I love to lose myself in other men's minds.... Books think for me.

Charles Lamb

 
 
 
 
 
Tác giả: Knut Hamsun
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: Markens Grøde
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 34
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1219 / 19
Cập nhật: 2017-04-18 13:32:51 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương XI
hời gian vẫn trôi; đông qua; xuân lại tới.
Một hôm Isak phải xuống làng. Để làm gì? “Không, tôi không biết,” anh nói. Nhưng anh cọ rửa sạch sẽ cỗ xe, gắn cái ghế ngồi vào, rồi đánh xe đi, mang theo nhiều đồ ăn thức uống nữa, sao không chứ? Mang xuống cho Eleseus ở Storborg. Không bao giờ có một con ngựa rời khỏi Sellanraa mà không có thứ gì đó để mang xuống cho Eleseus.
Việc Isak đánh xe xuống qua những truông hoang không phải là một sự kiện bình thường, vì anh hiếm khi đi, đa số là Sivert đi thay cho anh. Ở hai nông trại gần nhất ở mé dưới, những người trong trại ra đứng ở cửa lều và bảo nhau: “Đó chính là Isak; không biết hôm nay ông ta xuống làm gì nhỉ?” Và khi anh xuống tới nông trại Maaneland, Barbro đang ngồi cạnh ô cửa sổ lắp kính với một em bé trên tay. Cô trông thấy anh và nói: “Đó chính là Isak!”
Anh xuống tới Storborg và dừng xe lại. “Xùy! Có Eleseus ở nhà không?”
Eleseus bước ra. Phải, cậu đang ở nhà; chưa lên đường, nhưng cũng sắp thực hiện một chuyến đi mùa xuân xuống mấy thị trấn miền nam.
“Đây là mấy thứ mẹ con gửi xuống,” cha cậu nói. “Không biết là gì nữa, nhưng ta cho là không có gì nhiều lắm.”
Eleseus nhận chúng, cám ơn và hỏi:
“Con cho là không có một lá thư hay thứ gì đại loại?”
“Có,” Isak đáp, lần tìm trong mấy cái túi. Ta nghĩ họ nói là của bé Rebecca gửi.”
Elesues nhận thư, đó là thứ mà cậu mong chờ. Cảm thấy nó khá dày và nói với cha cậu:
“Chà, thật may là cha tới đúng lúc, vì hai hôm nữa là con lên đường. Nếu cha muốn ở lại một ít lâu, cha có thể dùng cái rương của con để xuống làng.”
Isak xuống xe và cột con ngựa, rồi đi dạo một vòng quanh mảnh đất. Anh chàng Andresen nhỏ thó không phải là một người canh tác đất đai tồi khi ở lại giúp việc cho Eleseus; đúng là anh ta có sự trợ giúp của Sivert ở Sellanraa cùng với mấy con ngựa, nhưng anh ta đã tự mình làm được khá nhiều việc, tháo nước các đầm lầy, và tự thuê thêm một người để lát đá những cái mương. Năm đó, và cả năm kế tiếp, có thể Storborg không cần phải mua cỏ khô, nếu Eleseus muốn nuôi một con ngựa cho riêng mình. Nhờ có Andresen và cách thức anh ta làm việc.
Một lúc sau, Eleseus gọi ra rằng cậu đã chuẩn bị xong hành lý. Xong cho cả chính cậu nữa, qua vẻ ngoài của cậu: cậu mặc một bộ vét xanh đẹp đẽ, cổ cồn trắng, đi giày cao su, và một cây ba toong. Phải, cậu sẽ phải chờ tàu hai ngày, nhưng không quan trọng, cậu phải chờ khi xuống làng, chờ ở đây hay ở đó thì cũng như nhau cả.
Thế là hai cha con đánh xe đi. Andresen đứng ở cửa tiệm nhìn theo họ và chúc một chuyến đi thú vị.
Isak chỉ lo cho cậu con trai và muốn cậu ngồi ở ghế sau. Nhưng Eleseus không chịu và lên ngồi bên cạnh anh. Họ tới Breidablik, và đột nhiên Eleseus sực nhớ ra đã quên thứ gì đó.
“Xùy! Gì thế?” Isak hỏi.
Ồ, cây dù của cậu! Eleseus đã bỏ quên cây dù; nhưng cậu không thể giải thích mọi thứ về nó nên chỉ nói: “Không sao, cứ đi tiếp thôi cha.”
“Con không muốn quay lại à?”
“Không, đi tiếp đi.”
Nhưng thật là phiền toái, làm thế nào mà cậu bỏ quên nó chứ? Không có gì phải vội, dù cha cậu đang chờ ở đó. Được, tốt hơn hết cậu sẽ mua một cây dù mới ở Trondhjem khi nào tới đó. Việc cậu có một hoặc hai cây dù không quan trọng. Nhưng chỉ vì chuyện đó mà Eleseus thấy không vui; đến độ cậu nhảy xuống và đi bộ phía sau.
Họ hầu như không thể trò chuyện nhiều trên đường sau đó, khi mỗi lần như thế Isak phải quay đầu lại và nói qua vai mình. Isak hỏi: “Con sẽ đi bao lâu?”
Eleseus đáp: “Ồ, khoảng ba tuần, có lẽ, hoặc một tháng ở ngoài.”
Cha cậu ngạc nhiên về việc những thị dân làm thế nào để không đi lạc và không bao giờ tìm thấy đường về ở những thị trấn lớn. Nhưng Eleseus đáp, về chuyện đó, cậu đã quen sống trong các thị trấn và chưa bao giờ lạc đường, chưa hề trong đời cậu.
