From my point of view, a book is a literary prescription put up for the benefit of someone who needs it.

S.M. Crothers

 
 
 
 
 
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Drifters
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Vũ Phương Vân
Số chương: 7
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1007 / 119
Cập nhật: 2018-09-19 19:36:32 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5: Yigal
ột người thay đổi tổ quốc thì cũng như con chó thay đổi tiếng sủa... không tin tưởng được.
Chỉ dựa trên thực tế, anh có thể suy ra cái lý thuyết là dù ở bất cứ nơi nào, nếu anh có một số X người Do Thái thì anh sẽ có X + 2 ủy ban.
Tôi không bao giờ hiểu được sự tâng bốc này dành cho Mosesd[40]. Tôi tính là trong bốn mươi năm lang thang khắp sa mạc, chẳng biết cái gì vào cái gì, ông ta đã có thể thực hiện được những điều vĩ đại. Chẳng hạn như, ông ta chỉ cần dẫn người của mình đi ba mươi thước[41] mỗi ngày theo đúng hướng thì sẽ đưa được họ không phải đến Israel mà đến tận Anh cơ, và tránh được toàn bộ mớ bòng bong này.
Chúa không chết. Chẳng qua Người từ chối dính líu.
Tối hôm nọ tôi đưa bạn gái về nhà gặp cha mẹ. Họ thích cô ấy nhưng lại không thể chịu được tôi.
Mọi đàn ông trên bốn mươi tuổi đều là đồ vô lại.
• Shaw
Sau Thế chiến I, các nước châu Âu tiếp nhận một triệu năm trăm nghìn người tị nạn. Sau cuộc chiến tranh Hy Lạp - Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp tiếp nhận một triệu bốn trăm nghìn người tị nạn bị tống cổ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ. Sau Thế chiến II, các nước châu Âu phải thích nghi với mười ba triệu người tị nạn. Sau cuộc chiến tranh Ấn Độ - Pakistan, cả hai phía tiếp nhận trên mười lăm triệu người tị nạn. Vậy mà ngay sau cuộc chiến tranh Ả rập Israel, các nước Ả rập lại tỏ ra hoàn toàn không có khả năng tiếp nhận vài trăm nghìn người tị nạn, và trong việc này chủ yếu chính họ mới đáng trách.
Thành phố Hoa hồng đỏ - “già đời bằng nửa Thời gian.”
• Đức Cha John William Burgon
Ở đất nước này chúng tôi kẹt vì thuế má ám ảnh, còn ở đất nước trước kia chúng tôi kẹt vì lưỡi lê.
Ích lợi của một trường đại học là phải làm sao cho lớp trẻ càng khác cha ông càng tốt.
• Woodrow Wilson
Tệ hơn cả chiến tranh là nỗi sợ chiến tranh.
• Seneca
Một trong những sự kiện lịch sử nổi bật nhất thế kỷ này là các nước Ả rập ngoan cố khẳng định họ không thua Cuộc Chiến Sáu Ngày. Bằng cách sẵn sàng hành động, trung thành với việc giải thích đơn giản các sự kiện và ủng hộ quyết tâm suy giảm của nhau, họ đã hoàn thành một phép màu. Họ thông báo một cách đơn giản cho nhau và ra thế giới, “Đó là một thắng lợi Ả rập,” và kết quả là họ không bị buộc phải tham dự hội nghị hòa bình nào, không phải tham gia cuộc hòa giải nào. Họ đã thực hiện được trong thế giới của ý chí những gì có thể không bao giờ thực hiện được trong thế giới của vũ lực, và thắng lợi của họ còn vĩ đại hơn vì nó thuộc về tinh thần chứ không phải vật chất hữu hình. Tốt hơn hết tất cả chúng ta hãy thích nghi với điều đã trở thành sự thật: người Ả rập đã thắng trong Cuộc Chiến Sáu Ngày và phải được đối xử như những kẻ chiến thắng.
Câu châm ngôn của Bion nói rằng mặc dù bọn trẻ ném đá vào lũ ếch để đùa vui, nhưng lũ ếch không chết đùa mà là chét thật.
• Plutarch
Hãy chăm sóc cái bụng của người khác và tâm hồn của chính mình.
Người Ả rập có thể thua trong mọi cuộc chiến, miễn là họ thắng cuộc cuối cùng.
Người Do Thái không đạt được điều gì nếu họ thắng mọi cuộc chiến nhưng thua cuộc cuối cùng.
Ai cũng phàn nàn về trí nhớ của mình, và không ai phàn nàn về óc suy xét của mình.
• La Rochefoucauld
Nếu bạn khăng khăng đòi đặt chỗ trên tàu Titanic thì đi vé hạng bét cũng chẳng ích lợi gì.
Lịch sử bám theo sát gót.
Hàng năm, tại nhiều nước trên khắp thế giới, một nhóm chọn lọc những thanh niên sắp đến tuổi hai mốt phải đối diện với một vấn đề khó xử, dù làm họ phấn khởi nhưng lại vô cùng phức tạp. Họ phải ngồi xuống, suy xét mọi khả năng và chọn một giải pháp mà rồi sẽ quyết định tương lai của họ. Giải pháp đó, một khi đã được chọn rồi thì sẽ không thể thay đổi, và nếu nhầm, có thể sinh ra những hậu quả không hay sẽ làm hỏng họ luôn.
Tất nhiên, những điều trên có thể dùng để nói về bất kỳ người nào trên thế giới: một thời điểm nào đó trong độ tuổi hai mươi mốt, cậu ấy hoặc cô ấy sẽ phải thực hiện một loạt sự lựa chọn cốt yếu sẽ quyết định tương lai, nhưng thông thường ta không nhận thức được điều này. Những thanh niên tôi đề cập đến khó khăn lắm mới nhận thức nổi những gì họ đang làm, vì chỉ trong một thời gian ngắn họ phải lựa chọn cho mình quốc tịch mà họ có bổn phận trung thành trong suốt phần đời còn lại.
Do sự ngẫu nhiên về nơi sinh - hay quyết định đặc biệt của cha mẹ họ vào thời điểm đó - họ được quyền hợp pháp có hai hoặc thậm chí ba hộ chiếu khác nhau. Thời thơ ấu, họ có thể năm trước đi du lịch bằng hộ chiếu Anh, chẳng hạn như vậy, năm sau là hộ chiếu Ý, tùy theo hoàn cảnh. Nhưng đến tuổi hai mươi mốt, họ phải quyết định và tuyên bố chính thức, “Từ ngày tháng năm này tôi sẽ là một công dân Anh,” hoặc công dân Đức, công dân Mỹ.
Tôi quen một vài người có nhiều hộ chiếu như vậy, ấn tượng nhất là một cô gái Thụy Điển dễ thương sống tại vương quốc Tonga ở Nam Thái Bình Dương, một xứ sở chẳng mấy người nghĩ tới. Cha mẹ cô đều là người Thụy Điển, nên cô có quyền mang hộ chiếu Thụy Điển. Cô sinh ra ở London, nên cô cổ thể đòi hỏi quốc tịch Anh. Gần như cô đã sống cả đời ở Tonga, và đủ tư cách làm công dân Tonga. Và vì cha cô đã trở thành người Úc một vài năm sau khi cô ra đời nên cô cũng được tính đến trong cuộc vận động pháp lý và ra đi với một hộ chiếu của đất nước này.
Tôi gặp cô khi cô hai mươi tuổi, một thiếu nữ da trắng xinh đẹp sống giữa những người Tonga da ngăm đen và kích thích trí tưởng tượng của mọi chàng trai ghé qua hòn đảo của cô. Cô hay nói với tôi về việc khi đủ hai mươi mốt tuổi cô nên chọn cái nào trong số bốn hộ chiếu; tôi khuyên cô chọn Úc, vì chắc cô sẽ sống trong tầm ảnh hưởng của quốc gia này, nhưng cuối cùng cô lại làm tôi bất ngờ khi chọn Tonga, và lập luận của cô đã dẫn dắt tôi lần đầu tiên đến với lớp người mà sau này được biết đến như là “thế hệ thoát ly” Cô nói, “Tôi không muốn thuộc về bất cứ quốc gia lớn với những kế hoạch lớn nào. Tôi không muốn gánh trách nhiệm của Anh hay Úc. Cứ mặc cho họ giải quyết những vấn đề của họ theo cách của họ, không liên quan tới tôi. Tôi không muốn là người Thụy Điển với vấn đề điên đầu loạn trí phải sống cạnh nước Nga, để tôi phải bôi nhọ nước Mỹ lúc này vẫn đang cố gắng trở thành một đất nước tự do, để tôi phải tự bảo vệ mình chống lại nước Nga. Tôi muốn là công dân Tonga. Không ai căm ghét chúng tôi. Không ai đố kỵ với chúng tôi. Bất cứ cường quốc nào cũng có thể xâm chiếm chúng tôi bằng cách gửi tấm bưu thiếp một xu cho cảnh sát trưởng của Nuku’alofad[42].” Và quỷ tha ma bắt nếu cô không vứt hết những quyển hộ chiếu khác đi và giữ lại hộ chiếu Tonga.
Xét về mặt tâm lý, trường hợp thú vị nhất là của một thanh niên mà tôi đã dõi theo quá trình phát triển của anh từ lúc mới chào đời - thật ra, từ trước khi anh chào đời. Nhờ một loạt sự kiện lạ lùng, anh được quyền sử dụng hai hộ chiếu hợp lệ - Hoa Kỳ và Israel - và khi trưởng thành, anh dần nhận thức được rằng một ngày nào đó người ta sẽ yêu cầu anh tuyên bố trong hai quốc gia đó anh sẽ chọn quốc gia nào làm tổ quốc vĩnh viễn của mình.
Chuyện là thế này. Nhiều năm trước, khi vẫn còn làm việc cho Minneapolis Mutual, tìm kiếm đối tác đầu tư ở khắp vùng Trung Tây, tôi đã mơ một chiến dịch ở Detroit, nơi tôi mất đứt hai tuần nỗ lực quảng cáo chương trình đầu tư với một trong những chuyên viên kinh doanh của tập đoàn General Motors. Ông là người khác thường, một người Do Thái vùng Odessa tên Marcus Melnikoff; trong ngành công nghiệp xe hơi, ông được gọi là “Mark, người Nga điên rồ của chúng ta” với ít nhiều cảm mến, mà ở Detroit được tiếng là một người cộng sản phản đảng còn hợp thời hơn là một người Do Thái. Ông là một thiên tài quản lý công việc và nhân viên nhưng lại gặp rất nhiều khó khăn với con gái, cô sinh viên năm cuối trường Vassar, xinh xắn, cứng đầu cứng cổ và cô rất đông kẻ hâm mộ từ trường Yale và Amherst.
Tôi nhớ một buổi chiều năm 1949, khi tôi đang cố gắng giảng giải về những công lao của công ty Minneapolis Mutual thì ông Melnikoff ngắt lời, “Ông may mắn vì có con trai đấy. Đừng bao giờ sinh con gái. Chao ôi, đúng là đau cả đầu!” Đang tìm cách lấy lòng ông nên tôi hỏi vì sao, thế là ông xả hết nỗi lòng: “Vì chúng lớn lên và muốn lấy chồng. Hè năm ngoái là một thằng cha vô công rồi nghề chơi tennis. Chưa từng kiếm nổi một kopekh[43] trong đời. Mùa thu năm ngoái một sinh viên trao đổi người Indonesia. Cái xứ Indonesia ấy nằm ở chỗ chết tiệt nào chứ? Mùa đông năm nay lại là một trợ giảng trường Mount Holyoke với những tư tưởng cấp tiến. Vợ tôi luôn hỏi nó, ‘Tại sao con không thể chọn một thanh niên Do Thái tử tế và đứng đắn nào đó?”
Mấy ngày sau, khi tôi rẽ vào nhà riêng của Melnikoff ở Grosse Pointe, tôi thấy ông đang đợi một giáo sĩ Do Thái. “Thật khó xử vì lão giáo sĩ Do Thái Fineshriber chết tiệt ấy đỗ chiếc Ford của lão trên đường xe vào nhà chúng tôi!” ông làu bàu. Lúc đầu, tôi tưởng vấn đề nằm ở nhãn hiệu của chiếc xe vì công việc của ông ở General Motors là cạnh tranh với Ford, nhưng ông giải thích, “Hồi hội đồng địa phương nhóm họp quyết định xem vợ tôi và tôi có đủ trình độ học vấn để được phép gia nhập cộng đồng Crosse Pointe không, những người bảo lãnh cho chúng tôi đã để chúng tôi mạo danh là hai nhà khoa học Nga tị nạn. Ý đồ đó có vẻ làm người ta thích thú, vì vậy chúng tôi được chấp nhận, nhưng lúc nào cũng có một phe không tin, nghi ngờ chúng tôi là người Do Thái. Bây giờ thì cái lão giáo sĩ Do Thái Fineshriber trời đánh này bắt đầu lái xe lên đây, rồi mọi người đều biết hết cả.” Tôi giật mình sửng sốt trước lời phát biểu ấy và định hỏi thì nhận ra ông chỉ đang chế nhạo cái hệ thống đã bị ông qua mặt.
Giáo sĩ Do Thái Fineshriber tới, hóa ra đó là một người to béo, vui tính khoảng năm mươi tuổi, có xu thế hướng ngoại trong tôn giáo cũng như ông Melnikoff trong kinh doanh. Ông không tỏ ra bối rối khi tôi tình cờ nghe được những gì ông đến trao đổi, còn hoan nghênh mọi câu hỏi của tôi, vì vậy chúng tôi ngồi uống nước vui vẻ với nhau trong khi chờ đợi bà Melnikoff, một phụ nữ sôi nổi ngoài năm mươi. Lúc đến ngồi cùng chúng tôi, bà dặn vị giáo sĩ Do Thái phải ôn lại lần thứ hai những lời khuyên nhủ của ông bao giờ Doris quay về sau buổi chơi quần vợt trong nhà với người hâm mộ mới nhất của cô. “Không phải người Do Thái, tất nhiên,” bà Melnikoff nói với vẻ giễu cợt.
Giáo sĩ Do Thái Fineshriber nói, “Tôi thật lòng phản đối kế hoạch đưa Doris về Israel của các vị. Cô ấy sẽ gặp những thanh niên Do Thái... một số người rất có triển vọng. Nhưng có một mối nguy. Lời đồn đại về mục đích đến Israel của các vị sẽ nhanh chóng lan truyền. Người ta sẽ nghe nói đến sự giàu có của chồng bà. Người theo đuổi sẽ ngày càng đông, và tôi muốn bà hứa với tôi điều này. Bất cứ khi nào ai đó trong số họ ngỏ lời cầu hôn, mà chắc chắn họ sẽ làm thế, Doris sẽ phải nói với vẻ vô cùng sung sướng, ‘Ôi, anh David! Cả đời em chỉ mơ ước được sống ở Israel.’ Khi anh ta biết cô ấy có ý định sống ở đó thay vì đưa anh ta sang Hoa Kỳ, bà sẽ thấy nhiệt tình của anh ta bốc hơi ngay. Tôi nói là bốc hơi. Nó biến mất tiêu.” Ông xua mạnh tay trước mặt ra hiệu thủ tiêu hoàn toàn.
Tôi hỏi, “Ông muốn nói thanh niên Israel chủ yếu coi con gái Mỹ như tấm hộ chiếu?”
“Là một người không phải Do Thái, ông diễn đạt ý kiến của mình rất khá,” ông đáp. “Và với một cô gái xinh đẹp như Doris, khao khát được tới Mỹ và lấy được tài sản của cô ấy sẽ... thế đấy, mạnh gấp bội.”
Lúc này Doris đã đi chơi quần vợt về, một cô gái ngoài hai mươi tóc đen, cao, hấp dẫn. Dường như thật nực cười chuyện giáo sĩ Fineshriber và mẹ cô lo lắng đến việc kiếm cho cô một tấm chồng, vì theo như tôi đánh giá, cô gần như có thể lấy bất cứ người nào cô muốn. Chắc hẳn ông Melnikoff đã đoán được ý nghĩ của tôi, vì ông nói, “Có lẽ ông Fairbanks thấy lạ là với một cô gái như Doris mà chúng tôi vẫn lo lắng việc nó lấy một chàng trai Do Thái.” Tôi để ý thấy Doris không hề tỏ ra bối rối khi cuộc bàn luận kiểu này diễn ra trước mặt một người tương đối xa lạ; hình như trước đây chuyện này đã xảy ra rồi. “Nhưng hồi ông còn là một chàng thanh niên sống ở Odessa thì ông nhìn quan hệ Do Thái không Do Thái theo cách khác. Tôi ủng hộ ý kiến đưa ả ngựa non chân dài này tới Israel để rèn luyện một chút.” Ông nghiêng người về phía trước vỗ lên đầu gối con gái.
“Vậy thì, Doris ạ, việc cô phải làm,” giáo sĩ căn dặn Doris, “là nói ngay sau khi chàng trai ngỏ lời, ‘Lạy Chúa, em luôn mong muốn được sống ở Israel.’” Ông bật ngón tay sau khi nghĩ thêm: “Hay hơn nữa là cô cứ nói, ‘Em luôn mong muốn được sống trong một khu định cư ở Israel.’ Câu này sẽ làm anh chàng thực sự sợ hết hồn.”
Mọi người bàn luận sôi nổi về Israel, đất nước giáo sĩ Fineshriber biết đến với mối thiện cảm nhờ ba lần dẫn các thành viên giáo đường Do Thái của ông hành hương đến. Ông thích đất nước này, hiểu được tại sao người Do Thái muốn lập nghiệp ở đây, và hy vọng những năm tới sẽ có nhiều dịp quay lại. Nhưng vốn là người có đầu óc thực tế biết rõ Detroit và những vùng lân cận, ông thích Hoa Kỳ hơn và cảm thấy ở Michigan một người Do Thái cũng có được cơ hội tốt như ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới. Ông đặc biệt mong Doris Melnikoff không tự biến mình thành một kẻ ngốc; năm ngoái cô đã ba lần suýt nữa thì làm như vậy với vài kẻ xấu không phải Do Thái, và ông không thấy có lý do gì, sau khi đã tránh được hành động dại dột đó, bây giờ cô lại sa vào một cái bẫy Do Thái không kém phần tồi tệ. Khi rời khỏi đó, vẫn chưa thu được thành công gì trong nỗ lực kêu gọi đầu tư vào quỹ tương hỗ, tôi nghe thấy giáo sĩ nói, “Doris, nếu cô thực sự muốn có một chàng trai Do Thái tử tế, sao cô không thử xem thằng cháu con bà chị ta thế nào? Kính dày cộp, xếp hạng kém ở trường Stanford, thừa ba mươi pound cân nặng, lại còn hơi say mê Karl Marx.” Ở Boston, tôi từng quen biết một mục sư Ailen cũng hay nói đùa kiểu này với giáo dân.
Doris Melnikoff đi Israel thật, cô đã yêu một chàng trai Do Thái tử tế, đã nói với anh ta, “Cả đời em luôn mơ ước được sống trong một khu định cư ở Israel.” Thú vị ở chỗ, chàng trai lại trả lời với sự xúc động sâu sắc, “Anh thấy nhẹ cả người. Anh chỉ sợ em muốn anh sang Mỹ làm việc với cha em.” Chàng trai tên là Yochanan Zmora, một nhà khoa học dạy tại trường kỹ thuật ở Haifa. Khi anh đưa Doris tới thăm thành phố tuyệt vời đó, thành phố nằm trên một ngọn đồi bên bờ Địa Trung Hải, phía Bắc là thành Acre của quân Thập tự chinh và phía Đông Nam là ngọn đồi Megiddo bất biến theo thời gian, nơi xảy ra trận chiến Armageddond[44], cô biết đây chính là những gì cô hằng mong ước, và trong cơn bốc đồng, cô đã kết hôn với anh để chia sẻ niềm hứng khởi xây dựng miền đất mới.
Tôi đang ở cùng cha cô tại Detroit khi ông nhận được bức điện của bà Melnikoff. “Lạy Chúa! Lấy một người Do Thái tên là Zmora và sống ở Haifa ư?” Ông tìm cái tên đó trong Kinh Thánh và nhầm nó với Jaffa, vì vậy suốt thời gian vợ ông ở Israel mua sắm đồ đạc cho đôi vợ chồng mới cưới, ông lại tưởng tượng bà và Doris trong một nơi khác hẳn trên đất nước đó. Qua điện tín, ông thuê một thám tử tư ở Tel Aviv tìm hiểu lai lịch Yochanan Zmora, và người này báo cáo: “Danh tiếng tuyệt vời. Khả năng chuyên môn tuyệt vời. Ngoại hình tuyệt vời. Sinh ra với quốc tịch Anh, tên là John Clifton, Canterbury, xứ Kent, nước Anh. Bằng danh dự về khoa học tại trường Cambridge. Di cư sang Palestine 1946. Lấy tên Hebrew là Yochanan Zmora năm 1947. Tôi không tìm thấy thông tin bất lợi nào về người này trừ việc anh ta nghiêng về phe cánh tả trên chính trường Israel.”
Ông Melnikoff đưa tôi xem bức điện và hỏi ông nên bay đi đâu, Jaffa hay Canterbury. Tôi hỏi ông tại sao không ở Detroit chờ bà vợ cung cấp thêm thông tin, nhưng ông gắt, “Tôi mà cứ ngồi lì ở Detroit thì không làm ra một triệu đô la được. Tôi có một nguyên tắc. Nơi nào có chuyện lộn xộn là bay tới đó. Chẳng ích lợi gì, nhưng lại gây ấn tượng ra trò với sếp.” Mặc cho tôi khuyên can, ông bay đi London, thuê một chiếc Rolls-Royce, và thong thả xuống Canterbury gặp ông bà Clifton, đôi vợ chồng môi mỏng hay tỏ vẻ bồn chồn, kinh hoảng trước thói kiểu cách ồn ào theo lối Nga của ông. Tuy nhiên, thấy họ cũng lo lắng cho con trai như mình lo lắng cho con gái, ông nhẹ nhõm hẳn, và khi ông hỏi, tay cầm chén trà hướng về phía bà Clifton, “Thật tình mà nói, ngày nay bà có thể làm được gì với những đứa con cứng đầu cứng cổ chứ?” thì ông đã chiếm được cảm tình của ông bà Clifton. Ông Clifton là một luật sư hạng xoàng kỹ tính; trong lúc bốc đồng, ông đã mời ông Melnikoff tới câu lạc bộ của mình, một nơi rất khó chịu với trần tối màu, tường tối màu, ghế tối màu và màn treo tối màu. Ông Melnikoff nói, “Nơi này rất hấp dẫn,” và ông Clifton nói, “Vâng, thế đấy... hừm, vâng. Nó có phần tốn kém hơn so với mức mà bình thường người ta muốn trả cho những thứ phù phiếm. Nhưng ở đây cũng khá dễ chịu, đúng không?” Sau hai ngày không giải quyết được vấn đề gì, ông Melnikoff bay về Detroit, và khi tôi tìm cách khơi lại cuộc thảo luận về vụ đầu tư của ông với chúng tôi, ông lầm bầm, “Mời ông đi đi cho. Ai mà có thời giờ đầu tư tiền bạc trong khi con gái còn đang ở Jaffa chứ?”
