhục tại sở cảnh sát hồi tháng Tám năm ngoái, là người mang theo cây đàn guitar đã bị ông bắt nhầm khi chúng tôi đang lái xe qua Indiana.
Tôi thường hồi tưởng về ngày hôm đó, và nhớ lại rằng trong suốt thời gian tôi ở trong căn phòng đó ông đã không nói một lời nào và không làm gì khiến tôi thêm hoảng sợ. Giờ đây, tôi đoán ông xấu hổ về toàn bộ cách thức tiến hành việc đó.
Tôi cũng rất xấu hổ. Tôi xấu hổ vì đã suy sụp tinh thần và gọi các ông là đồ lợn. Đó là một từ đáng ghét, từ đáng lẽ tôi không nên dùng. Ông có lý khi phản ứng như ông đã làm, và tôi tha thứ cho ông tội đã đánh tôi ngã lăn đến tận cuối phòng.
Ở địa vị ông, chắc tôi cũng sẽ làm như vậy, và bây giờ tôi muốn nói lời xin lỗi.
Có lẽ ông không hiểu tại sao tôi không khởi kiện như tôi đã đe dọa. Lời khai có tuyên thệ của ông thị trưởng, ông cảnh sát trưởng, viên luật sư và cảnh sát Maggidorf đã khiến cha mẹ tôi và các luật sư của họ coi tôi là kẻ nói dối. Họ cũng tin rằng hôm đó ông không có mặt ở Patrick Henry. Tôi ước gì ông đã không có mặt, vì ông tử tế hơn những người khác. Xin ông hãy mãi như vậy.
Kính thư,
Gretchen Cole
Hôm sau, một giáo sư kỳ cựu dạy Gretchen gọi cô đến hỏi, “Tinh thần cô có rệu rã như biểu hiện bên ngoài không đấy?” Khi cô gật đầu, ông liền gợi ý, “Sao cô không tạm nghỉ học kỳ này đi? Tới Florida... Quần đảo Virgins... một nơi nào đó hoàn toàn mới và cố gắng tập trung suy nghĩ thấu đáo mọi chuyện?” Có vẻ như ông là người trưởng thành đầu tiên thông cảm với vấn đề của cô.
“Có lẽ em sẽ làm thế,” cô đáp. “Sau năm mới.”
“Sao lại phải trì hoãn?”
“Tháng Giêng tới em mới hai mươi mốt tuổi.”
Ông bỏ kính ra. “Cô mới hai mươi thôi sao? Với thành tích học tập xuất sắc như vậy ư?” Ông xem bảng điểm thời sinh viên của cô và thêm cả mấy bản ghi chép đính kèm. “Có phải cô vẫn thường hát ở một quán cà phê không?” Khi cô gật đầu, ông nói tiếp, “Cô về đi. Từ bây giờ cho đến hết năm hãy quên việc học hành đi.”
“Thầy thấy em nên làm gì khi quay lại học tiếp?”
“Hầu như cô có thể đi theo bất cứ hướng nào,” ông đáp. “Cô thiên về chính trị phải không?”
“Em không nghĩ như vậy. Em nghĩ có lẽ em thích... ờ... tìm một thời kỳ đầu nào đó trong lịch sử khi mọi giá trị thay đổi liên tục... có thể là Cuộc Chiến Trăm Năm...”
“Và viết về đề tài đó?”
“Vâng.”
“Cực kỳ tuyệt vời! Một thử thách hạng nhất! Một việc thích hợp hạng nhất!”
Gretchen mỉm cười khi chứng kiến sự nhiệt tình của mình; thật dễ chịu khi được nghe một người trưởng thành tán thành việc gì đó chứ không nêu ra một loạt lý do phản đối như tại sao dự kiến đó không thể thành công được. “Tiếng Latinh của cô ra sao?”
“Tám năm liền loại A ạ.”
“Tiếng Đức?”
“Em đọc được.”
“Còn tiếng Pháp?”
“Không bằng tiếng Đức ạ.”
“Thế thì rất đơn giản.” Ông đứng lên đi đi lại lại trong phòng làm việc. “Lạy Chúa, ước gì những vấn đề khác được đưa đến văn phòng này cũng đơn giản như vậy. Cô là một cô gái ưu tú. Một trong những sinh viên chưa tốt nghiệp giỏi nhất mà tôi có được. Hãy đi Besançon - nó ở Pháp, gần biên giới Thụy Sĩ ghi danh vào Viện Nghiên cứu Mỹ. Ôn luyện tiếng Pháp đi. Rồi quay trở lại sẵn sàng cho một công việc nào đó xứng đáng.” Ông tra cuốn giới thiệu du học và tìm được cái tên ông cần. “Karl Ditschmann. Một người tuyệt vời... gốc Alsace... từng dạy ở Michigan và Middlebury... cứ nói với ông ấy là tôi giới thiệu cô tới và cô không phải lo về điểm số. Chỉ cần lướt qua sách vở... đi dạo trên đồi... tưởng tượng cô đang quay trở lại năm 1360... giai đoạn đầu của chiến tranh đã qua... trận Crécy và Poitiers đã kết thúc... Cái chết Đen đã bị đẩy lui... mọi người thở phào nhẹ nhõm... hãy tưởng tượng sự hoảng loạn khi chiến tranh lại bùng ra... trận Agincourt và Cuộc nổi loạn của nông dân ở ngay phía trước.” Ông đi tới đi lui trong căn phòng nhỏ và nói tiếp, “Hãy cảm nhận thật sâu sắc về nước Pháp. Những người nông dân nổi loạn đang đi xuống thung lũng này - chính thung lũng dưới chân cô đây - và họ ào qua. Cứ cho là cô hiểu thấu đáo - ngay lập tức cô có thể viết một thứ gì đó có giá trị gắn với thời đại chúng ta.
Nhiệt tình của ông đã ngấm sang Gretchen, và cô bèn ghi lại tên viện nghiên cứu ở Besançon, nhưng khi cô sắp rời khỏi đó, ông nói, “Có lẽ một điều thậm chí còn quan trọng hơn nữa, đó là phải tiếp tục hát,” và cô hỏi, “Thầy đã bao giờ chứng kiến một cây guitar bị đập vỡ thành từng mảnh chưa ạ? Thầy biết không, nó tác động tới việc ca hát đấy ạ.”
Vậy là mấy tuần cuối năm 1968, cô chỉ quanh quẩn ở nhà đọc lung tung không có hệ thống về Cuộc Chiến Trăm Năm, sống xa cách mọi người. Các nam sinh trường Harvard, Amherst và MIT quen biết cô thỉnh thoảng ghé qua chuyện trò, nhưng cô tránh họ như thể họ bị bệnh. Có lần ở cạnh bốn nam sinh trong số đó, cô thấy gương mặt họ đang biến đổi thành mặt của đám cảnh sát đã bao vây cô ở Patrick Henry.
Quán Cast Iron Moth mời cô đến hát, cả vào dịp Tạ ơn lẫn Giáng sinh, nhưng cô không thể buộc mình làm được điều đó. Thậm chí khi ở nhà một mình cô cũng không cất nổi tiếng hát. Việc duy nhất cô còn quan tâm là công tác của ủy ban giúp người trốn lính chạy sang Canada; một thanh niên California cao lớn được cô giúp chút tiền đã kéo cô thoát khỏi cảm giác thờ ơ, vì anh có vẻ là người hiền lành, nhận thức được những rắc rối bất ngờ xảy ra với cô, nhưng khi anh định hôn từ biệt để cảm ơn những gì cô đã làm thì cô lại lảng tránh.
Ngày 10 tháng Giêng, sinh nhật cô, Gretchen bước vào văn phòng viên luật sư đại diện cho gia đình cô và thông báo cho ông ta biết cô muốn nhận một phần tư số lợi tức hàng năm của mình. Cô còn nói thêm, cứ đến đầu quý, cô sẽ gửi thư thông báo những tấm séc tiếp theo cần được chuyển đến đâu. Khi ông luật sư bắt đầu giảng giải cô nên sử dụng khoản tiền đó như thế nào, cô liền cắt ngang: “Chín giờ sáng mai tôi sẽ có mặt ở đây để nhận tiền.”