Isak nghĩ thật là tệ hại nếu cứ ngồi đó một mình, và gọi: “Nè, con lên đây và đánh xe một lúc; cha thấy mệt.”
Eleseus không muốn cha cậu bị mệt nên trèo lên ngồi cạnh anh trở lại. Nhưng trước hết họ phải ăn gì đó, từ cái túi nhét đầy thức ăn của Isak. Sau đó họ lại tiếp tục đi.
Họ xuống tới hai mảnh đất xa nhất ở mé dưới; dễ thấy rằng giờ họ đã gần tới làng; cả hai ngôi nhà đều có màn cửa sổ trắng treo trong những ô cửa sổ nhỏ hướng về phía đường cái, và có một cái cột cờ trên nóc vựa cỏ khô để treo cờ vào ngày Quốc khánh. “Đó chính là Isak,” những người dân của hai nông trại mới nói khi chiếc xe đi ngang qua.
Cuối cùng Eleseus cũng dẹp bỏ những suy nghĩ về chuyện riêng của mình và bản thân quý báu của mình để hỏi: “Hôm nay cha đánh xe xuống chi vậy?”
“Ừm,” cha cậu đáp. “Hôm nay không có gì nhiều. Nhưng nói cho cùng, Eleseus sắp đi xa, có lẽ nói cho cậu biết cũng không có hại gì. “Cha xuống là vì Jensine, con gái của ông thợ rèn,” anh nói; phải, anh đã thú nhận khá nhiều.
“Sao cha phải tự đi xuống vì chuyện đó? Sivert không đi được hay sao?” Eleseus hỏi. Phải, Eleseus không biết gì hơn ngoài việc nghĩ rằng Sivert nên xuống nhà ông thợ ràn để đón Jensine, sau khi cô ta đã nghĩ quá nhiều tới bản thân khi rời khỏi Sellanraa!
Không, mọi thứ đều lệch lạc với việc phơi cỏ năm trước. Inger đã làm hết khả năng như lời nàng hứa. Leopoldine cũng góp một tay, chưa kể tới việc có một cái máy cào cỏ dùng ngựa kéo. Nhưng phơi cỏ là một công việc nặng nhọc, và các đồng cỏ quá lớn. Sellanraa giờ là một nông trại lớn, và đám phụ nữ còn có những việc khác phải coi sóc ngoài việc phơi cỏ: cả một đàn gia súc, các bữa ăn, giặt giũ đồ đạc, nướng bánh mì; cả hai mẹ con đã phải làm hết sức. Isak sẽ không để cho một mùa hè như thế xảy ra nữa; anh quyết định ngay rằng Jensine nên trở lại nếu có thể đón cô bé được. Cả Inger cũng không phản đối lời nào về chuyện đó; nàng đã bình tâm tĩnh trí lại, và bảo: “Phải, cứ làm những gì anh cho là tốt nhất.” Phải, giờ đây Inger đã suy nghĩ hợp tình hợp lý hơn; bình tâm tĩnh trí lại sau một cuộc đam mê không phải là chuyện nhỏ. Inger không còn tràn đầy máu nóng cần được phóng thích, không còn đầy những đam mê cuồng dại cần đặt vào vòng vòng kiểm soát nữa, mùa đông đã làm nàng nguội lại; giờ đây trong nàng không còn gì ngoài sự ấm áp cần phải có. Nàng đã trở nên cứng cáp hơn, tốt đẹp và trang nghiêm. Một phụ nữ tuyệt vời trong việc giữ gìn, tránh khỏi sự tàn tạ dần dà; là vì nàng bừng nở muộn. Ai có thể nói được mọi sự sẽ tới đâu? Không việc gì xảy đến từ một nguyên do đơn lẻ mà từ rất nhiều nguyên do. Không phải Inger chính là người nổi tiếng nhất đối với vợ của ông thợ rèn hay sao? Bất kỳ bà vợ của một ông thợ rèn nào có thể nói gì chống lại nàng? Với cái môi sứt của mình, nàng từng bị đối xử tệ hại khi còn tuổi thanh xuân, và sau đó, đã bị giam trong bầu không khí giả tạo và đánh mất sáu năm trong lứa tuổi mùa hè của nàng; với sức sống vẫn còn bên trong nàng, làm sao mùa thu của đời nàng không mang tới một sự tăng trưởng sai lầm? Inger tốt hơn hẳn những bà vợ của các ông thợ rèn – hơi hư hỏng chút chút, hơi lệch lạc chút chút, nhưng có bản chất tốt, có bản chất thông minh… phải…
Hai cha con đi xuống, họ tới quán trọ của Brede Olsen và đưa con ngựa vào chuồng. Lúc này trời đã xế. Họ tự bước vào nhà.
Brede Olsen đã thuê lại ngôi nhà này; trước kia nó là một ngôi nhà phụ, thuộc về ông chủ tiệm tạp hóa, nhưng giờ đã được nâng cấp với hai phòng khách và hai phòng ngủ; không có phòng nào quá tệ, và còn trong tình trạng tốt. Những khách tới uống cà phê và thôn dân quanh vùng đáp tàu hơi nước thường ghé vào đó ở trọ.