Hai năm sau, chuông điện thoại của tôi ở Minneapolis réo lên chói lói và giọng ông Marcus Melnikoff vang lên như hét vào tai, “Xuống ngay nhé. Có việc cần.” Trong lúc lái xe đưa tôi từ sân bay về Detroit, ông đề nghị, “Hãy lập cho tôi một quỹ - một trăm nghìn đô la - lấy tên cháu trai tôi.” Khi tôi hỏi tên gì, ông cau mày nói, “Giờ thì chúng tôi đang phải đối mặt với vấn đề đó đây. Nghe tin Doris có mang, bà Rebecca đã bay tới Israel đưa nó về nhà. Chúng tôi nhất định yêu cầu đứa bé phải được sinh ra dưới quốc kỳ Mỹ - bảo đảm cho nó có hộ chiếu Mỹ. Chúng tôi đã đề nghị giáo sĩ Fineshriber đăng ký tên cháu là Bruce Clifton, dùng họ hợp pháp ở Anh của cha cháu. Tất nhiên, ở Israel cháu nó phải được đăng ký là Yigal Zmora rồi.”
“Chuyện này nghe có vẻ lôi thôi quá,” tôi phát biểu. “Tôi sẽ ghi tên nào đây?”
“Không lôi thôi lắm đâu,” ông Melnikoff nghiêm nghị đáp. “Nếu ông từng là một người Do Thái ở Nga, tìm cách bỏ trốn - chuyện sống còn chứ không phải vấn đề sở thích - hẳn ông sẽ đánh giá cao việc một người ông thương yêu cháu chu đáo thu xếp để ông có hai tên... hai hộ chiếu. Khi nó lớn lên, cứ để cho nó chọn lựa. Hoa Kỳ hay Israel. Trong lúc chờ đợi, hãy sử dụng tên Bruce Clifton. Tôi tin chắc nó sẽ là công dân Mỹ.”
Vì vậy chú bé lớn lên với hai tên, hai tính cách, hai quê hương. Cha cậu, lúc bấy giờ đã là tiến sĩ Zmora và giữ chức chủ nhiệm khoa tại trường đại học khoa học danh tiếng của Israel ở Haifa, có ý định để Yigal làm công dân Israel và tìm chỗ đứng trong cuộc sống của dân tộc này; nhưng ông ngoại Melnikoff, với nhiệt tình kiểu Nga gia tăng theo năm tháng, lại muốn Bruce làm một người Mỹ thực sự, học tại một trường đại học Mỹ và tạo dựng sự nghiệp trong xã hội Mỹ. Cuộc tranh giành ấy không bao giờ được công khai; theo như những gì tôi được nghe thì chắc chắn nó đã không làm tổn thương cậu bé. Gần như suốt cả năm cậu sống với cha mẹ ở Haifa, nhưng hè nào cậu cũng bay tới Detroit để hiểu rõ quê ngoại. Tiến sĩ Zmora và ông ngoại Melnikoff ganh đua với nhau theo những cách có thể chấp nhận được để tranh giành tình cảm của cậu, và mặc dù khi đó vẫn chưa có cơ hội gặp cậu nhưng tôi nghe nói cậu đã trở thành một thiếu niên tuyệt vời.
Kể cũng lạ là tôi không bao giờ gặp cậu trong những lần tới Detroit, vì tôi vẫn tiếp tục bán cổ phần quỹ cho ông ngoại cậu. Sau khi chuyển sang World Mutual, tôi cũng có thời gian ở Haifa chỉ đạo các công trình nghiên cứu khả thi về vấn đề dầu mỏ của Israel, trong quá trình làm việc đó tôi đã trở nên khá thân thiết với tiến sĩ Zmora và bà Doris vợ ông, vì ông đại diện cho chính phủ Israel trong các cuộc thảo luận với chúng tôi. Dưới sự dìu dắt của ông, tôi được biết khá nhiều về Haifa và, sau những chuyến công tác tại các nước như Thụy Điển hay Afghanistan, tôi luôn hài lòng khi lại được tiếp cận thành phố bậc thang này, tiếp cận cái hải cảng cổ xưa đã từng biết đến nhà tiên tri Elijah[45], những đạo quân của các Pharaoh, xe ngựa của vua Solomon, sự tàn bạo của quân Thập tự chinh. Haifa trở thành một trong những thành phố tôi yêu thích nhất, vì trong các bến cảng của nó tôi có thể nhìn thấy những chiếc xuồng lớn của thành Carthage và những chiến thuyền ba tầng chèo chở các quân đoàn La Mã đến chinh phục Jerusalem. Có gia đình Zmora làm hướng dẫn viên, tôi đã đến tận hồ Galilee ở phía Đông, nơi mang những ý nghĩa quan trọng hơn.
Suốt thời gian đó, tôi cũng lơ mơ biết đến một cậu bé đang trưởng thành với mười tháng trong năm bị cái gánh lịch sử này đè nặng lên vai và hai tháng còn lại bị cuốn hút bởi sức sống và sự cám dỗ của bang công nghiệp Michigan. Một lần, trong khi leo lên đồi Galilee cùng cha mẹ cậu, tôi hỏi Doris liệu bà có bao giờ ân hận vì đã chọn Israel không, và bà kêu lên, “Ô, không! Đối với tôi những sự kiện bình thường trong cuộc sống cũng thành cuộc phiêu lưu. Lấy chồng, có con, chứng kiến thế giới xung quanh phát triển như thế nào. Đó mới là cái quan trọng. Vì vậy tôi cũng sống hạnh phúc như ở Detroit, nhưng không hơn thế này được. Tuy nhiên, ở Israel... ờ, người ta có thêm một điều gì đó.”
“Còn con trai bà?”
“Nó sẽ tự mình quyết định,” tiến sĩ Zmora đáp trong lúc đưa mắt khắp chiến trường lịch sử, nơi Saladin[46] đã đánh đuổi quân Thập Tự Chinh.
—*—
Mùa xuân năm 1956, World Mutual cử tôi đi Haifa để thực hiện một dự án đầu tư thực tế vào nhà máy lọc dầu mới, và tất nhiên tôi điện cho Yochanan Zmora ra sân bay đón, vì tôi sẽ tiến hành đàm phán với ông, và vừa bước ra khỏi cửa chiếc máy bay El Al tôi đã nhìn thấy, đang đứng chờ trên mặt đường rải nhựa phía dưới, Doris Melnikoff, chồng bà và một cậu bé dễ thương độ năm tuổi mặc quần soóc kiểu Anh, đầu đội kova tembely loại mũ nhỏ màu trắng rất được thanh niên Israel ưa chuộng; nó được coi như vật nhắc họ nhớ đến những chiếc mũ được các chiến sĩ đấu tranh cho tự do trong cuộc Chiến tranh Độc lập 1948 tùy cơ ứng biến sáng tạo ra.
Trong lúc cha mẹ chạy lại đón tôi và hỏi thăm tin tức từ Detroit, cậu bé đứng tách riêng một mình chờ cho đến khi màn chào hỏi xong xuôi. Rồi cậu lịch sự tiến lên phía trước, chìa tay ra nói, “Ở đầu này của tuyến bay thì cháu là Yigal, còn ở đầu kia là Bruce.” Tôi bắt tay chào đáp lại cậu, và như vậy chúng tôi đã bắt đầu một mối quan hệ ấm áp được đánh dấu bằng những lá thư định kỳ từ Haifa đến Geneva. Đầu tiên được viết bằng chữ hoa cỡ lớn, rồi với sự súc tích không ngừng được cải thiện, những lá thư từ Yigal với những lời đề nghị tôi mang đến cho cậu, trong chuyến bay sắp tới, những món đồ nho nhỏ quan trọng mà cậu không sao kiếm nổi ở Israel.
Sau này tôi sẽ nhận được những bức thư tương tự từ Vwarda, nhưng người gửi là một cô bé bốc đồng quen được nuông chiều trông chờ mọi người quen mang đến cho cô bất cứ thứ gì cô yêu cầu; cô không bao giờ nghĩ đến việc gửi kèm tiền để trả cho món đồ mình đề nghị. Trong thư của Yigal lần nào cũng có một tờ séc do chính cậu chứ không phải cha cậu ký tên. Tôi có thể hình dung được cảnh cha mẹ cậu dạy bảo, “Nếu muốn một thứ gì đó, con hãy để dành tiền, ra bưu điện và gửi séc đến Geneva cho ông Fairbanks.”
Cậu bé yêu cầu những gì? “Cháu đọc một bài báo ở Berlin nói rằng người Nhật đã phát minh ra ống vô tuyến kiểu mới. Ông có thể mang giúp cháu bốn cái được không? Xin ông đừng gửi qua bưu điện vì như thế thì cháu phải trả cước phí.” Khi lớn hơn, cậu nhờ mua đĩa nhạc pop trong catalogue của hãng Phillips ở Amsterdam và một cái thước tính loga hình tròn. Lần khác, cậu lại muốn biết liệu tôi có thể tìm cho cậu một tập bản đồ mới xuất bản ở Moscow không, nhưng cậu cần biết giá tiền trước. Khi tôi báo lại nó là ấn phẩm dành cho người lớn và giá hơn hai mươi đô la, cậu liền hủy bỏ yêu cầu, nhưng trong chuyến đi sau đó tôi đã mang nó theo coi như mòn quà tặng người bạn trẻ dễ thương. Khi tôi trao cho cậu gói quà, to và phẳng, tất nhiên cậu biết ngay đó là gì và rưng rưng nước mắt. Cậu giữ tay ở nguyên bên hông, không chịu cầm. Khi tôi cố ép cậu nhận, cậu nói, “Cháu đã không đúng. Cháu đã làm ông phải mua cho cháu.” Tôi suy nghĩ kỹ một lúc rồi nói, “Phải, cháu đã gợi ý cho tôi. Nhưng tôi mua cho cháu không phải vì lý do đó mà vì ông cháu đã nói với tôi cháu đang trở thành một nhà địa lý tài năng.”
“Ông cháu nói thế ạ?” Yigal nghiêm nghị hỏi.
“Đúng vậy. Khi tôi ở Detroit.”
“Ồ,” cậu bé trầm ngâm nói, “khi cháu và ông cháu ở trên núi Tabor, ông bị lạc và cháu đã chỉ đường về cho ông.”
“Nếu thế thì đây là mòn quà rất chính đáng,” tôi nói, vậy là cậu đưa nắm tay lên dụi đôi mắt đỏ hoe và nhận món quà.
Khi học lớp bốn ở trường Haifa, cậu có chỉ số IQ cao hơn 150 nhiều, nhưng các thầy cô giáo nhận thấy cậu không hề có cái vẻ bẽn lẽn thái quá thường thấy ở những trẻ em có trí thông minh cao. Cả người cha Anh và người mẹ Mỹ của cậu đều có quan niệm chăm sóc dạy dỗ con rất thiết thực. Họ trông chờ cậu cư xử cho phải phép, nhưng vẫn khuyến khích cậu tham gia chuyện trò cùng gia đình. Họ thảo luận về chủ đề lịch sử Anh, Mỹ hay Israel, cũng như những vấn đề của cậu ở trường. Nghĩa vụ đạo đức của cá nhân cũng như vấn đề nghệ thuật và tôn giáo được xem xét liên tục. Gia đình Zmora thấy thật khó mà coi trọng thuyết thần học ngột ngạt đang được ưa chuộng ở Israel và không buồn giấu giếm thái độ coi thường đối với cách xử sự lố bịch của các giáo sĩ Do Thái chính thống.
Vợ chồng tiến sĩ Zmora cũng để mắt đến việc cho Yigal va chạm với bạn bè đồng trang lứa. Họ khuyến khích cậu giao du với những nhóm thiếu niên nhập cư ngang ngạnh người Marốc và Iran và gạt bỏ bất cứ lời kêu ca phàn nàn nào của cậu về việc bị đối xử thô bạo. Họ hài lòng thấy cậu tổ chức cho mấy cậu bé trong đám trẻ nhập cư đó lắp điện đài dưới tầng hầm nhà họ, và còn cấp tiền khi cậu muốn mua một cái lều để cho một nửa số bạn của cậu có thể cắm trại trên đồi Galilee và liên lạc bằng sóng ngắn với nửa còn lại trong thành phố. Họ tỏ ra thích thú khi quân cảnh đến nhà thông báo, “Con trai ông bà làm nhiễu tần số vô tuyến của chúng tôi rồi.” Quân cảnh rất kinh ngạc khi biết hóa ra thủ phạm lại là một cậu bé chín tuổi.
Yigal rất yêu Haifa. Đó là một thành phố với những hình ảnh tương phản sống động: một bến cảng nhộn nhịp tàu bè từ mọi nơi trên thế giới, khu thương mại sầm uất từng là tụ điểm của các nhà buôn trong hàng nghìn năm, cao nguyên hùng vĩ Mount Carmel với những nhà thờ Công giáo nổi tiếng và khu tập trung dày đặc người Đức tị nạn. Tuy nhiên, điều làm cậu thích thú nhất là đặc trưng lịch sử của vùng này: cách đó vài dặm là những hang động mà ai cũng có thể leo vào và là nơi cư trú của con người suốt mười lăm nghìn năm. Trong những ngách tối, cậu có thể nhìn thấy những bậc lên xuống có lẽ do người xưa đục đẽo. Còn cả những thành phố không còn tồn tại từng được nhắc đến trong Kinh Thánh với tầm quan trọng nào đó và một nghĩa địa lạ thường trong lòng đất với một số quan tài vẫn ở đúng vị trí và hàng đống bụi đất mà trong đó ta có thể tìm thấy những chai thủy tinh Ai Cập.
Dân chúng Haifa cũng đáng chú ý như chính mảnh đất ấy. Một hôm, tiến sĩ Zmora chỉ cho Yigal một quầy bán các loại báo được viết bằng mười một thứ tiếng khác nhau; trong các gia đình đến chơi nhà họ có nhiều người nói được bảy tám thứ tiếng; phần lớn nói được ít nhất ba thứ tiếng. Đồ ăn thức uống đủ loại lúc nào cũng sẵn sàng, và một số người cao tuổi vẫn mặc quốc phục của nhiều nước trên thế giới, vì vậy một cậu bé lớn lên trong thành phố này buộc phải nhận thức được là trái đất có rất nhiều người không giống mình.
Yigal không phải đứa trẻ phổng phao; thực ra cậu có phần hơi còi, nhưng lại có khả năng phối hợp các ưu điểm của bản thân một cách tài tình đến mức không bao giờ rơi vào thế bất lợi khi chơi với bạn. Trong trò chạy lên chạy xuống vô số bậc cầu thang, vốn là đặc điểm của Haifa, cậu thiếu niên nhỏ nhắn dẻo dai với đôi mắt đen và nước da trắng ấy còn nhanh nhẹn hơn các bạn. Cậu thích những trò chơi đòi hỏi sự kết hợp giữa tốc độ và sự nhẫn nại, vì cậu có thể di chuyển nhanh và do đó vô hiệu hóa được các cậu bé to lớn hơn vốn có lợi thế về sức khỏe.
Vì vậy cũng là lẽ tự nhiên khi cậu thích bóng đá và đá bóng khá giỏi. “Chú bé này có thể trở thành một tiền đạo xuất sắc đấy,” người quen của gia đình nhận xét vào mùa hè khi nhà Zmora về Canterbury thăm họ hàng bên Anh. Ở Haifa, tài nghệ của cậu cũng được đánh giá cao, chưa đến mười tuổi cậu đã được chơi cùng các bậc đàn anh, vì cậu góp phần vào lối chơi của đội, và mặc dù không có cái mà các phóng viên thể thao gọi là “một khao khát tấn công vào điểm yếu của đối phương,” nhưng cậu có khát vọng chiến thắng mạnh mẽ và có nhiều ý tưởng để thực hiện khát vọng đó. “Khi ta đá bóng đến chân cậu ấy,” một đồng đội của cậu nói với tôi, “cậu ấy chuyền lại rất khéo léo.” Không cậu bé nào có thể thốt ra một lời khen ngợi cao hơn, và mỗi khi người ta thành lập đội bóng, cậu đều được tuyển chọn ngay lập tức. Thói quen giao du với các bậc đàn anh sẽ đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đời cậu.
Tuy vậy, niềm say mê lớn nhất của cậu không dành cho thể thao mà là điện tử. Năm lên chín, từ hộp linh kiện Heathkit tôi mang từ Hoa Kỳ sang cho, cậu đã lắp ráp thành một máy thu thanh hạng nhất, và khi lắp thêm các linh kiện đặt mua từ châu Âu, cậu có một hệ thống chất lượng chuyên nghiệp dùng để liên lạc với tất cả các nước trên thế giới. Một lần tôi mang cho cậu một số thiết bị đặc biệt của Đức, cậu liền vứt cái cũ đi và chỉ trong vài phút đã lắp xong chiếc máy thu thanh mới. Tôi gật đầu tán thưởng và định rời khỏi đó, nhưng cậu nắm tay tôi. “Khoan đã! Ông không đoán được cháu định làm gì ư?” Cậu điều chỉnh các vecnê trên ô dò kênh và vài phút sau đã liên lạc được với một tay nghiệp dư ở Detroit; anh chàng này gọi điện cho Marcus Melnikoff, chẳng bao lâu sau Yigal và tôi đã chuyện trò với ông.
Cậu trở nên thành thạo về thiết bị điện tử đến mức năm cậu mười lăm tuổi, đám bạn bè hơn tuổi, lúc này đang thực hiện nghĩa vụ quân sự trong quân đội Israel, phải nhờ cậu giúp đỡ mỗi khi binh chủng thông tin gặp vấn đề, và trong một thời gian ngắn cậu đã sử dụng và duy trì liên lạc quân sự giỏi hơn cả bọn họ. Yigal thường xuyên lui tới một doanh trại nằm ở một trong những ngọn đồi cao trên núi Carmel; ở đó, cậu cùng bạn bè tháo rời các đài thu phát và trạm tiếp âm của chính phủ, lắp ráp lại với những cải tiến cậu cho là cần thiết, rồi đến mùa hè cậu đi theo mấy người bạn thân trong các cuộc diễn tập, giúp họ xử lý việc liên lạc. Dĩ nhiên cậu đã tự học mã Morse, nhưng đóng góp chủ yếu của cậu bắt nguồn từ hiểu biết về những gì tạo ra bước tiến mới trong lĩnh vực điện tử.
Cha mẹ cậu nhận thấy cả mối quan tâm mang tính trí tuệ dành cho khoa học lẫn mối quan hệ mang tính cá nhân với quân đội của cậu, và vì cậu cũng phải đối diện với ba năm nghĩa vụ quân sự như mọi thanh niên Israel khác, ông bà Zmora cho rằng nếu cậu sớm nhận biết được lĩnh vực chuyên môn của mình và tự hoàn thiện nó thì cũng có ích. Vì thế họ không thấy lo lắng khi phát hiện ra trong nhà có một người lính tham gia quân đội trước tuổi, họ gọi cậu là “chú lính dù của chúng tôi”, nhưng câu đùa ấy dễ bị hiểu nhầm đến mức họ thôi không cố giải thích cho bạn bè nữa. Cuối năm 1966, khi tôi đến thăm dự án dầu khí, bà Doris lại lôi câu nói đùa ấy ra, tôi nhận xét, “Trông cậu ấy còn quá nhỏ để nhảy,” chồng bà bèn nhăn mặt nói, “Anh đã bảo em quên câu nói đùa ấy đi cơ mà,” vậy là để tự biện hộ, bà kể cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện về cậu con trai bán quân sự của mình, tôi hỏi, “Bà không sợ ư?” thì bà đáp, “Lo sợ là một khía cạnh của cuộc sống thể kỷ hai mươi. Ông không sợ sao?” và khi ngẫm những chuyện mình từng chứng kiến trên khắp thế giới - nạn đói ở Ấn Độ, cuộc nổi dậy của người da đen chống người da trắng ở Mỹ, việc tái xét ở Vwarda - tôi phải công nhận mình có sợ.
“Không nhiều quá,” tôi nói thêm. “Tôi vẫn giữ hy vọng.”
“Chúng tôi cũng thế,” bà Doris nói, và khi cậu con trai mười lăm tuổi tự tin, dẻo dai của họ bước vào, tôi có thể thấy cậu cũng cảm thấy y như vậy.
Về Yigal Zmora như vậy là quá nhiều. Còn Bruce Clifton thì sao? Mùa hè năm 1956, bạn bè Do Thái của ông Marcus Melnikoff báo cho ông biết rằng qua những gì họ nghe được ở Washington thì chiến tranh giữa Israel và các quốc gia Ả rập nhất định sẽ nổ ra. “Nên đưa con gái tránh đi thì hơn,” họ khuyên.
Ông nhiều lần gửi thư khẩn tới Haifa bảo Doris phải đưa cả gia đình về Detroit cho đến khi tương lai được đảm bảo, nhưng bà không nghe: “Nếu chiến tranh nổ ra như cha nói, ngành khoa học sẽ cần đến anh Yochanan, và con không thể tưởng tượng được mình lại bỏ rơi anh ấy để sang Mỹ tìm nơi an toàn. Vì vậy cha bỏ ý nghĩ vớ vẩn ấy đi.”
Ông Melnikoff đánh điện lại khăng khăng cho rằng ít ra cũng phải cho đứa bé bay về Detroit, Doris trả lời, “Con rất hiểu Yigal, nếu chúng ta bắt nó bỏ chạy khỏi Israel trong thời kỳ khủng hoảng thì có thể nó sẽ bị tổn thương tình cảm. Nhưng chuyện đó không quan trọng, vì con nghĩ ngay lúc này cả một bầy ngựa cũng không thể kéo nó đi được. Cha xem đấy, nhóm của nó đang chơi trò lính tráng và đã lập kế hoạch phải làm gì nếu xung đột xảy ra bất ngờ.”