“Lần này cô phải cẩn thận khi giao du với bạn bè...”
Cô khinh khỉnh nhìn ông ta. Chính ông ta là một trong những người kiên quyết nhất trong việc khuyên cô không khởi kiện. Ông ta là người lên tiếng đầu tiên và kẻ đầu têu cho cả nhóm công nhận những lời buộc tội chống lại cô. Cô nghĩ đến hàng chục điều khôn ngoan cần phải nói với ông già thận trọng này, nhưng cô biết sự trò chuyện kiểu đó là không thể, vì vậy cô kiềm chế cơn giận và rời khỏi văn phòng luật sư. Ông ta theo cô ra hành lang để hỏi, “Cô nói số tiền tiếp theo sẽ được chuyển đến đâu nhỉ?” và cô không thể nhịn được nữa, “Có lẽ là Nepal. Cũng có thể là Marrakech. Tôi vẫn chưa biết, nhưng tôi sẽ báo cho ông hay.” Trên đường về nhà, cô chợt bật cười khi nghĩ đến cảnh ông ta dán mắt vào bản đồ để cố xác định vị trí Nepal và Marrakech. Cô cũng chẳng tài nào giúp được ông ta; đó là những cái tên mà mấy thanh niên ở quán cà phê vô tình nhắc đến.
Ngày 11 tháng Giêng, cô nhận tấm séc đầu tiên, tới ngân hàng, đổi thành một tập séc du lịch, đến hãng Air France lấy vé máy bay, và trưa hôm đó báo cho mẹ biết, “Con sẽ bay chuyến tám giờ đi Pháp.”
“Khi nào?”
“Đêm nay. Mẹ có thể nói với cha.” Cô không tiết lộ thêm về kế hoạch của mình.
Bà Cole lập tức gọi điện cho chồng, ông bèn bắt taxi đâm bổ về nhà hỏi, “Chuyện này là thế nào?”
“Con sắp đi Pháp,” cô đáp. “Khi nào ổn định, con sẽ báo cho cha mẹ biết con định làm gì.”
“Con đi Pháp bằng cách nào?” cha cô kêu lên.
“Rất đơn giản. Con bắt taxi, ra sân bay và lên máy bay.”
“Nhưng cha mẹ không thể cho con tiền... học phí của con sẽ bị lãng phí...”
“Cha, con không cần cha,” cô lạnh lùng nói. “Hồi tháng Mười con đã cần cha biết nhường nào.”
“Con định nói đến vụ Patrick Henry phải không?” mẹ cô hỏi. “Con yêu, cha mẹ đã tha thứ cho con rồi... không cần biết chuyện gì xảy ra ở đó... cha mẹ đã quên rồi.”
“Con thì không,” cô đáp, và cô cũng không cho họ tiễn ra máy bay.
Besançon được xây dựng một cách lý tưởng nhằm mục đích giúp một cô gái Mỹ khủng hoảng tinh thần lấy lại cân bằng. Soi mình bên dòng sông trong thung lũng giữa các dãy đồi, bao giờ thành phố này cũng nằm trên vùng biên giới. Julius Cesar đã biến nơi này thành một trong những kinh đô của mình, và các đoàn quân viễn chinh La Mã, mệt mỏi vì phải truy đuổi người man di ở phương Bắc, bao giờ cũng nhẹ người khi được quay về với không khí yên ổn ở Besançon. Sau này, Besançon lại là biên giới giữa Đức và Pháp, và những dãy nhà bằng đá vững chãi của nó thường được dùng làm nơi ẩn náu. Thành phố này không đẹp, nhưng ổn định và dũng cảm, và Gretchen thích tính chắc chắn của nó.
Tiến sĩ Ditschmann là một học giả thân hình lực lưỡng, sống thanh bạch, ngày nào cũng lầm rầm tạ ơn Chúa vì đã may mắn được trở lại nền văn minh sau nhiều năm dài bị đày ải ở Michigan và Vermont. Ông đã được một tập đoàn các trường đại học Mỹ chọn làm người đứng đầu nhóm nghiên cứu chuyên đề cao học do họ chỉ đạo dưới sự liên kết lỏng lẻo với trường Đại học Besançon, một trong những trung tâm nghiên cứu ngôn ngữ chính của châu Âu. Ông Ditschmann yêu thích công việc của mình, và sau một thời gian dài vắng mặt, ông thấy cuộc sống trong trường đại học ở châu Âu thật dễ chịu. Ông hiểu thanh niên Mỹ và đem lại cho những người gặp rắc rối như Gretchen một nơi nương tựa, vì ông hiểu những mâu thuẫn đã dồn ép họ. “Ngày nay làm một người Mỹ có suy nghĩ còn khó hơn làm một người La Mã có suy nghĩ hai nghìn năm trước,” ông nói, và bà vợ Mỹ của ông, một phụ nữ trẻ thẳng thắn quê Vermont có đầu óc khôi hài kỳ lạ theo lối New England, tán thành: “Bao giờ tôi cũng thấy kinh ngạc khi gặp được một phụ nữ Mỹ có thể xoay xở với khuy áo sau lưng.” Ông bà Ditschmann thích tiến hành những chuyến du lịch ngắn ngày sang Thụy Sĩ, Đức hoặc Ý và đưa cả sinh viên theo để thưởng ngoạn miền đất mới.
Ông Ditschmann tán thành ý tưởng của Gretchen về việc đào sâu đến tận gốc rễ để thiết lập mối liên hệ với những động lực thúc đẩy Cuộc Chiến Trăm Năm. “Hôm nay cô là người nông dân và tôi là chàng hiệp sĩ,” ông đề nghị, “và tôi phi ngựa qua để cuỗm con gái cô đi,” vậy là vợ ông đế vào, “Anh thì có mà cuỗm được khối ấy. Đến đuổi kịp cô ấy anh cũng chẳng đuổi được nữa là.” Ông đã tạm dừng công việc để lái xe dọc đường làng đến những địa điểm như chiến trường Cravant và Agincourt, và như Orleans, nơi Jeanne d’Arc đã đứng lên chiến đấu, nhưng đến giữa tháng Tư cả Gretchen lẫn ông bà Ditschmann đều nhận thấy rõ cô sẽ không nắm bắt được sự kết hợp các giá trị mà cô đang tìm kiếm. Tiếng Pháp của cô đã tiến bộ, nhưng mối quan tâm cô dành cho các cuộc chiến gần như đã biến mất.
“Ông bà có thất vọng về cháu không?” cô hỏi trong lúc ông bà Ditschmann lái xe đưa cô về từ Troyes, địa điểm ký kết một trong những hiệp ước.
“Không hề,” ông đáp. “Chính những người sáng suốt mới thấy khó ràng buộc chính mình. Một cô gái kém cỏi hơn sẽ cảm thấy bắt buộc phải tiếp tục đánh vật với đề tài đó. Cô đã xem xét kỹ suốt mười hai tuần... tìm ra một loạt điểm yếu... ở bản thân hoặc trong đề tài... cô bỏ cuộc là khôn ngoan đấy.”
Bà Ditschmann hỏi, “Điều gì đã khiến cô quyết định như vậy?”
“Jeanne d’Arc ạ. Cô ấy quá dị thường. Cô ấy thu hút sự chú ý hơn cả phong cảnh, và cháu chưa sẵn sàng để đề cập đến cô ấy. Cháu cần một nền tảng vững chắc hơn... trong tầng lớp nông dân.”
Vậy là mọi người thống nhất rằng cô sẽ rời Besançon, nhưng cô vẫn phải quanh quẩn ở đó cho đến khi tấm séc tiếp theo tới nơi. Tất nhiên, khi cô gửi địa chỉ của mình cho ngân hàng, người ta liền chuyển nó cho cha cô, và ông phát hiện ra Besançon chỉ cách Geneva vài dặm. Ông bèn đánh điện hỏi tôi liệu có thể đến đó gặp ông để thảo luận một số vấn đề với con gái ông không, nhưng tôi đang ở Afghanistan và cô thư ký không chuyển tiếp bức điện vì cô đang chờ tôi quay về Geneva trong một thời gian ngắn. Tuần cuối cùng của tháng Tư, tôi tới văn phòng và ngay lập tức đánh điện cho ông Cole là tôi sẽ đi tiếp đến Besançon, vì tôi cũng háo hức muốn tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với Gretchen.