Dường như Brede đã tới hồi may mắn, đã tìm ra một điều gì đó phù hợp với y, và y nên cám ơn vợ mình vì điều đó. Chính vợ y là người đã nảy ra ý tưởng về quán cà phê và nhà trọ vào cái hôm chị ta ngồi bán cà phê trong cuộc bán đấu giá ở Breidablik; buôn bán thứ gì đó thật là một việc thú vị, cảm nhận những đồng tiền nằm trong những ngón tay của mình. Từ hồi xuống đây họ đã xoay xở tốt, bán cà phê một cách nghiêm chỉnh, và mang đến một chỗ trọ qua đêm cho nhiều người dân không còn nơi nào khác để đặt đầu lên gối. Vợ của Brede là một phúc lành cho những kẻ du hành. Dĩ nhiên chị ta có một trợ thủ đắc lực, đó là Katrine, con gái chị ta, giờ đã là một cô gái lớn, thông minh trong công việc hầu bàn – dù chuyện đó chỉ kéo dài một thời gian, tất nhiên; chẳng bao lâu nữa cô bé Katrine phải có công việc gì đó tốt hơn là hầu bàn cho mọi người trong nhà cha mẹ mình. Nhưng hiện tại họ kiếm tiền khá ổn, và đó là điều chủ yếu. Khởi đầu đã đầy may mắn, và có thể tốt hơn nữa nếu ông chủ quán không hết bánh ngọt và bánh quy để phục vụ kèm với cà phê; ở đây ngày nào cũng là ngày tiệc khi khách khứa gọi bánh kèm với cà phê, những thứ bánh quy và bánh ngọt! Đó là một bài học cho ông chủ quán để tích trữ đủ nguồn hàng vào lần khác.
Gia đình này, và bản thân Brede, đã xoay xở để sống tốt nhất dựa vào tiền kiếm được. Khá nhiều bữa ăn chẳng có gì ngoài cà phê và bánh cũ còn lại, nhưng chúng giữ cho họ sống sót, và tạo cho lũ trẻ một vẻ ngoài mảnh dẻ, khá thanh tú. Không phải ai cũng được ăn bánh với cà phê, thôn dân bảo thế. Phải, có vẻ như Brede đang sống ổn; thậm chí họ còn nuôi được một con chó. Nó chạy quanh quẩn để xin ăn những khách hàng, kiếm được đôi chút ở nơi này nơi khác và trở nên béo tốt. Một con chó béo tốt trong nhà là một cách quảng cáo rất ăn khách cho một căn nhà trọ; nó nói lên sự ăn uống ngon lành ở bất kỳ nơi đâu.
Brede là đức ông chồng, là người cha trong nhà, và ngoài vị trí đó còn có nhiều vị trí khác. Trước kia y từng là trợ lý cho ngài Lensmand, và có nhiều việc để làm trong một thời gian. Không may là cô con gái Barbro của y đã có xích mích với Lensmand phu nhân hồi mùa thu năm ngoái, về một chuyện nhỏ nhặt, không đâu – thật thế, nếu nói ra sự thật: chỉ vì một con bọ chét; và bản thân Brede cũng bị thất sủng từ dạo đó. Nhưng Brede xem chuyện đó không phải là một tổn thất lớn, nói cho cùng; hiện giờ có những gia đình khác tìm công việc cho y để chọc tức bà vợ của ngài Lensmand; y thường được nhờ làm việc này việc khác, chẳng hạn đánh xe cho ông bác sĩ, còn về phần ông cha xứ, họ rất vui lòng cho gọi Brede mỗi khi cần giết thịt một con heo, và còn nhiều nữa – chính Brede nói thế.
Nhưng với tất cả những điều đó, đôi khi cũng có những thời điểm khó khăn trong ngôi nhà của Brede; không phải cả gia đình đều béo tốt và được ăn uống đầy đủ như con chó. Tuy nhiên, xin ngợi ca Trời đất, Brede không phải là một người hay chuốc lấy những phiền não vào lòng. “Lũ trẻ ở đây lớn lên từng ngày,” y nói, dù về vấn đề đó, luôn luôn có những đứa bé mới chào đời để chiếm chỗ của chúng. Những đứa đã trưởng thành và vào đời có thể tự lo cho chúng, và thỉnh thoảng gửi về nhà chút đỉnh. Có Barbro đã lấy chồng ở Maaneland, và Helge đã ra làm việc ở trại cá trích; chúng thường gửi về nhà tiền mặt hoặc những thứ có giá trị tiền bạc khi nào có thể; phải, ngay cả Katrine, đang làm hầu bàn ở nhà, cũng xoay xở cách nào đó, thật lạ lùng, để nhét vào tay cha nó một tờ giấy bạc năm Kroner vào mùa đông năm ngoái, khi mọi chuyện có vẻ cực kỳ tồi tệ. “Con là một cô gái ngoan,” y nói, và không bao giờ hỏi con bé lấy từ đâu ra số tiền đó, hay để làm gì. Phải, cách thức là như thế! Con cái có tấm lòng nghĩ tới cha mẹ chúng và giúp đỡ họ vào những khi túng thiếu!
Brede không hoàn toàn hài lòng với thằng Helge con trai y về chuyện đó; y thường phát biểu khi đứng trong tiệm với một nhóm nhỏ bao quanh, đưa ra những lý thuyết về con cái và bổn phận của chúng đối với cha mẹ. “Nào, cứ nhìn thằng Helge con trai của tôi xem; nếu nó hút vài điếu thuốc, hay thỉnh thoảng nhấp một ngụm rượu, tôi không có gì phản đối về điều đó, tất cả chúng ta đều có một thời tuổi trẻ. Nhưng sẽ không đúng khi cứ gửi hết lá thư này sang lá thư nọ về nhà nhưng chẳng có gì ngoài những câu chữ và lời cầu chúc. Khiến cho mẹ mình phải khóc là điều không đúng. Đó là một con đường sai lầm đối với một cậu con trai. Vào thời trước, mọi chuyện khác hẳn. Con cái vừa lớn lên đã đi làm việc và bắt đầu gửi về nhà một ít để giúp đỡ. Và chuyện đó hoàn toàn đúng đắn. Chẳng phải đầu tiên cha mẹ chúng đã sinh chúng ra dưới ngực họ, và đổ mồ hôi nước mắt để nuôi chúng lớn khôn hay sao? Thế rồi chúng quên hết cả!”
