Trong chừng mực nào đó, chúng ta đôi khi phải chấp nhận những điều không như ý. Nhưng tuyệt đối không được từ bỏ niềm hy vọng.

Martin Luther King, Jr

 
 
 
 
 
Tác giả: Anne Rice
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Interviewwith The Vampire (The Vampire Chronicles Series , Book 1)
Dịch giả: Hải Âu
Biên tập: Yen Nguyen
Upload bìa: Yen Nguyen
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 6
Cập nhật: 2023-06-22 21:33:27 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2
à anh sống ở đó,” chàng trai nói sau một khoảng lặng, “với một ma cà rồng mà anh căm ghét.”
“Ta buộc phải cùng hắn,” ma cà rồng nói. “Như ta đã nói với anh, hắn biết ta đang yếu thế. Hắn đã nói bóng gió rằng có nhiều điều ta chưa biết và phải biết và rằng hắn và người duy nhất có thể hướng dẫn cho ta. Thế nhưng, trên thực tế, phần chủ yếu hắn dạy ta là thực hành và chẳng quá khó khăn để tự mình khám phá. Ví dụ như bọn ta có thể du hành bằng tàu thủy, mang theo quan tài như thể chúng chứa xác người thân được đưa đi đâu đó để mai táng; sẽ không ai dám mở một cái quan tài như thế, và khi đêm đến, bọn ta có thể ra ngoài săn chuột - những việc đại loại như vậy. Rồi còn những cửa hàng và thương nhân mà Lestat quen đồng ý tiếp chúng ta ngoài giờ để khoác cho chúng ta những bộ cánh thời trang nhất theo mốt Paris, và cả những tay cò sẵn lòng giúp bọn ta giải quyết vấn đề về tiền bạc ở các quán ăn và hộp đêm. Trong tất cả những vấn đề trần tục này, Lestat là một người thầy xứng đáng. Ta không biết và cũng không quan tâm hồi còn là người hắn thuộc tầng lớp nào; nhưng xét từ bề ngoài thì lúc bấy giờ hắn cũng cùng đẳng cấp xã hội với ta, đối với ta thì điều đó cũng chẳng mấy quan trọng, chỉ có điều nó có thể giúp ta và hắn sống thoải mái hơn. Hắn có gu thẩm mỹ tinh tế, mặc dù trong mắt hắn thư viện của ta chỉ là ‘một đống bụi’ và hắn thường nổi điên lên khi nhìn thấy ta đọc sách hay ghi lại một vài quan sát vào nhật ký. ‘Đó là việc nhảm nhí trần tục,’ hắn nói như vậy, trong lúc không ngừng tiêu tốn tiền của ta để trang hoàng lộng lẫy cho Pointe du Lac, đến mức cho dù ta là người không quan tâm lắm đến tiền bạc cũng phải nhăn mặt. Còn về việc tiếp đãi khách ở Pointe du Lac - những vị khách xui xẻo cưỡi ngựa hoặc đi xe trên con đường ven sông, xin được tá túc qua đêm, mang thư giới thiệu của chủ đồn điền khác hoặc quan chức ở New Orleans - với những người này thì hắn nhẹ nhàng, lịch thiệp đến mức mọi việc trở nên dễ thở hơn với ta, vốn đã bị ràng buộc với hắn một cách vô vọng và hết lần này tới lần khác phải ghê tỏng sự tàn bạo của hắn.”
“Nhưng hắn không làm hại những vị khách đó ư?” chàng trai hỏi.
“Ồ, có chứ, thỉnh thoảng hắn cũng có giết một vài người. Nhưng ta sẽ cho anh biết một bí mật nhỏ, một bí mật không chỉ đúng với ma cà rồng mà còn đúng với hầu hết các tướng lĩnh, binh sĩ và những ông hoàng. Đó là chúng ta thà giết người còn hơn là cư xử thô lỗ với khách trong nhà mình. Nghe có vẻ lạ phải không? Nhưng ta đảm bảo với anh đó là sự thật. Ta biết Lestat săn người hằng đêm. Nhưng nếu hắn làm chuyện xấu xa độc ác gì với gia đình, khách khứa và nô lệ của ta, ta sẽ không để yên cho hắn. Tuy nhiên hắn không làm thế. Lestat có vẻ đặc biệt thích thú với các vị khách. Nhưng hắn nói chúng ta không được quá tiết kiệm với gia đình. Và ta thấy hắn có vẻ bao bọc cha mình trong sự sang trọng quá đà đến mức lố bịch. Lestat liên tục nhắc ông già mù về sự cao cấp của bộ đồ ngủ, những chiếc áo khoác và tấm màn ngoại nhập mới được treo quanh giường, những loại rượu vang Pháp và Tây Ban Nha chúng ta có trong hầm, về lợi nhuận khổng lồ mà đồn điền thu về được ngay cả trong những năm khó khăn khi vùng bờ biển định bỏ hẳn sản xuất chàm và chuyển sang sản xuất đường. Nhưng cũng có những lúc hắn quát nạt ông già, như ta đã từng kể với anh. Hắn thường nổi điên lên đến mức ông già thút thít khóc như một đứa trẻ. ‘Chẳng phải tôi đã cho ông sống cuộc đời vương giả bậc nhất hay sao!’ Lestat thường hét vào mặt cha mình. ‘Chẳng phải tôi đã đáp ứng hết mọi nhu cầu của ông rồi sao! Vì thế đừng có rên rỉ về việc đi nhà thờ và gặp mấy lão bạn già nữa! Toàn là chuyện vô nghĩa. Mấy lão bạn già của ông đã chết cả rồi. Sao ông không chết quách theo họ đi để tôi và tiền của tôi được nhàn thân!’ Ông già thút thít nói những chuyện đó chẳng có nghĩa gì với tuổi già của ông. Nếu được ở lại trang trại bé nhỏ của mình cho đến lúc chết thì ông cũng bằng lòng. Ta rất muốn hỏi ông già chi tiết hơn về việc đó, ‘Trang trại cũ của ông ở đâu? Ông từ đâu đến Louisiana?’ để có manh mối tìm ra nơi Lestat có thể quen một ma cà rồng khác. Nhưng ta không dám gợi chuyện vì sợ rằng ông già sẽ lại khóc to và Lestat sẽ càng nổi điên hơn. Nhưng những con thịnh nộ này cũng không thường xuyên hơn những khoảng thời gian Lestat tỏ ra hiếu thảo đến lộ liễu, tự tay mang đồ ăn vào phòng cha và đút cho ông già ăn, vừa làm vừa kể về thời tiết và tin tức ở New Orleans, và về cả các hoạt động của mẹ và em gái ta nữa. Rõ ràng có một hố sâu ngăn cách cặp cha con này, cả về mặt học thức lẫn lối cư xử, nhưng tại sao lại có sự cách biệt đó thì ta không thể đoán ra được. Và đối với toàn bộ chuyện này, ta chẳng bao giờ dò hỏi ra được chút gì.
“Như ta từng nói, ma cà rồng có cách để sinh tồn. Phía sau nụ cười mỉa mai của Lestat dường như luôn ẩn chứa một thông điệp rằng hắn biết rất nhiều thứ, cả tốt đẹp lẫn xấu xa, và mối liên hệ giữa hắn với bóng đêm đã ở mức độ ta không thể mường tượng được. Hắn luôn coi thường và chỉ trích ta vì đã trân trọng cảm xúc, né tránh giết chóc và gần ngất xỉu mỗi khi phải làm việc đó. Hắn cười như điên khi ta nhận ra bóng mình vẫn phản chiếu trong gương và vẫn có thể cầm thánh giá trên tay mà không hề hấn gì, và chỉ lặng thinh đầy mỉa mai khi ta hỏi về Chúa và ác quỷ. ‘Tôi cũng muốn đêm nào đó được gặp quỷ lắm,’ hắn từng nói kèm theo nụ cười hiểm ác. ‘Tôi sẽ đuổi theo hắn từ đây cho đến tận chốn hoang vu của Thái Bình Dương. Tôi chính là quỷ.’ Và khi thấy ta phát hoảng, hắn phá lên cười. Nhưng vấn đề là mặc dù chán ghét, khinh thị và nghi ngờ hắn, ta vẫn tìm hiểu hắn với một sự mê đắm vô tư. Thỉnh thoảng, ta nhận ra mình đang chằm chằm nhìn cổ tay hắn - thứ đã cho ta sự sống của ma cà rồng, và ta rơi vào trạng thái tĩnh lặng đến mức có cảm giác trí não đã rời khỏi thể xác, hay nói đúng hơn, thể xác ta đã biến thành trí não; rồi hắn sẽ nhìn ta, và nhìn chằm chằm nhất quyết không chịu hiểu ta đang cảm thấy gì và đang mong mỏi được biết gì, rồi hắn sẽ vươn tay ra lay mạnh đánh thức ta khỏi cơn mơ. Ta đã chịu đựng tất cả những điều này với một vẻ thờ ơ công khai mà ta vốn chưa bao giờ biết tới khi còn là con người, và ta hiểu rằng đó là một phần bản chất của ma cà rồng: rằng ta có thể ngồi hàng giờ trong ngôi nhà ở Pointe du Lac suy nghĩ về cuộc sống trần tục của em trai mình, nhìn thấu toàn bộ cuộc đời nó trong màn đêm sâu thẳm, và hiểu ra rằng ta đã vô lý và vô ích ra sao khi phí phạm cảm xúc để thương xót cho cái chết của nó và chống lại những con người khác như một con thú điên. Khi ấy, tâm trí ta hỗn loạn như những vũ công đang điên cuồng nhảy múa trong sương mù; còn giờ đây, giờ đây, với bản chất kỳ lạ của ma cà rồng, ta chỉ còn lại một nỗi buồn sâu sắc. Nhưng ta không suy nghĩ ủ ê vì điều đó. Anh không nên có ấn tượng như vậy qua những lời ta vừa nói, vì đối với ta, suy nghĩ ủ ê chính là sự lãng phí khủng khiếp nhất; thay vào đó, ta quan sát kỹ hơn những con người ta biết và thấy rằng tất thảy cuộc sống đều đáng quý, ta gạt hết mọi cảm giác tội lỗi và những niềm đam mê vô nghĩa có thể khiến cuộc sống như cát lọt qua kẽ tay. Chỉ khi đã biến thành ma cà rồng, ta mới hiểu được em gái mình, ta cấm nó tham gia quản lý đồn điền, cho nó sống cuộc sống thành thị mà nó cần để tận hưởng tuổi xuân, biết được vẻ đẹp của mình và xây dựng tổ ấm thay vì suy nghĩ ủ ê về người em trai đã khuất hay về việc ta ra đi hay lại biến thành bảo mẫu cho mẹ ta. Và ta cố gắng đáp ứng mọi điều mẹ và em gái muốn, để tâm đến cả những yêu cầu nhỏ nhặt nhất. Em gái ta không nén được cười trước những thay đổi kỳ lạ của anh trai, khi ta gặp nó vào ban đêm, để đưa nó ra khỏi căn hộ lên những con phố hẹp lát gỗ và đi dạo trên bờ đê có hai hàng cây đang tắm mình dưới ánh trăng, tận hưởng mùi hương hoa cam và làn gió ấm mơn man trên da thịt, nói chuyện hàng giờ về những tâm sự và ước mơ thầm kín của nó, những mộng tưởng nó chẳng thể nói cùng ai mà chỉ dám thầm thì vào tai ta khi chỉ có hai anh em ngồi bên nhau trong phòng khách mờ sáng. Và ta nhận ra đứa em gái ngọt ngào và đầy sức sống, một tạo vật xinh đẹp và quý giá nhường ấy rồi chẳng mấy chốc sẽ già, chẳng mấy chốc sẽ chết, chẳng mấy chốc sẽ mất hết những phút giây đã được hứa hẹn với chúng ta một cách hão huyền... một cách hão huyền, rằng vĩnh cửu. Tựa hồ đó là quyền thừa kế của chúng ta, mà chúng ta chỉ nhận ra ý nghĩa khi đã đi được nửa chặng đường đời, khi những năm tháng trước mắt chẳng còn nhiều nhặn gì hơn so với những năm tháng đã để lại sau lưng. Khi mọi khoảnh khắc, mỗi khoảnh khắc đều phải được thấu hiểu và trân trọng.
“Chính sự lãnh đạm đã mang lại điều này, một nỗi cô đơn vô bờ đã theo cùng chúng ta khi ta và Lestat sống giữa thế giới loài người. Và mọi rắc rối trần tục đều bị gột bỏ khỏi chúng ta. Ta sẽ cho anh biết tính thiết thực của nó.
“Lestat luôn biết cách cướp của những con mồi được hắn lựa chọn do mặc quần áo xa hoa hay có những dấu hiệu khác hứa hẹn sự giàu có. Nhưng hắn lại gặp rắc rối lớn trong việc tìm nơi ẩn náu và giữ sự kín đáo. Ta ngờ rằng bên dưới vỏ bọc một quý ông, hắn hoàn toàn mù mờ về những vấn đề tài chính đơn giản nhất. Nhưng ta thì không. Vậy nên hắn có thể kiếm tiền mặt tùy ý, còn ta sẽ đầu tư số tiền đó. Nếu không móc túi một xác chết trong ngõ hẻm, Lestat sẽ đến những bàn chơi bài lớn nhất trong phòng khách của những kẻ giàu có nhất thành phố và sử dụng sự sắc sảo của ma cà rồng để hút lấy tiền vàng và giấy tờ bất động sản từ những gã công tử trẻ bị vẻ thân mật của hắn đánh lừa và lóa mắt vì sức hấp dẫn của hắn. Nhưng những trò đó chẳng bao giờ mang lại cho Lestat cuộc sống hắn hằng mong muốn, vậy nên hắn quyết định dẫn ta vào thế giới ma cà rồng để hắn có được một người quản lý, một nhà đầu tư sẽ giúp mánh lời trần tục của hắn có giá trị nhất cho cuộc sống sau này.
“Nhưng trước hết, hãy để ta mô tả cho anh nghe về New Orleans thuở ấy và xem nó đã phát triển như thế nào, để anh có thể hình dung cuộc sống của bọn ta đơn giản ra sao. Không có thành phố nào ở Mỹ giống như New Orleans[1]. Nó không chỉ nhan nhản những người Pháp và Tây Ban Nha thuộc mọi tầng lớp đã tạo thành một phần xã hội thượng lưu đặc biệt của nó, mà sau này còn có dân nhập cư đến từ đủ mọi nơi, nhất là Ai Len và Đức. Rồi không chỉ có những nô lệ da đen thuộc các bộ lạc khác nhau với các tập tục và phục trang dân tộc muôn hình muôn vẻ, mà còn có một nhóm lớn những người da màu tự do không ngừng gia tăng số lượng, những con người tuyệt diệu mang dòng máu lai đến từ vùng đảo, hình thành một đẳng cấp đặc biệt gồm thợ thủ công, họa sĩ, thi sĩ và mỹ nhân lừng danh. Vào mùa hè, lại có thêm những người da đỏ ngồi chật kín hai bên bờ đê để bán các loại thảo mộc và đồ thủ công mỹ nghệ. Lướt qua tất cả, qua sự pha trộn về ngôn ngữ và màu sắc ấy, là những cư dân của cảng, những thủy thủ đến với thành phố từ sóng bạc đại dương để vung tiền mua vui những sòng bạc, để đổi lấy một đêm với những cô gái đẹp bất kể là da trắng hay da màu, để ăn những món ăn Tây Ban Nha và Pháp ngon nhất và uống loại rượu vang ngoại nhập hảo hạng nhất trên đời. Thêm vào đó trong những năm sau khi ta đã biến thành ma cà rồng, người Mỹ xuất hiện và mở rộng thành phố này dọc theo bờ sông từ khu phố cổ của Pháp với những ngôi nhà lộng lẫy kiểu Hy Lạp lấp lánh dưới ánh trăng như những ngôi đền. Và tất nhiên là các chủ đồn điền, luôn luôn là các chủ đồn điền, mang theo gia đình đến thành phố trên những chiếc xe ngựa bóng loáng để mua áo dạ hội, bạc và đá quý, để chen chân trên đường phố chật hẹp đi tới nhà hát cũ của Pháp, Nhà hát d’Orleans và Nhà thờ thánh Louis. Vào ngày Chủ nhật, tiếng thánh ca của lễ Misa vọng từ nhà thờ lan tới quảng trường d’Armes, át đi âm thanh huyên náo của khu chợ Pháp, men theo sự tĩnh lặng ma quái của những con tàu đang lặng lờ trôi trên dòng Mississippi. Khi mùa lũ đến, nước sông có thể dâng lên hai bên bờ đê cao hơn cả mặt đất New Orleans, khiến những con tàu trông như đang trôi giữa hư không.