Khi nhận được lá thư này, ông Melnikoff đưa tôi xem và khịt mũi, “Chúa ôi, thằng bé mới năm tuổi. Hai vợ chồng chắc mất trí rồi.” Ông nhờ tôi lái xe đưa ra sân bay và, chẳng cần hành lý gì, bay ngay sang Israel. Hai giờ sau khi tới nơi, ông đã thuyết phục được vợ chồng Zmora để ông đưa Yigal sang Mỹ cho đến khi cơn khủng hoảng qua đi. Sáu giờ sau đó, ông và Bruce đã trên đường trở về xuyên qua Đại Tây Dương, và khi họ tới nơi thì tôi đã chờ sẵn ở sân bay.
Bruce bước xuống thang trước, một cậu bé năm tuổi thon nhỏ, vẻ có giáo dục, đội chiếc kova tembel để thông báo về quốc tịch của mình. Nhận ra tôi, cậu nghiêm trang bước tới trước và cúi chào, “Cháu và ông ngoại đã có một chuyến bay tuyệt vời,” cậu nói bằng tiếng Anh nuốt âm.
Dù cậu còn nhỏ tuổi và nhỏ người, ông bà Melnikoff vẫn đăng ký cho cậu vào học lớp một trường Grosse Pointe, và cậu dễ dàng thích nghi với lối sống Mỹ. Cuối tháng Mười, khi chiến tranh bùng nổ đúng như lời ông ngoại Melnikoff dự đoán, mọi người trong nhà tìm cách giấu Bruce tin này nhưng vô ích. Qua truyền hình và qua trao đổi với bạn học, cậu theo dõi diễn biến cuộc chiến với mối quan tâm gần như của người lớn, âm thầm hài lòng khi đất nước mình thắng trận. Sau khi tổng thống Eisenhower, người được ông bà cậu ủng hộ một khoản tiền đáng kể, tái đắc cử, cậu hỏi, “Bây giờ cháu có thể về nhà không?” Mọi người quyết định tốt hơn hết cứ để cậu kết thúc năm học đó ở Grosse Pointe VI, theo lời ông Melnikoff nói với tôi, “Ở Israel có thể không có trường nào tốt bằng trường này.”
Thật ra, trong những năm tiếp theo, chính vấn đề trường lớp đã gây nên bất đồng nghiêm trọng nhất giữa hai phe của gia đình Melnikoff. Ông ngoại Melnikoff cho rằng vì ông có tiền và có quyền cho cháu nhập học nên Bruce phải được hưởng nền giáo dục Mỹ, nhưng bà Doris lại khăng khăng con trai bà sẽ đến trường cùng bạn bè đồng trang lứa ở Haifa. Khi cuộc tranh luận được đưa ra để cậu bé quyết định, cậu đã tháo gỡ vấn đề theo một cách đáng ngạc nhiên: cậu nói với ông, “Cháu thích nước Mỹ, nhưng so với Haifa thì trường của ông kém xa đến nỗi việc học hành của cháu sẽ nguy mất.” Khi bay đi Haifa nghiên cứu tình hình, ông Melnikoff nhận thấy Bruce nói đúng; cậu đã khá may mắn được nhận vào Reali School, một trong những trường tốt nhất thế giới, nơi các cậu bé Israel mười tuổi được hưởng một nền giáo dục gần như tương đương với những gì các thanh niên mười tám tuổi nhận được ở Mỹ. “Tất nhiên,” tôi lưu ý Melnikoff khi ông bàn luận về sự so sánh đó với tôi, “Ở Mỹ hầu như mọi trẻ em đều được học trung học. Còn ở Israel thì chỉ có khoảng một trên hai mươi lăm em thôi. Reali phải là trường tốt nhất. Nó có phải bận tâm đến bọn đầu đất đâu.”
Nhưng năm 1965, Bruce mười bốn tuổi, ông ngoại Melnikoff không nghe thêm bất cứ lý lẽ nào nữa; ông khăng khăng bắt Bruce phải học ở Mỹ và tranh thủ sự ủng hộ của tôi để thuyết phục cha mẹ cậu. Trong chuyến đi tiếp theo tới Haifa, tôi nói với họ, “Ông Marcus có lý đấy. Luật pháp nước Mỹ yêu cầu khi một đứa trẻ sinh ra với hai quốc tịch như Yigal...”
“Đứa bé có thể chọn bất cứ quốc tịch nào nó muốn... năm hai mươi mốt tuổi,” bà Doris ngắt lời. “Tôi đã tìm hiểu rồi.”
“Hình như bà vẫn chưa tìm hiểu đầy đủ thì phải,” tôi nói tiếp, “vì điều bà nói chỉ đúng một phần. Đứa trẻ đó được phép lựa chọn năm hai mươi mốt tuổi, nhưng nó chỉ đủ tư cách làm như vậy nếu có năm năm học tập trong phạm vi nước Mỹ.”
“Điều này có đúng không?”
“Tôi không biết chính xác số năm quy định - đấy là do cha bà nói với tôi.”
“Cha tôi hay nảy ra những ý tưởng kỳ quặc lắm. Tốt hơn hết chúng ta nên kiểm tra lại xem sao,” bà nói.
Chúng tôi lái xe tới Tel Aviv, gặp một viên chức đại sứ quán Mỹ có bộ luật chính xác đặt trên bàn làm việc: “Bất cứ trẻ em nào được sinh ra ở nước ngoài...”
Doris mừng rỡ ngắt lời, “Điều này không áp dụng với chúng tôi. Yigal sinh ra ở Detroit và như thế cháu đã là công dân rồi.”
Viên chức đại sứ quán xác nhận điều đó: “Bất cứ đứa trẻ nào được sinh ra một cách tự nhiên ở nước Mỹ thì chắc chắn đều là công dân Mỹ, bất kể quốc tịch của cha mẹ như thế nào.”
Nghe thấy thế, bà Doris chẳng còn bận tâm tranh luận thêm gì nữa và chúng tôi trở về Haifa. Nhưng khi bà báo về Detroit cho cha mình biết về phát hiện này, ông bèn viết cho bà một lá thư thận trọng, đồng thời gửi một bản sao đến Geneva cho tôi.
Doris thân yêu,
Con và anh thanh niên thông minh ở đại sứ quán hiểu luật theo một kiểu, còn cha lại hiểu theo kiểu khác. Vì con đã tốt nghiệp đại học nên có lẽ con đúng. Nhưng cha học trong ngôi trường khắc nghiệt hơn con nhiều, đó là các cơ quan mật vụ Nga, và họ đã dạy cha nhiều điều. Vì vậy cha đã đến Sở Nhập cư Mỹ xem kỹ luật, trong đó nói rằng những đứa trẻ giống như Bruce phải học năm năm ở Mỹ nếu muốn yêu cầu được thành công dân chính thức năm hai mươi mốt tuổi. Có thể bây giờ điều này chưa phát huy hiệu lực với Bruce. Có lẽ cha đang thận trọng quá đáng. Có lẽ nếu cha hỏi ý kiến các luật sư hàng đầu của hãng Pontiac, họ sẽ đồng ý với con và nói rằng cha đang cẩn thận không cần thiết.
Nhưng cha không hỏi các luật sư cao giá. Cha hỏi ý kiến tất cả những người Do Thái trốn khỏi Odessa sau các cuộc tàn sát người Do Thái, tất cả những người bị truất quyền sở hữu đang chết dần chết mòn trong trại tù chính trị sau cuộc đại chiến vừa qua và tất cả những người Do Thái vẫn đang tìm cách rời khỏi nước Nga. Họ mới là những chuyên gia đích thực về luật quốc tịch và họ thét lên với cha, “Melnikoff, nếu trên thế giới của Chúa này có cách nào giữ gìn hộ chiếu cho cháu ông thì hãy làm đi.” Cha vẫn còn nhớ niềm vui sướng tột cùng đã tràn ngập ngôi nhà ở Odessa của chúng ta khi rốt cuộc chúng ta cũng nhận được mẩu giấy màu xanh ấy, và cha còn nhớ nỗi kinh hoàng ám ảnh cả gia đình khi mọi người phát hiện ra tên ông nội Menachem của con không có trong danh sách. Cụ đã dũng cảm để chúng ta ra đi làm ăn thịnh vượng ở một mảnh đất cụ không bao giờ được thấy. Trong đợt tàn sát sau đó, cụ đã bị giết.
Cha muốn Bruce đến trường học bây giờ... ngay lập tức... có thể chuyến bay sau... để khi một thằng ngu ngốc chết tiệt nào đó viết thẻ xanh cho chúng ta, tên của cháu sẽ có trong danh sách.
Cha yêu các con
Marcus Melnikoff
Lời cầu khẩn quá tha thiết đến nỗi ông bà Zmora không cưỡng lại được; tiến sĩ Zmora thừa nhận, “Anh cho rằng Yigal nên biết về nước Mỹ rõ như về Galilee. Có thể tương lai của nó nằm ở đó.” Vậy là cậu bé được đưa lên chiếc máy bay El Al và quay lại Grosse Pointe.
Thật may mắn, ông bà Melnikoff tìm được một trường tư có quá ít nam sinh đến nỗi không thể đưa ra sân một đội bóng bầu dục và vì thế chỉ chuyên về bóng đá. Bruce là cầu thủ trẻ nhất đội và xét về nhiều mặt là người giỏi nhất. Ở tuổi mười bốn, vốn là một thiếu niên nhỏ nhắn với phản xạ của chiếc lò xo nén, cậu đã giúp trường mình đánh bại các đội bóng từ những trường lớn hơn nhiều và nhờ vậy nhanh chóng hòa mình vào cuộc sống ở trường cũng như ở tổ quốc mới. Khi một tờ báo Detroit đăng ảnh cậu trong vai trò tiền đạo xuất sắc nhất bang - hầu như trong bang chẳng có trường nào chơi bóng đá - thì cũng là một kiểu thừa nhận. Bruce Clifton vững bước trên con đường trở thành người Mỹ.
Nhà trường có tác động kỳ lạ lên cậu. Hầu hết bạn học của cậu không phải người Do Thái, và lần đầu tiên trong đời cậu bắt đầu hiểu ra làm một người Do Thái có ý nghĩa như thế nào, vì như cậu nói với anh bạn người Grosse Pointe không phải Do Thái ở cùng phòng, “Ở Haifa ai cũng là người Do Thái. Cậu không bao giờ nghĩ rằng có thể còn bất cứ dân tộc nào khác – tất nhiên trừ người Ả rập, mà họ thì cũng Do Thái như chúng tớ thôi. Mâu thuẫn giữa Ả rập và Do Thái mang tính chính trị nhiều hơn là sắc tộc.”
Nhưng việc là ngôi sao bóng đá không tránh cho cậu khỏi cái thành kiến thông thường trong một trường tư thục Mỹ. Cậu được biết nhà trường cũng có chỉ tiêu và cậu thật may mắn vì ông ngoại cậu có ảnh hưởng nên cậu, Bruce, mới được nhận vào một trong những ngôi trường vốn là niềm mơ ước của người Do Thái. Cậu cũng được báo trước rằng trên thực tế một số trường đại học có thể cậu muốn ghi danh cũng có chỉ tiêu. “Họ không ghi trong sách giới thiệu, cậu hiểu không,” một người bạn Do Thái khác giải thích, “mà đơn giản là họ không nhận quá nhiều người Do Thái, tớ cho là họ không thể.”
“Với tớ việc đó không thành vấn đề.” Bruce bật cười. “Trong trường đại học mà tớ sẽ đăng ký, cha tớ là chủ nhiệm khoa và mọi người đều là dân Do Thái.”
Nhưng còn có những vấn đề khác, những vấn đề không thể tránh. Khi trường tổ chức vũ hội, sinh viên Do Thái mời bạn nhảy Do Thái và có phần quanh quẩn với nhau. Ngoài ra, Bruce khó mà giữ mồm giữ miệng khi động đến những vấn đề liên quan đến sự xuất sắc của trường. Cậu hay nói, “Tại trường Reali ở Haifa, chúng tớ học những thứ vớ vẩn này từ hồi mười tuổi.” Cậu bình luận thường xuyên đến nỗi giáo viên cũng được nghe phong thanh về những lời khoe khoang khoác lác nực cười của cậu và phải nhắc nhở, vậy là ngay sau đó cậu viết thư về Haifa xin đề cương bài giảng cậu học khi lên mười và chứng minh mình đã nói đúng. Trường Israel vượt xa trường Mỹ ít nhất là ba năm, nhưng đến lúc này thì ông Melnikoff phải kéo cháu mình ra một chỗ bảo, “Một người đàn ông biết suy xét không bao giờ khoe khoang về hai điều. Người vợ đầu đáng yêu như thế nào và ngôi trường trước đó tốt như thế nào. Hãy ngậm miệng lại.”
Vì vậy sau đó Bruce chuyển sang bàn luận về sinh hoạt quân sự ở Israel và kể con gái Israel lớn hơn nữ sinh ở trường này một chút đã là lính như thế nào và cậu đã tham gia huấn luyện cùng một đơn vị quân đội và từng phụ trách việc liên lạc của họ ra sao.
“Tớ nghĩ cậu ấy hút cần sa,” một cầu thủ bóng đá phát biểu sau khi nghe cậu kể say sưa về ba ngày trong sa mạc Negev, nhưng trong khi đó Bruce lại nói với ông ngoại, “Cháu thấy đám con trai Mỹ ấy non nớt kinh khủng so với những cậu nhóc cháu biết ở Haifa. Ông biết sự khác nhau ấy chứ? Bọn chúng chẳng làm được gì cả. Bọn chúng là trẻ con thành phố. Cứ cho chúng ra khỏi thành phố mười dặm xem, chúng sẽ lạc luôn!” Tuy nhiên, Bruce thấy mình càng ngày càng mang đậm tính cách Mỹ hơn, và cậu không quá buồn rầu trước thay đổi đó. Ông ngoại cậu đưa cậu tới bãi chạy thử của hãng Pontiac, và dù chưa đủ tuổi có bằng lái cậu cũng được phép thử những kiểu xe mới, lao ầm ầm với tốc độ tám mươi dặm một giờ trên những con đường cao tốc giả. Ông cậu nói với các đối tác kinh doanh, “Rõ ràng thằng bé đã quyết định sống ở đây cho đến cuối đời. Thế là phải, vì nó thuộc về nơi này.”
Nhưng Bruce còn lâu mới quyết định. Hè nào cậu cũng bay về Israel, và ngay khi nhìn thấy dãy đồi Galilee chan hòa ánh nắng hay khi theo những người bạn lớn hơn diễn tập ở sa mạc Negev, cậu lại cảm thấy mình bị lôi cuốn một cách mạnh mẽ về phía quốc gia Do Thái. Hai cô em gái cũng thu hút cậu về với Israel; cậu thích cách hai cô bé thích nghi với cuộc sống, thích sự không kiêu kỳ hay màu mè của chúng. Thanh niên Israel không quá khác biệt so với thanh niên trên khắp thế giới, nhưng thiếu nữ Israel có vẻ gì đó khá mới mẻ và cậu nhận thấy mình thích những người này hơn mẫu người tương ứng ở Mỹ.
“Con chưa gặp cô gái Mỹ hạng nhất nào đấy thôi,” mẹ cậu tranh luận. “Cứ chờ cho đến khi con lên đại học và xem những gì đang đợi con tại trường Vassar và Smith.”
“Năm nay con sẽ xem xét vấn đề đó khi quay trở lại,” cậu nói với mẹ vào cuối hè 1965, nhưng năm tiếp theo cũng không có gì mang tính quyết định hơn năm trước. Cậu vẫn chưa tìm được cô gái Mỹ nào mình thích; vẫn làm bạn bè phát chán khi nói với họ trường học ở Haifa tốt hơn nhiều như thế nào; và cậu vẫn làm họ bất bình bằng những câu chuyện về các cuộc diễn tập quân sự trên sa mạc. Điều duy nhất thay đổi là ông ngoại cậu cho lắp đặt tại nhà riêng của họ ở Grosse Pointe một trạm radio tuyệt vời với cột ăng ten có thể kéo vào, và khi đám bạn học thấy Bruce thông thạo thiết bị này như thế nào, và cậu quen biết những người trực tổng đài khắp thế giới như thế nào, họ bắt đầu tự hỏi liệu có thể nào cậu đã nói thật về những kinh nghiệm trong quân đội.
Rồi đến chuyến tham quan Thành phố Đỏ của cậu, và mọi thứ đều thay đổi. Ở Haifa, lũ trẻ hay hát một bài thường khiến cha mẹ chúng khiếp sợ. Bài hát tên là “Bản ballad về Thành phố Đỏ” kể về cuộc thám hiểm Negev lúc nửa đêm. Lần đầu tiên bà Doris Zmora nghe cậu con trai Yigal khe khẽ hát bài này, thì thầm những lời:
“Ta là một người đàn ông.
Ta sẽ đến Thành phố Đỏ.
Ta dũng cảm tiến về hướng Đông...”
Bà kêu lên, “Yigal! Con không bao giờ được hát bài ấy một lần nào nữa. Không bao giờ!”
Cậu bật cười trước nỗi sợ của bà, và hai ngày sau lại bị bắt gặp đang hát bài hát kích động ấy. Lần này, mẹ cậu mời cha cậu tới, tiến sĩ Zmora nói, “Mẹ con nói đúng. Đừng để bài hát ấy ăn sâu vào máu.”
“Tại sao lại không ạ?”
“Vì nó dẫn tới cái chết. Cái chết vô nghĩa. Và bất cứ cái chết vô nghĩa nào cũng là điều khủng khiếp.”
“Con không sợ.”
“Không đáng sợ với người chết... chỉ với người bị bỏ lại thôi.”
Nhưng, cũng như nhiều thanh niên Israel khác trên khắp đất nước này, Yigal vẫn hát cho mình nghe bài đó, và một buổi sáng mùa hè năm 1966, cậu đang đợi trong sân nhà ở Haifa thì một chiếc xe hơi màu đen chở hai thanh niên chầm chậm chạy qua, một người nghiêm trang gật đầu với Yigal khi chiếc xe đi tiếp. Tránh gây nghi ngờ, Yigal chậm rãi kết thúc công việc đang làm, vào nhà, vơ lấy áo khoác và lang thang xuống phố. Cô em gái Shoshana đang trên đường về nhà thì gặp anh trai và để ý đến chiếc áo khoác, cảm thấy thật kỳ lạ khi cậu mang nó theo vào một ngày nóng bức như vậy. Cô bé quay lại nhìn theo và thấy anh mình nhảy lên một chiếc ô tô màu đen hình như đang đứng đợi cậu, nhưng về đến nhà cô không nói gì cả. Tuy nhiên, khi Yigal không xuất hiện tại bàn ăn tối thì sự thật mới vụt hiện lên trong tâm trí cô như ánh sáng lóe lên trong bóng tối.
“Anh ấy đi đến Thành phố Đỏ!” Cô kêu lên. “Con biết mà!” Trong giọng nói của cô bé rộn lên một niềm hân hoan khiến cha mẹ cô hoảng sợ, vì họ biết cô đã đoán đúng.
Trong lúc đó, Yigal và các bạn đang tiến đến gần thành phố lịch sử Beersheba nằm ở rìa phía Bắc sa mạc Negev. Không giảm tốc độ, họ băng qua khu chợ lạc đà của thành phố họp thứ Năm hàng tuần và bắt đầu tiến vào sa mạc lổn nhổn đá chắn giữa họ và mục tiêu.
Khi đã đi khá sâu trong sa mạc Negev, họ rẽ vào một con đường nằm ở hướng Đông đã được một người trong nhóm thăm dò hồi hè năm ngoái, và một lúc sau, đúng như họ lường trước, con đường kết thúc, vì vậy họ đi tắt qua sa mạc, lái xe không đèn và chỉ nói chuyện thì thầm. Phía Bắc có một con đường khá tốt, gần như dẫn đến tận nơi họ muốn tới, nhưng những nhà phiêu lưu giống như họ đã rút ra bài học xương máu là không nên đi con đường ấy vì nó dẫn đến cái chết.
Cuối cùng họ dừng lại giữa đường, xuống xe và bắt đầu phăng phăng tiến về hướng Đông, vậy là chẳng bao lâu sau họ đã rời khỏi Israel bước vào khu vực Wadi Arabah thuộc Jordanie, một lòng chảo rộng lớn hoang vu chạy xuôi phía Nam đến vùng vịnh. Họ rảo bước trên vùng đất trống trải, vì sẽ rất dễ bị tấn công nếu hỏa lực của kẻ địch chộp được họ ở đó, và họ kịp thời mất hút vào nơi an toàn giữa những quả đồi thấp quanh co.
Giờ đây, họ phải phụ thuộc vào tính chính xác của bản đồ, vì một lần rẽ nhầm cũng có thể ném họ hoặc vào tay kẻ thù và cầm chắc cái chết hoặc rơi vào một đường cụt nào đó không thể dẫn họ tới Thành phố Đỏ. Bản đồ của họ rất chính xác, và khoảng hai giờ sáng họ nhận ra một số đặc điểm giúp họ yên tâm là đã đi đúng đường đến thành phố.
Lúc này họ đề ra nguyên tắc tuyệt đối im lặng, hai cậu thanh niên lớn hơn chĩa súng lục về phía trước trong lúc bò qua đám cỏ. Họ tiếp tục tiến như vậy khoảng một giờ thì đến trước một con dốc đứng gồ ghề đá nhắp nhô, mỗi tảng đá đều có thể là nơi ẩn nấp của một tên lính Ả rập. Chính trên con dốc này, mỗi lần thanh niên Do Thái bất ngờ chạm trán lính tuần, phần lớn đều mất mạng, vì cả hai bên đều hiểu bất cứ kẻ xâm nhập nào tìm cách tới Thành phố Đỏ sẽ bị bắn ngay khi bị phát hiện, và ngược lại họ cũng sẽ nổ súng vào bất kỳ người lính nào định ngăn cản. Trong hai năm qua, mười sáu thanh niên Israel đã bị sát hại khi chơi cái trò kinh khủng này; hơn ba trăm người đã vượt qua vùng đất nguy hiểm này, thì thầm trong lúc bò lên phía trước:
“Ta là một người đàn ông.
Ta sẽ đến Thành phố Đỏ.
Ta dũng cảm tiến về hướng Đông...”
Sau một hồi leo dốc mệt mỏi, bộ ba đặc biệt lên được một khoảnh đất nhỏ bằng phẳng, và trong ánh trăng mờ mờ họ có thể nhìn thấy nó trải dài về phía trước vài thước Anh, kết thúc tại nơi có vẻ như là một vách đá dốc đứng đổ xuống thung lũng phía dưới. Chàng trai dẫn đầu dùng khẩu súng ra hiệu cách anh định dẫn họ băng qua khoảnh đất đó, và hai người còn lại lặng lẽ nối đuôi bám theo.