Dường như Helge đã nghe thấy lời diễn thuyết của cha mình, vì sau đó cậu đã gửi về một lá thứ có kèm theo tiền bên trong – đúng năm mươi Kroner. Và gia đình Brede trải qua một thời gian vui vẻ; phải, trong cơn tiêu pha bất tận của mình, họ mua cả thịt và cá cho bữa tối, và một cái đèn trần nhiều ngọn để treo trên trần nhà của căn phòng tốt nhất.
Theo cách nào đó, họ đã xoay xở tốt, và họ còn có thể đòi hỏi thêm gì nữa? Gia đình Brede, họ vẫn sống, chỉ vừa đủ sống, nhưng không có những nỗi lo sợ lớn. Họ còn có thể ao ước gì hơn?
“Đây thật sự là những vị khách!” Brede nói, dẫn đường Isak và Eleseus vào căn phòng có cái đèn trần mới. “Và tôi không bao giờ nghĩ sẽ được gặp. Isak, anh chưa bao giờ rời khỏi nhà cả, phải không?”
“Không, chỉ tới nhà ông thợ rèn có chút việc, thế thôi.”
“Thế ư, còn đây là Eleseus, lại đi xuống miền nam à?”
Eleseus đã quen với những khách sạn; cậu tự nhiên như ở nhà, treo áo khoác và gậy lên tường và gọi cà phê; còn về chuyện thức ăn, cha cậu đã có các thứ trong một cái giỏ. Katrine bưng cà phê vào.
“Trả tiền à? Tôi không muốn nghe tới chuyện đó,” Brede nói. “Tôi đã ăn ở Sellanraa nhiều lần; còn về phần Eleseus, tôi vẫn còn nợ cậu ấy. Đừng cầm nó, Katrine.” Nhưng Eleseus vẫn trả tiền, moi cái ví ra và thanh toán số tiền, thêm hai mươi hào tiền boa; cậu không thích lôi thôi.
Isak đi tới nhà ông thợ rèn, còn Eleseus vẫn ở nguyên tại chỗ.
Cậu nói đôi lời với Katrine theo phép lịch sự, nhưng không nhiều hơn mức cần thiết; thà cậu trò chuyện với cha mình còn hơn. Không, Eleseus không quan tâm tới những người đàn bà; đã một lần bị họ làm cho khiếp hãi, có thể nói thế, và giờ đây không chú ý tới họ nữa. Cậu không còn sở thích gì trong chuyện đó, và thấy giờ đây mình đã hoàn toàn thoát khỏi nó. Một con người lạ lùng không thể sống trong chốn hoang vu; một quý ông với đôi bàn tay thư sinh trắng trẻo, và ý thức được sự lộng lẫy của một người phụ nữ, những chiếc gậy ba toong, những cây dù và những đôi giày cao su. Đã bị làm cho khiếp sợ, và đã đổi thay, không hiểu vì sao vẫn là một người đàn ông chưa vợ. Thậm chí môi trên của cậu chưa có nét hằn thô bạo nào của tuổi trưởng thành. Song có thể chàng trai này đã khởi đầu khá ổn, xuất thân từ thành phần tốt, nhưng rồi sau đó lại bị chìm trong một bầu không khí giả tạo, và bị làm cho méo mó, lệch lạc đi? Giá như cậu làm việc thật chăm chỉ trong một văn phòng, một cửa tiệm, toàn bộ tính cách của cậu có mất đi theo cách đó hay không? Phải, có lẽ là như thế. Dù sao đi nữa, lúc này cậu đang ở đây, dễ dãi và lạnh nhạt, hơi yếu mệt, lơ là, đi càng lúc càng xa khỏi con đường. Cậu có thể ganh tỵ với mọi người quen biết ở chốn rừng hoang, nhưng thậm chí không còn sức để làm điều đó.
Katrine đã quen nói đùa với khách hàng của mình, cô hỏi một cách trêu cợt rằng có phải cậu lại lên đường tới thăm người yêu ở miền nam hay không.
“Tôi có nhiều chuyện khác phải nghĩ tới,” Eleseus đáp. “Tôi đi để làm ăn, mở ra những mối liên hệ mới.”
“Nếu không còn việc gì thì tốt hơn con nên ra ngoài thôi, Katrine,” cha cô quở trách. Ồ, Brede Olsen rất mực tôn trọng Eleseus, vì cậu rất khả kính. Và y có thể yên ổn, nếu khôn ngoan một chút, theo cái cách y nợ tiền ở Storborg, và lúc này vị chủ nợ đang ở trước mặt y. Còn Eleseus? Chà, toàn bộ những vẻ tôn kính chiều chuộng này khiến cậu rất hài lòng, và cậu tỏ ra tử tế hòa nhã để đáp lại; gọi đùa Brede là “ngài thân mến của tôi,” và cứ tiếp tục theo cách đó. Cậu nhắc tới việc đã để quên cây dù: “Đúng lúc chúng tôi đi ngang qua Breidablik, tôi mới nhớ tới cây dù; đã bỏ quên nó lại.”