Tôi rất thích vùng núi nước Pháp này, vì nếu lịch sử hiện đại đã bỏ qua nó thì tiến bộ cũng vậy, và việc quan sát những phong tục tập quán lâu đời được duy trì tại các nông trại lâu đời bao giờ cũng rất thú vị. Các nhà ngôn ngữ học khẳng định rằng ở Besançon, người ta nói thứ tiếng Pháp hay nhất đế quốc, vì vậy các trường đại học Mỹ đặt viện nghiên cứu của họ ở đó cũng là điều hợp lý. Tuy nhiên, khi tới nơi, tôi mới được biết vợ chồng Ditschmann đã đưa một vài sinh viên đi dã ngoại ở thành phố thường xuyên bị vây hãm Belfort. Họ sẽ về kịp bữa tối. Trong khi đó, cô thư ký nói với tôi, ông Frederick Cole ở Boston sẽ đến trong chuyến bay tối, nhưng khi tôi ngỏ ý muốn gặp cô Cole, cô ta lẩm bẩm rằng khi nào về tiến sĩ Ditschmann sẽ giải thích mọi việc, vì vậy tôi kết luận chắc Gretchen đã theo họ tới Belfort.
Tôi lui về phòng mà chưa biết được gì về tình hình của cô, ngoại trừ một điều là cô vẫn gặp rắc rối, vì cha cô không thuộc kiểu người vô cớ bay tới Besançon hay Washington, trừ phi đã xảy ra vấn đề nghiêm trọng nào đó. Trong khi tôi đang nhớ lại một nhận xét của Gretchen, “Cha cháu không hay chạy nếu ông có thể đi bộ mà cũng không bay nếu có thể chạy nước kiệu,” thì điện thoại reo để báo tin ông Cole đang chờ tôi trong phòng.
Ở Boston tôi đã kính trọng người đàn ông này; ở Besançon tôi thấy có cảm tình với ông vì ông tỏ ra là người giàu lòng trắc ẩn, rất lo lắng cho hạnh phúc của con gái. “Tôi không báo cho ông biết sớm hơn về việc nó ở gần như vậy vì tôi không biết nó ở đâu. Đúng vậy đấy,” ông giải thích. “Con bé đã hoàn toàn từ bỏ chúng tôi. Đó là lỗi của chúng tôi, nhưng khi chúng tôi đã phạm sai lầm thì nó lại không cho phép chúng tôi bù đắp. Ông có biết làm sao chúng tôi biết được chỗ ở của nó không? Qua ngân hàng. Thật tội nghiệp.”
“Tại sao cô ấy lại bỏ nhà đi?” Tôi hỏi.
Câu trả lời vắn tắt của ông làm tôi sửng sốt, “Lý do khách quan xấu xa. Lý do chủ quan tồi tệ.”
“Chuyện bắt đầu từ đâu vậy?”
“Như ông biết, con bé rất quan tâm đến chiến dịch của McCarthy. Tại hội nghị Chicago đã xảy ra hàng loạt sự việc tồi tệ - cụ thể như thế nào thì chúng tôi cũng không biết chắc. Trên đường về nhà, khi xe của nó đi ngang qua một thành phố nhỏ, cảnh sát địa phương đã dừng xe lại và cho nó...” Ông ngập ngừng, nhìn xuống mấy ngón tay xương xẩu của mình, rồi nói tiếp, “Bọn họ đã cho nó thứ mà cánh báo chí gọi là một trận đòn nên thân. Hết sức thô bỉ đối với một cô gái... đối với bất kỳ ai. Con bé vô cùng oán hận - nó có quyền oán hận - và đã công khai khiếu nại... qua báo chí Cleveland, ông hãy thử tưởng tượng xem. Bà Cole và tôi đều hoảng sợ. Chỉ nhằm bảo vệ Gretchen, chúng tôi đã áp dụng một vài biện pháp bưng bít mọi chuyện đi, nhưng con bé lại cho rằng chúng tôi bỏ rơi nó. Bà Cole nói vài điều không thích hợp, và chắc hẳn trông tôi có vẻ không có lập trường rõ ràng lắm. Chính lúc đó mọi rắc rối trong gia đình bắt đầu. Con bé từ bỏ chúng tôi. Chấm dứt việc học hành. Trở nên khiếp sợ... có khi còn tệ hơn... và vậy là tôi đến đây.”
Ông ngồi phịch xuống ghế, rót cho mình nửa cốc whiskey và đẩy chai rượu về phía tôi. “Lại còn câu chuyện vô lý gì đó về một sinh viên luật trường Duke và vụ cần sa ở đại học Yale nữa. Chuyện gì xảy ra thì thật sự chúng tôi không biết.”
Tôi cố sắp xếp trong óc mớ thông tin rối rắm này, nhưng vẫn không sao hiểu nổi, vì trong suốt câu chuyện này, tôi vẫn thấy rõ ràng hình ảnh cô gái Gretchen Cole tôi từng biết, bẽn lẽn nhưng tự tin, và với một ý thức tự trọng mà cả cảnh sát lẫn người sinh viên luật trường Duke đều không lay chuyển được. “Chắc ông hiểu nhầm thôi,” tôi phản đối. “Khi ở Boston, tôi đã hiểu cô ấy khá rõ. Không, để tôi nói cách khác nhé. Cô bé người Anh ở Vwarda mà tôi đã kể với ông... bây giờ nếu ông nói cô bé ấy gây náo loạn ở Chicago, tôi sẽ hỏi, ‘Thế thì có gì là lạ đâu?’ Gretchen thì không.”
“Chính vì vậy tôi mới mong ông đến nói chuyện với nó... vì ông hiểu nó.”
“Tôi cũng rất muốn tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra,” tôi khẳng định với ông.
Bảy giờ tối hôm đó, chúng tôi bắt taxi đến viện nghiên cứu gặp Gretchen, nhưng ở phòng tiếp tân chúng tôi gặp cô thư ký và được thông báo là ông bà Ditschmann sẽ xuống ngay. Ông Cole nhún vai nhìn tôi như muốn hỏi, “Con bé tội nghiệp ấy đã làm gì nhỉ?”
Khi tiến sĩ Ditschmann cùng bà vợ Mỹ bước vào, ông Cole thôi không đoán già đoán non nữa. Ông Ditschmann có nước da hồng hào, vẻ sôi nổi hoạt bát, đúng mẫu người được cho là thích hợp nhất để làm quản lý một trường trung học ở vùng nông thôn Đức. Vợ ông có đôi mắt tinh anh, về tuổi tác thì ít hơn chồng nhiều nhưng về lòng nhiệt tình dễ lây sang người khác thì không hề thua kém. Rõ ràng cả hai vợ chồng đều yêu thích công việc của mình và sẽ không ngần ngại cho ông Cole biết chuyện gì đã xảy ra với con gái ông. Tuy nhiên, cuộc trao đổi lại bắt đầu không ổn lắm.
“Ông bạn Cole thân mến!” ông Ditschmann reo lên trong lúc vội vã đi ngang qua phòng và nắm lấy tay tôi.
“Tôi là cha con bé,” ông Cole nói một cách thiếu tự nhiên.
Ông Ditschmann dừng lại, ngắm cả hai chúng tôi, rồi nói với tôi, “Tôi cứ ngỡ ông là ông Cole. Trông ông có vẻ đậm chất châu Âu hơn. Ông biết đấy, Gretchen rất giống dân lục địa châu Âu. Rất giỏi về ngôn ngữ.” Không hề lúng túng, ông quay sang bắt tay ông Cole, “Ông có một cô con gái hơn người đấy.”
“Một cô gái tuyệt vời,” bà Ditschmann tán thành.
“Thế nghĩa là cô ấy không gặp rắc rối gì cả?” tôi hỏi.
“Gretchen ư? Trời đất, làm gì có. Tôi còn đang mong tất cả bọn trẻ chỗ chúng tôi...”