Luồn lách như rắn vượt sa mạc, họ bò trong bóng tối mờ mờ, đến sát mép vực thì tất cả đều nín thở, vì phía dưới họ hiện ra một trong những cảnh tượng kỳ vĩ nhất thế giới - thành phố Hoa hồng Đỏ Petra cổ kính, các tháp canh và nơi đi dạo sáng lên trong đêm tối như những vì sao rực rỡ bất tử.
“Chao ôi!” Yigal thở hổn hển.
Họ nằm đó khoảng mười lăm phút, say sưa chiêm ngưỡng vẻ huy hoàng của thành phố được tạc lên mặt vách đá hàng bao nhiêu năm trước khi Đức Chúa chào đời này. Thủ phủ màu Đỏ từng có thời là nơi trú ngụ của nửa triệu người ấy giờ đây bị bỏ hoang, nhưng những bóng ma của nó vẫn còn lảng vảng, vì trong ánh trăng mờ nhạt ba thanh niên Do Thái có thể thấy những ngôi đèn rộng lớn, kho chứa bạc lạ mắt, trụ sở chính quyền và mọi thứ khác thuộc về quyền lực mà từng có thời những người xây nên thành phố này được hưởng. Nó không giống bất kỳ thành phố nào khác trên trái đất vì không tòa nhà nào đứng vững được... một mình. Tất cả đều được tạc trong đá thẳng đứng, vì vậy phía sau mỗi công trình vẫn là đá chưa khai thác. Đó là một thành phố vĩnh viễn ở trong quá trình hình thành, không bao giờ được hoàn thành. Thời Thánh Paul, nó kiểm soát toàn bộ vùng đất kéo đến tận Damascus ở phía Bắc, nhưng thành phố này đã bị diệt vong vì thiếu nước. Không khí trở nên khô đến nỗi không tòa nhà nào bị xói mòn; chúng vẫn đứng vững như hai nghìn năm trước, sừng sững trong đêm với vẻ uy nghi hùng vĩ.
“Mình đã nhìn thấy Thành phố Đỏ,” một trong ba chàng trai nói, và những lời đó đã biến anh ta thành một người Do Thái khác hẳn. Nhiều người ca ngợi việc thực hiện hành trình nguy hiểm tới Petra nhưng chỉ một số ít dám liều, vì nếu bị phát hiện tại bất cứ địa điểm nào trên đường, họ sẽ bị chó tấn công và sẽ bị săn đuổi, bị bắn chết.
“Mình đã tới Thành phố Đỏ,” Yigal thì thầm trong bóng tối, nhưng đúng lúc đó hai người lính Ả rập tuần tra trên đỉnh dốc để đề phòng những cuộc xâm nhập như vậy tiến lại. Họ đến mỗi lúc một gần hơn, tiến theo hướng sẽ khiến họ buộc phải giẫm lên đám người Do Thái đang nằm túm tụm. Yigal hoảng sợ thấy hai người bạn đã lăm lăm tay súng sẵn sàng nhả đạn, nhưng đến phút cuối mấy người Ả rập lại quay sang nhìn thành phố phía dưới.
“Chẳng có gì ở đây cả,” một người nói, và họ đi tiếp. Đợi cho đến khi họ đi khuất khỏi tầm tai nghe, anh bạn dẫn đầu vẫy vẫy súng trong ánh sáng lờ mờ và họ bắt đầu trở lại con dốc, vượt qua Wadi Arabah và tìm thấy chiếc xe trong sa mạc Negev.
Trên đường lái xe về hướng Bắc, không ai tỏ ra hân hoan vì mỗi người đều hiểu họ đã tới gần cái chết như thế nào. Họ không cho mình là những anh hùng đã thực hiện cuộc hành trình của chàng Odyssey, mà họ nghĩ mình là người Do Thái bị những kẻ thù công khai o ép từ khắp mọi phía và cảm thấy sự thôi thúc không cưỡng nỗi buộc họ phải đến thăm một cấm thành mà đối với họ đã trở thành một biểu tượng có ý nghĩa lớn lao đến nỗi không thể diễn tả bằng lời.
Vào lúc Yigal về đến nhà thì gia đình cậu, sau cuộc tranh luận sôi nổi, đã thống nhất không ai được đả động đến sự vắng mặt của cậu. Chiếc xe thả cậu xuống trước cửa nhà lúc ba giờ chiều và cậu ung dung đi vào. Mẹ cậu chào đón cậu như bình thường, còn hai cô em gái cố làm ra vẻ thờ ơ. Trong bữa tối cha cậu chỉ nói đến trường đại học, nhưng khi Yigal đã lên giường và đang thiu thiu ngủ thì chợt nghe thấy tiếng cửa mở. Đó là Ruth, đứa em thứ, và cô thì thầm, “Nó như thế nào hả anh?”
“Nó ở đó,” cậu đáp, và cô bé thắm thiết hôn má anh.
Mùa đông năm đó, khi cậu lại là Bruce Clifton tại ngôi trường ở Detroit, một số người bạn bạo gan hơn trong lớp cậu bắt đầu thử hút ma túy. Họ tỏ ra rất bí ẩn về chuyện đó và rủ Bruce nhập hội. “Thú lắm!” bọn họ đảm bảo với cậu. “Chà, cậu nhìn thấy những ảo ảnh mà trước kia cậu chưa bao giờ thấy. Còn sex nữa chứ! Tránh sang bên, Errol Flynn[47], vì đã có ta đây rồi!” Khi cậu cho biết cậu không muốn tham gia trò dại dột ấy, họ hỏi, “Cậu nhát gan thế sao?”
Rồi sự kiện tháng Sáu năm 1967 nổ ra, và khi tin tức lọt đến Detroit thì không ai còn dám bảo cậu nhát gan nữa.
Khoảng giữa tháng Năm, Bruce đã thấy rõ Trung Đông sẽ không tránh khỏi chiến tranh.
Cậu và ông bà ngoại kinh hoàng theo dõi sự đổ vỡ của các quan hệ ngoại giao; họ không thể tin U Thant[48] dám cư xử như ông ta đã làm; họ không thể tin Gamal Abdel Nasser[49] sẽ mạo hiểm như ông ta đang làm. “Ông ta phải biết,” Bruce phát biểu tại bàn ăn vào buổi tối vịnh Aqaba đóng cửa đối với tàu thuyền Israel, “là quân ta có thể đánh bại quân của ông ta bất cứ lúc nào chứ.”
“Vì sao cháu có thể tự tin như thế?” ông ngoại cậu hỏi.
“Cháu đã tận mắt thấy quân ta.”
Kỳ thi lớp mười một thông thường, đến đúng vào thời điểm sức ép của Ai Cập lên cực điểm, là một thử thách; Bruce nắm vững nội dung môn thi, nhưng cậu không thể chú tâm đến những vấn đề trừu tượng trong khi vấn đề sinh tử thực tế đang được định đoạt tại quê hương. Buổi sáng hôm cậu rời khỏi nhà ông ngoại để đi thi toán, đài phát thanh đưa tin từ Damascus, khoác lác rằng quân Syria sắp mở đường thẳng qua Israel, gặp ai giết nấy, và đẩy các cư dân còn lại của đất nước này ra biển. Người phát ngôn của Syria nói rõ, “Chúng tôi sẽ giội bom cho Haifa biến khỏi mặt đất.” Làm xong bài môn cuối cùng trong cả kỳ thi khổ sở, Bruce gọi riêng một bạn cùng lớp ra, một cô gái Do Thái, và nói, “Sáu giờ tối nay – nhớ nhé, sáu giờ, không sớm hơn - tôi muốn bạn gọi điện cho ông ngoại tôi nói rằng sau giờ học tôi rẽ vào nhà bạn để thảo luận chuyện thi cử. Bạn phải thuyết phục ông là tôi đang ở đó ăn tối với bạn.”
“Bạn muốn tôi nói dối hộ bạn sao?”
“Bạn phải làm thế.”
“Bạn sẽ ở đâu?”
Bruce nhìn quanh, rồi nói khẽ, “Tôi có tin bạn được không?”
“Bạn biết là được mà.”
“Tôi sẽ ở Israel.”
Cô gái cứng đơ như bị một dòng điện chạy qua người. Cô hiểu ngay mọi chuyện và nhận ra mình được đề nghị trở thành kẻ đồng mưu vì một mục đích cao cả. Cô không nói gì trong lúc Bruce giải thích rằng mọi thành viên trong gia đình cậu đều giữ sao cho hộ chiếu còn hạn và rằng mùa thu nào sang Mỹ cậu cũng có vé máy bay khứ hồi. Cậu lấy từ trong chiếc cặp giả da hai tài liệu vô cùng ấn tượng đó và thuyết phục được cô bạn là cậu đang nói thật.
“Tôi ra sân bay ngay bây giờ, bắt chuyến bay đi New York, và khoảng bảy giờ tối tôi sẽ trên đường bay về Israel. Ông ngoại tôi là một ông già khôn lanh, nếu không có tin gì của tôi, ông có thể đoán được tôi đang làm gì, vì ông cũng lo lắng về tình hình Israel như tôi vậy. Tôi đoán khoảng sáu giờ thì ông sẽ sinh nghi, và tôi không muốn ông gọi điện cho cảnh sát ở sân bay New York.”
Vậy là âm mưu đã được sắp đặt, và mặc dù kẻ đồng lõa không phải một cô gái xinh đẹp, cũng không phải người cậu từng hẹn hò, cậu vẫn hôn cô, xong cô hỏi, “Bạn có định nhập ngũ không?” cậu đáp, “Hầu hết bạn bè tôi đều ở trong quân đội và tôi giúp họ chuyện điện đài.” Cậu hôn cô lần nữa, nhảy lên chiếc Pontiac mui trần phóng đến sảnh đón khách sân bay Detroit. Bảy giờ, đúng như Bruce dự đoán, cậu đã đang bay rời New York về Israel.
Cậu đến nơi vào giữa buổi sáng thứ Sáu, ngày 2 tháng Sáu, nhận thấy đất nước mình bị cuốn vào cái mà sau này, trong bức thư gửi ông ngoại, cậu miêu tả là “một thực tế kinh hoàng. Không ai hoang mang sợ hãi. Không ai tuyên bố những lời khoác lác rỗng tuếch. Nhưng mọi người đều biết lời đe dọa đáng sợ mà đài truyền thanh Damascus đã phát. Điều khiến cháu kinh ngạc là quốc vương Hussein, người chúng ta vẫn dựa vào để tìm kiếm sự cân bằng nào đó, lại tham gia vào dàn hợp xướng ấy và hò hét những điều ngớ ngẩn. Chúng cháu biết sẽ có chiến tranh, và chúng cháu biết nếu thua, chúng cháu sẽ bị tàn sát. Bọn chúng đã nói với chúng cháu như thế. Vì vậy, chúng cháu quyết không chịu thua.”
Cậu bắt một chiếc cherut - loại xe tư nhân hoạt động như taxi chạy theo tuyến cố định - và lái nhằm hướng Bắc tới Haifa, nơi cha mẹ cậu vừa kinh ngạc vừa nhẹ nhõm nhìn thấy cậu; họ tán thành việc cậu đã làm và nói rằng trong những thời điểm như thế này thì gia đình phải ở bên nhau. “Cháu sẵn sàng đối diện với cha mẹ và sự can trường lặng lẽ của họ,” cậu viết cho ông ngoại, “cháu cũng sẵn sàng đón nhận không khí khích động căng thẳng thít chặt Haifa, nhưng cháu lại hoàn toàn chưa sẵn sàng trước những gì xảy ra khi gặp hai em gái, vì đột nhiên cháu nhận ra Đài truyền thanh Damascus vẫn ra rả rằng mọi người ở Haifa sẽ bị tàn sát, cũng có nghĩa là cả Ruth và Shoshana, vậy là không thể kiềm chế nổi bản thân, cháu bật khóc.”
Cậu về đến Israel đúng thứ Sáu, ngày đi lễ, và dù gia đình cậu thường tránh các giáo đường Do Thái, tối đó tiến sĩ Zmora nói, “Cha nghĩ chúng ta nên đến Shul[50],” và họ cùng đi. Khuya hôm đó Yigal tìm cách liên lạc với những người bạn hơn tuổi đang là quân dự bị. Cậu vào trung tâm Haifa tới tận quảng trường, nơi con đường sắt ngầm leo núi, Carmelit, bắt đầu hành trình lên đỉnh Carmel, và tại quán cà phê ngoài trời cậu gặp ba người bạn trong nhóm. Họ rất vui mừng gặp cậu, nhưng không khí chờ đợi lặng lẽ bao trùm thành phố cũng tác động đến nơi này, nên họ giữ giọng nói thật nhỏ để khách hàng ngồi ở các bàn xung quanh khỏi nghĩ họ sợ hãi hay bị kích động.
“Thể nào cũng chiến tranh,” họ bảo cậu.
“Sao các anh không ra mặt trận?” Yigal hỏi.
“Mặt trận? Ở đâu chả là mặt trận. Họ chưa gọi chúng tớ vì chưa bố trí xong thôi. Chúng tớ đang đợi.”
Đêm tháng Sáu ở Haifa thường tuyệt vời, với tiếng thì thầm mơ hồ của những cây tuyết tùng trên đồi và tiếng vọng của biển cả dọc bến cảng. Các đôi tình nhân tay trong tay leo lên những dãy cầu thang dài, trong khi mớ hỗn độn nhiều thứ tiếng góp phần đối âm cho tiếng Hebrew gốc đa số dân chúng sử dụng. Nhưng vào đêm thứ Sáu ấy thành phố còn đẹp đẽ gấp ba, vì con người lúc cận kề cái chết ân cần với nhau gấp ba.
Rồi, không còi báo động hay còi tín hiệu, những chiếc xe khách bình thường bắt đầu đi lại khắp thành phố, cả trong những ngõ nhỏ gần bến cảng lẫn trên những đại lộ rộng rãi ở Carmel. Tài xế thường là một cô gái, không bao giờ mặc quân phục, và đám đàn ông ngồi trên xe cũng mặc quần áo thường dân. Chiếc xe sẽ dừng lại, máy vẫn nổ, những người đàn ông vội vã xuống xe nhưng không hề chạy để khỏi gây hoảng loạn. Họ sẽ đi từ nhà này đến nhà khác, hầu như im lặng, gõ cửa một hai lần và gật đầu với người đã biết trước cuộc thăm viếng này. Thường thường, không một lời nào được thốt ra, chỉ có cái gật đầu hiểu ý, nụ cười chào nhau nghiêm nghị, cánh cửa đóng lại và người liên lạc quay ra xe để tới một khu phố khác. Israel, không một lời tuyên bố trên đài phát thanh hay ngoài đường phố, đang lặng lẽ chuyển sang chế độ tổng động viên.
Khoảng chín giờ buổi tối mùa xuân đẹp đẽ đó, một trong những chiếc xe này chạy vào quảng trường, nơi Yigal đang uống soda cam cùng các bạn. Họ thấy chiếc xe đến gần và đoán ngay được tầm quan trọng của nó khi nhận ra cô gái cầm lái. Cô đỗ xe bên lề đường, và bốn người đàn ông lách qua đám đông. Một người tiến đến bàn Yigal, ánh mắt nhận ra người quen của họ giao nhau trong một thoáng, nhưng cả người liên lạc lẫn ba người lính mặc thường phục đều không lên tiếng. Người đàn ông chỉ nhìn họ và gật đầu. Ông ta vừa khuất dạng, mấy thanh niên liền nhanh chóng đứng lên rời khỏi quảng trường không để ai chú ý, ngoại trừ lúc cả nhóm đã bước đi rồi thì một người quay lại chỗ Yigal và hỏi, không cần dùng lời, liệu cậu có muốn đi cùng không, cậu muốn đi, rất muốn, vậy là cậu đứng lên tự nhiên như thể sắp đi xem phim và theo họ tiến vào bóng đêm.
Các kế hoạch động viên cho đơn vị đặc biệt này đòi hỏi họ phải trưng dụng một chiếc cherut và hai mươi gallon xăng của một người bán hàng ở rìa thành phố, rồi lái xe xuống thủ phủ sa mạc Beersheba. Họ phải lên đường ngay lập tức, không lời chào tạm biệt, và sẽ tìm thấy trang thiết bị cần thiết đã được lắp ráp sẵn ở phía Nam. Từ đó họ sẽ theo hướng Tây tiến một cách khá chắc chắn vào Sinai, vì chuyên môn của họ là bộ binh yểm hộ xe tăng hạng nặng, kiểu hoạt động mà thông tin liên lạc mang tính sống còn.
Buổi tối trong sáng và tĩnh lặng đó, vừa lái xe về hướng Nam, Yigal vừa nghĩ: Điểm khác biệt giữa người Mỹ và người Israel là ông bà mình thì đang rền rĩ ở Detroit, hỏi, “Tại sao nó lại làm như vậy?” trong khi cha mẹ mình ở Haifa, khi nhận ra mình đã đi rồi, sẽ hỏi, “Nó còn có thể làm gì khác?”
Xe họ tới Beersheba khi trời còn chưa rạng, xếp hàng sau một nghìn chiếc khác tập hợp từ khắp nơi trong nước, và kho quân nhu họ đến trình diện đang rối loạn đến mức chẳng ai để ý đến sự có mặt trái phép của Yigal; suy cho cùng, cậu không quá nhỏ tuổi so với đa số binh sĩ, và vẻ ngoài thường dân của cậu không khác mọi người lắm, vì cả dân tộc thường dân đang chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh. Khi tình hình trở nên rõ ràng rằng đêm đó đơn vị họ sẽ không làm được gì nhiều, họ ngủ thiếp đi trên xe, một nhóm thanh niên bình thường có lẽ đang đợi xem trận bóng.
Trưa ngày 3 tháng Sáu, đơn vị ít nhiều coi như đã được thành lập xong, và viên sĩ quan chỉ huy, một thiếu tá mặc thường phục được mọi người gọi là ngài Sabra vì ông sinh ra ở Israel và chỉ nói tiếng Hebrew, nhòm vào xe Yigal hồi, “Ai đây?” và các bạn Yigal giải thích, “Cậu ấy là người say mê phương tiện liên lạc. Cậu ấy có thể sửa bất cứ thiết bị gì.” Ngài Sabra quan sát cậu rồi hỏi, “Cậu đã quen với thiết bị của chúng tôi chưa?” Yigal gật đầu, thiếu tá nói, “Chúng ta có thể dùng cậu ấy,” và cứ cái lối ngẫu nhiên đó, Yigal ra trận.
Nửa đêm ngày 3 tháng Sáu, đơn vị dùng taxi trưng dụng hành quân tiến một địa điểm cách biên giới Ai Cập không quá hai dặm, nhưng biện pháp này quả sai lầm vì trong vùng này, phần đất duy nhất của Ai Cập tiếp giáp với Israel là Sinai, nơi hoang vu mênh mông mà trong suốt chiều dài lịch sử phải đảm nhận vai trò là vùng đệm tự nhiên giữa Ai Cập và các nước láng giềng ở phía Đông nhưng lại chưa bao giờ hoàn thành vai trò đó. Thay vì tạo nên một bức tường, nó lại trở thành con đường đáng sợ rực rỡ ánh sáng suốt bốn nghìn năm qua đã chén sạch bao đạo quân lẫn lạc đà và trong những thập kỷ gần đây lại đâm ra thèm được ngốn xe tăng với máy bay.
Yigal và các bạn chờ suốt cả ngày 4 tháng Sáu dài dằng dặc và nóng bức ấy; họ lau chùi súng ống, còn Yigal mày mò với thiết bị điện đài, không thể thử đến nơi đến chốn vì buộc phải giữ im lặng. Cậu dò được nhiều bức điện từ Sinai, và dù chúng đều bị mã hóa, cậu vẫn suy ra rằng tại khu vực đó chắc hẳn phải có sự di chuyển của một số lượng xe tăng đáng kể. “Mình không hiểu đứng trước một chiếc xe tăng thì như thế nào nhỉ?” Cậu hỏi các bạn thân. “Chúng ta sẽ khám phá ra,” họ trả lời một cách kiên cường, “vì xe tăng của ta sẽ không quanh quẩn ở đây để bảo vệ chúng ta đâu. Cờ lệnh mà phất là chúng sẽ đi Cairo liền.”
Nói chung trong đám bộ binh, mọi người đều biết rằng một khi chiến tranh bắt đầu, họ phải tự xoay xở lấy, vì thắng lợi không phụ thuộc vào sự an toàn của họ mà vào tốc độ xe tăng mở được đường vào Ai Cập. “Chúng ta sẽ có mặt ở kênh Suez hai ngày sau khi chiến tranh nổ ra,” một anh bạn của Yigal dự đoán. “Chúng ta sẽ di chuyển rất nhanh... thế đấy, cậu giữ cho điện đài hoạt động để họ có thể theo dõi được vị trí của chúng ta. Vì chúng ta phải tự xoay xở lấy.”
Đơn vị đã có vài chiếc xe tải được trang bị để chiến đấu trên sa mạc, nhưng không đủ. Họ còn có mấy chiếc taxi có bánh xe dự trữ và giá để thùng xăng, nhưng cũng không đủ. “Cậu không thể khẳng định chúng ta là một đơn vị sáng giá,” bạn Yigal nói. “Thiết bị tốt thì ở mặt trận, nơi người ta cần. Nhưng cậu biết tớ nghĩ gì không? Tớ hoàn toàn tin tưởng rằng trước hoàng hôn ngày đầu tiên chúng ta sẽ sử dụng trang thiết bị của Ai Cập.”
Trong buổi chiều nóng bức, mọi người hỏi Yigal xem nước Mỹ như thế nào, cậu nói, “Không tệ. Đường sá rộng rãi. Hệ thống điều hòa không khí. Tớ thích những cái đó nhưng trường lớp thì có phần lộn xộn. Cậu không học được nhiều... không nhiều nếu trước đó cậu đã được học tại một trường tốt ở Israel.” Trong số thính giả của cậu không ai được học trung học, vì vậy họ không thể đánh giá được.
“Cậu có thích sống ở bên đó không... ý tớ là thường xuyên ấy?”
“Cũng không đến nỗi nào.”
“Bọn con gái thì sao?”