Brede hỏi: “Có lẽ tối nay cậu sẽ sang cái quán nhỏ của tôi để uống chút gì chứ?”
Eleseus đáp: “Phải, có thể, nếu chỉ có mình tôi. Nhưng còn có cha tôi ở đây.”
Brede thấy vui vẻ trong bụng nên tiếp tục cà riềng cà tỏi: “Ngày mốt có một anh chàng ghé qua đây trên đường sang Mỹ.”
“Đã về thăm nhà, ý ông là thế?”
“Phải. Anh ta ở mé trên làng. Đã đi xa nhiều năm, và về thăm nhà vào mùa đông. Cái rương của anh ta đã được mang xuống đây trước bằng xe ngựa. Một cái rương cực đẹp.”
“Bản thân tôi từng nghĩ tới việc sang Mỹ một hai lần,” Eleseus thành thật nói.
“Cậu à?” Brede la lên. “Sao, chắc chắn là những người như cậu không cần phải đi theo con đường đó!”
“Chà, tôi không nghĩ tới việc sang đó sống mãi mãi. Nhưng hiện giờ tôi đã đi du lịch rất nhiều nơi rồi, tôi cũng nên làm một chuyến sang đó.”
“Phải, dĩ nhiên, tại sao không? Và họ bảo ở Mỹ có cả đống tiền của và phương tiện. Cái anh chàng mà tôi nói lúc nãy, anh ta đã trả khối tiền cho những tiệc tùng lễ lạc suốt mùa đông vừa rồi, và tới đây nói với tôi, ‘Hãy cho chúng tôi ít cà phê, một nồi đầy, và tất cả số bánh ông có.’ Cậu muốn xem cái rương của anh ta không?”
Họ cùng ra hành lang để nhìn cái rương. Một vật diệu kỳ để ngắm nhìn trên quả đất, mọi góc cạnh đều sáng chóe những kim loại, móc cài và dây buộc, và có tới ba cái nắp, chưa kể tới một cái ổ khóa.
“Để chống trộm,” Brede nói, như thể bản thân y đã thử qua nó.
Họ quay lại phòng, nhưng Eleseus trở nên trầm tư. Cái gã người Mỹ ở mạn trên làng này đã hơn hẳn cậu; cậu chẳng là gì bên cạnh một người như thế. Đi ra ngoài trong những chuyến du hành như bất kỳ một quan chức cấp cao nào; phải, Brede nhặng xị lên về anh ta cũng là lẽ tự nhiên thôi. Eleseus gọi thêm cà phê, và cũng cố sắm vai một người giàu có; gọi bánh kèm theo cà phê và cho con chó ăn – và trong suốt thời gian đó cảm thấy mình chẳng có chút giá trị gì, vô cùng chán nản. Cái rương của cậu có là gì bên cạnh vật kỳ diệu ngoài kia? Nó nằm đó, bằng vải đen với các góc đã xác xơ mòn rách; một cái túi xách, không hơn – chà, nhưng hãy đợi đấy! Cậu sẽ mua một cái rương khi tới các thị trấn, nó phải là một vật tuyệt vời, chỉ cần chờ đấy!
“Thật đáng tiếc khi cho con chó ăn như thế,” Brede nói.
Và Eleseus cảm thấy khá hơn với câu nói đó, lại sẵn sàng khoe mẽ. “Thật đáng ngạc nhiên khi một con vật có thể béo đến thế,” cậu nói.
Ý nghĩ này nối tiếp ý nghĩ kia: Eleseus cắt ngang cuộc chuyện trò với Brede và đi ra chuồng ngựa để thăm con ngựa. Và ở đó, cậu móc ra khỏi túi một lá thư và mở nó ra. Trước đó, cậu đã cất nó ngay vào túi, không bận tâm tới việc xem số tiền trong đó là bao nhiêu; cậu từng nhận nhiều lá thư nhà loại đó trước đây, và luôn có một số giấy bạc bên trong – một thứ giúp cho cậu sống trên đường. Gì thế này? Một tờ giấy xám khổ to nguệch ngoạc đầy những chữ: bé Rebecca viết cho anh trai Eleseus của nó, và vài câu của mẹ cậu. Còn gì khác không? Không có gì khác. Không một đồng xu.
Mẹ cậu viết rằng bây giờ bà không thể hỏi xin tiền của cha cậu thêm nữa, vì chẳng còn lại gì nhiều lắm từ tất cả khoản tiền họ bán cái mỏ đồng lần đó; tiền đã được dùng để mua Storborg, và trả cho tất cả những thứ hàng hóa sau đó, cả những cuộc du hành của Eleseus nữa. Cậu phải cố tự mà xoay xở lần này, vì số tiền còn lại phải dành cho em trai và hai em gái của cậu, không thể không có chút gì cho chúng. Và một chuyến đi vui thú, và mẹ thương yêu của con.
Không có tiền.