“Chúng tôi có thể gặp nó không?” ông Cole đột ngột hỏi.
Tiến sĩ Ditschmann ngạc nhiên quay sang nhìn ông. “Gặp cô ấy? Cô ấy không nói với ông sao?”
“Nó chẳng nói gì với tôi cả,” ông Cole khẽ đáp.
“Trời ạ!” tiến sĩ Ditschmann nói. “Mời hai ông ngồi xuống. Ngồi xuống đã.”
Bà Ditschmann kéo ghế và nắm lấy cả hai tay ông Cole, “Ông muốn nói... cô ấy không viết thư báo cho ông biết kế hoạch của mình ư?”
“Không,” ông Cole rút tay lại. “Nó không viết.”
Ông bà Ditschmann đưa mắt nhìn nhau, rồi ông hất đầu đúng phong cách Alsace như muốn nói, “Chắc cô ấy phải có lý do hết sức chính đáng.” Ông lên tiếng, “Vậy ra ông không biết Gretchen không còn ở đây với chúng tôi nữa sao? Không còn ở đây từ hai tuần nay rồi?”
“Con bé đang ở đâu?”
“Tôi thực sự không biết,” ông Ditschmann đáp. Quay sang vợ, ông hỏi, “Cô ấy có để lại bất kỳ đầu mối nào cho em biết cô ấy ở đâu” - ông liếc nhìn chiếc đồng hồ Thụy Sĩ để xem ngày - “vào ngày 5 tháng Năm không?”
“Không,” bà Ditschmann đáp, vẻ mặt không hề lo lắng. “Em nghĩ cả nhóm sẽ thăm thung lũng sông Loire... rồi có lẽ là Côte d’Azur.”
“Không cần phải nôn nóng đâu,” ông Ditschmann trấn an. Ông lại quay về phía vợ hỏi tiếp, “Nhóm ấy có những ai nhỉ?”
Bà nghĩ một lúc, rồi điểm số người, “Có phải cậu thanh niên Đan Mạch không nhỉ? Còn cô gái Đức nữa. Cả cô người Mỹ, đúng rồi. Và một cậu nào đó nữa. Cậu này chưa gia nhập viện ta.”
“Ý bà là ngay cả bà cũng không biết...?”
“Ông Cole,” ông Ditschmann kiên nhẫn giải thích, “Viện chúng tôi có rất nhiều học viên. Từ khắp thế giới. Họ đến, họ đi, những thanh niên nằm trong số những người ưu tú nhất trên trái đất này. Bây giờ con gái ông đang đi cùng ba hay bốn người như vậy. Đi đâu thì tôi không biết. Đâu đó ở châu Âu. Lúc nào thích hợp, cô ấy sẽ cho chúng ta biết.”
“Tôi thật không hiểu nổi,” ông Cole nói. “Con gái chúng tôi ghi danh học ở đây... thế mà ông bà thậm chí còn không biết nó ở đâu nữa. Đâu đó ở châu Âu. Với ba hay bốn thanh niên cũng vô trách nhiệm như nhau.”
“Ông Cole,” bà Ditschmann đính chính, “Gretchen không phải người vô trách nhiệm. Có lẽ cô ấy là một trong những sinh viên vững vàng nhất của chúng tôi. Cô ấy tiếp thu hết những gì chúng tôi phải truyền thụ và đủ thông minh để hiểu chúng. Lúc này cô ấy đang ở đâu ư? Cô ấy đang tìm kiếm.”
“Tìm kiếm cái gì?” ông Cole hỏi.
“Ý tưởng,” tiến sĩ Ditschmann đáp. “Khi đến đây cô ấy đã có dự định... viết về Cuộc Chiến Trăm Năm. Sau khi xem xét kỹ in situ[61], cô ấy nhận thấy nó không phải thứ thuộc về mình, như người ta thường nói. Cô ấy đã có gan từ bỏ. Bỏ ngay lập tức. Và bây giờ cô ấy đang tìm kiếm một thứ khác.”
“Thứ gì?” ông Cole nhắc lại.
“Tôi đã nói với ông rồi. Ý tưởng. Cô ấy đang tìm kiếm khắp nước Pháp xem có ý tưởng nào đủ lớn để thu hút niềm đam mê và tài năng của mình trong mười hai năm tới không. Rất khó tìm ra được những ý tưởng như vậy. Chúng ta phải hết lòng chúc cô ấy may mắn thôi.”
“Thật đau lòng,” ông Cole lẩm bẩm. “Một cơ sở giáo dục mà thậm chí còn không biết bọn trẻ của mình đi đâu...”
Tiến sĩ Ditschmann mỉm cười, “Chúng tôi không nghĩ các cô gái hai mươi mốt tuổi với chỉ số IQ 170 lại là bọn trẻ. Thực ra, có lẽ con gái ông chưa bao giờ là một đứa trẻ. Lúc này tôi chắc cô ấy đang ở đúng nơi mà cô ấy nên có mặt.”
“Ở đâu chứ?” ông Cole gặng hỏi.
“Trên một chiếc pop-top màu vàng... lang thang khắp châu Âu... với một nhóm thanh niên thông minh.”
“Chiếc pop-top màu vàng là gì?” ông Cole hỏi, cố kiềm chế cơn giận.
Tiến sĩ Ditschmann nhường lời cho vợ, và bà giải thích, “Hãng Volkswagen của Đức đã sáng chế ra loại xe mới vừa chở khách vừa chở hàng. Rất được giới trẻ ưa chuộng. Bố trí giường ngủ có mái che được gắn vào vách một cách khéo léo sao cho có thể gấp lên để tạo thêm không gian và tầm nhìn.”
“Giường ngủ trên xe?” ông Cole nhắc lại như thể một vực thẳm đã ngăn cách ông với ông bà Ditschmann.
“Khi Gretchen quyết định rời viện nghiên cứu,” tiến sĩ Ditschmann giải thích. “Với lời chúc chân thành nhất của chúng tôi,” vợ ông xen vào, “cô ấy vừa nhận được một tấm séc khá lớn từ Boston. Chắc chắn là do ông gửi. Vậy là cô ấy nảy ra ý tưởng tuyệt vời là mua một chiếc pop-top. Bà nhà tôi giúp cô ấy chọn xe.”
“Chúng tôi đã khuyến khích cô ấy,” bà Ditschmann đính chính. “Ông thấy đấy, ngay từ ngày đầu tiên kiểu xe pop-top được tung ra thị trường, Karl và tôi đã muốn mua một chiếc. Thật tiện lợi để đưa sinh viên đi cắm trại, vì thế ông có thể nói rằng với việc khích lệ Gretchen chúng tôi đã làm cho mong ước của bản thân được thăng hoa. Dẫu thế nào chăng nữa, cô ấy cũng khao khát có một chiếc pop-top màu vàng. Không màu nào khác hợp ý cả. Người buôn bán xe lại chỉ có chiếc màu đỏ đẹp hết sảy ấy...”
Nghe bà dùng từ hết sảy, ông Cole cau mày, và tôi đã lo rằng cuộc nói chuyện sẽ kết thúc trong thảm họa, nhưng bà Ditschmann phớt lờ ông: “Vì thế người bán hàng ở Besançon gọi điện đến Belfort, ở đó họ có một chiếc màu vàng tươi, vậy là chúng tôi lái xe lên đó xem sao, và khi Gretchen nhìn thấy nó sáng lên dưới ánh mặt trời, cô đã chạy lại gần, hôn nó và nói, ‘Tôi đã dùng màu tối quá lâu rồi.’ Cô ấy mua ngay tại chỗ, trả tiền mặt, và hôm sau lái lên miền Nam.” Bà ngập ngừng, rồi nói thêm, “Với lời chúc tốt lành của chúng tôi, thưa ông Cole. Với lời chúc tốt lành chân thành nhất của chúng tôi.”
“Bây giờ nó ở đâu?” ông Cole khẽ hỏi.
“Chúng tôi không có manh mối gì cả,” tiến sĩ Ditschmann đáp.
“Lang thang khắp châu Âu hả?” ông Cole chua chát hỏi. “Với một lũ con trai mà thậm chí ông bà còn không biết?”