“Đó là New Orleans, một xứ sở huyền diệu và tuyệt vời. Nơi ấy, một ma cà rồng ăn bận lộng lẫy và duyên dáng bước qua những ngọn đèn khí trên đường đêm thì cũng chẳng thu hút sự chú ý gì hơn so với hàng trăm sinh vật kỳ lạ khác - mà đó là nếu thật sự có ai đó để ý, nếu có ai thầm thì sau cái quạt rằng: ‘Nhìn người kia kìa... nhợt nhạt đến phát sáng ra ấy... và nhìn anh ta di chuyển kìa. Thật quái dị!’ Thành phố mà một ma cà rồng có thể biến đi trước khi những lời ấy kịp thốt ra, có thể tìm kiếm những ngõ vắng nơi hắn nhìn rõ được như mèo hoang, những quán bar tăm tối nơi bọn thủy thủ đang gục mặt lên bàn, hay các phòng khách sạn trần cao vút nơi một cô gái đang ngồi một mình, đôi bàn chân nàng gác trên tấm nệm thêu, ống chân được phủ kín trong tấm khăn ren, đầu cúi xuống dưới ánh nến lập lòe, không thể thấy được bóng đen đang lướt qua những bông hoa thạch cao đắp trên trần phòng, không thể thấy được ngón tay dài trắng nhợt đang vươn ra để chụp tắt ngọn lửa mong manh.
“Điều đáng nói nhất là, những người dù bởi bất kỳ lý do nào từng lưu trú ở New Orleans thì cũng đều để lại nơi đó một đài tưởng niệm, một công trình kiến trúc bằng gạch, đá và cẩm thạch vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay; để ngay cả khi những ngọn đèn khí đã biến mất, những chiếc máy bay xuất hiện và những tòa nhà chọc trời mọc lên chật kín đường Kênh, vẫn còn lại chút vẻ đẹp và lãng mạn không để bị xóa nhòa; có lẽ không còn lại trên mọi con phố, nhưng vẫn còn lại ở nhiều nơi để đối với ta, cảnh vật nơi đây vẫn luôn là cảnh vật của trăm năm về trước, và giờ đây, mỗi lần dạo bước trên những con đường đêm đầy ánh sao của khu phố Pháp hay quận Garden, ta lại thấy như được quay trở lại quãng thời gian ấy. Có lẽ đó là bản chất của cái gọi là di tích. Bất kể là một ngôi nhà nhỏ hay một tòa dinh thự với những cột trụ Corinth khổng lồ và những mảng hoa văn tinh tế bằng sắt rèn. Di tích không nói rằng người này hay người kia đã từng đặt chân đến đây. Không, chỉ có cảm xúc của người đó ở một nơi chốn, một thời gian cụ thể là vẫn tiếp diễn. Mặt trăng hôm nay vẫn rọi sáng bầu trời New Orleans như mặt trăng năm xưa. Chỉ cần những dấu tích đừng biến mất thì mặt trăng đó sẽ vẫn mọc. Cảm xúc đó, ít nhất là ở đây... và ở đó... Sẽ không thay đổi.”
Ma cà rồng có vẻ buồn. Hắn thở dài một tiếng như nghi hoặc điều chính mình vừa nói. “Ta kể đến đâu rồi nhỉ?” bất chợt hắn hỏi như đã thấm mệt. “À, chuyện tiền bạc. Lestat và ta phải kiếm tiền. Như ta từng nói, hắn có thể ăn cắp. Nhưng việc đầu tư sau đó mới quan trọng. Những gì tích lũy được chúng ta đều phải tiêu đi. Nhưng ta lại kể nhảy cóc rồi. Ta hút máu động vật. Nhưng ta sẽ đi sâu vào chuyện đó sau. Lestat luôn giết người, có lúc hai, ba người một đêm, có lúc nhiều hơn. Hắn chỉ hút đủ máu để thỏa mãn cơn khát tạm thời, rồi lại đi tạm nạn nhân khác. Lestat từng nói với ta một cách thô bỉ rằng người càng tử tế thì máu càng ngon. Máu của những thiếu nữ trong trắng là món hắn ưa thích nhất vào đầu buổi tối; nhưng để tìm niềm vui chiến thắng, hắn thường tấn công các chàng trai trẻ. Một chàng trai có cùng độ tuổi với anh sẽ khiến hắn đặc biệt thích thú.”
“Tôi?” chàng trai thì thào. Anh đã chống hẳn khuỷu tay lên bàn để nhìn vào mắt tên ma cà rồng, nhưng giờ anh ngồi thẳng dậy.
“Phải,” ma cà rồng tiếp tục, như thể hắn không hề nhận thấy vẻ mặt thay đổi của chàng trai. “Anh thấy đấy, đối với Lestat thì họ đại diện cho mất mát lớn nhất, bởi vì họ đứng bên ngưỡng cửa hứa hẹn sức sống tràn trề và mãnh liệt nhất. Tất nhiên, tự bản thân Lestat không hiểu được điều này. Chỉ có ta dần hiểu ra. Lestat chẳng hiểu gì cả.
“Ta sẽ lấy một ví dụ điển hình để anh có thể hiểu được sở thích của Lestat. Từ nơi ta ở hướng lên thượng nguồn con song là đồn điền Freniere, một vùng đất rộng lớn tươi đẹp, hứa hẹn phát đạt nhờ sản xuất đường, ngay sau khi công nghệ tinh chế đường được phát minh. Hẳn là anh đã biết đường được tinh chế ở Louisiana. Thật đáng tự hào mà cũng thật mỉa mai rằng vùng đất ta hằng yêu quý lại là nơi sản xuất đường. Ta thấy buồn vì điều này hơn anh tưởng nhiều. Đường tinh luyện là một chất độc. Nó cũng giống như bản chất của cuộc sống ở New Orleans - ngọt ngào đến mức nghẹt thở, phong phú đến mức mỗi giá trị riêng lẻ đều có thể bị bỏ qua... Nhưng như ta đã nói đấy, ở thượng nguồn con sông có gia đình Freniere - một gia đình gốc Pháp lâu đời có cả thảy năm cô con gái và một cậu con trai. Ba cô chị lớn ở vậy không kết hôn, còn hai cô em út thì còn khá trẻ và tất cả đều sống dựa vào người đàn ông duy nhất của gia đình. Cũng như ta đã phải chăm lo cho mẹ và em gái; chàng trai đó là người quản lý đồn điền, thương lượng các cuộc hôn nhân, chuẩn bị của hồi môn trong khi cuộc sống của cả nhà họ phụ thuộc hoàn toàn vào mùa đường sang năm; anh ta phải mặc cả, giành giật và giữ cho cả thế giới bên ngoài với những vấn đề vật chất tầm thường không len lỏi được vào cuộc sống của nhà Freniere. Lestat quyết định là hắn muốn chàng trai này. Và khi số phận suýt cướp anh ta khỏi tay Lestat, hắn đã phát điên. Hắn đã liều mạng để bắt chàng trai nhà Freniere, anh chàng đã nhận lời tham gia một cuộc đấu tay đôi. Trong một bữa tiệc khiêu vũ, anh ta gây gổ với một thanh niên gốc Tây Ban Nha. Thực ra chuyện cũng không có gì nghiêm trọng, nhưng như nhiều gã trai gốc châu Âu khác, gã này sẵn sàng chết vì một chuyện vặt vãnh. Đại gia đình Freniere trở nên náo loạn. Anh phải hiểu là Lestat biết rất rõ chuyện này. Bọn ta đã từng đi săn ở đồn điền nhà Freniere. Lestat săn nô lệ và những tên trộm gà còn ta săn thú vật.”
“Anh lúc nào cũng chỉ hút máu thú vật thôi sao?”
“Phải. Nhưng như ta đã nói, ta sẽ quay lại chủ đề đó sau. Bọn ta đều rành rẽ đường đi lối lại trong đồn điền, và ta đã từng tận hưởng một điều thích thú đặc biệt của ma cà rồng, đó là có thể theo dõi người khác mà họ không hề hay biết. Ta hiểu rõ các cô gái nhà Freniere như những bông hồng tuyệt đẹp mọc quanh thánh đường của đứa em trai quá cố vậy. Họ là một nhóm phụ nữ đặc biệt. Cả năm người đều thông minh không kém gì cậu con trai; và một trong số đó - ta gọi nàng là Babette - không những thông minh như anh trai mà thậm chí còn khôn ngoan hơn nhiều. Nhưng không ai trong số họ được dạy cách quản lý đồn điền; không ai biết được sự thật đơn giản nhất về tình hình tài chính của gia đình. Cả năm người đều hoàn toàn phụ thuộc vào chàng trai trẻ Freniere và họ hiểu điều đó. Vì vậy, họ yêu thương chàng trai bằng toàn bộ trái tim, thậm chí còn có niềm tin hoang đường rằng anh ta có thể hái cả trăng trên trời, và tình cảm vợ chồng trong mắt họ chỉ là một thứ mờ nhạt và tầm thường không thể so sánh với tình yêu dành cho anh ta, họ tin tưởng điều đó với một nỗi tuyệt vọng cũng mạnh như lẽ sống. Nếu anh chàng Freniere chết trong cuộc đấu tay đôi, đồn điền sẽ sụp đổ. Kinh tế mong manh của đồn điền, cuộc sống huy hoàng của gia đình dựa vào việc liên tục thế chấp vụ mùa sang năm, tất cả nằm trong bàn tay lèo lái của anh ta. Vì vậy anh có thể dễ dàng hình dung sự hoảng loạn và đau khổ trong gia đình Freniere đêm mà cậu con trai duy nhất đi vào thành phố để tham gia cuộc quyết đấu. Và giờ hãy hình dung về Lestat mà xem, nghiến răng kèn kẹt như một con quỷ trong vở hài kịch chỉ vì hắn sẽ không phải là người đoạt mạng Freniere.”
“Ý anh là... anh cảm thấy thương xót cho những cô gái nhà Freniere?”
“Ta cảm thấy họ thực đáng thương,” ma cà rồng nói. “Họ đang trong một tình cảnh đau đớn. Và ta cũng thấy tội nghiệp cho chàng trai trẻ. Đêm đó, anh ta tự chết mình trong phòng làm việc của cha để viết di chúc. Anh ta hiểu rõ rằng nếu anh ta gục ngã trước thanh kiếm của đối thủ vào bốn giờ sáng ngày mai, cả gia đình anh ta sẽ gục ngã theo. Anh ta tự xỉ vả chính mình vì đã để xảy ra chuyện này nhưng không thể làm gì để tránh đi được nữa. Trốn khỏi trận quyết đấu không chỉ là sự phỉ báng lớn cho danh dự anh ta, mà còn là việc bất khả thi. Đối thủ sẽ săn lùng cho đến khi anh ta buộc phải tham gia quyết đấu mới thôi.
“Khi rời khỏi đồn điền vào lúc nửa đêm, anh ta đã nhìn thẳng vào cái chết bằng ánh mắt của kẻ chỉ còn duy nhất một con đường để đi và đang dấn thân lên đó với toàn bộ lòng can đảm của mình. Hoặc là đối thủ phải chết, hoặc là anh ta phải chết; không thể lường trước được kết quả chung cuộc mặc dù anh ta có kỹ năng sử dụng kiếm điêu luyện. Gương mặt chàng trai trẻ phản chiếu nỗi suy tư sâu sắc và đầy trải nghiệm mà ta chưa từng thấy bất kỳ nạn nhân nào của Lestat trước đó. Ngay lúc đó ta đã đối đầu với Lestat lần đầu tiên. Trong nhiều tháng trời, ta đã ngăn hắn giết chàng trai này, còn bây giờ, hắn đang tỏ rõ định lấy mạng anh ta trước khi bị gã trai người Tây Ban Nha nẫng tay trên.
“Bọn ta cưỡi ngựa phóng theo Freniere trên đường tới New Orleans. Lestat điên cuồng thúc ngựa đuổi theo anh ta còn ta điên cuồng thúc ngựa đuổi theo hắn. Thời gian cuộc quyết đấu như ta đã nói với anh, là vào bốn giờ sáng. Địa điểm là ven đầm lầy ở cổng Bắc thành phố. Vì bọn ta đến nơi chỉ sớm hơn giờ hẹn một chút, thời gian trở về Pointe du Lac còn rất ít và điều đó có nghĩa là tính mạng của chính chúng ta sẽ gặp nguy hiểm. Ta nổi điên với Lestat hơn bao giờ hết, còn hắn thì quyết tâm chiếm cho bằng được chàng trai. ‘Hãy cho anh ta cơ-hội!’ ta khăng khăng như vậy và cố kìm chặt Lestat trước khi hắn có thể tiếp cận chàng trai. Khi ấy đang giữa mùa đông, không khí trong đầm lầy buốt lạnh và ẩm ướt, những trận mưa lạnh băng trút xuống hết đợt này tới đợt khác, quét sạch vùng đất nơi cuộc quyết đấu sắp diễn ra. Tất nhiên, ta không sợ tất cả những yếu tố này như anh; chúng không thể làm ta tê liệt, run rẩy và đổ bệnh như con người. Nhưng ma cà rồng và con người đều cảm nhận được cái lạnh sâu sắc như nhau, và dòng máu của con mồi thường sẽ đem đến hơi ấm đê mê giúp ma cà rồng giảm bớt cái lạnh đó. Nhưng vào buổi sáng hôm ấy, cái ta quan tâm không phải là cơn đau ta cảm thấy, mà là khung cảnh của vùng đầm lầy và cơn mưa sẽ tạo ra lớp ngụy trang hoàn hảo, khiến cho Freniere càng trở nên yếu ớt trước nanh vuốt của Lestat. Chỉ cần anh ta rời khỏi hai người bạn của mình và tiến vào vùng đầm lầy, Lestat sẽ tấn công ngay lập tức. Vì vậy, ta cố gắng vật lộn với Lestat. Ta ghì chặt hắn.”
“Nhưng anh vẫn hoàn toàn vô cảm với những diễn biến đó phải không?”