Bản thân Eleseus không đủ tiền chi dụng cho mình; cậu đã vét sạch thùng tiền ở Storborg, và cũng chẳng nhiều nhặn gì. Ồ, nhưng cậu thật là ngốc khi đã gửi số tiền đó cho những nhà buôn ở Bergen để đặt cọc; không cần phải vội làm chuyện đó; lẽ ra cậu nên gác lại khoản thanh toán đó. Tất nhiên, lẽ ra cậu nên mở lá thư ra trước khi bắt đầu những tiêu xài; lẽ ra cậu có thể tiết kiệm được trong chuyến đi xuống làng với cái rương khốn khổ của cậu các thứ. Và ở đây cậu đã…
Cha cậu quay về từ nhà ông thợ rèn sau khi giải quyết xong công chuyện ở đó; Jensine sẽ quay lại với anh vào sáng hôm sau. Và Jensine, bạn thấy đó, đã từng hoàn toàn trái ngược và khó mà thuyết phục, nhưng lần này đã ngay lập tức nhận ra rằng ở Sellanraa họ đang cần người giúp đỡ trong mùa hè, và sẵn sàng tới đó. Một lần nữa, đó là cách làm đúng đắn.
Trong lúc cha cậu nói, Eleseus ngồi ngẫm nghĩ về những việc của riêng mình. Cậu chỉ cho cha mình thấy cái rương của người Mỹ, và bảo: “Con chỉ ước gì được đi tới nơi mà từ đó cái rương này đã đến.”
Và cha cậu đáp: “Phải, có lẽ việc đó cũng không tệ lắm.”
Sáng hôm sau Isak chuẩn bị lên đường quay trở về nhà; lấy thức ăn, thắng ngựa vào xe và đánh xe qua nhà ông thợ rèn để đón Jensine và hành lý của cô. Eleseus đứng nhìn theo họ khi họ ra đi; và khi họ đã khuất dạng sau rừng, cậu trả tiền ở trọ, và mọi thứ xong xuôi. “Cô có thể để cái rương của tôi ở đây cho tới khi tôi quay lại,” cậu nói với Katrine, rồi rời quán trọ.
Eleseus đi đâu? Chỉ còn một nơi để đi; cậu quay trở lại, trở về nhà. Vì thế cậu lại đi theo con đường ngược lên những ngọn đồi, thận trọng không tới gần cha cậu và Jensine quá để họ không nhìn thấy cậu. Tiếp tục bước đi. Lúc này cậu bắt đầu ghen ghét với mọi người ở chốn rừng hoang.
Eleseus thật đáng thương, cậu đã đổi thay.
Cậu có tiếp tục buôn bán ở Storborg hay không? Nó đã vậy rồi; không có gì để gây dựng sự nghiệp ở đó, và Eleseus đã đi ra ngoài quá nhiều, thực hiện những chuyến đi mua bán thú vị để mở rộng những mối liên hệ, và nó tốn kém quá nhiều; cậu không đi một cách tiết kiệm. “Việc này chả có nghĩa lý gì cả,” Eleseus nói, và đưa ra hai mươi hào khi cậu có thể tiết kiệm được mười hào. Việc buôn bán không thể chống đỡ nổi cho một người có cách tiêu xài phung phí như cậu, cậu phải nhận thêm tiền trợ cấp ở nhà. Ở Storborg cũng có một nông trại, với khoai tây, lúa mạch và cỏ khô đủ dùng cho chính nó, nhưng tất cả những thứ cần dùng khác phải đến từ Sellanraa. Nào phải chỉ thế thôi. Sivert phải chở các thứ hàng hóa từ tàu hơi nước cho anh cậu miễn phí. Và phải chăng chỉ có thế? Mẹ cậu phải bòn rút tiền của cha cậu để chi trả cho những chuyến đi của cậu. Nhưng phải chăng tất cả chỉ có thế?
Điều tệ hại nhất sắp tới rồi.
Eleseus điều hành công việc kinh doanh của mình như một gã ngốc. Cậu thỏa mãn khi dân chúng từ dưới làng lên mua hàng ở Storborg, vì vậy khi được đề nghị cậu sẵn lòng cho họ mua chịu ngay; và khi chuyện này được lan truyền ra, ngày càng có nhiều người tới mua chịu. Toàn bộ đi dần tới chỗ tiêu tan hủy hoại. Eleseus là một người dễ tính, và cứ sống theo bản tính đó; cửa tiệm trống rỗng rồi đầy trở lại. Tất cả đều phải tốn tiền. Và ai trả khoản đó? Cha cậu.
Thoạt tiên, mẹ cậu là một phát ngôn viên trung thành của cậu về mọi mặt. Eleseus là một bộ óc thông minh của gia đình; họ phải giúp cậu đi lên và cho cậu một bước khởi đầu; rồi cứ nghĩ xem cậu đã mua được Storborg rẻ như thế nào, nói thẳng ngay ra số tiền cậu sẽ trả để có nó! Khi cha cậu nghĩ rằng theo cách nào đó công việc làm ăn đã đi sai đường, chỉ là một sự ngu xuẩn, mẹ cậu bênh vực cậu: “Làm thế nào anh có thể đứng đó và nói một điều như thế chứ?” Phải, bà đã trách móc cha cậu về việc sử dụng những lời lẽ như thế đối với con trai của mình; có lẽ Isak đã quên đi vị trí của mình khi nói thế về Eleseus.