Tiến sĩ Ditschmann thở dài, tựa lưng vào ghế và nói, “Ông Cole, thế hệ ông phải đối diện với thực tế thôi. Qua những gì quan sát được ở Gretchen, tôi thấy cô ấy chỉ có duy nhất một vấn đề. Một chuyện gì đó rất phũ phàng đã xảy ra với cô ấy. Tôi không biết đó là gì, nhưng có lẽ nó liên quan tới tình dục. Ngay lúc này, trách nhiệm hết sức nặng nề của cô ấy là phải đưa trải nghiệm đó, bất kể là gì chăng nữa, quay trở lại thế cân bằng. Hai vợ chồng tôi không thể giúp được gì. Tôi chắc là cả ông cũng không. Chỉ những người bạn đồng trang lứa mới làm được một điều tốt đẹp nào đó cho cô ấy. Thật ra là chỉ các chàng trai cùng lứa tuổi thôi. Tốt hơn ông nên cầu Chúa cho cô ấy gặp được họ.”
Tôi tưởng ông Cole sẽ nổi điên lên trước ý kiến này. Nhưng trước sự ngạc nhiên của tôi, ông lại tỏ ra thoải mái và lắng nghe, với thái độ gần như tán thành, khi bà Ditschmann nói, “Ông có một cô con gái tuyệt vời, ông Cole. Nhạy cảm, hết sức dễ thương. Karl và tôi sẽ rất tự hào nếu có một đứa con gái như vậy. Nhưng nếu có, chúng tôi tin chắc nó sẽ không cư xử như chúng tôi muốn... như tôi đã từng cư xử hồi ở trường Smith một thế hệ trước. Mọi sự đã khác rồi... phần lớn là theo hướng tốt đẹp hơn. Ông hãy nhìn cậu kia mà xem.” Lúc này sinh viên đang đi qua phòng để đến nhà ăn, và bà chỉ một thanh niên béo tròn có mái tóc xù kinh khủng và bộ râu rối bù trông giống hệt một chú mèo bông bị kéo lê suốt cả ngày. “Trước khi ông qua đời thì cậu ta có lẽ đã thành nhạc trưởng Dàn nhạc Giao hưởng Boston đấy. Còn cậu kia nữa. Cậu ta sẽ bị sốc nếu tôi bảo một ngày nào đó cậu ta sẽ thành chủ nhà băng ở Denver. Cả cô gái mặc cái quần dễ sợ kia nữa, cô ấy có thể là một thượng nghị sĩ... không phải thượng nghị sĩ bang đâu... Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ cơ. Dù ông và tôi có thích hay không, ông Cole ạ, các thanh niên đang tìm tòi... thăm dò... bác bỏ kia... họ sẽ cai quản thế giới này.”
“Những kẻ trôi dạt dễ thương kia ư?” ông Cole hỏi với vẻ sôi nổi bất ngờ.
“Làm gì có lựa chọn nào khác?” tiến sĩ Ditschmann hỏi. “Như anh chàng kia chẳng hạn,” và ông chỉ một thanh niên da đen để kiểu tóc châu Phi dữ tợn. “Tốt hơn ông nên chuẩn bị tinh thần trước đi thì hơn, biết đâu một ngày nào đó con gái ông sẽ đưa cậu ta về thăm với tư cách là chồng cô ấy. Cậu ta rất xuất sắc... và rất dễ mến.”
Ông Cole nhìn anh da đen, mỉm cười, và hỏi nhỏ, “Tất nhiên ông đang nói một cách giả định, phải không?”
“Không hẳn,” ông Ditschmann nói lảng.
Ngay sau đó ông Cole có một hành động rất bất ngờ. Ông bỏ chúng tôi lại đó, tiến đến gần cậu thanh niên da đen và nói, “Tối nay cậu có vui lòng dùng bữa với chúng tôi không? Xin lỗi, tôi là cha của Gretchen Cole.”
“Rất sẵn lòng ạ. Ông có biết tin gì của Gret không?”
“Tôi đang hy vọng cậu cho tôi biết.”
“Cô ấy có một dự định lớn về thung lũng sông Loire. Cháu cũng muốn đi theo nhưng lại phải thi môn tiếng Pháp năm thứ ba, nếu không sẽ mất suất học bổng của trường Stanford.”
Ông Cole quàng tay qua vai cậu thanh niên đưa lại chỗ chúng tôi. “Tiến sĩ Ditschmann, tối nay ông và bà nhà có vui lòng dùng bữa với chúng tôi không?” Khi hai nhà sư phạm gật đầu, ông Cole nói, “Quanh đây chắc chắn phải có nhà hàng nấu kiểu thôn quê. Chúng ta hãy có một tối vui vẻ với nhau.”
Chúng tôi tìm được một chiếc taxi và đi ra ven thành phố Besançon, nơi có một nhà hàng Alsace phục vụ món bắp cải đỏ, bảy loại dồi khác nhau và một thứ bánh mì đen chua. Khi chúng tôi đã yên vị trước mấy vại bia, ông Cole nói, “Ở Boston tôi làm chủ tịch hội đồng quản trị trường St. Peter. Công việc khá phù hợp. Tiến sĩ Ditschmann, cách tiếp cận với giáo dục của ông đã hấp dẫn tôi. Sinh viên muốn đi thì đi, muốn đến thì đến, ông không phải lo gì cả, thế mà các bạn trẻ như cậu đây vẫn thành công với phương pháp của ông. Ông sẽ là một luồng gió tươi mát ở St. Peter... nếu có lúc nào đó ông muốn thử.” Rồi ông quay sang cậu da đen hỏi, “Ở Besançon, Gretchen xoay xở ra sao?”
“Một người xuất sắc... về mọi mặt.”
“Nó có vui vẻ không?”
“Không. Rất căng thẳng.” Cậu thanh niên ngập ngừng, rồi thêm, “Cháu có lẽ là người con trai thứ tám xếp hàng để cố gắng hôn được cô ấy. Cô ấy rất căng thẳng. Chúng cháu tưởng cô ấy phải rời khỏi đây sớm hơn cơ.”
“Cậu tán thành việc nó ra đi ư?”
“Tất cả bọn cháu đều tán thành,” cậu thanh niên đáp. “Đã đến lúc cô ấy phải đi tiếp.”
Khuya hôm ấy, sau khi đưa ông bà Ditschmann và cậu sinh viên Arkansas được cấp học bổng về viện nghiên cứu, ông Cole và tôi đang trên đường trở lại khách sạn thì ông phá lên cười, “Tôi hy vọng mình vẫn còn sống khi anh chàng có bộ tóc kỳ quái kia tiếp quản Dàn nhạc Giao hưởng Boston. Ông có tưởng tượng được bộ mặt của đám khán giả ngày thứ Sáu không?” Rồi ông úp mặt vào tay và nói nhỏ, “Và ông có tưởng tượng được chuyện mình bay sang châu Âu giúp đỡ con gái để rồi thậm chí ngay cả việc nó ở đâu mình cũng không sao xác định được không?”
Chiếc pop-top màu vàng tiến vào thành phố Avignon thì Gretchen chỉ còn một người đi nhờ xe. Anh thanh niên Đan Mạch đã bỏ cuộc khi họ rời thung lũng sông Loire; Elsa và Fleurette ở lại cho tới khi đến Bergerac rồi phải lộn về viện. Chỉ còn Anton, một người Tiệp Khắc tha hương cao lớn, u sầu với vấn đề cấp bách là có nên quay về Praha góp sức vào cuộc chiến đấu chống quân chiếm đóng Nga hay không. Anh rất biết ơn Gretchen vì đã thông cảm giúp đỡ anh phân tích mọi khả năng, và anh nhất trí với cô điều anh nên làm bây giờ là ở lại Tây Âu thêm hai năm nữa, hoàn thành việc học hành, rồi trông vào may rủi của mình ở Praha.
“Nhưng nếu lúc đó lệnh ân xá lại bị thu hồi thì sao? Giả sử tôi không thể về được?”
“Khả năng thứ hai là sang Canada,” cô đáp. “Tôi cho là tương lai ở đó khá tốt đẹp.”