“Hừm...” ma cà rồng thở dài. “Phải. Ta đã trở nên vô cảm, và cùng với nó là một cơn phẫn nộ đầy quyết tâm. Để nhồi nhét cho no bụng, hắn sẵn sàng hủy diệt cả một gia đình, với ta đó là hành động khinh khi và bất cần nhất của Lestat trước những gì mà lẽ ra với khả năng nhìn nhận vấn đề thấu suốt của một ma cà rồng, hắn phải thấy được. Vì vậy, ta kiên quyết ghìm chặt hắn trong bóng đêm còn hắn thì không ngừng phỉ nhổ và chửi rủa ta; trong lúc chàng trai Freniere đã nhận lấy thanh kiếm từ tay người đồng hành và tiến vào vùng cỏ ướt trơn trượt để giáp mặt đối thủ của mình. Hai bên có một cuộc trò chuyện ngắn trước khi trận đấu bắt đầu. Cuộc quyết đấu diễn ra chỉ trong chớp mắt. Freniere đã đánh bại đối thủ bằng một cú đâm thẳng vào ngực. Và gã này khuỵu gối xuống bãi cỏ, máu chảy đầm đìa thét lên gì đó không thể hiểu nổi với Freniere trong cơn hấp hối. Còn người chiến thắng thì đứng trơ ra đó. Ai cũng thấy là chiến thắng ấy chẳng có gì vui vẻ. Freniere nhìn cái chết như thể nó là một thứ ghê tởm. Những người đồng hành cầm lồng đèn tiến tới, thúc giục Freniere rời khỏi vùng đầm lầy và để kẻ bại trận cho bạn của anh ta giải quyết. Trong lúc ấy, kẻ bị thương nhất quyết không cho ai chạm vào mình. Thế rồi, khi nhóm Freniere quay lưng rời đi, ba người nặng nề bước về chỗ buộc ngựa, kẻ bại trận bèn rút ra một khẩu súng lục. Có lẽ chỉ một mình ta nhìn thấy mọi thứ rõ mồn một trong bóng đêm như mực. Dù sao đi nữa, ta cũng đã hét lớn để cảnh báo Freniere và lao tới chớp khẩu súng. Đó là tất cả những gì Lestat cần. Trong khi ta đang vụng về loạng choạng, vừa đánh động Freniere vừa với lấy khẩu súng, thì Lestat, với kinh nghiệm dày dạn và tốc độ chóng mặt đã lao tới để tóm lấy Freniere và lôi anh ta vào dưới hàng cây bách. Ta đồ rằng bạn bè anh ta thậm chí còn chưa kịp nhận thức được chuyện gì đã xảy ra. Tiếng súng nổ lên, kẻ bại trận đã gục hẳn, ta vội vàng lao vào vùng đầm lầy gần như đã đóng băng, gào thét gọi Lestat.
“Rồi ta nhìn thấy hắn. Freniere nằm sõng soài trên rễ một cây bách, đôi ủng ngập trong dòng nước âm u, còn Lestat vẫn đang cúi xuống trên người anh ta, bàn tay hắn ghì chặt lấy bàn tay Freniere vẫn đang đặt nơi chuôi kiếm. Khi ta xông tới định lôi Lestat ra, hắn vung tay phải hất văng ta ra, nhanh đến mức tận lúc thấy mình đang chìm trong nước ta mới nhận ra đã bị hắn đánh gục; và tất nhiên, đến khi ta tỉnh lại, Freniere đã tắt thở. Ta nhìn anh ta nằm ngay đó, mắt nhắm nghiền, đôi môi khép lại bình thản như đang ngủ. ‘Đồ khốn kiếp!’ Ta bắt đầu chửi bới Lestat. Rồi ta giật mình, vì thi thể Freniere đang trượt dần xuống đầm lầy. Dòng nước tràn lên khuôn mặt và nhanh chóng bao trọn toàn bộ cơ thể anh ta. Lestat tỏ ra vô cùng vui thích; hắn cộc cằn nhắc rằng bọn ta chỉ còn không đến một giờ đồng hồ để quay lại Pointe du Lac và hắn thề sẽ trả thù ta. ‘Nếu tôi không thích sống cuộc đời của một tay chủ đồn điền miền Nam đến thế thì tôi sẽ xử lý anh ngay tối nay. Tôi biết cách đấy,’ hắn đe dọa ta như vậy. ‘Tôi nên đuổi ngựa của anh vào vùng đầm lầy. Anh sẽ phải tự đào huyệt cho mình và chết ngạt trong đó!’ Hắn phóng ngựa đi mất dạng.
“Dù đã bao nhiêu năm trôi qua, nỗi căm giận ta dành cho hắn vẫn nóng hừng hực trong huyết quản. Khi đó ta đã hiểu ra ý nghĩa của việc trở thành ma cà rồng đối với hắn.”
“Hắn chỉ là một tên sát nhân,” chàng trai nói, giọng anh phản chiếu một phần cảm xúc của tên ma cà rồng. “Không quan tâm đến bất cứ điều gì.”
“Không. Trở thành ma cà rồng đối với hắn có nghĩa là trả thù. Trả thù chính cuộc đời. Mỗi lần hắn giết người là một lần trả thù. Chẳng có gì lạ khi hắn chẳng trân trọng điều gì. Lestat không thể tận hưởng những điều kỳ diệu mà năng lực của ma cà rồng mang lại vì còn bận hằm hè với cuộc đời trần tục. Đắm chìm trong thù hận, hắn không thể thoát khỏi quá khứ. Đắm chìm trong sự ghen tị, chẳng gì có thể thỏa mãn hắn trừ phi hắn có thể tước đoạt sinh mạng của người khác; và khi đã đạt được điều đó rồi, hắn càng lúc càng trở nên lạnh lùng và bất mãn, chẳng còn thấy thích thú gì nữa; và thế nên hắn lại tìm con mồi khác. Tất cả là lòng thù hận, mù quáng, cằn cỗi và ti tiện.
“Nhưng ta đã kể với anh về những cô gái nhà Freniere rồi. Khi ta về đến đồn điền của họ đã là gần năm rưỡi sáng. Ngay sau sáu giờ bình minh sẽ lên, nhưng ta đã về gần nhà lắm rồi. Ta nhẹ nhàng bước trên hành lang lầu trên và nhìn thấy cả năm chị em đều đang tề tựu trong phòng khách; họ thậm chí còn chưa thay đồ ngủ. Những ngọn nến đã cháy gần hết trong khi họ ngồi lặng lẽ như những người đưa tang, chờ tin tức. Tất cả họ đều mặc đồ màu đen, theo thói quen khi ở nhà, và trong bóng tối, nếp váy đen hòa lẫn vào mái tóc nhung huyền khiến khuôn mặt họ như năm quầng sáng lung linh, mềm mại trong ánh nến, trên mỗi gương mặt là một nỗi muộn phiền xen lẫn lòng can đảm. Chỉ riêng gương mặt Babette là toát lên vẻ kiên quyết. Dường như nàng đã hạ quyết tâm sẽ làm người gánh vác gia đình nếu như anh trai qua đời, và vẻ mặt nàng lúc này giống hệt như vẻ mặt Freniere khi anh ta lên đường tới trận quyết đấu. Điều chờ đợi nàng phía trước gần như không thể nào chịu được. Điều chờ đợi nàng phía trước là cái chết do Lestat gây ra. Vì vậy ta đã quyết định làm một việc cực kỳ liều lĩnh. Ta đã để nàng nhìn thấy mình. Ta làm vậy bằng cách lợi dụng ánh sáng. Anh thấy đấy, da mặt ta trắng bệch, nhẵn thín và phản chiếu ánh sáng tốt như mặt đá cẩm thạch vậy.”
“Phải,” chàng trai gật đầu, có vẻ ngượng ngùng. “Khuôn mặt anh thực sự... rất đẹp,” anh nói. “Không biết là... Nhưng rồi chuyện gì đã xảy ra?”
“Anh không biết hồi còn là con người ta có đẹp trai không chứ gì,” ma cà rồng nói. Chàng trai gật đầu. “Có. Về cơ bản không thay đổi gì sau khi biến thành ma cà rồng. Chỉ là, trước đó ta chưa từng nghĩ mình đẹp trai. Như ta đã nói, cuộc sống kéo ta vào một vòng xoáy của những mối bận tâm vặt vãnh. Ta chưa bao giờ bình thản nhìn vào cái gì, thậm chí ta còn không soi gương... Và chuyện đã xảy ra như thế này. Ta bước đến gần cửa sổ bằng kính để ánh nến rọi sáng mặt mình. Ta làm như vậy một lúc cho tới khi ánh mắt Babette lướt qua ô cửa sổ. Rồi ta biến mất rất đúng kiểu.
“Chỉ trong vài giây, cả năm cô gái đều biết đang có một ‘sinh vật kỳ lạ’, một sinh vật ma quái, đã hiện diện trong nhà mình, và hai người hầu gái kiên quyết không chịu đi tìm xem đó là thứ gì. Cuối cùng, khoảnh khắc ta sốt ruột chờ đợi cũng đến: Babette cầm lấy một giá nến trên bàn, đứng lên, và, khinh thường sự hèn nhát của những người khác, nàng mạo hiểm đi một mình ra phía hành lang lạnh lẽo để xem ở đó có gì, các chị em bu quanh cửa như một bầy quạ đen, một người bật khóc vì nghĩ rằng người anh trai đã chết và thật ra cô vừa nhìn thấy hồn ma anh ta. Tất nhiên, anh phải hiểu rằng một cô gái mạnh mẽ như Babette không bao giờ nghĩ thứ nàng nhìn thấy là hình ảnh tưởng tượng hay một hồn ma. Ta đợi đến khi nàng đi hết hành lang tối rồi mới lên tiếng, và ngay cả khi đó, ta cũng chỉ cho nàng nhìn thấy hình dáng lờ mờ của ta bên cạnh cây cột. ‘Bảo chị em cô lui vào trong nhà đi,’ ta thì thầm với nàng. ‘Tôi đến để nói với cô về anh trai cô, hãy làm theo lời tôi.’ Nàng khựng lại trong chốc lát, rồi nàng quay về phía ta và cố căng mắt nhìn ta trong bóng tối. ‘Tôi không có nhiều thời gian. Tôi sẽ không làm hại cô đâu,’ ta nói. Và nàng làm theo. Nàng nói là không có gì cả, bảo những người khác đóng cửa lại, và họ tuân lệnh nàng như người ta thường tuân lệnh người khác khi họ không chỉ cần một thủ lĩnh mà còn đang tuyệt vọng tìm kiếm người ra lệnh. Rồi ta mới bước vào khoảng sáng của giá nến trên tay Babette.”
Chàng trai trợn tròn đôi mắt. Anh đưa tay lên môi. “Anh đã để cô ấy thấy như tôi đang thấy?”
“Anh hỏi một cách ngây thơ biết bao,” ma cà rồng nói. “Phải, ta nghĩ là ta đã cho nàng nhìn thấy mình. Chỉ khác là dưới ánh sáng của những ngọn nến, hình hài siêu nhiên của ta cũng không quá lộ liễu. Và ta cũng không cố giả vờ là một người bình thường với nàng. ‘Tôi chỉ có vài phút thôi,’ ta nói với nàng ngay. Nhưng tôi phải truyền đạt cho cô một việc rất quan trọng. Anh trai cô đã chiến đấu một cách anh dũng và giành chiến thắng, nhưng đợi đã... Giờ cô phải biết rằng, cậu ấy đã chết. Cái chết là một kẻ trộm trong đêm, mà trước nó, lòng lương thiện hay sự can đảm của cậu ấy cũng chẳng có tác dụng gì hết. Nhưng đó không phải điều quan trọng nhất mà tôi đến để cho cô biết. Đây mới là điều quan trọng hơn hết thảy. Cô có thể quản lý đồn điền nhà mình và cô sẽ cứu được nó. Điều cần thiết duy nhất là cô tuyệt đối không được để ai làm lung lay niềm tin đó. Cô phải nắm lấy quyền điều hành đồn điền dù ai nói ngả nói nghiêng, dù người ta có nhắc đến tục lệ hay lý lẽ luân thường gì. Cô phải bỏ ngoài tai hết. Mảnh đất này hôm nay vẫn phải còn vẹn nguyên như hôm qua, như lúc anh trai cô còn sống. Không có điều gì thay đổi cả. Cô phải thay thế vị trí của cậu ấy. Nếu cô không làm thế, đồn điền sẽ phá sản và gia đình cô sẽ sụp đổ. Năm chị em cô sẽ phải sống dựa vào số tiền trợ cấp còm cõi, không được hưởng những gì cuộc đời có thể cho các cô. Hãy học những điều cần học. Đừng dừng lại cho đến khi cô biết hết mọi câu trả lời. Và hãy nhớ đến cuộc thăm viếng này để có thêm can đảm bất cứ khi nào cô cảm thấy chông chênh. Hãy tự cầm lấy dây cương điều khiển cuộc đời mình. Anh trai cô đã vĩnh viễn ra đi rồi.
“Nét mặt nàng cho ta biết nàng đã nghe không sót chữ nào. Nếu còn thời gian thì hẳn nàng đã hỏi ta kỹ càng hơn, nhưng nàng tin lời ta khi ta nói không có thời gian. Rồi ta vận hết kỹ năng để rời khỏi chỗ nàng nhanh đến mức dường như ta đã biến mất. Ẩn mình trong vườn cây, ta có thể nhìn thấy khuôn mặt nàng trong ánh nến. Ta nhìn nàng quay qua quay lại, tìm ta trong bóng tối. Rồi nàng làm dấu thánh và quay vào trong nhà với các chị em gái.”
Ma cà rồng mỉm cười. “Khắp vùng đất ven sông, không ai đồn thổi về chuyện Babette Freniere từng nhìn thấy thứ kỳ quái gì, nhưng sau câu chuyện buồn bã tang thương ban đầu về những người phụ nữ bị bỏ lại một mình, nàng nhanh chóng trở thành chủ đề đàm tiếu của hàng xóm khi công bố quyết định sẽ thay thế anh trai quản lý đồn điền. Nàng đã tặng em gái một món hồi môn lớn khi cô gái lấy chồng và rồi sau đó nàng cũng kết hôn. Trong suốt khoảng thời gian ấy, ta và Lestat không nói với nhau lấy một lời.”
“Hắn vẫn tiếp tục sống tại Pointe du Lac ư?”
“Đúng thế. Ta không chắc hắn đã truyền dạy cho ta mọi kiến thức cần thiết. Và sự giả vờ là cần thiết. Ví dụ, ta đã vắng mặt trong ngày em gái kết hôn, vì bị ‘sốt rét’, và ta cũng mắc một căn bệnh tương tự vào ngày cử hành tang lễ của mẹ ta. Hằng đêm, ta và Lestat vẫn ngồi xuống bàn ăn cùng ông già mù, vờ như đang dùng bữa tối bằng cách tạo ra tiếng dao, nĩa leng keng, trong khi đó, ông già nhắc bọn ta phải ăn hết thức ăn trên đĩa và không được uống quá nhiều rượu. Với hàng chục cơn đau đầu dữ dội, ta tiếp em gái trong phòng ngủ lờ mờ tối, chăn kéo lên tận cằm, và xin nó cùng chồng bỏ quá cho ăn sáng tù mù vì ta bị đau mắt, trong lúc ta giao phó cho họ những khoản tiền lớn để đầu tư và phát triển đồn điền. May mắn thay, em rể ta chỉ là một thằng ngốc; vô hại, nhưng sinh ra trong một gia đình có bốn thế hệ hôn nhân cận huyết, nó vẫn là một tên ngốc.