“Buồn cười thật. Có một điều trước kia tớ chưa bao giờ nhận thấy. Nhưng khi cậu ở Hoa Kỳ, mọi người yêu cầu cậu phải là người Do Thái. Còn ở đây - ai thèm quan tâm chứ, có lẽ chỉ trừ người Ai Cập, mà cũng chỉ một vài người trong bọn họ thôi. Cha mẹ tớ hầu như chẳng bao giờ đến giáo đường. Nhưng ở Hoa Kỳ thì... Các cậu đang hỏi về bọn con gái. Mọi cô gái đều là Do Thái hoặc không phải Do Thái... Làm như ghê gớm lắm. Ngoài ra, bất cứ cầu thủ bóng đá nào ở Israel cũng có thể gia nhập đội của họ.”
Đêm xuống và không gian chìm trong tĩnh lặng. Không một âm thanh nào vọng từ Sinai. Ánh sáng yếu ớt lờ mờ chiếu lên cảnh vật bất động, và mọi người thiếp đi, nhưng gần sáng có tiếng máy bay ầm ì. Tất cả mọi người sẵn sàng đối phó với cuộc tấn công của quân Ai Cập, nhưng chẳng có gì xảy ra cả, và ngay trước lúc bình minh, lệnh “Xuất phát” được truyền xuống, vậy là cái tập hợp đủ kiểu xe thường lẫn xe tải nổ máy rồi bắt đầu chạy về biên giới phía Tây, nhưng mới đi được hai dặm thì họ nhận được lệnh rời khỏi đường, và họ ngồi trong đám bụi, sững sờ và có phần khiếp sợ, khi một đoàn xe tăng lao qua với ý định rõ ràng là vượt biên giới phía trước. Mặc dù khi nhìn thấy những con quái vật đó cách mình chỉ vài bước, các chiến sĩ trẻ đều kinh sợ trước sức mạnh khủng khiếp của chúng, nhưng nghe chúng lao qua, tiếng ầm ầm xé toang bầu không khí xung quanh, thì lần đầu tiên họ mới hiểu thế nào là chiến tranh.
Trời đã sáng ngay khi họ tới biên giới và tạm thời dừng lại, hành động có vẻ buồn cười, vì hiển nhiên xe tăng đã lọt vào sâu trong lãnh thổ Ai Cập, nhưng mệnh lệnh cuối cùng vẫn chưa tới, vì vậy họ phải đợi, và ngay sau đó thấy một đoàn máy bay trên bầu trời, họ ban đầu cho rằng đó là quân Ai Cập. “Tránh xuống hào!” các sĩ quan hét lên, Yigal chưa kịp nhảy ra khỏi chiếc xe thông tin thì một người khác đã reo, “Máy bay Israel! Máy bay Israel!” và mọi người hoan hô cổ vũ.
Họ chờ ở biên giới khoảng hai tiếng, không nghe thấy gì không nhìn thấy gì suốt thời gian đó, nhưng đến tám giờ sáng, một người cưỡi xe máy ầm ầm chạy tới, mang theo chỉ thị cho phép họ tự do hành động, và lần thứ hai Yigal được nếm trải mùi vị chiến tranh, vì liên lạc viên là một cô gái - khoảng hai mươi tuổi, vai rất rộng - không hiểu sao trông có vẻ con người hơn đám đàn ông ấy, và khi cô gái quay xe trong đám bụi mù mịt phóng trở về Beersheba, Yigal bất giác kêu lên, “Chúc may mắn!” Như thể cô mới là người đang ra trận chứ không phải cậu.
“Tiến về Cairo!” Ai đó hô to, tất cả kêu lên hưởng ứng. Đoàn xe đủ mọi kiểu nhanh chóng chuyển bánh, vượt biên giới với tốc độ tối đa và tiến vào vùng hoang mạc mênh mông nơi xưa kia Đức Chúa đã trao cho con dân Israel những tấm đá khắc lời răn của Người.
Căn cứ tốc độ của đoàn xe, Yigal đoán họ đang cố gắng tới Cairo lúc hoàng hôn, không mong chạm trán quân Ai Cập thù địch, vì chân ga bị dận sát xuống sàn xe và chẳng ai thèm quan tâm đến ụ đất hay hiểm nguy trên đường. Họ tiến được khoảng bốn mươi dặm thì chiến tranh mới trở thành một thực tế; trước mặt họ, một chiếc xe tăng Ai Cập bị thiêu rụi đang nằm cháy chập chờn như bó đuốc sắp tắt. Mọi người reo lên hoan hô khi phóng qua, và Yigal ngạc nhiên nhận thấy không ai bắn dù là một phát đạn vào chiếc xe tăng.
Nhưng đến giữa buổi chiều tình hình đã thay đổi đáng kể. Một là địa hình gồ ghề hơn nhiều. Hai là một chiếc máy bay Ai Cập xuất hiện cố gắng oanh tạc một cách dữ dội nhưng vô ích. “Tên phi công chắc say rượu,” một anh bạn của Yigal nói. “Tớ lái còn giỏi hơn, mặc dù tớ chưa được lên máy bay bao giờ.”
“Nhìn kìa! Hắn không say. Hắn sợ.” Một người lính khác chỉ về phía chân trời, nơi hai chiếc phản lực Israel vừa xuất hiện từ phía bên kia dãy núi thấp. Với tốc độ kinh người, chúng vút qua bầu trời và tiếp cận chiếc máy bay Ai Cập đang hoang mang. Đó không phải một trận đánh, chỉ đơn thuần cuộc tập bắn, với chiếc máy bay Israel thứ nhất, rồi chiếc thứ hai xông vào chiếc máy bay Ai Cập bất hạnh, nó bay lắt léo rồi lượn một vòng trước khi nổ tung trên không. Yigal và các bạn vui mừng tung hô.
Khoảng nhá nhem tối, cuối cuộc hành trình gấp gáp không gặp trở ngại nào xuyên qua Sinai, đoàn xe tới gần dãy núi phía Tây và xác định được một khe cạn có tên trên bản đồ là đèo Qarash. Nhận được tín hiệu, xe tải dừng lại và binh sĩ nhảy xuống quan sát địa hình phía trước. Như tất cả mọi người, họ cũng trải qua cái ảo tưởng dãy núi đã tạo ra: “Chỉ cần lên tới đỉnh núi kia, chúng ta sẽ nhìn suốt được đến tận kênh Suez.” Bản thân việc lên được đỉnh núi đã trở thành một mục đích cuối cùng.
Ông Sabra tập hợp các thiếu úy lại và nói, “Theo lẽ thường, thể nào xe tăng Ai Cập cũng phục kích ở đó.” Thuộc cấp của ông gật đầu. “Nhưng tôi cho rằng chúng ta phải lọt qua.” Các phụ tá của ông lại tỏ ý đồng tình. Ông ngập ngừng, chậm rãi bước từ nhóm này sang nhóm khác, nhìn vào mặt họ. Trong cuộc sống dân sự, ông là chuyên viên tính toán bảo hiểm, còn là một quân nhân, ông đã từng chiến đấu ở Sinai năm 1956, biết rằng vũ khí chủ yếu của Israel là tính cơ động được hỗ trợ bởi lòng dũng cảm của người dân.
“Chúng ta đi thôi,” ông lặng lẽ nói. Không ai hô, “Tiến về Cairo.” Đối với họ, đây là đi vào trong cả dãy đồi tối tăm nơi mặt trời sẽ lặn ngay khi họ tới điểm sâu tối nhất.
“Chúng ta đi thôi,” các sĩ quan cấp dưới nói, rồi tất cả quay về xe, để vùng đất bằng phẳng lại phía sau.
Khi họ đã vào sâu hẳn trong hẻm núi hẹp, nơi không thể rút lui được nữa, quân Ai Cập mới nổ súng từ ba phía và khởi động sáu chiếc xe tăng phục kích giữa các tảng đá, rõ ràng để tránh con mắt tìm kiếm của không lực Israel. Một thiếu úy Israel hoảng hốt đâm bổ lên chỗ Yigal và hét, “Đánh điện đi! Chúng ta bị bao vây rồi.”
Yigal chưa kịp vận hành điện đài thì một quả đạn pháo Ai Cập đã ầm ầm xuyên qua chiếc xe tải, phá hủy phần lớn thiết bị của cậu và chặt phăng đầu viên thiếu úy. Nhiệm vụ đầu tiên của Yigal trong trận Sinai là đẩy cái thân người không đầu với cái cổ trống hoác đang phun máu lên khắp phần còn lại của chiếc radio ra xa.
Khi đêm xuống, quân Israel bị sa vào ổ phục kích đó còn lại mười bốn chiếc xe vô dụng, hai khẩu súng máy đặt trên bệ và một trăm hai mươi người. Họ bị sáu chiếc xe tăng, một số lớn súng máy đặt trên bệ và hơn sáu trăm lính địch bao vây. Trong khi quân Ai Cập vẫn chưa phải hứng chịu bất kỳ thiệt hại gì thì những loạt đạn liên tiếp đã giết chết khoảng ba mươi lính Israel. Đến nửa đêm, ông Sabra tập hợp sĩ quan dưới gầm một chiếc xe tải để bàn bạc xem nên làm gì. Yigal nghe thấy họ nghiêm túc cân nhắc các phương án, và cậu cảm thấy họ đã lường trước một thảm họa. Ông Sabra rời khỏi cuộc họp kín bước đến chỗ cậu, hồi xem bao lâu nữa thì điện đài hoạt động được, Yigal đáp, “Máy lớn thì không bao giờ. Máy nhỏ thì sắp sửa,” vậy là ông Sabra bảo, “Cậu đã nói với tôi cậu có thể lo được việc liên lạc qua điện đài,” Yigal nói, “Ông nhìn thử máy móc xem, thì viên thiếu tá gắt, “Thôi được, làm nó hoạt động đi.”
Khoảng ba giờ sáng, trong lúc quân Ai Cập vẫn bắn vào đám xe tải chết máy, Yigal đã lắp đặt xong bộ phận thu nhận tín hiệu của chiếc điện đài, và đám sĩ quan xúm quanh để nghe tin tức trong các chương trình thời sự trên khắp thế giới, nhờ vậy biết đến thắng lợi to lớn của Israel ngày hôm đó. Họ gần như không thể tin những gì mình nghe: sáu trăm máy bay bị phá hủy; các đơn vị xe tăng sẵn sàng tấn công kênh Suez; những trận đánh lớn tại Jerusalem và cao nguyên Golan; bầu trời không còn bóng dáng máy bay địch.
“Trời,” một sĩ quan trịnh trọng phát biểu. “Chúng ta đang ở thế chiến thắng.”
“Các đơn vị khác thôi, không phải chúng ta,” ông Sabra chỉ rõ, và như thể để nhấn mạnh tính đúng đắn của phân tích này, quân Ai Cập lại nã một cơn mưa đạn pháo khác vào đoàn xe tải.
“Bọn chúng không biết là đã thua trận,” ông Sabra nói, “nên sáng ra chúng sẽ băm vằm chúng ta. Máy bay của ta sẽ không bao giờ phát hiện ra đám xe tăng đó. Cái điện đài chết tiệt kia thế nào rồi?”
Yigal không thể làm gì với hệ thống truyền tin, nhưng bộ phận thu tín hiệu vẫn tiếp tục đưa hàng loạt bản tin khiến tất cả người nghe phấn chấn. Tại Jerusalem những người đứng đầu chính phủ công khai bày tỏ sự vui mừng trước thắng lợi trên quy mô lớn mà có khả năng ngày hôm sau vẫn còn tiếp tục. Mọi người hoan hô trong bóng đêm, rồi nghiên cứu một cách tỉnh táo về tình thế dở khóc dở cười của bản thân: sắp bị tiêu diệt hoàn toàn vào đúng thời điểm đất nước giành thắng lợi.
Vì vậy ngay trước bình minh, ông Sabra tập hợp chín mươi chiến sĩ sống sót của mình và nói, “Chúng ta sẽ nhanh chóng giải quyết từng chiếc xe tăng một. Chúng ta sẽ đánh đuổi từng tên Ai Cập một ra khỏi hẻm núi này. Và chúng ta sẽ làm thế nào để không mất một binh sĩ Israel nào hết.” Họ đã từ bỏ mọi hy vọng vào sự can thiệp thần diệu từ bên ngoài; nếu hôm qua không quân Israel không phát hiện ra xe tăng Ai Cập thì hôm nay cũng sẽ không phát hiện ra, và nếu điện đài không thể gửi tin thông báo vị trí của họ thì chẳng thể nào trông mong vào cứu viện. “Chúng ta tiêu diệt đám xe tăng ấy,” ông Sabra nói, vậy là trước khi ánh sáng hé rạng trên khắp dãy đồi vô tận, quân Israel chia thành mười một mũi tấn công. Yigal và bốn anh bạn Haifa ở lại trong chiếc xe tải thông tin đã bị tàn phá, cố gắng thiết lập mối liên lạc nào đó với lực lượng Israel chiến thắng. Họ ở trung tâm cửa vành đai, nhưng sẽ không được bảo vệ. “Các cậu ở lại đây làm việc đi,” ông Sabra hạ lệnh, Yigal gật đầu: “Tôi sẽ sửa được... bằng cách này hay cách khác.”
Ông Sabra hỏi, “Cậu bao nhiêu tuổi?”
“Mười sáu.”
“Cậu có chắc cậu hiểu rõ về điện đài không?”
“Tôi sửa được.”
“Nếu sửa được, hãy cho họ biết về đèo Qarash. Thông báo những tọa độ này. Sáu xe tăng Ai Cập ẩn kín sau đồi. Mà chỉ ít lâu nữa sẽ không còn đủ cả sáu đâu.”
Đó là một sáng chiến đấu oai hùng, lực lượng Israel chia thành nhiều mũi xông vào chiếc xe tăng Ai Cập thứ nhất, rồi một chiếc khác, lần nào cũng thất bại vì tháp pháo luôn xoay sang đối đầu với họ bất kể họ tấn công từ hướng nào. Thỉnh thoảng đưa mắt quan sát từ chiếc xe tải thông tin, Yigal thấy hai chiếc xe tăng nặng nề tiến về phía trước mấy thước, bắn xối xả vào những kẻ tấn công không nhìn thấy được, rồi rút về vị trí định sẵn. Chốc chốc một chiếc xe tăng lại rót đạn pháo vào đám xe tải chết máy, đốt cháy chiếc này chiếc kia, nhưng hình như cấp chỉ huy Ai Cập phán đoán rằng xe tải không có người, vì rất lâu không thấy họ nã pháo.
Trong tâm trạng thất vọng, Yigal đánh vật với thiết bị hư hại cố làm cho nó hoạt động được ở mức nào đó và dần quên mất cuộc chiến đấu trong thung lũng, song giữa buổi sáng cậu nghe thấy bốn anh bạn trong xe reo hò ầm ĩ và ngẩng lên đúng lúc một chiếc xe tăng Ai Cập nổ tung như một quả cầu lửa. Một phân đội đã tiêu diệt nó bằng đạn nhiệt nhôm.
Nhưng trong lúc quá say sưa với thắng lợi cục bộ đó, một người trong xe tải đã ném vật gì đó ra ngoài, nhìn thấy hành động này ban chỉ huy Ai Cập nhận ra trong xe có người và suy ra đây hẳn phải là trung tâm thông tin liên lạc. Họ bèn quay súng tiêu diệt xe, nhưng khi đám xe tăng tập trung vào mục tiêu này, chúng lại để hở sườn và thêm hai chiếc nữa bốc cháy.
Quân Ai Cập nổi giận phái hai đơn vị biệt kích đi triệt hạ chiếc xe tải. Một người bạn của Yigal kêu lên, “Chúng đến kìa!” Quét mắt nhìn, Yigal nhận thấy không có đơn vị Israel nào ở gần đủ để ngăn chặn quân tấn công, nên cậu cùng bốn anh bạn phải giữ không cho bọn họ tiếp cận được ít nhất là trong hai đợt tấn công đầu. Cậu vớ lấy khẩu tiểu liên dù chưa quen dùng rồi lao xuống gầm xe tải.
Quân Ai Cập không được chỉ huy tốt, nhưng dũng cảm và kiên quyết tiến lên. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi trước khi cuộc chiến bắt đầu, Yigal tự hỏi liệu quân địch có nghe được tin bại trận phát trên đài không, liệu họ có biết họ là những kẻ bị cô lập trong vô vọng không những kẻ sẽ sớm bị quân Israel phát hiện và tiêu diệt. Cậu đoán là không, vì chúng mở đầu cuộc tấn công như thể đang góp phần vào một thắng lợi lớn lao hơn.
Yigal và đồng đội đẩy lùi được cuộc tấn công thứ nhất, gây thương vong đủ khiến cho quân Ai Cập phải rút lui và yêu cầu thêm hỏa lực yểm trợ, nhưng khi xe tăng tham chiến thì đơn vị này hoặc đơn vị khác của Israel lại xông ra bắt chúng phải câm họng. Súng ngừng nã đạn và đội biệt kích Ai Cập quay lại mở đợt tấn công thứ hai.
Lần này, họ bắn thấp, cố tập trung hỏa lực vào gầm xe tải và đã thành công, vì trong loạt đạn thứ nhất họ đã giết chết người ở bên trái Yigal. Theo bản năng, đề phòng trường hợp súng của mình bị hóc, Yigal với lấy khẩu súng của người chết, và bằng cách bắn nhanh và hiệu quả, bốn người Israel còn lại đã đẩy lui được đối phương.
Hành động đó đã cho ông Sabra thời gian rút khỏi cuộc tấn công đoàn xe tăng, đưa đội quân tinh nhuệ của mình chắn ngang đường rút của đơn vị biệt kích. Với hiệu quả khủng khiếp, trong tiếng nổ ròn rã, binh sĩ Israel lần lượt bắn hạ từng kẻ tấn công - tiêu diệt mọi tên trong đơn vị địch. Sau đó ông Sabra chạy tới chiếc xe tải hỏi, “Các cậu không sao chứ?”
“Một người hy sinh.”
“Các cậu sửa được điện đài chưa?”
“Cho tôi nửa giờ,” Yigal đáp.
“Được. Chúng tôi sẽ yểm hộ các cậu,” đoạn ông quay lại chiến đấu với xe tăng.
Nhóm của Yigal lại leo lên xe, không để tâm đến những quả đạn pháo rít qua. Với lòng hăng hái chưa từng thấy, Yigal kiên trì kiểm tra lại từng chi tiết của thiết bị còn lại: “Cái này ổn. Cái này còn tốt. Cái này đang hoạt động. Cái này vào điện.” Cậu làm việc không chút sợ hãi, không hề lo lắng, và cuối cùng, cậu kết luận rằng nếu thay một bộ ống điện tử, cả hệ thống nhất định sẽ hoạt động. “Hãy báo hiệu chúng ta đã sửa xong rồi,” cậu nói với một người trong đám phụ tá, nhưng chưa kịp thử thiết bị thì một tiếng reo đã vang lên.
“Một xe tăng nữa tiêu rồi!” Yigal dừng lại vừa đủ thời gian để ngó qua cánh cửa sau vỡ toang và nhìn thấy một quả cầu lửa nổ tung rực rỡ hơn cả vầng mặt trời buổi sáng. Đó cũng là lúc cậu lắp ráp xong toàn bộ, kiểm tra và gửi đi một bức điện khiến cho bộ tư lệnh tối cao và nhân dân Israel bị chấn động: “Đèo Qarash. Chúng tôi bị sáu xe tăng địch bao vây, đã tiêu diệt được bốn.”
Khi cuối cùng máy bay cũng tới, tiêu diệt tàn binh Ai Cập, các chiến sĩ Israel mệt nhừ tập hợp bên chiếc xe tải thông tin hướng dẫn hỏa lực cho máy bay, và sau khi máy bay đã lao về phía Đông để quay lại căn cứ ở Beersheba và Haifa, và khi rõ ràng là một đoàn xe bọc thép đang tràn về phía Bắc cứu viện, ông Sabra mệt mỏi ngồi với quân của mình mà nói, “Hãy rút ra bài học qua trận này. Nếu một khi nào đó anh chỉ huy xe tăng, đừng chốt chúng ở những vị trí cố định. Xe tăng chẳng có ích gì trừ khi chúng di chuyển. Vì nếu anh để chúng nằm im, một đội có quyết tâm cao bao giờ cũng có thể tiêu diệt được chúng.”
Khi niềm hân hoan tràn ngập Israel, Yigal không tham gia vào cuộc tán dương. Trong những ngày đầu, cậu được tôn vinh là “chú bé phụ trách điện đài ở Qarash”, nhưng rồi việc này cũng qua đi khi người ta nhận thấy trong thời kỳ khủng hoảng, Israel đã sản sinh ra hàng nghìn anh hùng.
Trong những tháng hè tươi đẹp, khi cuộc điều tra cho thấy vũ khí của địch tối tân hơn và quân đội của họ đông như thế nào, người ta mới đánh giá đúng được sự kỳ diệu trong cuộc thoát hiểm của quân Israel và họ thì thầm với nhau, trong lúc hàng đoàn xe chở vũ khí Nga chiến lợi phẩm chạy qua đường phố, “Ơn Chúa, chúng ta thật may mắn.”
Doris Zmora viết thư cho cha mẹ ở Detroit, sao lại một bản bằng giấy than cho ông bà Clifton ở Canterbury:
Trong thời kỳ xét lại này, con luôn nhớ đến những lời chỉ trích Kinh Thánh - đặc biệt là học thuyết xét lại của các học giả Đức. Hai nghìn năm sau, khi nhìn lại những ngày tháng Sáu của chúng ta, các nhà phê bình sẽ viết những tiểu luận chán ngắt giải thích rằng khi chúng ta nói chúng ta phải chống chọi với một trăm triệu quân địch thì có nghĩa là chúng ta không có ý nói đến một trăm triệu thật, vì chúng ta chỉ dùng từ triệu một cách tượng trưng. Điều chúng ta thực sự muốn nói đó là chúng ta phải chống chọi với mười nghìn người. Và khi đọc thấy số quân ít ỏi của chúng ta đã đánh bại đội quân hùng hậu của họ chỉ trong sáu ngày, họ sẽ giải thích rằng chúng ta không có ý nói sáu ngày. Chúng ta đang nói hoa mỹ, với một ngày đại diện cho một mùa, vì vậy chiến tranh thật ra kéo dài ba mùa hè và ba mùa đông. Nhưng vì con đã có mặt ở đây với tất cả sự sáng suốt và nỗi lo sợ cho đứa con trai đang xông pha ngoài mặt trận trong khi lẽ ra nó phải ở trường, con có thể nói với cha mẹ là chúng con đã thực sự chống lại một trăm triệu kẻ xâm lược và đã thực sự buộc chúng phải đầu hàng trong sáu ngày.