Anh hỏi liệu cô có lái xe lên cầu Avignon không; hồi còn nhỏ anh và các chị em gái đã hát về cây cầu ấy, vậy là hai người đi dọc sông Rhone cho đến khi tới cây cầu mái vòm đã để lại kỷ niệm đẹp trong lòng rất nhiều trẻ em, và anh ngân nga bài hát ru cổ ấy, nước mắt ứa ra, rồi anh tâm sự với Gretchen rằng các chị em gái của anh đều rất dễ thương và nỗi nhớ nhung họ sẽ là gánh nặng khó khăn nhất trong cảnh lưu vong. Anh hỏi xem mình có được phép hôn tạm biệt cô không, và cô đứng im như tượng trong lúc anh khẽ chạm môi vào má cô. Anh hứa sẽ không bao giờ quên sự hào phóng của cô.
“Tôi không có một xu nào,” anh nói, “và bạn rất hào phóng. Nếu đến được Canada, tôi sẽ trả nợ bạn. Lời hứa trịnh trọng đấy.” Anh dập hai gót giày vào nhau trên cầu Avignon, cúi chào và lại vẫy xe đi nhờ về Besançon.
Giờ Gretchen lẻ loi một mình, cô gái hấp dẫn hai mươi mốt tuổi với chiếc pop-top màu vàng, trên đường xuyên qua miền Nam nước Pháp để tới các thành phố lớn của Ý. Cô mua một quyển hướng dẫn Muirhead về Ý và trên tờ bản đồ trang bìa cô vạch một hành trình tới Milan, Florence, Siena, Orvieto và Rome. Cô háo hức mong được chiêm ngưỡng những thánh đường với các nhà nguyện trang trí tranh tường cùng các quảng trường công cộng với những tác phẩm của Michelangelo và Verrocchio. Cô cảm thấy chắc chắn một cách có cơ sở rằng ở đâu đó trong nền văn hóa Ý cô sẽ tìm được một đề tài có thể thu hút sự chú ý của cô và thay thế cho Cuộc Chiến Trăm Năm rõ ràng là đã sớm thất bại. Cô phần nào hy vọng đó sẽ là một vấn đề liên quan đến lịch sử Siena, có thể là sự nổi lên của thành phố tự trị này, vì vậy trong căn phòng khách sạn trống trải ở Avignon, cô trải tấm bản đồ Siena ra và cố gắng tưởng tượng xem khoảng giữa thập kỷ 1300 thì thành phố đó như thế nào.
Hôm đó, cô mang theo quyển Muirhead xuống ăn tối, và suốt cả bữa chỉ chăm chăm nghiên cứu thành phố Siena, phớt lờ ánh mắt ngưỡng mộ của mấy người Pháp đang suy đoán một cách công khai tại sao cô lại ngồi một mình. Một người đánh bạo đến gần hỏi xem anh ta có thể mời cô một cốc sâm banh không, và trong lúc mỉm cười từ chối, cô bất giác nghĩ thầm: Anh chàng mới quyến rũ làm sao chứ! Khi rời phòng ăn và đi qua văn phòng hãng hàng không ở góc hành lang, cô tình cờ nhìn thấy một tấm áp phích màu sắc sặc sỡ quảng cáo về Torremolinos ở Tây Ban Nha và bật thốt lên thành tiếng, “Không biết ai nói với mình về chỗ này ấy nhỉ? Có lẽ mình chưa cần thăm các thánh đường và nhà nguyện ngay bây giờ.” Văn phòng đóng cửa, nhưng sáng hôm sau có một cô nhân viên hoạt bát trẻ trung ngồi trong đó, và Gretchen đến bắt chuyện với cô ta bằng tiếng Pháp.
“Torremolinos!” cô gái reo lên. “Ôi, nếu bạn có thời gian... có tiền... lạy Chúa tôi, xin đừng bỏ lỡ nó.”
“Tôi đang định đi Ý,” Gretchen ngập ngừng nói.
“Ý có thể đợi,” cô gái nói ngay với vẻ nhiệt tình dễ lây sang người khác. Trong phút hăng hái, cô đóng cửa văn phòng rồi rủ Gretchen ra quán cà phê uống rượu vang, mặc dù phần lớn khách trọ vẫn còn đang ăn sáng. “Torremolinos thì bắt buộc phải đi rồi,” cô gái bảo Gretchen trong lúc hai người ngồi dưới sắc trời mùa xuân tươi sáng đang tràn ngập vỉa hè. “Mỗi năm một lần công ty cho chúng tớ bay đến một nơi nào đó... để chúng tớ có thể giới thiệu cho khách một cách hấp dẫn. Họ đã phạm một sai lầm lớn khi cho tớ đến Torremolinos. Đó là địa điểm duy nhất tớ nhiệt tình tiếp thị, và vì đó là một chuyến du lịch gần nên công ty chúng tớ không kiếm được nhiều tiền lắm. Sếp có hỏi tớ, ‘Cô không làm cách nào để thích Crete được à?’ và tớ bảo ông ta, ‘Tôi sẽ thích Crete khi nào tôi già như ông bây giờ và cần an dưỡng nghỉ ngơi.’”
“Tôi e là bạn chỉ phí thời gian với tôi thôi,” Gretchen nói. “Tôi không đi máy bay. Tôi có xe riêng.”
“Cần gì để tâm đến việc ấy?” cô gái nói. “Chỉ cần bạn đồng ý, tớ sẽ cùng bạn lái xe xuống đó. Nếu tớ mà được quay lại Torremolinos thì cứ mặc xác công việc này.”
“Nơi đó tuyệt vời đến thế cơ à?” Gretchen hỏi.
“Ở Torremolinos có rất ít chuyện làm ta thất vọng,” cô gái đáp, “vì có âm nhạc, bãi biển và các chàng trai đã đánh mất lịch. Vì Chúa, bạn đừng đi Ý vội. Nhất là bạn lại có xe riêng và một thân hình như thế này.”
Gretchen đòi trả tiền đồ uống, nhưng cô gái gạt đi mà nói, “Đây là việc tốt trong ngày của tớ mà.”
Nhưng khi rời khách sạn, Gretchen vẫn quyết lặn lội tới Ý, và trong khi người phục vụ chất hành lý của cô lên chiếc pop-top, cô ghé vào văn phòng công ty du lịch để cảm ơn cô gái một lần nữa. “Tôi e là nhất định phải đi Ý.”
Cô gái Pháp nhún vai nói, “Bao giờ cả hai chúng ta đều sáu mươi tuổi và đã vớ được một anh chồng triệu phú rồi gặp nhau tại một nhà hàng nào đó ở Paris, cậu sẽ thú nhận, ‘Buổi sáng hôm ấy ở Avignon không hiểu sao tớ lại ngu đến thế!’” và cả hai cùng bật cười.
Gretchen lái xe ra khỏi thành phố, nhưng khi đến ngã ba, nơi đường cao tốc đi Aix và Nice lượn trái về phía Ý còn đường đi Nimes và Perpignan rẽ phải về phía Tây Ban Nha, cô nhận ra mình đột nhiên bẻ quặt tay lái sang phải, vừa làm vừa hét lên, “Ý có thể đợi được. Người ta đang ca hát ở Torremolinos và họ cần mình!”
Bốn giờ chiều ngày 3 tháng Năm năm 1969, mọi khách quen đang uể oải ngồi trong quán cà phê đối diện quầy báo chính ở Torremolinos không tập trung vào dòng khách du lịch qua lại nữa mà quan sát một chiếc pop-top màu vàng bụi bặm có biển số Pháp vừa tiến vào trung tâm thành phố, bên tay lái là một phụ nữ trẻ trung duyên dáng đi du lịch một mình. Ai cũng thắc mắc, “Không hiểu một cô gái trẻ như vậy làm gì một mình?” và tiếp theo đó phần lớn đàn ông đều nghĩ, “Một anh chàng may mắn nào đó sẽ bám lấy món bở này cho mà xem.” Họ dõi mắt theo khi cô gái dừng xe bước xuống, lơ đãng nhìn quanh một lượt, không tỏ vẻ gì là đã nhìn thấy quán bar hoặc muốn vào đó nếu đã nhìn ra nó, mua một ôm báo tiếng Pháp và Đức, leo lên chiếc pop-top, lái đi.