“Nhưng mặc dù những chuyện này diễn ra tốt đẹp, chúng ta lại bắt đầu gặp rắc rối với bọn nô lệ. Bọn chúng là những người đa nghi; và, như ta đã nói, Lestat giết bất cứ người nào hắn muốn. Vì thế trong đồn điền luôn có lời xì xào về những cái chết bí ẩn bên bờ sông. Nhưng những lời xì xào đó khởi nguồn từ những điều chúng đã quan sát được chúng ta, và trong một đêm hòa mình vào bóng tối ở khu lều nô lệ, ta đã nghe được chúng nói.
“Trước hết hãy để ta nói cho anh biết tính cách của đám nô lệ này. Đến năm 1795, ta và Lestat đã sống được bốn năm yên bình ở Pointe du Lac, ta dùng tiền mà Lestat cướp được để đầu tư mở rộng đất đai của bọn ta, mua một vài căn nhà ở New Orleans để cho thuê, lợi nhuận từ đồn điền không nhiều, chỉ là một cái vỏ bọc chứ không đủ để đầu tư. Ta nói ‘của bọn ta’. Nhưng không phải vậy. Ta chưa từng ký tên chuyển nhượng bất kỳ thứ gì cho Lestat, và như anh đã thấy, dù sao thì ta vẫn đang còn sống một cách hợp pháp. Tuy nhiên vào năm 1795, bọn nô lệ không giống những gì được mô tả trong các bộ phim và tiểu thuyết của miền Nam. Chúng không phải những con người da nâu ăn nói nhỏ nhẹ, mặc những bộ đồ tả tơi và nói giọng Anh. Chúng là người châu Phi. Và một số còn là dân sống trên đảo, có nghĩa là, một phần trong số chúng đến từ Santo Domingo. Chúng có làn da đen bóng hơn và hoàn toàn là người ngoại quốc; chúng chỉ nói tiếng châu Phi và thổ ngữ Pháp; và khi ca hát, chúng cất lên những lời ca Phi châu khiến những cánh đồng trở nên ngoại lai kỳ lạ, thứ âm thanh luôn khiến ta rùng mình khi còn là con người. Chúng rất mê tín dị đoan và có những bí mật cũng như phong tục của riêng mình. Tóm lại, tính Phi châu của chúng vẫn chưa hoàn toàn bị phá hủy. Chế độ nô lệ là một lời nguyền trong cuộc sống của chúng; nhưng chúng vẫn chưa bị cướp đi những nét đặc trưng của mình. Chúng chấp nhận làm lễ rửa tội và mặc trang phục của người da trắng dưới sức ép của Giáo hội Pháp, nhưng cứ đến đêm, chúng biến thứ vải rẻ tiền của mình thành những bộ quần áo dân tộc quyến rũ, đeo đồ trang sức được làm từ xương động vật và phế thải kim loại đã đánh bóng lên như vàng thật; và lều nô lệ ở Pointe du Lac biến thành một quốc gia nước ngoài, một bờ biển châu Phi khi trời về tối nơi mà ngay cả những tên đốc công máu lạnh nhất cũng không dám bén mảng tới. Và bọn nô lệ này không sợ ma cà rồng.
“Mãi tới một đêm hè nọ, khi đang đi qua như một cái bóng, ta tình cờ nghe được qua cánh cửa để ngỏ của nhà tên đốc công da đen một cuộc trò chuyện khiến ta tin rằng ta và Lestat đang bị đe dọa. Bọn nô lệ biết rằng ta đã không còn là con người nữa. Mấy con hầu thì thầm rằng chúng đã nhìn trộm qua khe cửa và thấy ta cùng Lestat đang ăn tối với những chiếc đĩa trống trơn, nâng những chiếc ly không lên môi, cười to, khuôn mặt trắng ởn kỳ đi dưới ánh nến, còn ông già mù chỉ là một kẻ ngốc bất lực trước chúng ta. Khi nhìn trộm qua lỗ khóa, chúng đã thấy quan tài của Lestat, và có lần Lestat đã đánh đập dã man một đứa vì dám cả gan lảng vảng bên ngoài cửa sổ phòng hắn. ‘Trong phòng hắn không có cái giường nào cả,’ chúng gật gù thì thào với nhau. ‘Hắn ngủ trong quan tài, tôi chắc chắn đấy.’ Chúng khẳng định, với bằng chứng chắc như đinh đóng cột, về bản chất của ta và Lestat. Về phần ta, chúng đã nhận ra đêm đêm ta đều rời khỏi thánh đường, vốn chẳng có gì ngoài một đám tường dây leo, phủ dây đậu tía nở hoa vào mùa xuân, hồng dại mọc um tùm vào mùa hè, rêu xanh phủ kín cánh cửa chớp cũ không sơn chưa bao giờ được mở ra và mạng nhện giăng đầy nơi cổng vòm bằng đá. Tất nhiên, ta đã giả vờ như chỉ đến thăm thánh đường vì thương nhớ Paul, nhưng qua những gì nghe được, ta biết bọn nô lệ không còn tin lời nói dối đó nữa. Và giờ chúng quy cho ta và Lestat trách nhiệm không chỉ với cái chết của những tên nô lệ trên cánh đồng và trong đầm lầy, cả gia súc và thỉnh thoảng là một con ngựa, mà còn cả với những hiện tượng siêu nhiên khác; thậm chí, chúng còn nghĩ lũ lụt và sấm sét là vũ khí mà Chúa trời đã giáng xuống để tấn công Louis và Lestat. Nhưng điều tệ nhất là chúng không hề có ý định chạy trốn. Bọn ta là quỷ dữ. Sức mạnh của bọn ta là không thể tránh khỏi. Không, bọn ta phải bị tiêu diệt. Và ở cuộc họp đó, nơi ta đã trở thành một thành viên vô hình, có một vài tên nô lệ của nhà Freniere.
“Như thế nghĩa là những lời đồn đại sẽ lan ra khắp vùng bờ sông. Dù tin chắc sẽ không có cuộc nổi loạn nào nổ ra, ta vẫn không muốn mạo hiểm thu hút sự chú ý. Ta vội vàng quay lại đồn điền để báo với Lestat rằng trò chơi làm chủ đồn điền đã đến hồi kết. Hắn sẽ phải bỏ lại roi da đánh nô lệ và những chiếc vòng khăn ăn bằng vàng mà chuyển đến thành phố.
“Tất nhiên hắn phản đối. Cha hắn đang bệnh nặng và có thể không sống được bao lâu nữa. Hắn không hề có ý định bỏ trốn khỏi những tên nô lệ ngu ngốc. ‘Tôi sẽ giết sạch bọn chúng,’ hắn bình tĩnh nói, ‘ba bốn đứa một lúc. Một vài đứa sẽ chạy trốn, rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi.’
‘Anh điên rồi! Tôi muốn anh rời khỏi đây.’
‘Anh muốn tôi đi! Anh,’ hắn nhạo báng. Hắn đang xây một tòa lâu đài trên bàn ăn bằng những lá bài Pháp tinh xảo. ‘Anh là một tên ma cà rồng nhu nhược hay than vãn chỉ dám lảng vảng trong đêm giết mèo hoang và chuột cống, ngồi hàng giờ ngắm nến như thể chúng là con người, và đứng trong mưa như một xác sống cho đến khi ướt như chuột lột, bốc mùi như một cái rương quần áo cũ trên gác mái và có vẻ ngoài không khác gì một thằng đần trong sở thú.’
‘Anh không còn gì để dạy tôi nữa, và sự khinh suất đầy ngoan cố của anh sẽ khiến cả hai ta gặp nguy hiểm. Tôi có thể sống một mình trong thánh đường đó trong khi ngôi nhà này sụp đổ. Tôi không quan tâm đến nó!’ ta nói với hắn. Vì đó là sự thật. ‘Nhưng anh thì lại đòi phải có tất cả những thứ anh chưa từng có thuở còn là con người và biến cuộc sống bất tử thành một cửa hàng đồng nát, và trong đó, chúng ta sẽ là hai món hàng dị hợm nhất. Hãy đi thăm cha anh và cho tôi biết ông ta còn cầm cự được bao lâu nữa, vì anh chỉ có thể ở lại đến lúc đó thôi, đấy là trong trường hợp bọn nô lệ không nổi dậy chống lại chúng ta!’
“Hắn bảo ta hãy tự đi mà thăm ông già vì chỉ có ta mới hay ‘thăm nom’, và ta đã làm thế. Ông già đang hấp hối. Ta đã không phải chứng kiến cái chết của mẹ mình vì bà ra đi rất đột ngột trong một buổi chiều nọ. Bà qua đời như thể đi vào giấc ngủ, khi đang lặng lẽ ngồi bên giỏ đồ may vá của mình trong sân. Nhưng bây giờ ta đang được chứng kiến một cái chết tự nhiên diễn ra chậm chạp, đau đớn và hoàn toàn có ý thức. Ta luôn quý mến ông già mù này; lão đơn giản, mộc mạc và hiếm khi đòi hỏi. Ban ngày, lão ngồi tắm nắng ngoài hành lang, mơ màng lắng nghe tiếng chim ca; ban đêm, lão ngồi cạnh để nghe ta và Lestat chuyện phiếm với nhau. Lão còn biết chơi cờ vua, thường thận trọng sờ mỗi con cờ và nhớ từng nước đi trên bàn cờ với mức độ chuẩn xác đáng kinh ngạc. Lestat không bao giờ thèm chơi cờ vua với cha mình, nhưng ta thì chơi thường xuyên. Lúc này, ông già đang nằm thở một cách nặng nhọc, trán lão nóng bừng bừng, gối đầu ướt đẫm mồ hôi. Trong lúc lão đang rên rỉ cầu nguyện cho cái chết đến thì Lestat lại bắt đầu chơi đàn spinet ngoài phòng khách. Ta đóng sầm nắp đàn lại, mạnh tới mức suýt nữa thì chẹt cả vào ngón tay hắn. ‘Anh không được chơi đàn khi cha anh đang hấp hối!’ ta nói. ‘Tôi cứ chơi đấy’ hắn ngạo nghễ đáp lại. ‘Nếu thích tôi còn chơi trống nữa kìa!’ Rồi hắn mở tủ lấy ra một cái đĩa bạc lớn, ngoắc ngón tay vào tay cầm, và dùng thìa gõ ầm ĩ lên đó.
“Ta bảo hắn dừng lại, nếu không ta sẽ bắt hắn phải dừng. Rồi cả hai bọn ta đều im bặt vì nghe tiếng ông già gọi tên hắn. Lão thều thào bảo cần nói vài điều với Lestat trước khi chết. Ta thúc giục Lestat tới với cha hắn. Tiếng khóc nỉ non của lão thật khủng khiếp. ‘Sao tôi lại phải đi? Tôi đã chăm nom ông ta suốt mấy năm qua. Như thế chưa đủ hay sao??’ Rồi hắn rút từ túi áo ra một cái giũa móng tay, điềm nhiên ngồi xuống cạnh chân giường của người cha già và bắt đầu giũa mười cái móng tay dài thòng của mình.
“Thời điểm ấy, ta phải nói thực rằng bọn nô lệ khiến ta cực kỳ lo ngại. Chúng vẫn đang quan sát và lắng nghe. Ta mong sao ông già sẽ chết trong vòng vài phút. Trước đây, thỉnh thoảng ta vẫn phải đối diện với sự hoài nghi, ngờ vực của một vài tên nô lệ, nhưng chưa bao giờ lên đến mức này. Ta lập tức cho gọi Daniel, tên nô lệ đã được ta trao cho ngôi nhà và vị trí của tên đốc công. Trong lúc chờ anh ta tới, ta có thể nghe thấy ông già mù trò chuyện với Lestat; Lestat, đang ngồi bắt tréo chân, nhướng mày miệt mài giũa móng, dành toàn bộ sự tập trung để làm đẹp cho bàn tay. ‘Chính là ngôi trường,’ ông già nói. ‘Ôi, cha biết là con còn nhớ... cha biết nói gì với con đây...’ lão rên rỉ.
‘Tốt nhất là ông nói nhanh lên,’ Lestat nói, ‘vì ông sắp chết rồi.’ Ông già bật ra một âm thanh khủng khiếp, và ta ngờ rằng chính mình cũng đã hét lên. Ta cảm thấy cực kỳ kinh tởm Lestat. Ta quyết tâm tống cổ hắn ra khỏi phòng. ‘Chà, ông biết mà, đúng không? Ngay cả một kẻ ngớ ngẩn như ông cũng biết,’ Lestat nói.
‘Con sẽ không bao giờ tha thứ cho cha, phải không? Bây giờ không, và ngay cả sau khi cha đã lìa đời cũng không,’ ông già nói.
‘Tôi chẳng hiểu ông đang nói gì cả!’ Lestat đáp lại.
“Ta cảm thấy sự kiên nhẫn của mình đối với hắn sắp đi đến cực hạn còn ông già thì càng lúc càng kích động. Lão cầu xin Lestat chân thành lắng nghe. Cảnh tượng trước mắt làm ta rùng mình. Trong khi đó, Daniel đã đến, và ngay khi nhìn thấy tên nô lệ này, ta biết là mọi thứ ở Pointe du Lac đều tiêu rồi. Có lẽ nếu chú ý hơn, ta đã thấy những dấu hiệu đáng lo ngại từ trước. Daniel đang nhìn ta bằng đôi mắt trừng trừng vô hồn. Ta là một con quái vật trong mắt anh ta. ‘Cha của ngài Lestat bị bệnh nặng. Sắp mất,’ ta nói, phớt lờ vẻ mặt của anh ta. “Tối nay ta không muốn có ầm ĩ gì, tất cả nô lệ đều phải ở yên trong lều. Một bác sĩ đang trên đường tới đây.” Daniel nhìn ta chằm chằm như thể ta đang nói dối. Rồi anh ta chầm chậm rời ánh mắt lạnh lùng và hiếu kỳ sang phía cửa phòng ông già. Khuôn mặt anh ta đột nhiên biến sắc khiến ta phải đứng lên nhìn vào trong phòng. Đó là Lestat, hắn đang ngồi ở chân giường, tựa lưng vào cột giường, điên cuồng giũa móng tay, mặt nhăn lại làm hai chiếc răng nanh trắng ởn lộ ra rõ ràng.”
Ma cà rồng ngưng lại, vai hắn rung lên vì một trận cười không ra tiếng. Hắn quay lại nhìn chàng trai. Anh rụt rè nhìn lên bàn. Dù vậy, anh đã kịp nhìn thấy, và nhìn rất rõ, miệng tên ma cà rồng. Anh đã nhìn thấy đôi môi có lớp da khác với da mặt tên ma cà rồng, thấy chúng mềm mại và có đường nét rõ ràng như bất kỳ con người nào khác, nhưng lại trắng bệch như người chết, và anh đã thấy hai chiếc răng nanh trắng. Chỉ có điều tên ma cà rồng có cách cười mỉm để giấu đi hai chiếc răng này; và chàng trai chưa hề nghĩ tới hai chiếc răng đó mãi cho tới lúc này. “Anh có thể tưởng tượng được,” ma cà rồng nói, “điều đó nghĩa là gì rồi đấy. Ta phải giết anh ta.”
“Sao cơ?” chàng trai hỏi.