Yigal không lãng phí thời gian cho những suy nghĩ như vậy. Cậu cảm thấy rất phấn chấn khi nhìn những tấm bản đồ mới miêu tả các đường biên giới được mở rộng rất nhiều - “Đáng lẽ đường biên giới phải luôn như thế này,” một vài người nói. “Mở rộng quá,” một số người thận trọng cảnh báo - nhưng cậu nhận thấy điều những người mình quen biết thực sự mong muốn là hòa bình. Bạn bè cậu trông đợi một hội nghị hòa bình sẽ được tổ chức trong tháng Tám; đến đầu tháng Chín thì tình hình đã trở nên rõ ràng là sẽ không dễ gì đạt được hòa bình... nếu không phải là không đạt được gì.
Không ai khao khát hòa bình hơn Yigal, người giờ đây cảm thấy cần phải đánh giá tình hình thật thận trọng vì quốc tịch kép của mình. Ở Detroit, cậu có thể tin vào hòa bình - một nền hòa bình không được đảm bảo và không tránh khỏi ảnh hưởng từ những vụ lộn xộn trong dân chúng, nhưng dù sao vẫn là một kiểu hòa bình. Ở Israel thì cậu không biết hòa bình là gì, và điểm khác biệt đó làm cậu lo lắng. “Ở Qarash, mình nhận ra mình không phải kẻ nhát gan. Nhưng mình không cho rằng một người đàn ông nên sống trong tình trạng gay go của Qarash suốt phần đời còn lại. Phục vụ dưới quyền ông Sabra là một kinh nghiệm đáng quý, nhưng đó là việc không nên lặp lại nữa.”
Khoảng tháng Chín, khi đã đến lúc phải quay về Detroit hoàn thành nốt việc học tập tại Mỹ, cậu cảm thấy khá hài lòng được tạm xa Israel, và trong chuyến picnic cuối cùng trên rặng đồi trông ra biển Galilee, cậu để các em lại và một mình tha thẩn đến mũi đất cao nơi cậu có thể quan sát được một trong những cảnh tượng kỳ vĩ nhất thế giới từng giành được tình cảm yêu mến sâu sắc của người La Mã, tín đồ của Chúa Jesus và tiếp theo là người Ả rập. Mỗi nhóm người ấy đã tìm thấy và đã bỏ đi, để lại một vùng đất hoang vu khô cằn, nhưng người Do Thái đã biến nơi đây thành một thiên đường xanh tươi hoa lá mà lúc này cậu đang ngồi để vật lộn với những khái niệm lịch sử lớn lao. Có lẽ câu này cũng có ý nghĩa nào đó, cậu nghĩ. Dồn chúng ta xuống biển! Có lẽ nếu người Ả rập bám chặt lấy... từ chối đàm phán với chúng ta... chờ thời cơ... cậu ngập ngừng, không muốn tiếp tục hướng lập luận này nhưng phần kết luận đã tự nó kéo đến: Có lẽ nó sẽ giống như cuộc Thập tự chinh. Có lẽ người Ả rập sẽ tích lũy sức mạnh trong hai trăm năm, và rồi, dần dần, như một dòng sông băng, sẽ dồn chúng ta xuống biển, xóa sạch mọi thứ trước mắt. Cậu bắt đầu tưởng tượng điều này có khả năng biến thành sự thật như thế nào, vì cậu đang ở trên một trong những ngọn đồi từng được Saladin sử dụng trong cuộc tấn công như vũ bão chống quân Thập tự chinh, cuộc tấn công mãnh liệt rốt cuộc đã dồn được chúng xuống biển: Nếu mình là thanh niên Ả rập, mình sẽ nghĩ ra nhiều cách để điều này có thể được thực hiện nó sẽ thành nỗi ám ảnh đối với mình... Cậu sung sướng bật ngón tay trước khám phá mang tính trí tuệ ấy, dù khám phá đặc biệt này không mang lại niềm vui cho bản thân cậu: Và mình sẽ hành động không phải vì lý trí, không phải vì nhu cầu, mà phần nào đó vì tinh thần cuộc chơi. Mình sẽ chống lại người Do Thái chỉ để đùa cho vui. Cậu dừng lại để suy đi tính lại thật kỹ càng: Mình sẽ biến nó thành trò tiêu khiển quốc gia - năm này qua năm khác suốt hàng thập kỷ.
Cậu thấy rõ lời cam đoan như vậy ngụ ý rằng Cuộc Chiến Sáu Ngày sẽ lại tiếp tục: Mọi việc sẽ lại xảy ra lần nữa - Haifa dưới bom đạn... xe tăng vượt qua Sinai... Ông Sabra sẽ trở thành một ông già giảng giải cho các chỉ huy xe tăng mới - “Đừng bao giờ ém xe tăng của các anh ở vị trí cố định...” Đúng là một cuộc sống khủng khiếp. Tuy nhiên cậu vẫn nhìn thấy một tia hy vọng: Nếu bằng cách nào đó cả hai phía có thể bảo đảm sự hòa giải... một cách trung thực... đi đến bản chất của vấn đề và giải quyết những mối bất bình. Buồn bã lắc đầu, nuối tiếc nhìn vùng đất Galilee nơi người Do Thái đã thực hiện được biết bao điều có ích trong khi các dân tộc khác lại làm được rất ít, cậu kết luận: Không phải trong thời gian mình còn sống... mâu thuẫn quá quyết liệt. Trong hai trăm năm nữa, đây không phải nơi dễ chịu để sống. Nhưng rồi, với niềm hy vọng không gì dập tắt được của tuổi trẻ, cậu lại nghĩ: trừ khi chúng ta ngồi lại cùng nhau.
Với kết luận ban đầu này, một kết luận mà cậu quyết định không thảo luận với hai cô em vì chúng không có quốc tịch Mỹ, Yigal quay về Detroit, tại đây cậu rơi vào một địa ngục đặc biệt khiến cậu phải bối rối lo âu suốt niên học 1967-1968. Một mặt, những người Do Thái đa cảm coi cậu là một anh hùng - tệ hơn cả là ông ngoại cậu, đi khoe với hết người quen này đến người quen khác, “Các ông, các bà nói với tôi là vì người Do Thái không chơi bóng bầu dục nên họ không thể chiến đấu được. Các ông, các bà nghe chuyện về cháu tôi xem... mười sáu tuổi đầu” - nhưng điều tồi tệ là cậu phải nghe những câu nói đùa vô lý về sự không hiệu quả của quân Ai Cập; bằng trực giác cậu biết đây không phải cách tiếp cận vấn đề mang tính xây dựng. Có thể những người Ai Cập cậu đã đối mặt ở đèo Qarash không được lãnh đạo tốt, nhưng họ không phải quân nhát gan, cũng không phải đề tài để bông đùa; họ là những người đàn ông phải đối mặt với những vấn đề vô phương giải quyết.
Những ngày đầu niên học, Bruce cố gắng giải thích những gì thực sự xảy ra ở đèo Qarash - lòng dũng cảm của quân Ai Cập, họ đã phá hủy xe tải Israel như thế nào, bộ binh đã tấn công và bắn chết anh bạn cậu dưới gầm xe tải ra sao - nhưng không ai buồn nghe. Chiến tranh là một trò cười trong đó quân Ai Cập là những anh hề.
Tuy nhiên, nghiêm trọng hơn nữa là càng ngày cậu càng thấy rõ một số lượng đáng ngạc nhiên người Do Thái có giáo dục ở khu vực Detroit trở nên thù địch với Israel và thấy việc phô trương quan điểm thân Ả rập là hợp thời. Lần đầu tiên cậu gặp hiện tượng này là khi một thủ lĩnh trẻ người Do Thái từ Đại học Michigan sang chủ trì cuộc hội thảo ở khu Grosse Pointe, trong buổi hội thảo đó anh ta lên án rằng Israel không khác gì nước Đức thời Hitler và xét trên phương diện đạo đức thì người Ả rập có lý do chính đáng để chống lại những thứ vốn phải được xem như chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Bruce coi lời buộc tội thứ nhất là phi lý và lời buộc tội thứ hai là không có cơ sở, nhưng thậm chí trong chính trường cậu, ba trong số những thanh niên Do Thái có uy tín nhất cũng tuyên bố ủng hộ Ả rập; khi cậu hỏi liệu họ có hiểu một lời tuyên bố như vậy bao hàm ý gì không, họ liền gạt đi: “Chính vì lợi ích của người Mỹ gốc Do Thái mà phải chăm lo sao cho Israel sáp nhập vào các nước láng giềng.” Tuyên bố này lan truyền nhanh chóng, và một trong số ba thanh niên Do Thái đó được mời đến câu lạc bộ địa phương Rotary để trình bày rõ hơn.
Người Do Thái có hiểu biết cảm thấy đặc biệt bị xúc phạm bởi hình ảnh nổi bật của Tướng Dayan[51]. Trong khi một số bạn bè của Bruce tôn Dayan thành người hùng được ái mộ - ai cũng có thể gây cười bằng cách đeo miếng vải che mắt và tuyên bố, “Tướng Westmoreland, tổng thống Johnson giao cho tôi nhiệm vụ giúp kết thúc chiến tranh ở Việt Nam. Tôi có thể dành cho các ông sáu ngày” - thì những người dẫn đầu cuộc công kích triết học nhằm vào Israel lại coi Dayan như bằng chứng của chủ nghĩa đế quốc Do Thái mới. Bruce tự hỏi liệu họ có biết mình đang nói gì không, và một tối, khi cậu và ông ngoại tham dự cuộc họp trong đó ý kiến này được một nhà văn Do Thái khôn ngoan từ New York đến đưa ra, Bruce đứng giữa đám cử tọa hỏi, “Ông có sẵn sàng hỗ trợ cho việc tàn sát hai triệu người Do Thái ở Israel không?” diễn giả bật cười đáp, “Chàng trai trẻ, cậu đang nghe chuyện cổ tích đấy,” vậy là Bruce nói to, “Tôi đang nghe Đài truyền thanh Damascus,” diễn giả ung dung gạt đi bằng câu, “Mọi người đều nói quá lên, đúng như cậu đang làm lúc này vậy,” cử tọa bật cười thoải mái vì đã thoát khỏi tình huống khó xử.
Bruce không được đào tạo về tâm lý học, vì vậy cậu không thể phân tích nguyên nhân một số trí thức Do Thái chấp nhận cách nhìn bất ngờ này, nhưng dù gì đi nữa cậu cũng đủ hiểu biết để mổ xẻ hiện tượng tiếp theo. Grosse Pointe không chấp nhận người da đen, nhưng khu Detroit gần đó thì rất đông, và các ông chủ bà chủ giàu có ở Grosse Pointe lại tỏ ra đồng tình khi nghe đám người hầu da đen bắt đầu bộc lộ quan điểm chống Do Thái một cách dữ dội. Họ có vẻ thích thú khi nghe cô giúp việc nào đó nói, “Adolf Hitler có lý. Bọn Do Thái ấy, chúng điều khiển hết mọi thứ. Chúng là kẻ thù của tất cả những người lương thiện.” Các bà chủ da trắng bị cám dỗ bởi ý tưởng khuyến khích người da đen, và nghiêm trang gật đầu khi họ nói, “Người da đen sẽ không bao giờ có cơ hội ở đất nước này chừng nào chúng tôi chưa giám sát được bọn Do Thái chuyên áp bức chúng tôi.”
Thông thường, mỗi năm trường của Bruce tuyển bốn học sinh da đen, nếu là cầu thủ bóng rổ càng tốt, và vì quá trình chọn lọc rất kỹ càng nên chỉ những chàng trai có khả năng trên trung bình mới được tuyển. Trước Cuộc Chiến Sáu Ngày, các học sinh da đen đó thường tìm thấy điểm chung với những chàng trai như Bruce, nhưng trong phản ứng dữ dội kỳ lạ sau chiến tranh, họ bắt đầu xa lánh người Do Thái, đặc biệt là Bruce, vốn được tuyên bố là dân Israel. Mọi người hay nói, “Đáng thương thay cho dân tị nạn Ả rập. Có lẽ chúng ta phải sang đó đặng trả tự do cho họ.”
Tháng Hai, nhà trường mời một trong những đại diện Ả rập tại Liên Hiệp Quốc phát biểu trên diễn đàn, và ông ta trình bày rất hay. Ông ta nói đùa mấy câu về tính lười biếng của dân tộc mình, đưa ra vài cách nhìn hài hước coi đạo Hồi như một tôn giáo kỳ lạ và hấp dẫn, cùng một loạt cách thuyết phục khéo léo nhằm thu hút cảm tình dành cho mình. Tóm lại, ông ta đang làm, lần đầu tiên, những gì các nhà ngoại giao Israel khôn ngoan từng làm suốt hai mươi năm qua trên các diễn đàn tương tự. Ông ta khiến mọi người xúc động mạnh mẽ, và sau cuộc họp, đã tiến hành gặp gỡ không chính thức với học sinh, trong cuộc gặp này bốn thanh niên da đen đã đặt ra một loạt câu hỏi thăm dò. Ông ta thẳng thắn nói với họ, “Ở châu Phi, tương lai của chủng tộc các cậu là liên kết với đạo Hồi. Ở đất nước này, tương lai của người da đen các cậu là làm điều tương tự.” Khi ông ta đã rời khỏi trường, hai trong số bốn vận động viên da đen ấy tuyên bố họ đã thành tín đồ Hồi giáo, và khi giờ sử học kết thúc một người hầm hè, “Chúng tao sẽ xua chúng mày ra khỏi mảnh đất đã bị chúng mày cướp đoạt này.”
Chính trong bầu không khí đầy biến động này, Bruce Clifton tốt nghiệp với điểm số cao, và điều này lại làm nảy sinh một loạt vấn đề mới, vì người ông vô cùng hãnh diện của cậu đã mở một loạt chiến dịch vận động dẫn đến kết quả là cậu giành được đề nghị cấp học bổng của trường đại học Michigan và Cal Tech. Trước sự sửng sốt của ông ngoại, Bruce tuyên bố, “Cháu sẽ không học đại học ở Mỹ. Cháu đã ghi tên vào trường Technion ở Haifa.”
“Chắc chắn cháu mất trí rồi!” ông cậu kêu lên. “Cháu có biết vào được trường Michigan khó đến thế nào không? Hay Cal Tech? Như lên thiên đường ấy.”
“Cháu muốn một nền giáo dục ưu việt,” Bruce đáp. “Tại trường Technion...”
“Chỉ vì cha cháu làm việc ở đấy thôi. Bruce này, đó chỉ là một trường trung học so với một nơi như Michigan... hay Cal Tech.”
“Về những lĩnh vực mà cháu quan tâm thì tình cờ nó lại tốt hơn cả hai trường đó.”
“Thiển cận,” ông Melnikoff hét lên. “Đó chính là vấn đề của Israel đấy. Tính thiển cận chết tiệt.”
Nhưng Bruce thậm chí chẳng thèm ngó ngàng đến những mẫu đơn xin học khi ông ngoại đặt chúng trước mặt cậu. “Cháu sẽ học ở Technion,” cậu bướng bỉnh nói, rồi một đêm bà ngoại cậu vào phòng và khuyên, “Bruce, khi một chàng trai có người ông giàu có - người dù muốn hay không vẫn phải lập di chúc - thì cậu ta không nên cứng đầu cứng cổ như vậy.” Bruce lạnh lùng nhìn bà, và bà tiếp tục, “Vì vậy cháu hãy là cậu bé ngoan, bà xin cháu đấy, nói với ông cháu sẽ đi Michigan hay có lẽ là California. Bà nghe nói cả hai trường đều tốt cả.”
Bruce giải thích cậu cần hiểu Israel hơn, rằng cậu muốn nối lại quan hệ với những người bạn đã lớn lên cùng nhau, và rằng không gì có thể ngăn cậu quay lại đó. Sáng hôm sau cậu nguệch ngoạc mấy chữ cho ông ngoại, nhờ bạn đưa ra sân bay, và bắt chuyến bay đi Israel, nhưng khi nhận ra nó dừng lại ở London, cậu bèn theo tình thế mà quyết định thay đổi hành trình, tới thăm ông bà nội ở Canterbury.
Ngày thứ ba trong cuộc viếng thăm, Bruce bị một phen bất ngờ trước một điều mà ông nội Clifton nói với cậu. Bruce luôn xem ông bà Clifton như những người lập dị và không quan trọng, cách hiểu này bắt nguồn từ những lời bình luận được ông ngoại Melnikoff đưa ra lúc rỗi rãi “Họ là những người vô cùng bảo thủ” và “Ông ấy chỉ là một luật sư hạng xoàng thôi” nhưng hôm đó ông nội Clifton nói, “Cháu này, ông muốn cháu ăn trưa với ông ở câu lạc bộ. Đã đến lúc cho cháu hiểu lối sống Anh rồi.” Và ông đưa cậu tới câu lạc bộ ảm đạm mờ tối của mình, nơi trông ai cũng như hơn sáu mươi tuổi, thậm chí cả những người mới trên ba mươi, rồi ông hướng dẫn Bruce cách gọi món chủ đạo trong bảng thực đơn: thịt bò với bánh pudding Yorkshire và bánh xốp kem. Khi tô đựng bánh được mang ra, Bruce lấy một suất khiêm tốn, vậy là ông nội cậu giành lấy thìa và xúc đầy vào đĩa của cháu. “Con trai bao giờ cũng thích bánh xốp kem,” ông nói. “Ông cũng vậy. Cha cháu cũng vậy.”
Khi món tráng miệng đã hết - một trong những món ngon nhất Bruce từng được nếm, với sự kết hợp mùi vị kỳ lạ: rượu sherry, kem trứng, quả mâm xôi - ông nội Clifton dẫn cậu tới một căn phòng vẫn ô tối màu và yêu cầu nhân viên phục vụ đi lấy một chiếc cặp chật ních giấy tờ. Khi cặp tài liệu này được mang đến, ông nói, “Bruce, ông đã theo dõi sát sao những tiến bộ của cháu. Cháu là một thanh niên xuất sắc... một trong số rất ít người. Cháu đã chứng tỏ mình có đủ bộ ba đáng tự hào đó: nghị lực, lòng can đảm, trí thông minh. Cha mẹ truyền cho cháu nghị lực. Lòng dũng cảm do cháu tự rèn luyện. Chúa ban cho cháu trí thông minh. Cháu sẽ làm gì với chúng?”
“Cháu nghĩ là khoa học.”
“Không, ý ông là ở nước nào?”
“Chà... cháu vẫn đang suy nghĩ về vấn đề này.”
“Ông biết. Cháu thiên về hướng nào?”
Bruce hít một hơi sâu rồi nói, “Điều này nghe có vẻ kiêu ngạo, nhưng vì ông là người đầu tiên hỏi thẳng cháu... Ý cháu muốn nói là, vì ông là người đầu tiên trao đổi vấn đề đó với cháu một cách hiểu biết... Thôi được, nói thẳng ra - khi ở Israel, cháu thích Hoa Kỳ hơn, và khi ở Detroit, cháu lại thích Haifa hơn.”
“Đúng thế,” ông Clifton nói bằng giọng mỉa mai, dứt khoát. “Đúng như những gì ông sẽ làm. Nhưng tiêu chuẩn của con người chẳng mấy khi cân bằng. Thế cán cân nghiêng về bên nào?”
“Nếu nó có nghiêng thì cháu cũng chưa đủ sáng suốt để nhận ra.”
“Tốt. Ông hy vọng cháu nói thật, vì nó sẽ làm nhiệm vụ của ông dễ dàng hơn.”
“Nhiệm vụ gì ạ?”
“Ông hy vọng Israel và Mỹ đang ngang nhau. Vì cháu không bị hạn chế trong hai nước đó, Bruce. Cháu còn là công dân Anh nữa.”
“Cháu làm sao?”
“Khi cháu ra đời, ông đã rất ấn tượng trước tính thận trọng của ông ngoại Melnikoff cháu đảm bảo cháu sẽ có quyền mang hộ chiếu Mỹ. Ông đã suy nghĩ về vấn đề này trong hai tuần, tự thuyết phục mình rằng ông ngoại cháu có lý, và đã đăng ký quốc tịch Anh cho cháu.”
“Bằng cách nào ạ?”
“Vì ông luôn áp dụng những biện pháp thận trọng để bảo đảm rằng cha cháu vẫn giữ giấy tờ Anh - mối quan tâm sâu sắc cha cháu dành cho Israel không thành vấn đề, lòng tận tụy của cha cháu với sự nghiệp của người Do Thái cũng không sao. Về mặt pháp lý ông vẫn giữ cho cha cháu là cư dân Canterbury.” Ông dừng lại, sắp xếp giấy tờ, tìm thấy thứ ông cần, liền đưa cho Bruce. “Cháu cũng là công dân thành phố này. Tờ khai sinh này chứng minh điều đó. Tờ tiếp theo này là đơn xin hộ chiếu Anh. Chiều nay chúng ta sẽ chụp ảnh và sáng mai sẽ nhận được hộ chiếu.”
Bruce chưa kịp phản ứng trước thông tin đáng ngạc nhiên này, ông nội Clifton đã đưa ra hai tập giấy khác, một cái là hồ sơ đăng ký vào trường đại học Cambridge, còn cái kia là hồ sơ xin vào học viện khoa học tốt nhất trong trường đó. “Nếu cháu muốn dành cả cuộc đời nghiên cứu ứng dụng khoa học thực hành,” ông nói, “hãy đến trường Technion ở Haifa với cha cháu. Nếu cháu muốn xây cầu, hãy ghi tên vào một trong các trường đại học Mỹ đó. Nhưng nếu cháu muốn thành nhà khoa học - nếu cháu muốn am hiểu lĩnh vực nghiên cứu nói chung và đóng góp theo khả năng trí tuệ của cháu - thì hãy đến Cambridge.”
Trong lúc Bruce vẫn để đống giấy tờ nằm yên trên lòng, ông Clifton lấy ra một tài liệu khác, sổ tiết kiệm ở một ngân hàng Canterbury. Trong quyển sổ này, bắt đầu từ năm 1952, thỉnh thoảng ngân hàng lại nhập thông số về những khoản tiết kiệm nhỏ được ông Clifton dành riêng cho sự nghiệp học hành của cháu nội. Giờ tổng số tiền đã lên tới hơn hai nghìn bảng, được tích cóp cẩn thận từ thù lao ít ỏi của một luật sư hành nghề ở tỉnh lẻ. “Ông không muốn cháu phụ thuộc vào ông ngoại Melnikoff,” ông giải thích. “Ông ấy là người tài giỏi, và nếu cháu là một con ngựa đua, ông ấy sẽ huấn luyện cháu một cách thận trọng. Nhưng cháu lại là người thông minh - một bộ óc nhạy cảm với khả năng lớn lao - và ông không nghĩ là ông Melnikoff có thể đánh giá đúng điều đó.”