“Cô ấy sẽ trở lại,” một sinh viên người Mỹ nhận định với bạn, “và cô ấy đáng để làm quen đấy.” Rồi, thấy xe cô dừng lại trước đèn giao thông, anh ta chạy đến thân mật hỏi, “Có gì cần tôi giúp không?”
“Có. Khu cắm trại ở đâu vậy?”
“Ở đây làm gì có. Cô cứ xem dọc bãi biển ấy. Tìm một chỗ mà đậu.”
“Bãi biển ở phía kia phải không?”
“Phải.”
“Cảm ơn.”
Khi quay lại quán, anh ta thông báo với mọi người, “Người Mỹ. Quần áo đắt tiền. Không có hành lý nào khác trên chiếc pop-top. Chắc cô ấy đi du lịch một mình. Cô ấy sẽ đậu xe dọc bãi biển. Báo cô ấy mua là tiếng Pháp và Đức, thế thì chắc là sinh viên... có lẽ là đâu đó ở châu Âu.” Người nghe đặc biệt chú ý chi tiết cô gái không có bạn trai và sẽ đậu xe dọc bãi biển. Ai ai cũng định bụng tìm hiểu xem sao.
Gretchen đi theo con đường dẫn ra bãi biển, và khi thấy dải cát dài rộng trải mãi đến tận Málaga, cô đã hiểu tại sao cô gái ở công ty du lịch Avignon hăng hái đến thế. Cô lái chầm chậm về hướng Đông cho đến khi tới khách sạn Đức rộng lớn có tên Brandenburger, phía trước là bờ biển đang mời gọi. “Đây đúng là nơi để ẩn mình,” Gretchen tự nhủ. Cô tìm quanh bãi biển cho đến khi thấy một khoảnh đất nhỏ bằng phẳng để lùi chiếc pop-top sao cho qua ô kính hậu lớn có thể chiêm ngưỡng Địa Trung Hải còn qua kính chắn gió có thể nhìn ra khách sạn Đức cùng dãy núi phía sau. Đó là một lựa chọn sáng suốt, và lúc cô thu xếp xong cho chiếc xe cùng đồ đạc bên trong thì mặt trời vừa bắt đầu lặn, và khi bóng tối lan nhanh trên núi non biển cả, cô được trải nghiệm một cảm giác hạnh phúc ngập tràn.
Mấy ngày sau đó, những người Đức trọ ở khách sạn Brandenburger đều tỏ ra rất tử tế. Lúc đầu có vẻ như họ chỉ đơn thuần tò mò vì sao một thiếu nữ như cô lại cắm trại một mình. Khi thấy Gretchen nói được tiếng Đức, họ dành cho cô một sự quan tâm mang tính cá nhân, mời cô tới quán rượu trong khách sạn, bàn luận với cô hàng giờ về các vấn đề chính trị ở Đức và Mỹ. Họ đặc biệt quan tâm tới những gì đã xảy ra tại hội nghị Chicago, và Gretchen chợt nghĩ là, với những kinh nghiệm của họ về Hitler, họ nhận thấy những điềm báo mà người Mỹ đã bỏ qua. Họ còn tha thiết mời cô cùng ăn và thuyết phục viên quản lý khách sạn cho cô sử dụng phòng tắm.
“Lúc nào cần tắm,” một bà nội trợ người Hamburg còn dặn để cô yên tâm, “cô cứ lên tầng chúng tôi. Khi còn trẻ, Willi và tôi cũng hay cắm trại lắm.”
Ngay cả ở Pháp Gretchen cũng chưa bao giờ gặp được ai mà cô thấy có cảm tình như những người Đức điềm đạm tử tế ấy, và đêm đêm nằm một mình, duỗi người trong chiếc pop-top, cô ngẫm nghĩ về chuyện mình cũng là người Đức, rằng cô đang khôi phục mối quan hệ với cội nguồn, và những gì nhìn thấy khiến cô thích thú. Vài người tìm cách hẹn hò với cô song những gì từng phải trải qua với cảnh sát vẫn làm cô căng thẳng đến mức cảm thấy không muốn chơi bời với họ. Một lần một anh chàng đặc biệt bảnh trai người Stuttgart tha thiết xin tiễn cô về chiếc pop-top, và khi thấy hai cái giường đặt cạnh nhau sẵn sàng, anh ta gợi ý, “Nếu chưa có ai dùng chiếc giường thứ hai này...” nhưng cô không thích thú gì chơi trò vật lộn trong xe của mình với một người đàn ông mà cô không có tình cảm.
Sang đến cuối tuần thứ hai, vì mong muốn được gặp vài người Mỹ nên cô từ từ cho xe ra khỏi chỗ đậu, lái vào thành phố và dừng lại ở bãi đất rộng cạnh bưu điện. Cô xuống xe, vận động cho giãn gân cốt rồi bắt đầu khám phá các cửa hàng, quán ăn muôn màu muôn vẻ. Trong một con hẻm, cô nhìn thấy một biển hiệu làm cô thích thú ngay lập tức: một khẩu súng gỗ, trên đó có hai chữ THE ALAMO.
Đúng cái mình cần! Cô nghĩ. Nói chuyện bằng tiếng Texas. Cô đẩy cửa, nhận ra mình vừa bước vào một gian rất nhỏ không có người Texas nào; cô gái trông quầy rượu rõ ràng là người Scandinavia, nhưng quanh một chiếc bàn trong góc lại là một nhóm đàn ông Mỹ có lẽ chỉ chớm tuổi trưởng thành. Cô vừa ngồi xuống thì hai người trong bọn lừ đừ bước đến hỏi, “Cô là người Mỹ phải không? Cô làm gì ở đây?” Họ tự giới thiệu là lính ở căn cứ quân sự Mỹ gần Sevilla và mời cô ngồi cùng. Khi sang nhập hội, cô phát hoảng trước sự trẻ con trong cách nói chuyện của những người này - thực ra họ chỉ thích thú môn đấu bò và bóng chày - nhưng khi dò hỏi, cô mới phát hiện trong số đó không cậu nào từng học cao đẳng đại học và chỉ một nửa tốt nghiệp trung học. Dù sao, họ cũng tỏ ra hứng thú khi một thanh niên da đen đi vào quán cùng một cô gái trẻ măng rất quyến rũ mà Gretchen đoán ngay là người Anh.
“Này,” một anh lính trẻ trong nhóm thì thầm, “kia là tên da đen đã nổ súng ở nhà thờ tại Philadelphia đấy... giết hết tín đồ Tân giáo... cô đã đọc báo chưa?”
Gretchen đã đọc. Tờ Herald Tribune ở Paris hồi tháng Ba vừa qua đăng vô số bài về vụ này và cô đã bàn luận với các sinh viên da đen ở viện. Họ đã biện bạch cho cả bản thân sự việc lẫn triết lý sâu xa ẩn chứa phía sau, nhưng cô không thể nhất trí với họ vì cô tin rằng nếu cứ nhất định đấu tranh vũ trang thì người da đen sẽ gây ra... mất mát cho tất cả mọi người. Cô chăm chú quan sát người mới đến và hỏi một anh lính, “Tôi gặp anh ấy được không?” thì anh ta đáp, “Sao lại không chứ? Ngày nào anh ấy chẳng đến đây.” Anh ta gọi người thanh niên da đen đến bàn mình và bảo, “Cato, anh muốn gặp một người bạn của tôi từ Mỹ sang không - à mà tên bạn là gì nhỉ?”
“Gretchen Cole.”
“Cato Jackson.” Anh da đen đưa mắt tìm bạn gái, nhưng cô đang bận giúp cô gái Scandinavia sau quầy rượu.
“Các bạn trẻ này kể với tôi là anh có dính líu đến vụ Philadelphia.”
“Đúng thế,” anh xác nhận một cách điềm đạm vì không biết chắc người da trắng hỏi mình sẽ thể hiện thái độ gì.