“Ta phải giết anh ta. Anh ta bắt đầu chạy. Anh ta sẽ đánh động mọi người. Có lẽ vẫn còn cách xử lý khác êm đẹp hơn, nhưng ta không có thời gian. Vì vậy, ta đuổi theo và tóm lấy anh ta. Nhưng khi nhận ra mình đang làm một việc đã cố gắng không làm trong suốt bốn năm qua, ta dừng lại. Đây là một người đàn ông bình thường. Anh ta có một con dao phòng thân. Ta dễ dàng tước con dao khỏi tay anh ta và đâm vào ngực anh ta. Anh ta lập tức khuỵu xuống, ngón tay siết chặt lưỡi dao đẫm máu. Khi nhìn thấy máu, ngửi được mùi hương quyến rũ của nó, ta phát cuồng. Chắc hẳn ta đã rên lên thành tiếng. Nhưng ta không vồ lấy anh ta, ta quyết không làm thế. Ta nhớ là đã thấy bóng Lestat phản chiếu trong tấm gương trên tủ bát đĩa. ‘Sao anh lại giết nó’ hắn gặng hỏi. Ta quay lại nhìn hắn, kiên quyết không để hắn thấy mình trong tình trạng thảm hại như vậy. Ông già mù đang mê sảng, hắn nói, hắn không hiểu lão đang nói gì nữa. ‘Bọn nô lệ, chúng biết rồi... anh phải tới lều nô lệ canh chừng đi,’ ta gắng gượng nói với hắn. ‘Tôi sẽ lo cho ông già.’
‘Giết ông ta đi,’ Lestat nói.
‘Anh mất trí rồi!’ ta đáp. ‘Ông ấy là cha anh!’
‘Tôi biết ông ta là cha tôi!’ Lestat nói. ‘Vì thế nên người giết ông ta phải là anh. Tôi không thể làm được! Nếu có thể, tôi đã làm từ lâu rồi, quỷ tha ma bắt ông ta đi!’ Hắn siết chặt hai bàn tay vào nhau. ‘Chúng ta phải rời khỏi đây. Nhìn xem anh đã gây ra hậu quả gì sau khi giết chết thằng nô lệ này đi. Không còn thời gian nữa đâu. Chỉ trong vài phút nữa, vợ hắn sẽ tới đây khóc tướng lên... hoặc thậm chí còn dẫn đến những kẻ phiền toái hơn nữa!’
Ma cà rồng thở dài. “Đó là sự thật. Lestat nói đúng. Ta có thể nghe tiếng bọn nô lệ đang tập trung quanh lều của Daniel, chờ đợi anh ta. Daniel đã dũng cảm đi vào ngôi nhà quỷ ám này một mình. Nếu anh ta không quay lại, bọn nô lệ sẽ hoảng sợ và sẽ trở thành một đám đông hung dữ. Ta bảo Lestat ra ngoài trấn an bọn nô lệ, sử dụng toàn bộ quyền lực của một ông chủ da trắng để chế ngự chúng mà không khiến chúng cảnh giác và kinh sợ, rồi ta đi vào phòng ngủ và đóng cửa lại. Rồi ta lại bị thêm một cú sốc trong đêm của những cú sốc. Bởi vì ta chưa từng thấy cha của Lestat trong trạng thái như thế.
“Lúc ấy, lão đã ngồi hẳn dậy, nghiêng về phía trước, nói chuyện với Lestat, cầu xin Lestat trả lời và nói rằng lão hiểu nỗi cay đắng của Lestat hơn chính hắn. Và giờ lão chỉ là một cái xác sống. Chẳng điều gì có thể giúp thân thể teo tóp của lão cử động ngoài một nguyện vọng mãnh liệt: vì thế ánh sáng bên trong khiến hai con mắt lão dường như trũng sâu hơn vào trong hộp sọ đôi môi run rẩy làm cho khuôn miệng nhăn nheo vàng vọt của lão trông càng khủng khiếp hơn. Ta ngồi ở chân giường, và đau đớn vì thấy lão như vậy, ta chìa bàn tay cho lão nắm. Thật khó để diễn đạt cho anh hiểu nỗi xúc động của ta khi nhìn dáng vẻ của lão. Bởi vì khi ta mang cái chết đến, nó sẽ đến một cách nhanh chóng và trong vô thức, để nạn nhân của ta tựa như bị phù phép vào trong giấc ngủ. Nhưng đây là một sự phân rã chậm rãi, cơ thể không chịu khuất phục con ma cà rồng thời gian đã hút dần sinh khí của nó trong nhiều năm trời. ‘Lestat,’ lão cất lời. ‘Chỉ cần một lần thôi, con đừng lạnh lùng với cha. Chỉ cần một lần thôi, hãy trở lại là đứa con trai ngày xưa của cha. Con trai ta.’ Lão cứ nhắc đi nhắc lại mấy chữ ‘Con trai ta, con trai ta’; sau đó, lão nói những điều ta không thể nghe rõ về sự vô tội và sự vô tội bị hủy hoại. Nhưng ta có thể thấy được lão không điên như Lestat vẫn nghĩ, ngược lại, lão còn đang tỉnh trí đến khủng khiếp. Gánh nặng của quá khứ đè nặng lên lão, và hiện tại, giờ chỉ là cái chết mà lão vẫn đang gắng gượng chống chọi, chẳng thể giảm bớt gánh nặng đó. Nhưng ta biết mình có thể đánh lừa được lão nếu dùng hết mọi mánh khóe của mình, vậy là ta liền nhích lại gần lão và thầm thì, ‘Cha ơi.’ Đó không phải giọng Lestat, đó là giọng của ta, một tiếng thì thầm dịu dàng. Nhưng ông già lập tức bình tĩnh lại và ta cứ tưởng lão sẽ nhắm mắt ra đi. Nhưng không, lão nắm lấy bàn tay ta như thể ta là người duy nhất có thể cứu lão khỏi những con sóng của đại dương đen ngòm đang cuốn lão vào. Lão nhắc đến một giáo viên ở miền quê cũ, một cái tên méo mó không nghe rõ, người đã nhận thấy Lestat là một học trò xuất sắc và cầu xin lão cho phép hắn đến học một tu viện. Lão nguyền rủa bản thân vì đã bắt Lestat phải về nhà, vì đã đốt hết sách của hắn. ‘Con phải tha thứ cho cha, Lestat,’ lão bật khóc.
“Ta siết chặt tay lão, mong có thể an ủi được phần nào, nhưng lão vẫn nhắc lại những lời này. ‘Dù không thiếu thứ gì trên đời nhưng con vẫn lạnh lùng và tàn bạo y như cha khi còn phải lao động cật lực để tranh đấu với cái lạnh và đói! Lestat, con phải nhớ. Con đã từng là đứa trẻ nhân từ nhất! Chúa sẽ tha thứ cho cha nếu con tha thứ cho cha.’
“Đúng lúc đó, đứa con trai thật sự của ông già bước vào phòng. Ta ra dấu yên lặng, nhưng hắn không thèm đếm xỉa. Vì vậy ta đứng bật dậy để ông già không nghe được tiếng hắn từ xa. Bọn nô lệ đã bỏ chạy khi thấy hắn xuất hiện. ‘Nhưng bọn chúng vẫn ở đâu đó ngoài kia và đang tụm lại trong bóng tối. Tôi có thể nghe thấy tiếng chúng,’ Lestat nói. Rồi hắn trừng mắt nhìn ông già. ‘Giết lão ta đi, Louis!’ hắn nói, giọng nhuốm vẻ van nài mà lần đầu tiên ta được nghe. Rồi hắn cắn môi giận dữ. ‘Làm đi!’”
‘Hãy cúi xuống bên gối và nói với cha anh rằng anh tha thứ cho ông ta, tha thứ việc ông ta đã bắt anh bỏ học khi còn nhỏ! Nói ngay bây giờ đi.’
‘Việc gì tôi phải thế!’ Lestat cau có, khiến mặt hắn trông như một cái đầu lâu. ‘Lão đã ép tôi phải bỏ học!’ Hắn vung tay lên trời, gầm một tiếng đầy tuyệt vọng. ‘Lão ta là đồ khốn! Giết lão đi!’ hắn nói.
‘Không,’ ta nói. ‘Hoặc anh tha thứ cho ông ta, hoặc anh tự đi mà giết. Làm đi. Tới giết cha đẻ anh đi.’
“Trong lúc đó, ông già khẩn thiết van nài bọn ta nói lớn hơn cho lão có thể cùng nghe. Rồi lão thốt lên, ‘Con trai ta, con trai ta,’ và Lestat điên cuồng giậm chân xuống sàn y như tên quỷ lùn Rumpelstiltskin sắp giẫm lún cả đất. Ta đi tới chỗ rèm cửa bằng ren. Ta có thể nhìn và nghe thấy bọn nô lệ đang vây quanh Pointe du Lac, túm tụm trong bóng tối, đang tiến tới gần. ‘Con chính là Joseph[2] giữa các anh em của mình,’ ông già nói. ‘Con là đứa tốt đẹp nhất, nhưng làm sao ta biết được? Ta chỉ nhận ra điều này khi con đã ra đi, khi mà trong suốt những năm tháng con vắng mặt, chúng nó chẳng cho ta được một chút an ủi nào. Và rồi con trở về để mang ta đi khỏi nông trại, nhưng khi đó, con không còn là con nữa. Không còn là đứa con ta từng biết nữa.’”
“Ta quay sang Lestat và lôi hắn xềnh xệch về phía giường ông già. Chưa bao giờ hắn lại có vẻ vừa yếu đuối vừa giận dữ đến như vậy. Hắn gạt tay ta ra và quỳ xuống cạnh ông già, mắt vẫn nhìn ta trừng trừng. Ta đứng đó, thì thầm kiên quyết, ‘Hãy nói tha thứ đi!’
‘Được rồi, cha. Cha nghỉ ngơi đi. Con không trách móc gì cha cả,’ hắn nói, giọng nhỏ và giận dữ.
“Ông già quay đầu lại và thì thầm gì đó vẻ nhẹ nhõm, nhưng Lestat đã rời đi. Hắn đứng lại cửa ra vào, úp tay lên tai. ‘Bọn chúng đang đến!’ hắn thì thầm; và rồi, quay lại để có thể nhìn thấy ta, hắn nói, ‘Giết lão đi. Vì Chúa.’
“Ông già mù không bao giờ biết chuyện gì đã xảy ra với mình. Lão không bao giờ tỉnh dậy khỏi cơn mê. Ta hút máu lão vừa đủ, mặc kệ vết thương, để lão sẽ chết nhưng không phải làm mồi cho cơn đói khát xấu xa của ta. Chỉ cần nghĩ đến việc đó thôi là ta đã không chịu nổi. Bây giờ, ta chẳng hề bận tâm đến việc ông già sẽ được tìm ra trong tình trạng này, bởi vì ta đã chán ngán tới tận cổ tất cả mọi thứ ở Pointe du Lac, bao gồm cả Lestat và vai trò ông chủ giàu có của đồn điền này. Ta sẽ thiêu trụi ngôi nhà này và chuyển đến với số tài sản ta đang sở hữu dưới những cái tên khác, hiện vẫn còn được an toàn.
“Trong khi đó, Lestat đuổi theo bọn nô lệ. Hắn sẽ gieo rắc cái chết và sự hủy diệt để không ai có thể lan truyền câu chuyện về đêm kinh hoàng ở Pointe du Lac, và ta đi cùng hắn. Cũng như trước, sự tàn bạo của hắn là một bí ẩn, nhưng bây giờ chính ta cũng nhe răng nanh trước những con người đang hoảng loạn chạy trốn, sức mạnh siêu nhiên của ta dễ dàng bắt kịp tốc độ vụng về, thảm hại của họ khi tấm màn chết chóc, hay là tấm màn điên rồ, phủ xuống. Giờ đây, chẳng thể ngờ vực sức mạnh và bằng chứng về ma cà rồng được nữa, nên bọn nô lệ chạy tán loạn khắp nơi. Còn ta chạy ngược trở lại để châm lửa đốt Pointe du Lac.
“Lestat vội vàng chạy theo ta. ‘Anh đang làm gì thế!’ hắn hét lên. ‘Anh điên rồi!’ Nhưng không còn cách nào để dập tắt ngọn lửa được nữa. ‘Chúng đã chạy rồi và chính anh đã phá hủy nó, phá sạch nó!’ Hắn chạy quanh phòng khách lộng lẫy. ‘Khiêng quan tài của anh ra đi. Chỉ còn ba tiếng đồng hồ nữa là bình minh đến rồi?’ ta nói với hắn. Ngôi nhà lúc này đã là một dàn hỏa thiêu.”
“Lửa có thể gây hại cho anh không?” chàng trai hỏi.
“Chắc chắn là có chứ!” ma cà rồng nói.
“Anh có quay lại thánh đường không? Nơi đó có an toàn không?”
“Không. Không hề. Khoảng năm mươi lăm nô lệ đã chạy mất. Phần lớn bọn chúng đều không muốn sống cuộc đời trốn chạy, nên chắc chắn chúng sẽ rẽ phải tới đồn điền Freniere hoặc tới Bel Jardin ở phía Nam. Ta không định ở lại đấy đêm đó. Nhưng không còn nhiều thời gian để đi đâu.”
“Còn cô gái đó, Babette!” chàng trai nói.
Ma cà rồng mỉm cười. “Đúng, ta đã tìm đến Babette. Nàng đang sống tại Freniere cùng người chồng trẻ. Ta vẫn còn đủ thời gian để chất quan tài lên xe ngựa và tới chỗ nàng.”
“Nhưng Lestat thì sao?”
Ma cà rồng thở dài. “Lestat đi cùng ta. Ban đầu, hắn muốn đến New Orleans và đã cố gắng thuyết phục ta đồng tình. Nhưng khi thấy ta định trốn ở Freniere, hắn cũng không phản đối gì. Bọn ta sẽ không bao giờ tới kịp New Orleans. Trời đang sáng dần. Không sáng đến mức mắt người thường có thể nhìn thấy được nhưng Lestat và ta thì có.
“Nói tới Babette, ta từng ghé thăm nàng một lần nữa. Như ta đã nói với anh, nàng đã gây nên một vụ ồn ào khi quyết định điều hành đồn điền mà không có bất cứ người đàn ông hay thậm chí một người phụ nữ lớn tuổi nào bên cạnh. Vấn đề lớn nhất của Babette là nàng đã bị cả xã hội tẩy chay dù kinh doanh rất thành công. Sự giàu có vốn dĩ không có nghĩa lý gì trong mắt Babette, mà gia đình, dòng tộc... đó mới là điều quan trọng với nàng. Dù nàng đã cứu được đồn điền của gia đình, những lời phỉ báng đang khiến nàng mệt mỏi. Từ sâu trong trái tim, nàng đã bỏ cuộc. Một đêm nọ, ta lại đến tìm nàng trong vườn. Không để nàng nhìn thấy mình, ta nói bằng giọng nhẹ nhàng nhất rằng ta chính là người nàng từng thấy trước đây. Rằng ta hiểu cuộc sống của nàng và mọi nỗi đau khổ nàng đang phải gánh chịu. ‘Cô đừng mong người ta sẽ hiểu cho cô,’ ta bảo nàng. ‘Họ là một đám ngu muội. Họ chỉ mong cô sẽ suy sụp sau cái chết của anh trai. Họ muốn có thể đốt cháy cuộc đời cô như cây đèn đốt dầu. Cô phải thách thức họ, nhưng cô phải thách thức họ bằng sự thanh khiết và tự tin.’ Nàng im lặng lắng nghe. Ta bảo nàng nên tổ chức một buổi dạ hội vì mục đích từ thiện nào đó. Và mục đích ấy sẽ là tôn giáo. Nàng có thể chọn một tu viện bất kỳ ở New Orleans và tổ chức một buổi lễ từ thiện. Ngoài ra, nàng nên nhờ một trong số những bà bạn thân nhất của người mẹ quá cố đi hộ tống. Trên tất cả, nàng phải tỏ ra thật tự tin. Sự tự tin và thanh khiết là yếu tố quan trọng nhất giúp nàng giành chiến thắng.