Tình yêu thương thể hiện qua những tờ giấy kia bao la đến nỗi Bruce không nói nên lời, nhớ lại những chuyến thăm Canterbury chớp nhoáng của mình. Cậu chưa bao giờ ân cần với ông, chưa bao giờ dành cho ông chút xíu tình cảm và sự động viên nào. Canterbury luôn là nơi dừng chân bắt buộc giữa hai điểm cực thực sự của cuộc đời cậu và về căn bản chưa bao giờ là thứ mang tầm quan trọng sống còn.
“Nếu cháu không đến đây thăm ông,” cậu thấp giọng hỏi, “ông sẽ làm gì với những giấy tờ này?”
“Ông sẽ chờ. Ông tin rằng một chàng trai thông minh đối diện với những lựa chọn như của cháu cuối cùng sẽ cần một lời khuyên vô tư.”
Hai ông cháu im lặng một lúc lâu, rồi Bruce hỏi, “Là người Do Thái thì ở nước nào tốt nhất?”
“Tệ nhất là Pháp.”
“Tệ hơn Đức ạ?”
“Phải. Vì Pháp thực hành chủ nghĩa bài Do Thái hiểm độc nhất nhưng lại không nhận thức được điều đó. Những người Pháp chân chính - những người yêu nước - không bao giờ tha thứ cho người Do Thái vì đã thúc đẩy vấn đề Dreyfusd[52]. Làm cho các cơ quan chính phủ của họ bị mất mặt trước công chúng, có thể nói như vậy.
“Tệ thứ nhì là Nga. Lúc nào cũng lúng túng đến là tội nghiệp về thái độ đối với người Do Thái - hôm trước yêu quý, hôm sau tàn sát. Bất cứ người Do Thái khôn ngoan nào cũng nên nghiên cứu ba sự kiện. Chủ nghĩa quốc xã Đức. Chủ nghĩa Dreyfus Pháp. Và đặc biệt là kinh nghiệm Birobizhand[53] ở Nga. Đến đó mà xem. Nó nằm trên bờ sông Amur ở Siberia.”
“Chúng không thuộc những nước cháu phải chọn.”
“Là người Do Thái sống ở Anh không phải chuyện thú vị đâu. Là người Do Thái sống ở Israel cũng không dễ dàng vì giáo sĩ Hồi giáo điều khiển mọi việc và làm mọi sai lầm của châu Âu trầm trọng thêm. Nhưng ở Mỹ thì ông nghĩ sẽ rất khó giữ được tính đồng nhất của dân tộc cháu. Vì người Mỹ hết sức mong muốn đồng hóa người Do Thái.”
“Ông sẽ làm gì... nếu ông là cháu?”
“Ông sẽ sử dụng sổ tiết kiệm này để thoát khỏi ảnh hưởng của Melnikoff. Ông ấy yêu cháu, nhưng tình yêu không bao giờ là sự bảo hộ chống lại lợi dụng. Ông sẽ đăng ký vào Cambridge... thoát khỏi ảnh hưởng trí tuệ của cha cháu. Ông sẽ học hành chuyên cần, và khi tốt nghiệp ông sẽ thử đến một đất nước mới mẻ nào đó như Úc, hay có thể là Kenya. Họ sẽ cần tất cả trí tuệ họ phát hiện ra được. Họ cũng sẽ cần một số người Do Thái để giữ cân bằng cho mình.” Ông ngập ngừng, rồi kết luận, “Nhưng ngay bây giờ là các thợ chụp ảnh. Ngày mai, đi London nhận hộ chiếu Anh.”
Và mang theo sổ hộ chiếu này – thứ tài liệu màu xanh thẫm quý giá suốt trăm năm nay đã đưa các nhà tổ chức, nhà sản xuất và người quản lý an toàn đi đến khắp nơi trên thế giới - Bruce Clifton rời khỏi London về Israel.
Mùa thu năm 1968, mới mười bảy tuổi, Yigal vào Technion ở Haifa, một trường đại học khoa học có khả năng cung cấp một nền giáo dục hàng đầu nhưng rõ ràng sẽ thất bại trong trường hợp của anh. Vấn đề không phải là sự khó khăn trong truyền thụ kiến thức, vì anh thấy những tiết học nhập môn quá dễ, mà là khả năng tập trung vào việc học tập trong khi các vấn đề khác đang xâm chiếm hết tâm trí anh.
Anh vẫn tiếp tục so sánh Israel với Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, một hành động gây bất lợi cho cả hai bên, và bắt đầu nghiêm túc nghĩ đến việc nên chuyển tới Cambridge và trở thành công dân Anh. Anh thích tất cả những gì mình nhìn thấy ở đảo quốc này; càng nghĩ anh càng thấy cách tiếp cận nhẹ nhàng của ông nội Clifton có vẻ thích hợp hơn.
Nhìn từ xa, anh nhận thấy nước Mỹ và ông ngoại Melnikoff một mặt quá ồn ào, mặt khác thì lại quá tầm thường. Anh không thể tưởng tượng được rằng đám nam nữ học sinh trong trường Grosse Pointe của mình sẽ đương đầu với cuộc xâm lăng theo cách bạn bè anh ở Israel đã làm. (Đây là một sai lầm thường mắc phải khi đánh giá khả năng của thanh niên Mỹ; nó đã chứng tỏ sự tai hại cho Adolf Hitler. Một ngày nào đó nó có thể chứng tỏ đúng như vậy cho các nhà bàn mưu tính kế ở điện Kremlin). Và anh thấy vai trò của người Do Thái ở Mỹ, giờ đây còn bị lòng hận thù của người da đen làm cho phức tạp hơn, thật khó chịu.
Mặt khác, cuộc sống ở Israel có sự căng thẳng thường trực khiến anh lo sợ. Anh không phải kẻ nhát gan, một thực tế đã được anh chứng minh rất rõ, nhưng anh theo đuổi hòa bình, nền hòa bình để phát triển những ý tưởng đang bắt đầu hình thành. Thật kỳ lạ, chúng không liên quan trực tiếp đến khoa học mà đúng hơn là đến những suy ngẫm cao xa về công lý và công bằng, mối bận tâm thường xuyên của những thanh niên ưu tú nhất ở mọi quốc gia. Tâm trạng rối bời mà Yigal Zmora tự rước vào mình đã khiến anh không phát huy được khả năng, và khoảng đầu năm 1969, cha anh, chủ nhiệm khoa trường Technion, thấy rõ rằng tốt hơn hết con trai ông nên tạm nghỉ học trong phần học kỳ còn lại.
Bà Doris Zmora cũng đồng ý. Bà nói với chồng, “Khi một cậu bé phải trải qua những gì Yigal đã chứng kiến, nó cần có thời gian để tĩnh tâm lại. Em không thể nói được điều gì tệ hơn, Cuộc Chiến Sáu Ngày hay ông ngoại Melnikoff.”
“Anh e rằng chính ông nội Clifton mới là người khuấy động không khí yên bình,” chồng bà nói. “Cha anh có thủ thuật đặt những câu hỏi quan trọng rất quỷ quái.”
Họ quyết định Yigal nên làm việc trong thời gian còn lại của năm, nhưng ông nội Clifton đã can thiệp khi biết kế hoạch đó, “Cứ để thằng bé ở Canterbury cho đến khi khai giảng năm học mới. Nó nên đọc sách và suy nghĩ một chút.”
Ý kiến đó khá hấp dẫn Yigal, vậy là anh bay tới Anh, chống lại lời khuyên của ông ngoại Melnikoff, và vùi đầu vào hàng chồng sách đã giúp thanh niên thế kỷ này tiếp thu được sự hiểu biết sâu sắc: Gibbon, Spengler, Marx, Dostoevsky, Flaubert, Max Weber, Keynes, Charles Beard. Tuy nhiên, kinh nghiệm hữu ích nhất của anh lại là cuộc chuyện trò dài hơi với ông nội, vì trong cách cư xử của luật sư Clifton có sự giản dị duyên dáng cho phép ông trở lại tuổi mười tám, và ông bàn luận về những cuốn sách Bruce đọc đúng theo trình độ chàng trai có thể hiểu được.
Đó là một mùa đông thú vị, với những bữa tiệc trang trọng nơi Bruce được gặp số thanh niên Do Thái ít ỏi vùng Canterbury, và có lẽ anh vẫn tiếp tục cuộc sống như vậy nếu một ngày kia anh không nhìn thấy, trong tủ kính trưng bày của một hãng du lịch, chính tấm áp phích quảng cáo về Torremolinos mấy tháng trước từng gây xáo động đến thế trong tâm trí một cô gái Na Uy ở Tromsø. Anh đang trên đường đi bộ từ thư viện về nhà, không nghĩ đến điều gì cụ thể, thì nhìn thấy cô gái gần như khỏa thân đang đứng cạnh cái cối xay gió trên một bãi biển Địa Trung Hải ấy, và cô có vẻ thật đến nỗi anh gần như chạm vào được, và đột nhiên anh nhận ra vấn đề không nằm ở Israel hay trường Technion mà ở cái thực tế đơn giản là anh đã mười tám tuổi, dù từng mạo hiểm tới Thành phố Đỏ và góp phần đẩy lùi sáu xe tăng địch, anh vẫn chưa từng có mối quan hệ thật sự với một cô gái.
“Cháu muốn đi nghỉ ở miền Nam Tây Ban Nha,” anh báo tin trong bữa ăn tối hôm đó. Ông bà anh cân nhắc một lát, rồi gật đầu.
“Đã đến lúc cháu dành thì giờ cho những thú vui nhẹ nhàng nào đó rồi,” ông nội Clifton bảo, “và ông nghe nói vùng phía Nam Tây Ban Nha rất đẹp.” Vậy là hôm sau, khi đi hỏi thông tin vé máy bay và mức giá đã được giảm tại các khách sạn, ông trông thấy tấm áp phích Torremolinos và nhớ lại cảm giác của mình hồi mười tám tuổi. Ông không nói gì, trả tiền vé, và đưa nó cho cháu nội. Chàng trai lên đường xong, luật sư Clifton không chia sẻ với vợ mối ngờ vực của mình, nhưng hai ngày sau, trên đường đi mua sắm về, bà cũng nhìn thấy cô gái bên cối xay gió, và đêm hôm đó bà nói, “Tôi thiết nghĩ tiếng gọi của Torremolinos chắc phải mạnh mẽ lắm. Có lẽ còn hơn là quanh quẩn ở Canterbury.”
Các hãng hàng không Anh mời chào một loạt chuyến du lịch Torremolinos thuận lợi đến mức phi lý. Anh có thể bay từ London tới Málaga, được trọ miễn phí hai tuần tại một khách sạn tử tế, nhận một tập phiếu ăn cho phép anh dùng bữa tại các nhà hàng ngon nhất, rồi bắt chuyến bay quay về London tất cả chỉ mất vào khoảng 71 đô la. Trên chuyến bay của Bruce có một nhóm mười sáu cô gái, hai cô tên Pamela (Trong những chuyến du lịch như vậy, nếu có năm hay sáu cô tên là Pam thì cũng là chuyện bình thường, vì sau chiến tranh tên đó rất phổ biến.) Hai cô này được bạn bè phân biệt là Pam-Mini, diện chiếc váy Đỏ ngắn hết mức cảnh sát cho phép, và Pam-Béo, rõ ràng hơi mập mạp, nhưng vẫn giữ được nét hấp dẫn nhờ tính tình hòa nhã.
Họ vừa mới qua biển Manche thì Pam-Mini đã ngồi phịch xuống cạnh Bruce và bắt đầu nói với anh về kế hoạch của cô trong thời gian ở Torremolinos. “Họ sẽ cho chúng ta trọ trong một khách sạn hết ý gọi là Berkeley Square. Năm ngoái cô bạn em đã ở đó và kể là ban quản lý khách sạn để mặc anh muốn làm gì thì làm, miễn là anh không quấy rầy khách khứa. Em sẽ tìm cho mình một anh chàng và nằm lì trên giường làm tình say sưa trong suốt mười ba ngày.”
Bruce chỉ mơ hồ nhận thức được những gì cô nói, vì anh còn bị ám ảnh bởi đôi chân trần thon thả, nép sát chân anh và có thể nhìn thấy cả bắp đùi. Anh khổ sở giữ vững đôi tay không biết đặt chúng vào đâu, vì chúng bị hút vào đôi chân cô chẳng khác nào mạt thép với thanh nam châm, nhưng anh lại không dám chạm vào. Miệng anh khô khốc, và khi cô quay sang hỏi anh một câu gì đó, đôi mắt trẻ trung long lanh nhìn anh chằm chằm, còn bộ ngực tì vào cánh tay anh, thì anh chỉ có thể nuốt nước bọt.
Không nhận được câu trả lời, cô lại thao thao bất tuyệt, “Sẽ có khối con trai Pháp, Đức và cả lô lính Mỹ thực sự cần tình dục. Nếu một cô nàng chơi đúng nước cờ, cô ta có thể tìm được một cuộc hẹn hò ở Torremolinos, những người khác nói gì cũng không quan trọng.” Bruce định hỏi cô xem những người khác đã nói gì, nhưng lưỡi anh líu lại, vì vậy sau khi hít một hơi thật sâu anh đặt tay lên đùi cô. Mini-Pam rùng mình, nhắm mắt lại, và thì thầm, “Cảm giác tuyệt quá. Chúng ta chuyển xuống ghế cuối đi. Không! Anh nán lại đây một phút nữa. Em sẽ đi về phía sau tìm đồ uống. Anh chờ một lát rồi theo em.”
Xuống đến hàng ghế cuối, anh thấy cô đã đắp chăn như thể chuẩn bị ngủ, khi anh ngồi xuống bên cạnh, cô cầm tay anh đặt lên háng mình và phủ chăn lên trên. “Có tuyệt không?” cô hỏi.
Thấy anh không thể nói được gì, cô cười khúc khích. “Em học được trò này qua một chuyện cười tục tĩu đấy.” Rồi cô kể cho anh nghe chuyện một người Texas to béo ngồi trên máy bay của Japan Air Lines và đi vào phòng vệ sinh. Sau khi ông ta trở lại chỗ ngồi, cô tiếp viên đưa cho ông ta một tờ giấy.
Thưa Quý khách,
Khi ở trong phòng vệ sinh ra, ông quên kéo khóa quần và đã để lộ tất cả. Tôi có một kế hoạch! Tôi sẽ đặt một cái chăn lên người ông như thể ông đang ngủ và ông có thể sửa sang lại.
Tôi mong ông không bị bối rối.
Nữ tiếp viên phục vụ ông
T.B. Tôi yêu ông.
Bruce tủm tỉm cười, và chỉ trong vài phút Pam-Mini gần như đã cởi được hết áo váy và cũng bắt đầu mở được phần lớn khuy áo quần của Bruce, rồi trong lúc máy bay hướng về phía Đông, họ gần như đã làm tình được trong chừng mực những gì một đôi tình nhân có thể làm trên mấy chiếc ghế bất tiện ấy. Rồi cô tìm được cách kéo tay ghế ngăn cách lên, và với khả năng uốn éo đáng ngưỡng mộ, thân hình cô cử động khéo léo tới mức cuộc làm tình không những có thể tiến hành mà còn hầu như không sao tránh khỏi.
Theo dõi từ phía đầu máy bay với vẻ tán đồng, Pam-Béo báo cho các bạn khác xem Pam-Mini đang bận rộn gì, và cả mười lăm cô gái Anh bèn lén nhìn xem bạn họ làm gì. “Anh ấy đáng yêu thật,” một cô thì thào. “Tớ sẽ không phiền nếu được ở đó cùng anh ấy.”
“Họ xong rồi kìa!” Một cô khác kêu lên, và cả tá cô gái quan sát với mức độ ghen tị khác nhau khi Bruce cứng người lại, rồi chậm chạp ngả lưng vào ghế. Ngay sau đó Pam-Mini bước mấy bước đến phòng vệ sinh, và khi quay lại khoang cô bắt gặp ánh mắt Pam-Béo, liền mỉm cười. Giơ tay ra hiệu chiến thắng, cô buông mình xuống chiếc ghế bên cạnh bạn tình và đánh thức anh. “Tên anh là gì?” cô hỏi.
“Bruce.”
“Một cái tên hay, Bruce. Khi chúng ta tới Torremolinos và tìm được một cái giường tử tế...” Cô lướt ngón tay từ cổ họng chạy xuống đầu gối anh như chơi một hợp âm rải rồi bảo, “Anh nên cài khuy vào, Bruce. Nhưng đây mới chỉ là màn mở đầu thôi.”
Khi họ tới Torremolinos, cô nhất định đòi anh nhập bọn với nhóm của cô ở khách sạn Berkeley Square, hành lý của anh chưa kịp soạn ra, cô đã tới phòng anh, cởi áo váy và lên giường. “Anh có nghĩ em bạo quá không?” Cô hỏi, trùm chăn lên tận cổ ra vẻ đoan trang. “Chỉ vì chúng ta không có nhiều thời gian thôi, đúng không?”
Họ cùng nhau tận hưởng bốn ngày mãnh liệt, nhưng có lẽ họ cứ ở Brighton cũng được vì đến Tây Ban Nha họ cũng chỉ biết đến chuyện đó mà thôi. Rồi, bằng một thủ đoạn mà Bruce không tài nào hiểu nổi, vì thật không thể tưởng tượng nổi cô tìm đâu ra thời gian gặp gỡ một người đàn ông khác trong khi suốt ngày bận rộn với anh như vậy, cô rời khỏi khách sạn Berkeley Square và chuyển vào căn hộ của một thương gia Đức.
Bất ngờ bị bỏ rơi, Bruce có phần thích thú trước cơ hội được suy nghĩ kỹ càng về những gì đã xảy ra từ trước đến nay. Khi Pam-Mini còn ở chung với anh, họ thường cùng ăn với các thành viên trong nhóm con gái Anh đó, và anh thấy kinh sợ sự trống rỗng trong cuộc sống của họ. Họ không đọc gì, không suy tính gì, không thăm thú gì. Ở Tây Ban Nha, gần như cả tuần họ không đi thăm Málaga hay các thị trấn nội địa mà chỉ thích la cà quanh khách sạn Anh nơi họ trọ và hai ba quán rượu Anh. Họ quá háo hức muốn gặp gỡ đàn ông, và phần lớn đều làm được, nhưng trong cả nhóm không cô nào tìm được một ai để có thể trông đợi một cách logic vào việc phát triển mối quan hệ lâu dài.
“Đây là kỳ nghỉ!” Pam-Mini kêu lên, quật nhẹ khăn ăn vào người anh. “Trong kỳ nghỉ ai lại thèm bàn luận hay đọc sách đọc vở hoặc bận tâm đến những ý tưởng sâu xa chứ?”
Rồi một sáng cô quay về khách sạn Berkeley Square, vẫn xinh đẹp và khêu gợi như trước. Cô thông báo vài tin bất ngờ. “Trưa nay tớ sẽ bay đi Palma. Một quý ông người Anh rất dễ thương tớ gặp ở quán bar.” Cô không nghĩ mình sẽ quay lại Anh, và một cô bạn có nhiệm vụ báo tin cho mẹ cô. Cô tới phòng Bruce và đứng trong ánh nắng, đôi chân trần tuyệt đẹp nổi bật dưới chiếc váy ngắn màu Đỏ. “Anh sẽ nhớ em chứ?” cô hỏi. “Khi anh là giáo sư hoặc nghị sĩ, hay một nhân vật tiếng tăm nào đó? Lần đầu tiên trên máy bay ấy? Chúa ơi, lưng em suýt gãy đấy.” Cô xoay người, nắm tay anh đẩy lên giường. “Anh sẽ nhớ chuyện này... mãi mãi,” cô thì thầm, và trong khoảng thời gian một vài phút từ biệt, cô đã hào phóng tặng anh sự đam mê nồng cháy mà không người đàn ông nào có thể quên được.
“Tạm biệt,” cô nói vọng lại từ cửa ra vào. “Anh thật tuyệt vời, một ngày nào đó em sẽ được thấy ảnh anh trên ti vi.”
Phòng anh trống trải trong hai đêm, nhưng đến đêm thứ ba Pam-Béo đến ngồi ở chân giường anh và nói, “Anh là người sâu sắc. Anh là một quý ông đích thực, Bruce ạ. Em đã quan sát anh và Pam-Mini, anh rất tôn trọng cô ấy.” Cô ngồi đó rất lâu, kể về cuộc sống của mình ở London cùng tiềm năng đã bị hạn chế một cách bi thảm của nó. “Em sẽ không bao giờ trở thành một nhân vật quan trọng,” cô nói. “Em sẽ là một bà nội trợ, chỉ thế thôi. Nhưng em sẽ là người mẹ tốt. Con cái em lớn lên sẽ không có những ý nghĩ điên rồ, vì em biết tình yêu là gì. Đó là hy sinh bản thân cho người khác - cho chồng, cho con, hay cho ngài mục sư khi ông ấy cố gắng làm điều tốt đẹp. Quan điểm sống của em khác của Pam-Mini. Em sẽ không bao giờ lợi dụng người ta. Tất nhiên, có lẽ em buộc phải như vậy vì em không xinh đẹp như cô ấy, và khi một cô gái không xinh đẹp thì cô ta chỉ có thể xoay xở đến thế thôi.”
“Em rất hấp dẫn đấy chứ,” Bruce nói. “Nếu giảm được mười ba cân thì em sẽ là người hoàn mỹ đấy, giống như Pam-Mini.”
“Anh nghĩ vậy ư? Anh nghĩ như thế thật chứ, nếu em quyết tâm?” Cô dừng giấc mơ hão huyền này lại, vì cô biết nó vô ích như thế nào, rồi nói, “Anh hay xem sách xem vở, đúng không? Bình thường anh sẽ chẳng bao giờ để mắt đến một đứa con gái như em... hay như cả Pam-Mini nữa, đúng không? Nhưng đây là kỳ nghỉ mà.”