Cuộc bàn luận kéo dài khá lâu, một vài anh lính nêu ra những ý kiến sắc sảo đích đáng khiến Gretchen ngạc nhiên, còn Cato tỏ ra khá thông minh và chín chắn. Cô có cảm tưởng Cato đang đánh lừa cô bằng một vài lời bình luận. Nhưng cô vẫn mến anh và hy vọng sớm có cơ hội gặp lại anh. Nhưng khi lái xe về nơi hạ trại, cô thấy một thương gia Đức, một người Berlin tên là Kleinschmidt, đang chờ cô với tin tốt lành: “Đêm hôm nọ cô có nói về đàn guitar... cô bảo muốn mua một cây đàn Tây Ban Nha. May quá, tôi đã tìm được nơi làm đàn, mai tôi sẽ đưa cô đến đó.”
Đó là một làng miền núi trên dãy núi cao lởm chởm phía Bắc Málaga. Đường đi khá cheo leo hiểm trở, nhưng bằng cách lái rất chậm Gretchen đã đưa được chiếc pop-top đến một bãi trống giữa làng có lẽ từng là nơi trú ẩn của El Cid[62]. Cô bị nét cổ xưa của nơi này hút hồn và hồi hộp không hiểu mình sẽ khám phá được gì trong xưởng thủ công mà ông thương gia Đức dẫn cô vào. Chủ xưởng là một người Tây Ban Nha già nua chỉ còn bốn cái răng, mặc áo khoác lông cừu. Trên một loạt giá cao quá đầu, cụ trữ hàng chồng gỗ lâu năm đợi đến khi độ ẩm thích hợp sẽ dùng chúng để làm nên những cây guitar thôn quê, những nhạc cụ to nặng có ngựa đàn cứng cáp và cần đàn chắc nịch khớp với các khóa gỗ kiểu cổ. Còn dây đàn, cụ dùng ruột động vật, và khi Gretchen cầm một cây lên gảy, nó vang lên những âm bội rất vừa ý.
“Cây guitar này tốt lắm đấy,” người thợ nói bằng tiếng Tây Ban Nha.
Họ thương lượng về giá cả, ông thương gia người Đức đóng vai trò phiên dịch, lúc đầu Gretchen cảm thấy quá đắt. “Nhưng cây guitar này rất tốt mà,” cụ già khăng khăng, và sau khi chơi một loạt hợp âm dồn dập với những âm thanh vang lên rõ ràng, rắn rỏi và chân thực, Gretchen cũng phải công nhận, “Hiếm khi cháu được nghe tiếng đàn nào hay hơn. Cháu lấy cây này.”
“Nhưng trước hết tôi phải đánh bóng đã,” ông cụ nói, Gretchen liền bảo cô sẽ chờ. Nhưng cụ giải thích việc đánh bóng phải mất hai ngày, vì vậy cô hỏi ông người Đức dẫn đường, “Ông có cách gì quay về Torremolinos không?” và ông này hỏi thăm thì được biết có một chuyến xe buýt rời khỏi đó lúc bốn giờ, nên cô nói, “Không biết tiếng Tây Ban Nha nhưng tôi vẫn có thể xoay sở được. Ông biết đấy, cây guitar này xứng đáng để tôi ở lại chờ.” Vì vậy ông người Đức bèn xuống núi trước.
Khi chiếc xe buýt đã mất hút về phía Málaga, Gretchen chỉ còn lại một mình, hoàn toàn một mình như bấy lâu nay, vậy là cô bắt đầu dạo quanh ngôi làng nghèo khổ để tìm chỗ đậu thích hợp cho chiếc pop-top, và một lúc sau cô phát hiện ra địa điểm bên cạnh dòng suối chảy từ trên núi xuống bèn lái đến đó, đậu xe sao cho đầu cô gần như nằm ngay trên dòng nước, song ở trong chiếc pop-top một lúc khá lâu mà trời vẫn chưa tối, Gretchen không sao cưỡng lại mong muốn được hát nên quyết định quay lại xưởng của ông thợ thủ công hỏi mượn một cây guitar, rồi mang theo cây đàn cụ đưa cho đi bộ xuyên qua làng, theo sau là cả trẻ con lẫn người lớn vì họ chẳng có việc gì thú vị hơn để làm, về đến chỗ chiếc pop-top thì cô ngồi xuống một phiến đá cạnh suối và bắt đầu chơi các khúc ballad cổ.
Sau đó một cụ già trong làng hỏi mượn cây guitar, vừa đàn vừa hát một bài flamenco thê lương, rồi đến lượt một người đàn bà đàn hát một khúc flamenco hoang dã hơn. Biểu diễn xong, họ trả cây guitar cho cô và yêu cầu cô tiếp tục hát, vậy là, choáng ngợp trong nỗi cô đơn khôn nguôi của tuổi trẻ, cô cất tiếng than khóc cho Bá tước Murray quá cố, và mặc dù không hiểu một lời nào cô hát, dân làng vẫn biết trong ca khúc của cô có một điều tốt đẹp đã mất đi, và họ chia sẻ nỗi buồn cùng cô:
“Hào hoa phong nhã và kiêu hãnh,
Chàng chơi bóng đá lối Scotland;
Và bá tước Murray dũng mãnh
Tinh hoa rực rỡ giữa muôn người.”
Cô ở lại làng đó hai ngày xem người thợ thủ công đánh bóng cây guitar, cứ mỗi lần tra một lớp dầu mới, cụ đều lau ít nhất một tiếng đồng hồ, thỉnh thoảng lại đưa cho cô kiểm tra âm thanh. “Mượt mà hơn nhiều rồi đấy,” cụ bảo cô. “Bằng giờ này sang năm, nó sẽ gù gù như tiếng chim bồ câu ấy.” Cô hiểu ý cụ.
Nhưng ban đêm, khi cuộc trình diễn của cô với cây guitar đi mượn kết thúc và dân làng đã về nhà ngủ, Gretchen lại nằm một mình trong chiếc pop-top lắng nghe tiếng suối rì rào và thú nhận mình cô đơn xiết bao. Dường như trên thế giới này cô chẳng thể chia sẻ được cùng ai, và cô tự hỏi chẳng lẽ dòng đời mình lại sẽ chảy mãi như vậy. Cô đã quen biết nhiều thanh niên tử tế, một số còn quan tâm đến các vấn đề xã hội Mỹ hơn cả cô, nhưng chẳng có người nào khiến cô có thể bộc lộ mối quan tâm lâu dài. Cô băn khoăn không biết trong tính cách của mình liệu có khiếm khuyết tiềm ẩn nào mà kinh nghiệm ghê tởm ở Patrick Henry chỉ thuần túy làm nó lộ ra. Như bất cứ người nhạy cảm nào khác, cô không muốn tin vào luận điểm đáng sợ ấy. Mình chẳng có gì không bình thường cả, cô khẳng định với mình.
Nhưng bình minh đêm thứ hai, khi lũ gà trống sắp sửa cất tiếng gáy, cô không thể tự dối lòng là mình sắp ngủ được nữa, vì vậy cô ngồi dậy, và trong không khí yên ắng của chiếc pop-top, cô lấy cây đàn đi mượn xuống gảy những hợp âm vu vơ, rồi một lúc lâu sau cô cất tiếng hát:
“Tối qua nữ hoàng có bốn Mary,
Đêm nay, bà chỉ còn ba;
Trước đó có Mary Beaton, Mary Seaton,
Và Mary Carmichael, và ta.”
Vừa hát cô vừa tự hỏi không biết bản chất đích thực của cuộc sống liệu có phải là phụng sự nguồn gốc của sức mạnh, làm những gì cần làm, ngay cả khi giá treo cổ trở thành kết cục logic cho hành vi của mình... là chấp nhận nó... nhưng trên tất cả là góp phần vào, là ở trung tâm cuộc sống với vai trò một người trong cuộc.
Cô dần dần nhận ra dân làng đã tụ tập quanh chiếc xe từ lúc nào không hay; họ đã quan sát cô suốt đêm, và lúc này, thấy cô đã dậy, họ mới đến gần để xem cô gái Mỹ lạ lùng và cô đơn này là người như thế nào.
Hết Tập 1
Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1 Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1 - James Albert Michener Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1