“Chà, Babette nghĩ đó là một sáng kiến thiên tài. ‘Tôi không biết ngài là ai và chắc chắn là ngài sẽ không nói với tôi,’ nàng nói. (Quả vậy, ta chắc chắn sẽ không tiết lộ cho nàng biết.) Nhưng đối với tôi, ngài không khác nào một thiên thần. Và nàng đã nài xin được nhìn thấy mặt ta. Có nghĩa là, nàng nài xin theo cách của những người như nàng, vốn không bao giờ chịu quỳ gối xin ai cái gì. Nói thế không có nghĩa Babette là kẻ kiêu ngạo. Nàng chỉ mạnh mẽ và trung thực, đến mức mà nếu nàng phải cầu xin thì... Hình như anh đang muốn hỏi ta điều gì đó.” Ma cà rồng ngừng lời.
“Ồ, không,” chàng trai vội đáp, rõ ràng muốn giấu ý định của mình.
“Anh không cần phải sợ, cứ hỏi nếu có điều cần hỏi. Nếu như ta có ý giấu giếm điều gì...” Khi nói câu này, khuôn mặt ma cà rồng tối sầm đi trong giây lát. Hắn nhăn mặt lại, hai hàng lông mày nhíu vào nhau làm lộ ra một lỗ nhỏ trên trán như thể có ai đã in rất mạnh ngón tay lên đó. Nó khiến cho khuôn mặt hắn có một vẻ đau khổ sâu sắc đến lạ lùng. “Nếu ta có ý giấu giếm điều gì không muốn anh hỏi đến, thì từ đầu ta đã chẳng nhắc đến nó làm gì,” hắn nói.
Chàng trai nhìn chằm chằm vào mắt ma cà rồng, vào hàng lông mi như những sợi tơ đen mảnh trên lớp mí mắt mềm mại.
“Cứ hỏi đi,” hắn nói với chàng trai.
“Cách anh nói về Babette,” chàng trai mở lời. “Cứ như thể anh có tình cảm rất đặc biệt.”
“Có phải ta đã khiến anh có ấn tượng rằng ta là một sinh vật vô cảm?” ma cà rồng hỏi.
“Không, không hề. Rõ ràng anh đã xúc động trước tình cảnh của ông già mù. Anh đã nán lại để an ủi ông ta dù bản thân đang gặp nguy hiểm. Và cả lòng thương xót của anh đối với chàng trai nhà Freniere khi Lestat muốn giết cậu ta nữa... anh đã giải thích rõ ràng tất cả những điều đó rồi. Cái mà tôi đang thắc mắc là... anh có dành cho Babette một tình cảm đặc biệt không? Phải chăng chính tình cảm với Babette đã thôi thúc anh bảo vệ anh trai cô ấy?”
“Anh đang ám chỉ tình yêu phải không,” ma cà rồng nói. “Sao anh lại phải ngần ngại không dám nói thẳng ra?”
“Vì anh đã nói rằng anh không còn gắn bó gì với những cảm xúc trần tục,” chàng trai nói.
“Anh có nghĩ rằng các thiên thần không có những cảm xúc như con người không?” ma cà rồng hỏi.
“Chàng trai suy nghĩ một lúc. “Có,” anh nói.
“Nhưng chẳng phải thiên thần vẫn có khả năng yêu hay sao?” ma cà rồng tiếp tục hỏi. “Chẳng phải các thiên thần luôn ngước nhìn Chúa với một tình yêu toàn vẹn hay sao?”
Chàng trai lại suy nghĩ mất một lúc. “Tình yêu hoặc sự tôn thờ,” anh nói.
“Thế sự khác biệt là gì?” ma cà rồng trầm tư hỏi. “Sự khác biệt là gì?” Đó rõ ràng không phải câu hỏi dành cho chàng trai. Ma cà rồng đang tự hỏi chính mình. “Thiên thần có thể cảm nhận được tình yêu, niềm tự hào... niềm tự hào của Sự Sa ngã[3]... và cả nỗi hận thù. Các cảm xúc mãnh liệt choáng ngợp của những kẻ tách biệt mà trong họ, khao khát và ý chí hòa làm một,” cuối cùng, ma cà rồng nói. Hắn nhìn trân trối xuống mặt bàn, dường như đang gắt gao suy nghĩ, vẫn chưa thực sự thỏa mãn với cách giải thích của mình. “Ta đã dành cho Babette... một cảm xúc mạnh mẽ. Đó không phải là cảm xúc mãnh liệt nhất ta từng có với một con người.” Ma cà rồng ngước lên nhìn chàng trai. “Nhưng đó thực sự là một cảm xúc mạnh mẽ. Trong mắt ta, Babette, theo cách riêng của nàng, là một con người lý tưởng.”
Hắn dịch người trên ghế, chiếc áo choàng chuyển động nhẹ nhàng quanh người, và quay mặt về phía cửa sổ.
Chàng trai cúi xuống để kiểm tra băng ghi âm. Anh lấy một cuộn băng khác ra khỏi cặp tài liệu và xin phép ma cà rồng rồi gắn băng vào máy, “Tôi sợ rằng tôi đã hỏi anh một điều quá riêng tư. Tôi thật sự không có ý đó...” anh lúng túng phân trần với ma cà rồng.
“Câu anh hỏi không có gì quá riêng tư cả,” ma cà rồng đáp và bất chợt quay lại nhìn chàng trai. “Đó thực ra là một câu hỏi rất thẳng thắn. Ta cảm nhận được tình yêu, và ta cảm nhận được tình yêu ở một mức độ nào đó với Babette, mặc dù đó không phải là tình yêu lớn nhất cuộc đời ta. Babette là điềm báo cho tình yêu trong tương lai.
“Trở lại câu chuyện của ta, buổi vũ hội từ thiện của Babette đã thành công và nàng được xã hội chấp nhận trở lại. Số tiền nàng có đủ để xóa tan mọi ngờ vực của gia đình những người cầu hôn nàng, và nàng kết hôn. Trong những đêm hè, ta vẫn thường ghé tới thăm Babette mà không để nàng nhìn thấy hay nhận ra sự hiện diện của mình. Ta muốn đến để thấy nàng hạnh phúc và khi thấy được điều đó, ta cảm thấy chính mình cũng hạnh phúc.
“Và bây giờ ta đến thăm Babette cùng Lestat. Hắn hẳn đã giết cả nhà Freniere từ lâu nếu ta không cố ngăn lại, và giờ hắn tưởng ta định làm theo ý hắn. ‘Làm thế thì có mang lại chút bình yên nào không?’ ta hỏi hắn. ‘Anh gọi tôi là thằng đần trong khi từ trước đến nay, chính anh mới là một thằng đần. Anh tưởng tôi không biết vì sao anh lại biến tôi thành ma cà rồng? Anh không thể sống một mình, không thể tự lo liệu ngay cả những việc đơn giản nhất. Trong mấy năm qua, tôi đã sắp xếp mọi thứ đâu ra đó trong khi anh chỉ ngồi một chỗ tỏ vẻ ta đây hơn người. Anh chẳng còn gì để dạy tôi về cuộc sống nữa. Tôi không cần anh và anh cũng chẳng có ích gì cho tôi cả. Chính anh mới cần tôi và nếu anh dám đụng vào một đứa nô lệ của nhà Freniere thôi, tôi sẽ tống anh đi ngay lập tức. Đó sẽ là một trận chiến giữa chúng ta và chắc tôi không cần phải nhắc anh nhớ rằng chỉ cần một ngón tay của tôi cũng còn hơn khối cả cơ thể của anh. Anh phải nghe lời tôi.’
“Thế đấy, những lời ta nói đã làm Lestat choáng váng, dù lẽ ra cũng không đến mức như vậy; và hắn bèn phản đối, lấy lý do hắn còn rất nhiều thứ để dạy ta và ta vẫn chưa biết là có nhiều kiểu người có thể dẫn đến cái chết đột ngột cho ta nếu ta giết họ, có nhiều nơi ta không bao giờ được tới và đủ thứ khác, vớ vẩn tới mức không thể chịu đựng được. Nhưng ta không có thời gian cho hắn. Đèn của đốc công ở Freniere đã sáng lên; ông ta đang cố đè nén sự kích động của những nô lệ chạy trốn và nô lệ của chính mình. Đám cháy ở Pointe du Lac vẫn đang rực sáng trên nền trời đêm. Babette đã thay trang phục và đang lo liệu công việc, cho xe ngựa chở nô lệ đến Pointe du Lac để giúp dập lửa. Những kẻ chạy trốn hoảng sợ đã được giữ tránh xa khỏi các nô lệ khác, ai cũng nghĩ câu chuyện chúng kể là chuyện ngớ ngẩn của bọn nô lệ. Babette biết có chuyện khủng khiếp đã xảy ra và ngỡ rằng đó là một vụ giết người, chứ chẳng có gì siêu nhiên hết. Lúc ta đến, nàng đang ngồi trong phòng làm việc, ghi chú về vụ cháy vào nhật ký của đồn điền. Trời đã sắp sáng. Ta chỉ có vài phút để thuyết phục nàng giúp đỡ. Ta chào nàng, yêu cầu nàng không quay đầu lại, và nàng bình tĩnh lắng nghe. Ta nói rằng ta cần một căn phòng để nghỉ ngơi qua đêm. ‘Tôi chưa bao giờ làm gì có hại cho cô. Giờ, tôi chỉ xin cô hãy đưa cho tôi một chiếc chìa khóa, và hãy hứa là sẽ không có ai tìm cách vào trong căn phòng đó cho đến tối nay. Và tôi sẽ kể với cô mọi chuyện.’ Giờ ta đã gần như tuyệt vọng. Trời đã sắp hửng, Lestat đang đứng trong vườn cây ăn quả cùng hai cái quan tài.
‘Nhưng tại sao tối nay ngài lại đến tìm tôi?’ nàng hỏi. ‘Tại sao lại không?’ ta đáp. ‘Chẳng phải chính tôi đã giúp đỡ cô khi cô đang khẩn thiết cần sự dìu dắt, khi chỉ có cô tỏ ra mạnh mẽ trong khi những người khác đều yếu ớt và cần chỗ đưa? Chẳng phải tôi đã hai lần cho cô những lời khuyên đáng giá? Và chẳng phải tôi chính là người đã dõi theo hạnh phúc của cô từ bấy đến giờ?’ Ta có thể thấy bóng Lestat trên cửa sổ. Hắn đang hoảng loạn. ‘Hãy đưa cho tôi chìa khóa một căn phòng nào đó. Đừng để ai tới gần đó cho đến khi màn đêm buông xuống. Tôi thề sẽ không bao giờ làm hại cô.’
‘Vậy nếu tôi không... nếu tôi tin rằng ngài là hiện thân của ác quỷ thì sao!’ nàng nói và định quay đầu lại. Ta với lấy ngọn nến, thổi tắt nó. Nàng đã nhìn thấy ta đang đứng quay lưng lại với ô cửa sổ dần sáng. ‘Nếu cô không làm theo, nếu cô nghĩ tôi là ác quỷ, tôi sẽ chết,’ ta nói. ‘Hãy đưa chìa khóa cho tôi. Nếu muốn, tôi có thể giết cô ngay bây giờ, cô có hiểu không?’ Và ta tiến tới gần để nàng có thể nhìn ta rõ hơn, khiến nàng nấc lên một tiếng và lùi lại, bấu lấy tay ghế. ‘Nhưng tôi sẽ không làm thế. Tôi thà chết còn hơn là giết cô. Và tôi sẽ chết thật nếu cô không đưa chìa khóa cho tôi.’
“Rốt cuộc nàng cũng đồng ý. Ta không biết nàng nghĩ gì. Nhưng nàng đã cho ta mượn tạm một phòng trữ rượu dưới tầng hầm và ta dám chắc nàng đã thấy ta cùng với Lestat mang theo hai chiếc quan tài. Ta không chỉ khóa phòng mà còn chặn cửa lại. Tối đó khi ta tỉnh giấc, Lestat đã dậy rồi.”
“Vậy là cô ấy đã giữ lời hứa.”
“Phải. Chỉ có điều nàng đã đi xa hơn. Nàng không chỉ ngăn không cho ai xâm nhập vào căn phòng ta đã khóa mà còn khóa nó lại từ phía ngoài.”
“Nghĩa là cô ấy đã nghe được... câu chuyện của các nô lệ.”
“Phải, nàng đã nghe được. Tuy nhiên, Lestat là người đầu tiên phát giác bọn ta đã bị chết. Hắn nổi điên lên. Hắn đã định đến New Orleans càng nhanh càng tốt. Hắn tỏ ra đề phòng ta hơn bao giờ hết. ‘Tôi chỉ cần anh khi cha tôi còn sống,’ hắn nói, tuyệt vọng tìm một lỗ hổng. Nơi này không khác gì một hầm ngục. ‘Từ giờ tôi sẽ không chịu đựng anh nữa, tôi cảnh cáo anh đấy.’ Hắn thậm chí còn không muốn quay lưng về phía ta. Ta ngồi đó, dỏng tai lên nghe ngóng mọi động tĩnh từ căn phòng phía trên, chỉ muốn hắn ngậm miệng lại, không hề muốn chia sẻ với hắn về cảm xúc ta dành cho Babette hay hy vọng của ta.
“Lúc ấy, ta còn nghĩ đến một chuyện khác. Anh đã hỏi ta về cảm xúc và sự tách biệt. Một trong những khía cạnh của nó - ý ta là sự tách biệt với cảm xúc - đó là anh có thể nghĩ về hai vấn đề cùng một lúc. Anh có thể nghĩ rằng anh đang gặp nguy hiểm và có khả năng sẽ chết, anh lại cũng có thể nghĩ về một điều rất trừu tượng và xa xôi. Và chính ta đã như thế. Vào lúc đó, ta đã suy nghĩ, một cách lặng lẽ và khá sâu sắc, rằng lẽ ra ta và Lestat phải có một tình bạn tuyệt vời, lẽ ra mối quan hệ của bọn ta phải ít trắc trở và nhiều cảm thông hơn. Có lẽ sự gần gũi với Babette đã khơi dậy trong ta những cảm xúc đó, bởi vì để thực sự hiểu được Babette, ta chẳng có cách nào khác ngoài cướp đi sinh mạng của nàng, hòa vào làm một với nàng trong vòng tay của cái chết, khi tâm hồn ta nhập làm một với trái tim nàng và được nó nuôi dưỡng. Nhưng tâm hồn ta mong muốn thấu hiểu được Babette mà không phải giết nàng, không cần phải cướp đi hơi thở và giọt máu nào của nàng. Nhưng còn Lestat, ta và hắn lẽ ra đã có thể là bạn đồng hành của nhau, nếu hắn có nhân cách và biết suy nghĩ dù chỉ một chút. Những lời ông già mù nói vang lên trong đầu ta; Lestat đã từng là một học sinh xuất sắc, từng yêu những cuốn sách đã bị đốt. Ta vốn chỉ biết đến một Lestat cười nhạo thư viện của ta, gọi nơi đó là một đống bụi và coi khinh việc ta đọc sách, việc ta trầm tư suy tưởng.