Đứng bên ô cửa sổ nơi Pam-Mini thường đứng trong ánh nắng, đôi chân thon thả tạo thành một hình vòng cung khêu gợi, Bruce đột nhiên nhìn Pam-Béo như một con người, một cô gái khá tròn trĩnh đến từ khu vực nghèo khổ hơn của London, nguồn gốc xuất thân cho thấy có lẽ đây là kỳ nghỉ duy nhất của cô ở châu Âu. Với một thái độ pha trộn giữa tử tế và chiếu cố, anh nói, “Sao em không chuyển sang đây nhỉ?” Và cô đáp, không hề ngượng ngập trước niềm vui toát ra trong lời nói, “Được không, anh?” Và anh nói với vẻ khoa trương, “Sao lại không?”
Lời đề nghị đã mang lại những kết quả mà anh không thể thấy trước được, vì Pam-Béo là một trong số những người hiếm hoi luôn giữ được sự thanh thản và chỉ sống vì mục đích truyền sự thanh thản đó cho người khác. Cô có lối cư xử bao dung - nói cho đúng hơn, cao thượng - mà Bruce chưa từng gặp: cả ông nội lẫn ông ngoại anh đều là người nhiều tham vọng; cha mẹ anh lúc nào cũng căng thẳng trước những vấn đề gay cấn của lịch sử; Pam-Mini thì ngấu nghiến cuộc đời. Nhưng cô gái này là một nhân viên bán hàng mười tám tuổi hiểu biết sâu sắc đến nỗi mang đến cho Bruce một khái niệm mới về bản chất con người. Khi ân ái, cô như hút anh vào lòng vũ trụ vô tận, vượt lên trên nhân loại và đủ mọi thứ vặt vãnh nhỏ nhen.
Cô chỉ nghĩ cho anh. “Anh phải tiếp tục học đại học,” cô nói. “Anh có thứ quan trọng để mà đóng góp cho đời. Lạy Chúa, lãng phí nó thì sẽ là tội ác đấy.”
Anh nhận xét, “Em dùng từ hay thật,” cô đáp, “Em rất hay đi xem phim. Em nghe cách nói chuyện của Richard Burton và Laurence Harvey. Em luôn nói rằng nếu bạn không muốn thì bạn không nhất thiết phải trở thành kẻ thô lỗ.”
“Em lấy đâu ra những ý nghĩ ấy? Mẹ em à?”
“Bà bỏ trốn rồi. Uống quá nhiều. Bà ăn cắp tiền của tất cả hàng xóm láng giềng và bỏ trốn.”
“Cha em thì sao?”
“Ông chẳng bao giờ nghĩ ra được điều gì hết. Ông không phải người xấu, nhưng ông yếu đuối quá. Bây giờ em còn kiếm được nhiều tiền hơn cả những gì ông làm ra được từ trước tới nay. Em thực sự không trách mẹ vì đã bỏ đi. Chẳng dễ dàng gì đối với một người đàn bà cả đời không có lấy được một bộ quần áo mới.”
“Nhưng cách tiếp cận vấn đề hợp lý của em? Nó được ảnh hưởng từ ai?”
“Chúng em có một ông mục sư rất tốt... trong một thời gian ngắn. Ông bị lao phổi, và em tin chắc ông biết mình sắp chết. Ông muốn dạy chúng em tất cả những gì ông biết, nhưng chỉ những điều quan trọng thôi. Em thường quan sát mẹ em, cha em, và rồi ông mục sư. Lúc đó, em khoảng mười tuổi - hay mười một - và em nghĩ: Có một sự khác biệt khủng khiếp giữa người mạnh mẽ và kẻ đáng thương. Tất nhiên, cha em có thể đấm vào mũi ông mục sư. Về mặt ấy cha em là người mạnh mẽ. Nhưng giữa cha em và ông mục sư là một hố sâu ngăn cách rất lớn...” Cô ngừng lời, đưa bàn tay mũm mĩm lên xoa mặt và kết luận, “Ngay lúc đó em đã quyết định mình sẽ là người mạnh mẽ - theo nghĩa tốt đẹp của từ này.”
Càng ở lâu với cô gái rộng lượng đó, Bruce càng biết chắc chế độ của nước Anh không ổn. Một cô Pam-Béo mộc mạc, một cô Pam-Mini khôn lanh - cả hai đều bị ngăn cản không thể đạt được những gì mà ở đất nước khác có lẽ là chuyện bình thường. Một bàn tay nặng nề và gây tê liệt đè xuống người họ; đó là truyền thống, là ý thức giai cấp, là nền giáo dục thiếu sáng tạo, dù là gì đi chăng nữa thì nó cũng đòi hỏi sự mất mát nghiêm trọng. Ở Israel, hai cô Pam sẽ phục vụ trong quân đội và được hưởng một nền giáo dục thực dụng. Họ sẽ không tránh khỏi bị buộc phải sống một cách hữu ích tối đa. Tất nhiên, trong các cuộc tập trận ở sa mạc Negev, Pam-Mini sẽ vẫn thèm khát đàn ông như ở London; ở Haifa và Tel Aviv cũng có nhiều người con gái giống cô, nhưng sau khi đã ngủ với số người mà họ thấy là đủ và đưa lòng khao khát của họ trở lại cân bằng, họ sẽ tìm được chỗ đứng hợp lý và chẳng bị tổn hại gì bởi chuyện đó.
Ở Mỹ, hai cô Pamela có thể thử học đại học. Pam-Mini sẽ hư hỏng ngay trong năm thứ nhất, có thể do ma túy nhưng Pam-Béo sẽ kiên trì và phát huy trí thông minh của mình, rồi ngày nào đó cô sẽ nắm giữ một cương vị giúp cô có những đóng góp mang tính sáng tạo, có lẽ trong một lĩnh vực thậm chí bây giờ cô còn chưa nghe nói đến.
Tuy nhiên, anh vẫn có cảm tình với nhóm con gái Anh này - can đảm, hỗn hào, thiếu giáo dục nhưng có phần hào hiệp theo kiểu Churchill. Thật ra, anh nghĩ, bất cứ nhóm nào chỉ cần có một cô Pam-Béo thôi cũng đáng được tôn trọng.
Khi đã đến ngày máy bay đưa các cô gái trở lại London, Pam-Béo giữ Bruce trên giường cùng mình cho tới tận giây phút cuối cùng. Cô dùng ngón tay trỏ vẽ lên tấm thân trần trụi của anh, như thể đang dựng tấm bản đồ hạnh phúc một thời mà cô muốn ghi nhớ trong những năm sắp tới. Cô nói, “Có một chàng trai muốn cưới em. Anh ấy rất giống cha em, em nghĩ thế, và quan hệ của chúng em khó mà có được kết quả tốt đẹp, nhưng em cho rằng em sẽ không tìm được ai hơn cả. Em sẽ theo dõi tình hình của anh, Bruce ạ. Hãy hứa với em một điều. Anh sẽ không chịu thua một cách đáng khinh chứ? Anh biết đấy, nếu em thất bại, có gì mất mát đâu? Nhưng nếu anh thất bại...”
Cô òa lên khóc và dựa vào người anh thổn thức trong mấy phút. “Chúa ơi, em ước gì mọi chuyện khác đi. Em ước gì em hiểu biết. Em ước gì em được đi học.” Cô nằm im lặng một lúc, rồi nhẹ nhàng kéo anh lên người mình trong một nghi thức yêu đương nhịp nhàng, chậm rãi, kéo dài, như thể bị hút vào lòng trái đất.
Khi chia tay, cô nói một câu lạ lùng, “Những người như anh và em phải tìm nghị lực từ người khác.” Rồi cô đi mất, cô gái tròn trĩnh đã hưởng kỳ nghỉ duy nhất trước khi xây dựng cuộc sống gia đình, một gia đình thường xuyên đứng trên bờ vực của sự đổ vỡ vì thiếu tiền bạc và thiếu người bạn đời xứng đáng.
Khi mối quan hệ vui vẻ với hai cô Pamela đã qua, Yigal mới có thời gian thăm thú Torremolinos. Anh thích khu người Đức và nhiều lần dừng lại ở Brandenburger ăn bánh mì kẹp thịt. Dãy nhà chọc trời rộng lớn ở phía Đông cuối thành phố khiến anh bất ngờ, nhưng anh chủ yếu bị hấp dẫn bởi bờ biển dài vô tận mà dọc theo đó các doanh nhân địa phương đang xây những quán ăn tạm mùa hè, hàng dãy bãi dù che nắng sặc sỡ đủ sắc màu và nhà tắm dành cho khách đi bơi về. Nó thật tầm thường, xấu xí, đông đúc, ồn ào, náo nhiệt - và anh thích nó.
Anh không thích khách sạn Berkeley Square. Nó quá đậm chất Anh trong khung cảnh Tây Ban Nha, và dù đám thiếu nữ Anh xinh đẹp liên tục được đưa đến trong mỗi chuyến bay mới đều rất gợi tình, anh vẫn cảm thấy mình buộc phải hiểu về Tây Ban Nha nhiều hơn những gì căn cứ chật hẹp này cho phép.
Vì vậy anh bắt đầu lang thang quanh làng chài lâu đời, tìm kiếm một nét Địa Trung Hải nào đó nhưng chẳng thấy được gì vì anh không biết nên nhìn vào đâu. Cuối cùng anh đến khu Thụy Điển, nơi cửa hàng cửa hiệu nào cũng chỉ trưng biển bằng tiếng Scandinavia. Anh đứng lại quan sát khách sạn Northern Lights và hình dung trong vô vàn căn phòng của nó phòng nào cũng đều có một cô gái Thụy Điển đang chờ đợi. Đó chẳng phải thiên đường sao? Anh nghĩ thầm, nhưng những người Scandinavia duy nhất xuất hiện trong lúc anh đợi ở đó là một cặp vợ chồng Đan Mạch to béo cãi cọ về việc ông chồng đã hoang phí bao nhiêu đồng kroner để mua một chiếc áo len.
Anh đi dọc theo những con phố chật hẹp đông nghịt khách du lịch tháng Năm, và ít nhất một nửa số người anh gặp là các cô gái thích phiêu lưu đến từ nhiều nước châu Âu khác nhau. Thành phố này còn thú vị hơn so với những gì tấm áp phích quảng cáo hứa hẹn, anh nghĩ thầm, và chính trong lúc đang tính toán kế hoạch thuận lợi nhất để gặp gỡ một vài cô nổi bật trong số đó thì anh nhìn thấy tấm biển hiệu bắt mắt ở phía cuối một phố nhỏ: một khẩu súng Texas khổng lồ mang cái tên THE ALAMO.
Nếu nó mà cũng tệ như bộ phim ấy thì đó đúng là cái mình đang cần, anh nghĩ, len vội qua đám đông.
Nhìn qua cánh cửa mở hé, anh trông thấy một hình ảnh sẽ làm anh nhớ mãi cho đến cuối đời: một cô gái Scandinavia mặc váy ngắn, tóc màu vàng rơm, nước da sáng và đôi mắt lanh lợi. Lúc đó cô đang phục vụ bia, nhưng cô nhìn thấy anh đứng ngoài phố và mỉm cười, hàm răng trắng tạo thành hình vòng cung xinh xắn trên môi dưới. Chỉ trong một giây, anh đã biết cô là sự kết hợp hài hòa giữa sức quyến rũ không sao cưỡng lại của Pam-Mini và sự nữ tính dễ thương, vững vàng của Pam-Béo.
Như một người đàn ông tự nguyện bước vào phòng giam để gánh chịu cả cuộc đời tù ngục, anh tiến vào quán rượu nhỏ đó.
Anh chờ cho đến khi cô đã phục vụ xong các bàn, rồi nắm lấy cổ tay cô và hỏi với sự bạo dạn mà chính anh cũng không ngờ mình có, “Tên em là gì?”
“Britta. Còn tên anh?”
“Yigal. Anh từ Israel đến.”
Cô quay sang một bàn toàn lính Mỹ và giới thiệu, “Các bạn, đây là anh Yigal từ Israel tới,” và cô chủ động đặt tay vào giữa lưng anh đẩy về phía nhóm lính Mỹ rồi tiếp tục nhiệm vụ của mình.
Các anh lính trẻ rất quan tâm đến Israel và việc làm thế nào đất nước này giành được thắng lợi trong Cuộc Chiến Sáu Ngày. “Quân Ai Cập không phải là đối thủ dễ đánh bại như báo chí nói phải không?” Một anh lính người miền Nam hỏi.
“Anh có thể cá như vậy. Xét về từng cá nhân thì họ rất dũng cảm. Chỉ huy của họ...” Anh giơ ngón tay lên mũi.
“Các anh có tiếp tục đánh họ mười năm một lần không?”
“Không đâu. Sớm hay muộn thì họ cũng sẽ rút kinh nghiệm thôi. Đến lúc đó việc này sẽ là vấn đề của các bạn cũng như của chúng tôi.”
“Ô, không! Khỏi cần có thêm Việt Nam nữa.”
Họ đang chuyện trò theo cách này, thăm dò thái độ của nhau, thì Britta quay lại mang bia cho Yigal, và khi cô đặt cốc xuống trước mặt anh, Yigal có cơ hội nhìn thẳng vào mắt cô, trong lòng anh dường như có trận động đất. “Cô gái ấy là ai?” anh hỏi khi cô đã đi.
“Xin mời xếp hàng, chúng tôi bảo tất cả các chàng trai như vậy đấy. Cô ấy là người Na Uy. Cô ấy thậm chí còn dễ thương hơn vẻ bề ngoài nhiều. Và cô ấy thuộc về anh chàng ở quầy rượu.”
“Cưới chưa?”
“Sắp rồi.” Người vừa nói nhún vai, ngắm Britta một lúc, rồi hỏi, “Nhất hạng, hả?”
Trong đám lính có một người Do Thái từ Atlanta, bang Georgia, và một số điều trong câu chuyện của Yigal nhắc anh ta nhớ đến vài bức ảnh được đăng tải trên báo chí Do Thái, vậy là sau mấy phút nghiên cứu người mới đến và để ý hơn đến những gì Yigal đang nói, anh lính quê Georgia này đập bàn tay phải xuống bàn đánh đét một cái và reo, “Tớ biết cậu là ai rồi! Ê, các bạn, các bạn biết ai đây không? Đây là anh chàng đã chặn đứng sáu xe tăng Ai Cập ở con đèo đó đấy.”
Tất cả mọi người ngừng chuyện trò để nhìn anh chàng Israel, một thanh niên nhỏ nhắn mới mười tám tuổi, và qua thái độ bối rối của anh thì rõ ràng anh quả thực là người anh hùng đèo Qarash. Hàng loạt câu hỏi được đưa ra tới tấp, và anh phải mất một chút thời gian dùng cốc và gạt tàn dựng các biểu đồ trên mặt bàn.
“Ý anh là chưa tới một trăm lính Do Thái ngăn cản sáu xe tăng? Và phá hủy bốn chiếc trong số đó?”
“Chúng được ém tại những vị trí cố định,” Yigal giải thích.
“Này, Britta!” Một anh lính gọi. “Lại đây. Em có biết em đang phục vụ cho một người anh hùng quả cảm không?”
Britta bước đến bàn, nghe thuật lại những gì anh chàng này đã làm, rồi hôn lên trán anh. “Anh đã chiến đấu vì tất cả chúng ta,” cô phát biểu. “Em biết. Cha em cũng làm như vậy.”
Tại một chiếc bàn cạnh cửa ra vào, một người Mỹ từ nãy đến giờ vẫn ngồi theo dõi câu chuyện với vẻ điềm tĩnh dửng dưng chậm rãi đứng lên, như một cuộn dây đang trải ra, và lại gần chỗ Yigal. Anh ta là người da đen, trẻ, đẹp trai, để râu, ăn mặc thời trang. Đứng cao hơn Yigal, anh ta gõ nhẹ ngón tay trỏ vào anh và hỏi, “Cậu là anh chàng phá nổ xe tăng phải không?”
“Tớ là anh chàng trốn trong xe thông tin... sợ hết hồn.”
“Nhưng cậu có mặt ở đó chứ? Qarash, đúng không?”
“Tớ có mặt ở đó.”
“Nào, tớ muốn bắt tay cậu. Tên tớ là Cato. Tớ hay lui tới quán này, vì vậy chúng ta sẽ thường xuyên gặp nhau.”
Cato kéo ghế lại và dồn dập hỏi Yigal một loạt câu: Làm sao ít người như thế lại có khả năng chống cự được nhiều người như thế? Quân Do Thái có những loại súng gì? Tại sao xe tăng không đơn giản nổ máy và dẹp tan toàn bộ chiến dịch? Ông Sabra làm sao khích cho quân mình bừng bừng khí thế đến mức đủ để ngăn chặn một chiếc xe tăng?
Sau bữa tối khá lâu cuộc chuyện trò mới chấm dứt. Suốt thời gian ấy, Yigal vẫn tìm cách để mắt đến Britta, và anh càng tin chắc hơn bao giờ hết đây là người con gái đáng được anh thương yêu... trong nhiều năm tới. Vì vậy anh không chăm chú nghe khi Cato hỏi, “Cậu đang trọ ở đâu?” Không nhận được câu trả lời, anh da đen lại hỏi, “Này người anh hùng, cậu ngủ ở đâu?
“Thực ra, tớ đang tìm một chỗ nào đấy.”
“Cậu vừa tìm thấy rồi đấy, người anh hùng. Ở chỗ chúng tớ có một cái túi ngủ, và hoan nghênh cậu sử dụng nó.”
“Cậu ở chỗ nào?” Yigal hỏi.
“Khu vực tốt nhất vùng lân cận. Dưới bãi biển.”
“Tớ có thể thuê một phòng... hay cái gì đó không? Ai là chủ nhà?”
“Một anh chàng người Pháp. Anh ta và bạn gái đang ở Marốc... mua sạch cần sa. Tớ đang sử dụng giường của anh ta. Có khối chỗ. Và cả một cái túi ngủ để không nữa.”
Bằng trực giác, Yigal cảm thấy mến người da đen này và vì muốn biết rõ hơn điều gì đã khiến những người như vậy thực hiện vai trò của mình, nên anh muốn kết bạn với anh ta, nhưng ý thức trung thực bẩm sinh đòi hỏi anh phải thẳng thắn trao đổi với người lạ này. “Thật ra, cậu biết đấy, tớ không phải là người Israel thực sự. Ừm, nghĩa là, tớ đúng là người Israel, nhưng tớ còn có hộ chiếu Mỹ. Tớ học ở Detroit.”
“Này! Cậu học ở Detroit! Đám học sinh Detroit thế nào? Vụ náo loạn ầm ỹ ấy, chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Lúc đó tớ đang ở Israel. Tất nhiên, sau này tớ có nghe quan điểm của người da trắng. Nhưng khi cậu là người Do Thái...”
“Tớ thích cậu, Yigal. Tớ thực sự thích cậu đấy. Xuống dưới đó xem phòng đi.”
Khi họ đến căn hộ, Cato đẩy cửa và để lộ hai cái giường. Yigal chưa kịp hỏi câu nào, Cato đã nói, “Mọi thứ đều sạch sẽ. Không có làm tình tập thể hay chuyện gì đại loại như vậy. Đây là giường của chủ nhà. Tớ sử dụng trong lúc anh ta ở Marốc. Cái này của Joe... rồi cậu sẽ gặp anh ấy. Và trong góc đằng kia là cái túi ngủ. Nó là của cậu đấy.”
“Tớ có thể đóng góp...”
“Cậu có thể lắm chứ! Tớ giữ sổ chi tiêu, chúng ta chia đều tiền bia, thức ăn và bất cứ thứ gì khác chúng ta dùng.”
“Tớ muốn nói tiền nhà.”
“Không phải trả tiền nhà.”
Câu chuyện bị cắt ngang giữa chừng bởi một cô gái Anh tóc đen vô cùng xinh đẹp, dáng người mảnh mai và toát lên vẻ sắc sảo. Cô mở toang cửa, vứt đống túi đựng hàng xuống sàn và buông mình lên chiếc giường anh da đen vừa nói là của mình. Đá văng giày ra, cô kêu, “Em mệt lử rồi. Rót cho em một cốc gin, Cato. Bạn anh là ai đấy?”
“Đây là Yigal. Anh chàng Israel đã tiêu diệt xe tăng Ai Cập ở trên đèo đấy.”
“Có phải anh...” Cô gái nằm trên giường giơ bàn tay mảnh dẻ về phía anh, rồi ré lên thích thú và reo, “Chào mừng anh đến với cái túi ngủ! Chúng em có thể lợi dụng một người như anh đấy. Hãy giữ cái bọn châu Phi chết tiệt ấy ở đúng vị trí của chúng đi.”
Cato bật cười với cô và nói, “Monica Braham. Cô con gái thoái hóa của một nhà quý tộc Anh thoái hóa.”
Cả bọn uống rượu gin một lúc, sau đó Yigal nói tốt hơn hết anh nên đi lấy đồ của mình về, nhưng hai người kia nhất định bắt anh phải ở lại đêm đó và để mọi chuyện đến sáng. Vì vậy họ nói chuyện đến tận hai giờ sáng, về nước Anh, Vwarda, Detroit và tất cả những vấn đề cao xa của tuổi trẻ. Trước khi đi ngủ, Cato và Monica hút hai điếu cần sa nhưng không tỏ vẻ khó chịu khi Yigal nói anh không thích.
Khoảng bốn giờ sáng, anh giật mình tỉnh giấc trong chiếc túi ngủ khi nghe thấy tiếng ồn. Với tính thận trọng bằng trực giác anh cố không gây tiếng động, lo lắng chờ xem việc gì sẽ xảy ra, và trong ánh sáng lờ mờ, anh nhận ra một cặp trai gái nữa đã vào và đang chuẩn bị leo lên chiếc giường thứ hai. Với tính tò mò bẩm sinh, anh theo dõi họ cởi quần áo, và khi cô gái đứng trần truồng cách chỗ anh nằm chỉ một vài bước, anh nhói lòng nhận ra đó là Britta, cô gái Na Uy trong quán bar. Anh thất vọng đến nỗi chắc hẳn đã thở hổn hển, vì anh nghe tiếng cô thì thầm, “Joe! Em nghĩ có người nằm trong túi ngủ.”
Một người đàn ông cao lớn tiến lại gần, bật que diêm và nhìn kỹ hình người đang ngủ. “Chắc là một bạn trẻ ai đó đưa từ quán rượu về.” Britta cúi xuống nhìn gần hơn, “Đây là anh thanh niên Israel! Chắc hẳn Cato đưa anh ấy về.”
“Anh chàng chặn xe tăng ư?”
“Vâng. Em tin chắc là anh ấy.”
Que diêm tắt. Hai bóng người lùi ra xa. Và Yigal lại mở mắt, đúng lúc để nhìn thấy Britta leo lên giường.
Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1 Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1 - James Albert Michener Sáu Người Đi Khắp Thế Gian - Tập 1