Vì bạn thấy đó, bản thân mẹ cậu đã từng ra ngoài thế giới; bà hiểu việc sống trong chốn rừng hoang khó khăn đến thế nào đối với Eleseus, vốn đã quen với những thứ tốt đẹp hơn, quen đi lại trong xã hội, và không có ai cùng đẳng cấp gần bên cạnh. Cậu đã liều lĩnh quá mức trong những giao dịch với mọi người, trong số đó chẳng có ai tốt lành cả; nhưng ngay cả khi đó, cậu không hề có toan tính xấu xa nào về việc ăn tàn phá hại cha mẹ mình, mà chỉ đơn thuần do lòng tốt và bản tính cao thượng; cách sống của cậu là giúp cho những người không tốt đẹp và cao quý như cậu. Sao chứ, không phải cậu là người duy nhất trong vùng dùng những chiếc khăn tay trắng được thường xuyên giặt sạch hay sao? Khi mọi người đến với cậu một cách tin tưởng và xin mua chịu, nói cho cùng, nếu cậu nói “Không”, họ có thể hiểu sai về cậu, như thể cậu không phải là con người cao quý mà họ đã nghĩ. Ngoài ra cậu thấy có một bổn phận nhất định đối với những người quen biết, với tư cách là một người lớn lên trong thị trấn, một thiên tài trong tất cả bọn họ.
Phải, mẹ cậu đã in trí tất cả những điều ấy trong đầu.
Nhưng cha cậu, không bao giờ hiểu chút xíu gì về điều đó, một hôm đã làm cho mẹ cậu sáng mắt ra, và bảo:
“Cô nhìn đây. Đây là tất cả những gì còn lại của số tiền bán khu mỏ.”
“Tất cả chỉ có thế sao?” Bà nói. “Thế số kia đi đâu?”
“Eleseus, nó đã dùng số còn lại.”
Và bà đã vỗ hai tay vào nhau khi nghe nói thế, tuyên bố rằng đã tới lúc Eleseus bắt đầu dùng tới trí thông minh của cậu.
Eleseus tội nghiệp, tất cả đã kết thúc và bị tiêu phí hết. Có lẽ sẽ tốt hơn nếu cậu vẫn ở lại làm việc trên mảnh đất trong suốt thời gian đó, nhưng giờ đây cậu là một thanh niên đã học cách viết và sử dụng những ngôn từ; trong cậu không có sự kềm giữ, không một chiều sâu nào. Với tất cả những điều đó, cậu vẫn không phải là một con quỷ xấu xa. Eleseus là một kẻ không có tình yêu, không tham vọng, hầu như không có gì cả, thậm chí một điều xấu ở bất kỳ chiều kích nào.
Có một vận số không may, tệ hại nào đó ở chàng thanh niên này, như thể một thứ gì đó đã bị thối rửa dần từ bên trong con người cậu. Viên kỹ sư đến từ thị trấn đó, một người tốt – có lẽ sẽ tốt hơn, nếu ông ta không phát hiện ra chàng trai hồi cậu còn bé và mang cậu tới đó để biến cậu thành như thế này; đứa bé đó đã đánh mất cội rễ của mình, và do đó đã gánh chịu khổ đau. Tất cả những gì cậu quay sang bây giờ chỉ dẫn tới một điều gì đó nung nấu trong lòng cậu, một cái gì đó tối tăm chống lại ánh sáng…
Eleseus đi, đi mãi. Hai người trong cỗ xe ngựa ở phía trước đã đi ngang qua Storborg. Eleseus đi vòng một đoạn xa, và cả cậu cũng đi qua nó; cậu sẽ làm gì ở đó, ở nhà cậu, ở cái trạm mua bán và cửa tiệm của cậu? Hai người đi xe ngựa về tới Sellanraa lúc màn đêm vừa buông xuống; Eleseus theo sát gót họ. Thấy Sivert bước ra sân, hoàn toàn kinh ngạc khi gặp lại Jensine, cả hai bắt tay nhau và cười rộ một chút, rồi Sivert tháo dây cương ra và dắt con ngựa vào chuồng.
Eleseus mạo hiểm tới gần hơn; niềm kiêu hãnh của gia đình, cậu tới gần thêm chút nữa. Không đi hiên ngang, mà lén lút; cậu tới gặp Sivert trong chuồng ngựa. “Anh đây mà,” cậu nói.
“Sao, cả anh nữa à?” Sivert nói, một lần nữa cực kỳ kinh ngạc.
Hai anh em bắt đầu lặng lẽ trò chuyện với nhau; về việc Sivert nhờ mẹ cậu tìm giùm một ít tiền; một khoản cuối cùng, khoản tiền cho một chuyến đi. Mọi thứ không thể tiếp diễn theo cách này; Eleseus đã mệt mỏi với nó; đã suy nghĩ về nó khá lâu, và cậu phải lên đường ngay đêm nay; một chuyến đi dài, sang Mỹ, và xuất phát ngay tối nay.
“Sang Mỹ à?” Sivert la lên.
“Suỵt! Anh đã nghĩ tới việc này lâu rồi, và em phải nói làm sao để mẹ làm như anh đã bảo; không thể tiếp tục như thế này được nữa, và anh đã nghĩ tới việc đi mãi mãi từ lâu rồi.”
“Nhưng đó là nước Mỹ!” Sivert nói. “Không, anh đừng làm thế.”
“Anh sẽ đi. Anh đã dứt khoát rồi. Giờ phải quay lại để bắt kịp chuyến tàu.”
“Nhưng anh phải ăn gì đó đã.”
“Anh không đói.”
“Thế thì nghỉ mệt một chút vậy?”
“Không.”
Sivert cố làm điều tốt nhất để giữ chân anh mình lại, nhưng Eleseus đã quyết tâm, phải, cậu đã quyết tâm một lần trong đời. Bản thân Sivert thì rất đỗi kinh ngạc; trước tiên là sự ngạc nhiên khi gặp lại Jensine, và giờ thì là việc Eleseus sẽ hoàn toàn rời khỏi nơi này.
“Còn Storborg thì sao?” Eleseus hỏi. “Em sẽ làm gì với nó?”