“Rồi ta nhận ra căn nhà bên trên đang im ắng. Thỉnh thoảng có tiếng bàn chân di chuyển khiến những miếng ván sàn kêu cọt kẹt và ánh sáng mờ ảo luồn qua những khe hở lập lòe chiếu xuống chỗ ta. Ta có thể thấy Lestat đang men theo bức tường gạch, khuôn mặt ma cà rồng trơ cứng của hắn giờ đây nhăn nhúm với vẻ bực tức rất con người. Ta biết ta và hắn phải chia tay ngay lập tức, thậm chí nếu có thể, ta sẽ đặt một đại dương ở giữa chúng ta. Và ta nhận ra mình đã chịu đựng hắn bao lâu nay chỉ vì thiếu tự tin. Ta đã tự lừa dối bản thân rằng mình cần ở cùng Lestat vì ông già mù và gia đình em gái. Nhưng sự thực ta ở lại với Lestat vì ta sợ rằng quả thực hắn nắm được những bí mật về ma cà rồng mà ta không thể tự mình khám phá ra, vì hắn là đồng loại duy nhất mà ta biết. Hắn chưa bao giờ tiết lộ với ta hắn đã biến thành ma cà rồng như thế nào và ta phải đến đâu để tìm được những ma cà rồng khác. Trong giây phút ấy, đó vẫn là điều khiến ta khổ não nhất, cũng như trong suốt bốn năm trời qua. Ta rất ghét và muốn rời bỏ Lestat, nhưng liệu ta có thể rời bỏ hắn không?
“Trong khi những suy nghĩ ấy lùng bùng trong đầu ta, Lestat vẫn không ngừng càm ràm rằng hắn không cần ta; hắn sẽ không chịu đựng sự kiểm soát của bất cứ ai, đặc biệt là từ người nhà Freniere. Bọn ta phải chuẩn bị sẵn sàng ngay khi cửa phòng được mở ra. ‘Nhớ đấy!’ cuối cùng hắn nói với ta. ‘Tốc độ và sức mạnh, con người không thể đọ lại chúng ta khoản này. Và nỗi sợ. Nhớ luôn đánh vào nỗi sợ. Cũng đừng ủy mị nữa! Anh sẽ đẩy cả hai tới miệng vực đấy.’
‘Anh muốn chúng ta đường ai nấy đi sau khi thoát khỏi đây?’ ta hỏi hắn. Ta muốn hắn là người tuyên bố điều đó. Ta không đủ can đảm. Hay nói đúng hơn, ta còn không biết chính mình muốn gì.
‘Tôi muốn đến New Orleans!’ hắn nói. ‘Tôi chỉ cảnh cáo anh là tôi không cần anh. Nhưng để ra được khỏi đây thì chúng ta phải hợp tác với nhau. Anh thậm chí còn chưa biết dùng năng lực của mình! Anh không ý thức được mình là cái gì? Hãy dùng khả năng của anh mê hoặc đứa con gái đó nếu nó vào đây. Nhưng nếu nó mang theo những người khác xuống thì anh phải sẵn sàng hành xử như một ma cà rồng.’
‘Nghĩa là tôi phải làm gì?’ ta hỏi hắn, vì chưa bao giờ ta thấy việc sử dụng khả năng của ma cà rồng lại bí ẩn đến vậy. ‘Và tôi là cái gì?’
Hắn nổi khùng. Hắn vung cả hai tay lên trời. ‘Hãy sẵn sàng...’ hắn nói, hai hàm răng tuyệt đẹp nhe ra, ‘giết chóc!’ Rồi hắn bất ngờ ngửa đầu nhìn lên trần. ‘Chúng đang chuẩn bị đi ngủ, anh có nghe được tiếng chúng không?’ Một hồi lâu im lặng, Lestat đi tới đi lui còn ta ngồi mơ màng nghĩ về những điều nên nói với Babette, và sâu xa hơn, là tìm câu trả lời cho một câu hỏi khó khăn hơn - cảm xúc thực sự ta dành cho Babette là gì?
“Sau đó, một tia sáng lóe lên dưới khe cửa Lestat đã sẵn sàng để tấn công bất cứ ai bước qua cánh cửa đó. Chỉ có một mình Babette tiến vào, mang theo một cây đèn, không nhìn Lestat đang đứng sau nàng mà nhìn thẳng vào ta.
“Ta chưa bao giờ thấy nàng trong dáng vẻ đó: mái tóc nàng buông xõa, đổ những con sóng màu đen trên chiếc áo choàng trắng, khuôn mặt nàng căng thẳng vì lo lắng xen lẫn sợ hãi. Biểu cảm ấy làm mặt nàng bừng lên như phát sốt và khiến đôi mắt nâu to của nàng dường như càng to hơn. Như ta đã nói với anh, ta yêu sự mạnh mẽ và chân thật của nàng, yêu tâm hồn cao quý của nàng. Ta không say mê nàng bằng sự say mê của con người. Nhưng ta thấy nàng quyến rũ hơn bất cứ người phụ nữ nào khác ta từng gặp hồi còn là con người. Ngay cả trong chiếc áo choàng khắc khổ, cánh tay và bầu ngực nàng vẫn hiện lên tròn lẳn, mềm mại; và đối với ta, nàng là một linh hồn đầy cuốn hút được bao bọc trong da thịt bí ẩn, hấp dẫn. Một kẻ lạnh lùng, vô tình và chỉ chú tâm vào mục tiêu của mình như ta lại bị nàng quyến rũ không thể cưỡng lại; và, biết rằng cảm xúc này sẽ dẫn mình tới chỗ chết, ta vội quay mặt đi, băn khoăn không biết nếu Babette nhìn sâu vào mắt ta, liệu nàng có thấy chúng vô hồn và chết chóc không.”
‘Trước đây ngài đã từng đến gặp tôi,’ nàng nói, như thể không chắc chắn. ‘Và ngài là chủ nhân của đồn điền Pointe du Lac. Chính là ngài!’ Ngay khi nàng thốt ra những lời này, ta biết ắt hẳn nàng đã nghe được những câu chuyện hoang đường nhất về đêm qua, và chẳng có cách nào khiến nàng tin vào bất kỳ lời dối trá nào. Ta đã từng xuất hiện với vẻ ngoài siêu nhiên và trò chuyện cùng nàng hai lần rồi; giờ đây, ta không thể giấu giếm hoặc giảm bớt vẻ siêu nhiên ấy được nữa.
‘Tôi không muốn làm hại cô,’ ta nói với nàng. ‘Tôi chỉ cần một chiếc xe và ngựa... hai con ngựa đêm qua tôi để lại trên đồng cỏ ấy.’ Babette không có vẻ gì là đang lắng nghe ta; nàng tiến lại gần hơn, quyết tâm nhìn rõ ta trong quầng sáng từ cây đèn.
“Và rồi ta thấy Lestat đang bám theo phía sau nàng, bóng hắn hòa lẫn vào bóng nàng trên tường gạch, hắn đang rất căng thẳng và nguy hiểm. ‘Cô sẽ cho tôi một chiếc xe ngựa đúng không?’ ta van nài. Nàng đang nhìn thẳng vào ta, tay nâng cao ngọn đèn; và ngay khi ta định quay mặt đi, nét mặt nàng bỗng biến đổi. Nó trở nên trơ cứng, lạnh tanh như thể linh hồn đã lạc khởi thể xác nàng. Nàng nhắm mắt lại và lắc đầu. Ta thiết nghĩ rằng có lẽ ta đã vô tình thôi miên nàng bằng cách nào đó. ‘Ngài là cái gì vậy!’ nàng thì thầm. ‘Ngài là quỷ dữ.’ ‘Ngài từ chỗ quỷ dữ đến gặp tôi!’
‘Quỷ dữ ư!’ ta đáp. Kết luận này của nàng khiến ta đau đớn hơn cả tưởng tượng. Nếu nàng tin như vậy, nàng chắc chắn sẽ nghĩ xấu về những lời khuyên của ta; nàng sẽ nghi ngờ chính bản thân. Nàng đã sống một cuộc đời phong phú và tốt đẹp, ta biết nàng không được phép nghi ngờ bản thân. Giống như những con người mạnh mẽ khác, nàng đã luôn phải chịu đựng nỗi cô đơn; xét ở mặt nào đó, nàng là một kẻ đứng bên rìa xã hội, một người ngoại đạo bí mật. Cuộc sống đang cân bằng của nàng sẽ trở nên chông chênh nếu nàng nghi ngờ lòng tốt của bản thân. Bấy giờ, nàng đang nhìn ta trừng trừng bằng ánh mắt kinh hoàng không che giấu. Như thể trong cơn hoảng loạn, nàng đã quên mất bản thân đang ở trong tình thế nguy hiểm như thế nào. Và Lestat, kẻ luôn bị sự yếu đuối thu hút như kẻ sắp chết khát tìm đến nước, nắm lấy cổ tay nàng, khiến nàng hét lên và đánh rơi ngọn đèn. Những đốm lửa bùng lên trên những giọt dầu văng ra, rồi Lestat kéo nàng lùi về phía cánh cửa đang mở. ‘Cô sẽ chuẩn bị cho bọn ta một chiếc xe ngựa!’ hắn hằm hè. ‘Chuẩn bị ngay lập tức, cả ngựa kéo nữa. Cô nên lo cho tính mạng của mình đi chứ đừng lải nhải về ma quỷ nữa!’ “Ta giẫm lên những ngọn lửa và lao tới chỗ Lestat, hét bảo hắn phải buông nàng ra ngay. Hắn đang tóm chặt cả hai tay nàng và nàng đang vô cùng giận dữ. ‘Nếu không ngậm miệng lại thì anh sẽ dựng cả cái nhà này dậy đấy!’ hắn đáp trả. ‘Và tôi chắc chắn sẽ giết cô ta? Đem xe ngựa ra... dẫn đường mau! Truyền lệnh cho thằng bé giữ ngựa đi!’ hắn nạt Babette và thúc nàng ra khỏi cửa.
“Chúng ta chậm chạp bước qua khoảng sân tối đen, nỗi đau đớn của ta dường như không thể chịu đựng được; Lestat đi phía trước ta và đi đầu là Babette đang bước giật lùi, mắt săm soi bọn ta trong bóng đêm. Đột nhiên nàng dừng lại. Căn phòng trên lầu đột nhiên le lói ánh đèn. ‘Tôi sẽ không cho hai người cái gì hết!’ nàng nói. Ta với lấy cánh tay Lestat, bảo hắn để việc này cho ta lo liệu. ‘Cô ấy sẽ cho tất cả mọi người biết chúng ta là gì, trừ phi anh để tôi thuyết phục cô ấy,’ ta thì thầm với hắn.
‘Vậy thì làm ngay đi,’ hắn nói vẻ ghê tởm. ‘Cứng rắn vào. Đừng vòng vo với cô ta.’
‘Khi tôi nói chuyện với cô ấy thì anh đi đi... ra chuồng ngựa, lấy xe và ngựa. Nhưng đừng giết ai cả!’ Ta không dám chắc là hắn sẽ chịu nghe theo, nhưng rồi hắn cũng phóng đi trong lúc ta bước tới gần Babette. Khuôn mặt nàng vừa giận dữ vừa cương quyết. Nàng quát lên, ‘Cút đi, Satan.’ Và ta cứ đứng đó trước mặt nàng, không nói một lời, trân trân nhìn nàng trong lúc nàng cũng trân trân nhìn ta. Nếu có nghe thấy tiếng Lestat chạy đi trong đêm thì nàng cũng không để lộ ra. Nỗi căm hờn nàng dành cho ta khiến ta như bị thiêu đốt.
‘Sao cô nỡ nói như vậy với tôi?’ ta hỏi. ‘Những lời khuyên của tôi với cô là xấu sao? Chúng đã gây hại cho cô sao? Tôi chỉ muốn giúp cô, muốn truyền cho cô sức mạnh. Tôi đã lo lắng cho cô trong khi lẽ ra tôi không cần phải như vậy.’
“Nàng lắc đầu. ‘Nhưng tại sao, tại sao ngươi lại nói chuyện với ta như thế này?’ nàng hỏi. ‘Ta biết tội ác ngươi đã gây ra ở Pointe du Lac; ngươi đã sống ở đó như một con quỷ! Nô lệ của ngươi đã phát điên vì hoảng sợ! Suốt cả ngày hôm nay người ta đã ngược xuôi dọc bờ sông để tới Pointe du Lac; chồng ta cũng vậy! Chồng ta nói tòa nhà đã đổ nát, xác nô lệ tràn lan trong vườn, trong sân. Ngươi là cái gì! Tại sao ngươi lại nói chuyện với ta dịu dàng như vậy? Ngươi muốn gì ở ta?’ Nàng đang bám vào hàng cột bên hiên nhà và lùi dần lại phía cầu thang. Có thứ gì đó đang chuyển động nơi ô cửa sổ đã được thắp sáng.
‘Tôi không thể trả lời những câu hỏi đó của cô ngay bây giờ,’ ta nói với nàng. ‘Nhưng hãy tin rằng tôi chỉ đến để giúp đỡ cô. Và nếu không phải vì bất đắc dĩ, đêm qua tôi cũng không tới đây cầu xin để khiến cô phải lo sợ!’
Ma cà rồng ngừng lời.
Chàng trai ngồi thẳng dậy, mắt mở to. Ma cà rồng dường như đã bị đóng băng, nhìn vô định, lạc bước trong những nghĩ suy và hồi tưởng của mình. Chàng trai vội cúi xuống như muốn tỏ thái độ tôn kính. Anh khẽ liếc nhìn ma cà rồng rồi lại nhìn đi nơi khác, khuôn mặt cũng đau khổ không kém gì hắn; rồi anh mở miệng định nói gì đó nhưng lại thôi.
Ma cà rồng quay lại nhìn chàng trai với vẻ thăm dò khiến anh đỏ mặt và căng thẳng nhìn ra nơi khác. Nhưng sau đó anh ngước lên và nhìn thẳng vào mắt ma cà rồng. Anh nuốt nước bọt, nhưng vẫn không rời mắt khỏi hắn.
“Đó có phải điều anh muốn không?” ma cà rồng thì thầm. “Đó có phải điều anh muốn nghe không?”
Hắn nhẹ nhàng đẩy cái ghế về phía sau và bước tới phía cửa sổ. Chàng trai ngồi đó như bị choáng ngập, nhìn đôi vai rộng và vạt áo khoác dài của hắn. Ma cà rồng hơi quay đầu lại. “Anh vẫn chưa trả lời ta. Ta chưa cung cấp cho anh điều anh muốn nghe, phải không? Thứ anh muốn là một cuộc phỏng vấn đúng nghĩa. Thứ anh có thể đem đi phát trên đài.”
“Điều đó không quan trọng. Tôi sẽ ném hết số băng này đi nếu anh muốn!” Chàng trai đứng lên. “Tôi không thể nói là tôi hiểu hết những gì anh đang kể. Nếu tôi nói tôi hiểu, anh sẽ biết ngay là tôi đang nói dối. Vậy nên làm sao tôi có thể yêu cầu anh tiếp tục kể được chứ, ngoại trừ việc nói rằng những điều tôi hiểu... những điều tôi hiểu hoàn toàn khác với những điều trước đây tôi từng hiểu.” Anh tiến tới gần ma cà rồng. Ma cà rồng giờ đây lại đang nhìn xuống phố Divisadero. Hắn chầm chậm quay đầu lại nhìn chàng trai và mỉm cười. Khuôn mặt hắn hiện lên vẻ thanh thản và gần như trìu mến. Chàng trai đột nhiên cảm thấy bối rối. Anh đút hai tay vào túi áo rồi quay lại phía bàn. Sau đó, anh ngập ngừng nhìn ma cà rồng rồi nói, “Anh có thể... tiếp tục câu chuyện không?”