“Andresen có thể có nó,” Sivert đáp.
“Andersen có nó? Ý của em là sao?”
“Không phải cậu ấy sẽ có Leopoldine hay sao?”
“Không biết về chuyện đó. Phải, có lẽ là thế.”
Họ lặng lẽ nói, tiếp tục câu chuyện. Sivert nghĩ tốt nhất là cha cậu nên ra và Elseseus có thể nói chuyện với ông; nhưng “Không, không!” Eleseus lại thì thầm; cậu không bao giờ là một người có thể đối đầu với một điều như thế mà luôn cần tới một người đứng giữa.
Sivert nói: “Chà, anh biết chuyện này sẽ thế nào với mẹ rồi đó. Mẹ sẽ khóc lóc và nói mãi không thôi. Mẹ không nên biết chuyện này.”
“Phải,” Eleseus đồng ý, “mẹ không nên biết.”
Sivert vào nhà, ở đó hàng thế kỷ, rồi quay ra với số tiền, một khoản tiền to. “Đây, đó là tất cả những gì cha có; anh nghĩ nó có đủ không? Đếm xem, cha không đếm xem nó là bao nhiêu.”
“Cha đã nói gì?”
“Không, cha không nói gì nhiều. Giờ anh phải chờ chút xíu, em sẽ mặc thêm ít quần áo rồi đi xuống cùng với anh.”
“Chẳng đáng đâu; em nên vào nghỉ đi thôi.”
“Thế ư, anh có sợ bóng tối không nếu em không cùng đi?” Sivert nói, cố đùa vui một chút.
Cậu vào nhà giây lát, rồi trở ra, quần áo chỉnh tề, với một giỏ thức ăn của cha cậu đeo trên vai. Khi họ đi ra, cha họ đang đứng bên ngoài. “Vậy là con sẽ đi suốt chặng đường đó hả?” Isak hỏi.
“Dạ,” Eleseus đáp, “nhưng con sẽ trở lại.”
“Ta không giữ con lại vào lúc này, còn rất ít thời gian,” người đàn ông trung niên lẩm bẩm, rồi quay đi. “Chúc con may mắn,” anh thốt lên với một giọng lạ lùng và vội vã bỏ đi.
Hai anh em đi bộ xuôi theo con đường; đi được một quãng ngắn, họ ngồi xuống để ăn. Eleseus đang đói, hầu như không ăn đủ no. Đó là một đêm xuân đẹp trời, và những con gà gô trắng nô giỡn trên những ngọn đồi; âm thanh của quê hương khiến kẻ sắp di cư mất hết can đảm trong giây lát. “Đêm nay thật đẹp trời,” cậu nói. “Tốt hơn em nên quay lại ngay đi, Sivert,” cậu nói.
“Hừm,” Sivert ậm ừ, và đi tiếp với cậu.
Họ đi qua Storborg, qua Breidablik, và âm thanh đó cứ theo sau họ suốt quãng đường từ những ngọn đồi đây đó; nó không phải là thứ âm nhạc quân đội như ở trong các thị trấn, không, mà là những giọng nói – một lời tuyên bố: Mùa xuân đã tới. Rồi đột nhiên tiếng kêu chiêm chiếp đầu tiên của một chú chim phát ra từ một ngọn cây, đánh thức những con chim khác, và tiếng chim đối đáp gọi nhau vang lên từ mọi phía; hơn cả một bài hát, nó là một khúc tụng ca. Kẻ di cư đã thấy nhớ quê nhà, có lẽ, một thứ gì đó yếu mềm và bất lực bên trong cậu; cậu sẽ lên đường sang Mỹ, và không ai có thể thích hợp với việc này hơn cậu.
“Giờ thì em quay về đi, Sivert,” cậu nói.
“Thôi được,” em trai cậu đáp. “Nếu anh muốn thế.”
Họ ngồi xuống ở bìa rừng, nhìn thấy ngôi làng ngay bên dưới chân họ, cửa hàng và bến cảng, cái quán trọ cũ kỹ của Brede Olsen; một vài người đang đi lại cạnh con tàu hơi nước, chuẩn bị xuống tàu.
“Thôi, không còn thì giờ để ngồi đây nữa,” Eleseus nói, đứng lên.
“Cứ hình dung anh đi suốt chặng đường đó,” Sivert nói.
Và Eleseus đáp: “Nhưng anh sẽ quay lại. Và anh sẽ có một cái rương mới tốt hơn trong chuyến đi đó.”
Khi họ nói lời chia tay nhau, Sivert dúi vật gì đó vào tay của anh mình, một vật gì đó bọc trong một mảnh giấy. “Gì vậy?” Eleseus hỏi.
“Đừng quên viết thư thường xuyên,” Sivert nói. Và cậu quay lưng trở về.
Eleseus mở tờ giấy ra và nhìn, đó là một đồng vàng hai mươi lăm Kroner. “Nè, đừng!” Cậu gọi với theo. “Em đừng làm như thế!”
Sivert vẫn đi tiếp.
Đi thêm một lát, rồi quay lại và ngồi xuống lại ở bìa rừng. Giờ đã có thêm nhiều người đi lại xôn xao cạnh con tàu; những hành khách lên tàu, Eleseus lên tàu; con tàu nghiêng sang một bên và lao đi. Và Eleseus đã lên đường sang Mỹ.
Cậu không bao giờ quay lại.
Phúc Lành Của Đất Phúc Lành Của Đất - Knut Hamsun Phúc Lành Của Đất