Ma cà rồng quay lại, hai tay khoanh trước ngực và tựa người vào cửa sổ. “Tại sao?” hắn hỏi.
Chàng trai tỏ ra bối rối. “Vì tôi muốn nghe tiếp.” Anh nhún vai. “Bởi vì tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra sau đó.”
“Được rồi,” ma cà rồng nói, vẫn với nụ cười thấp thoáng trên môi. Hắn trở lại ngồi trên ghế, đối diện với chàng trai và hơi xoay chiếc máy ghi âm lại rồi nói, “Thật là một thiết bị kỳ diệu vậy hãy để ta tiếp tục câu chuyện.
“Anh phải hiểu rằng cảm xúc ta dành cho Babette lúc bấy giờ là mong muốn được thấu hiểu, mạnh mẽ hơn bất kỳ cảm xúc nào khác ta tìm có... ngoại trừ cơn khát máu. Mong muốn ấy bùng lên dữ dội đến mức giúp ta cảm nhận rõ ràng hơn khả năng chịu đựng nỗi cô độc của mình. Trong những lần trò chuyện với nàng trước đây, chỉ có một sự thấu hiểu ngắn ngủi nhưng trực tiếp, cũng đơn giản và dễ chịu như nắm tay ai đó. Siết chặt bàn tay ấy. Rồi buông ra nhẹ nhàng. Tất cả diễn ra trong một khoảnh khắc thống khổ và khao khát. Nhưng bây giờ thì chúng ta đang xung đột với nhau. Đối với Babette, ta là một con quái vật; ta thấy điều đó thật khủng khiếp và sẵn sàng làm bất cứ điều gì để xóa đi cảm giác ấy trong nàng. Ta nói với nàng rằng những lời khuyên ta từng đưa ra cho nàng là hoàn toàn đúng đắn, rằng không tay sai nào của ác quỷ có thể làm điều đúng đắn dù cho hắn có muốn đi chăng nữa.
‘Ta biết!’ nàng trả lời. Nhưng câu trả lời này có nghĩa rằng nàng cũng chẳng thể tin ta hơn tin ác quỷ. Ta tiến lại gần hơn và nàng lùi lại. Ta chìa bàn tay ra và nàng co người lại, bám chặt lấy lan can. ‘Thôi được,’ ta nói, chán nản vô cùng. ‘Thế tại sao đêm qua cô lại bảo vệ tôi? Tại sao cô lại dám xuống gặp tôi một mình!’ Ta có thể thấy nét xảo trá thoáng qua trên khuôn mặt nàng. Nàng có lý do, nhưng nàng sẽ không tiết lộ. Nàng không thể nói chuyện với ta một cách thoải mái, cởi mở và cho ta sự thấu hiểu như ta hằng mong mỏi. Ta cảm thấy mệt mỏi khi nhìn nàng. Đêm đã khuya lắm rồi, ta có thể nghe và thấy Lestat đang lẻn vào hầm rượu để lấy hai chiếc quan tài đi, và ta cần phải đi; rồi cần cả nhiều điều khác... cần giết chóc, cần uống máu. Nhưng đó không phải thứ khiến ta mệt mỏi. Là một thứ khác, một thứ tệ hơn nhiều. Như thể đêm nay chỉ là một trong số hàng ngàn đêm khác, một thế giới vô tận, đêm nhập vào đêm thành một vòng cung khổng lồ mà ta không thể nhìn thấy điểm kết thúc, một đêm mà ta phải lang thang một mình dưới những vì sao lạnh lẽo, vô hồn. Ta quay lưng lại với Babette và đưa tay lên mắt. Ta cảm thấy bức bối và đột nhiên trở nên yếu ớt. Ta rên lên trong vô thức. Và sau đó, trên vùng đất mênh mông và hoang vắng của đêm, nơi ta đang đứng trơ trọi và nơi Babette chỉ là một ảo ảnh, ta đột nhiên nghĩ tới một khả năng mà trước đây ta chưa từng cân nhắc, khả năng mà ta đã luôn tìm cách trốn chạy vì quá say mê với thế gian này, quá chăm chú với các giác quan của ma cà rồng, quá yêu tất cả màu sắc, đường nét, âm thanh, những lời ca, sự mềm mại và sự luân chuyển không ngừng của nó. Babette đang di chuyển, nhưng ta không chú ý tới điều đó. Nàng móc từ túi áo ra một vật gì đó; chùm chìa khóa nhà rất lớn kêu xủng xoảng trong áo nàng. Nàng đang chạy lên cầu thang. Để nàng đi đi, ta nghĩ. ‘Đồ ác quỷ!’ ta thì thầm. ‘Cút đi, Satan,’ ta lặp lại. Ta quay lại nhìn nàng. Nàng đang đứng như bị đóng băng trên bậc cầu thang với đôi mắt mở to đầy nghi hoặc. Nàng với lấy một ngọn đèn đang treo trên tường và nắm chặt nó bằng cả hai tay như một vật vô cùng quý giá, trong khi nhìn trừng trừng vào ta. ‘Cô nghĩ tôi là hiện thân của ma quỷ sao?’ ta hỏi nàng.
“Nàng vội siết tay trái quanh quai đèn và lấy tay phải làm dấu thánh, rầm rầm những từ tiếng Latin nghe không rõ là gì; mặt nàng tái nhợt đi và cặp lông mày nhướng lên khi nàng thấy hành động của mình không đem lại hiệu quả gì.
‘Phải chăng cô đang hy vọng sẽ thấy tôi tan biến đi như làn khói?’ ta hỏi nàng. Ta tiến tới gần nàng hơn, vì giờ ta đã có thể thờ ơ trước nàng nhờ vào lý trí. ‘Và cô nghĩ tôi sẽ đi đâu?’ ta hỏi. ‘Đến địa ngục, nơi tôi sinh ra chăng? Đến với ác quỷ, kẻ sinh ra tôi chăng?’ Ta đứng dưới chân cầu thang. ‘Nếu tôi nói rằng tôi chẳng biết chút gì về ác quỷ thì sao? Nếu tôi nói rằng tôi thậm chí còn không biết hắn có tồn tại hay không thì sao!’ Ta quay người rời xa nàng. Nàng không hề lắng nghe ta như anh lúc này. Nàng chẳng nghe một lời nào cả. Ta ngước lên nhìn những vì sao. Lestat đã sẵn sàng, ta biết điều đó. Tựa hồ hắn đã ngồi trên xe ngựa chờ ta từ bao năm nay; và nàng cũng đã đứng trên cầu thang kia rất lâu rồi. Và đột nhiên ta có cảm giác như em trai mình cũng có mặt ở đây từ rất lâu, nó đang khe khẽ trò chuyện với ta bằng giọng phấn khích, và những điều nó nói có vẻ cực kỳ quan trọng nhưng vừa thốt ra đã trôi tuột qua tai ta nhanh như một bầy chuột đang hối hả chạy trên xà nhà của một biệt thự rộng lớn. Có tiếng lạo xạo và ánh sáng bùng lên. ‘Tôi không biết mình có phải hiện thân của ác quỷ hay không! Tôi không biết tôi là cái gì cả!’ ta hét lên với Babette, tiếng ta ong ong trong đôi tai bén nhạy của chính mình. ‘Tôi sẽ sống đến khi thế giới này diệt vong, và tôi thậm chí còn chẳng biết mình là thứ sinh vật gì!’ Nhưng ánh sáng rực lên trước mắt ta; chính là cây đèn đã được Babette thắp sáng bằng một que diêm và được nàng nắm chặt trong tay để ta không thể nhìn thấy mặt nàng. Trong một khoảnh khắc, ta không thể thấy bất cứ gì ngoài ánh sáng chói lòa, và rồi ta cảm thấy sức nặng của ngọn đèn đập vào ngực mình, những mảnh thủy tinh vỡ ra tung tóe trên nền gạch, mang theo những ngọn lửa điên cuồng bùng lên quanh chân ta, trên mặt ta. Lestat hét lên từ trong bóng tối, dập lửa đi, dập lửa đi, đồ ngu. Chúng sẽ nuốt chửng anh!’ Và trong sự mù mịt, ta cảm thấy có gì đó đập mạnh vào mình. Đó là áo khoác của Lestat. Ta ngã vào hàng cột hành lang, bất lực trước ngọn lửa và những cú đập, cũng như bất lực khi biết rằng Babette đã có ý định tiêu diệt ta, và bất lực trước sự thực rằng ta hoàn toàn không biết mình là cái gì.
“Tất cả chỉ diễn ra trong vài giây. Ngọn lửa đã được dập tắt và ta quỳ xuống trong bóng tối, hai bàn tay áp lên nền gạch. Lestat đã bắt được Babette ở đầu cầu thang, và ta vọt lên ngay sau lưng hắn, chộp lấy cổ hắn kéo hắn lùi lại. Hắn nổi giận quay lại đá ta; nhưng ta vẫn bám chặt lấy hắn và cố gắng kéo hắn xuống chân cầu thang. Babette đang kinh sợ đến cứng đờ người. Ta thấy bóng hình nàng in trên nền trời và ánh sáng phản chiếu lấp lánh trong mắt nàng. ‘Đi thôi!’ Lestat nói, lồm cồm bò dậy. Babette đang đưa tay lên cổ họng. Đôi mắt bị thương của ta căng ra để tập trung ánh sáng cốt nhìn nàng cho rõ. Cổ họng nàng đang chảy máu. ‘Hãy nhớ điều này!’ ta nói với nàng. Tôi có thể giết cô hoặc để hắn giết cô, nhưng tôi đã không làm thế. Cô gọi tôi là ác quỷ. Cô nhầm rồi.’”
“Vậy là anh đã ngăn Lestat lại vừa kịp lúc,” chàng trai nói.
“Phải. Lestat có thể giết và hút máu nạn nhân nhanh như tia chớp. Nhưng ta đã chỉ cứu được thể xác Babette. Mãi sau này ta mới biết điều đó.
“Một tiếng rưỡi đồng hồ sau ta và Lestat đã tới New Orleans, lũ ngựa kéo suýt chết vì kiệt sức, chúng ta đậu xe ở một con ngõ cạnh một khách sạn Tây Ban Nha mới xây. Lestat túm lấy một ông già và nhét năm mươi đô vào tay lão. ‘Tìm cho chúng tôi một phòng,’ hắn ra lệnh, ‘hãy gọi thêm sâm banh nữa. Cứ bảo rượu là dành cho hai quý ông và trả tiền trước. Khi ông quay lại; tôi sẽ boa thêm cho ông năm mươi đô nữa. Tôi hứa là tôi sẽ ở nguyên đây chờ ông.’ Đôi mắt sáng long lanh của hắn thôi miên ông già. Ta biết hắn sẽ giết ông già kia ngay khi lão mang chìa khóa phòng quay lại, và quả như vậy. Ta ngồi trên xe, mệt mỏi chứng kiến cảnh tượng ông già đuối dần rồi chết hẳn, cơ thể lão sụp xuống như một bao tải đá lúc Lestat buông láo ra. ‘Chúc ngủ ngon, hoàng tử ngọt ngào,’ Lestat nói, ‘và đây là năm mươi đô dành cho ngài.’ Hắn đút tiền vào túi mình như thể đó là một trò đùa hay ho.
“Sau đó, bọn ta lặng lẽ băng qua sân khách sạn và đi tới căn phòng xa hoa của mình. Chai rượu sâm banh lấp lánh trong thùng ướp đá. Hai chiếc ly thủy tinh được đựng trên khay bạc. Ta biết Lestat sẽ rót đầy một ly và ngồi đó nhìn chằm chằm vào khối chất lỏng màu vàng nhạt. Và ta, kẻ đang chìm trong trạng thái đờ đẫn, chỉ nằm trên trường kỷ và nhìn hắn như thể chẳng hành động nào của hắn là đáng kể. Ta phải rời khỏi hắn hoặc phải chết, ta nghĩ. Cái chết sẽ êm ái lắm, ta nghĩ. Trước đây ta đã muốn chết rồi. Giờ ta lại càng muốn chết hơn. Ta nhìn thấy điều đó với sự rõ ràng êm ái, sự bình tĩnh vô cùng.
‘Anh đang suy nhược đấy!’ đột nhiên Lestat nói. ‘Bình minh sắp tới rồi.’ Hắn kéo tấm màn ren ra và ta có thể thấy những nóc nhà nhấp nhô dưới nền trời xanh thẫm, và cao xa giữa thinh không, chòm Orion vĩ đại đang tỏa sáng. ‘Đi săn thôi? Lestat nói, kéo kính cửa sổ lên. Hắn bước qua ngưỡng cửa, và ta có thể nghe tiếng bước chân hắn nhẹ nhàng đáp xuống những mái nhà bên cạnh khách sạn. Hắn đang đi tìm những chiếc quan tài, hoặc ít nhất là một chiếc. Cơn khát máu trào lên trong ta như cơn sốt và ta đi theo hắn. Khao khát được chết trong ta vẫn không thay đổi, đó là một suy nghĩ hoàn toàn thuần khiết và vô cảm. Nhưng ta vẫn cần phải hút máu. Ta đã nói với anh là khi đó ta không chịu giết người. Ta di chuyển dọc theo các mái nhà để săn chuột.”
“Những tại sao... Anh đã nói là Lestat lẽ ra không nên ép anh bắt đầu từ con người. Phải chăng ý anh... ý anh muốn nói rằng đối với anh, đó là một lựa chọn mang tính thẩm mỹ chứ không phải mang tính đạo đức?”
“Nếu hồi đó anh hỏi ta, có lẽ ta sẽ nói đó là lựa chọn mang tính thẩm mỹ, rằng ta muốn tìm hiểu từng giai đoạn của cái chết. Rằng giết thú vật mang lại cho ta niềm vui và trải nghiệm mà ta chỉ mới vừa hiểu được, và ta muốn dành trải nghiệm giết người đến khi ta đã trưởng thành hơn. Nhưng đó lại chính là vấn đề đạo đức. Bởi vì tất cả những quyết định mang tính thẩm mỹ thực ra đều bắt nguồn từ đạo đức.”
“Tôi không hiểu,” chàng trai nói. “Tôi nghĩ những quyết định mang tính thẩm mỹ có thể rất vô đạo đức. Ví dụ như một họa sĩ sẵn sàng bỏ mặc vợ con để chuyên tâm cho việc vẽ? Hay như Nero vẫn mải miết chơi đàn hạc trong khi thành Rome bốc cháy?”
“Cả hai đều là quyết định có đạo đức. Cả hai đều là việc có tính thẩm mỹ cao trong tâm trí của người nghệ sĩ. Xung đột nằm giữa nguyên tắc đạo đức của xã hội với nguyên tắc đạo đức của nghệ sĩ, chứ không phải giữa thẩm mỹ và đạo đức. Nhưng điều đó thường bị hiểu lầm; và chính điều đó đã gây ra sự lãng phí và bi kịch. Ví dụ như một nghệ sĩ đi ăn cắp sơn sẽ nghĩ mình đã thực hiện một hành vi vô đạo đức dù bất đắc dĩ, và sẽ tự thấy xấu hổ; kéo theo đó là nỗi thất vọng và cảm giác vô trách nhiệm vặt vãnh, tựa hồ hệ thống đạo đức là một thế giới thủy tinh, có thể vỡ tan tành chỉ bởi một hành động. Nhưng đó không phải mối quan tâm lớn của ta vào lúc ấy. Ta của ngày xưa vẫn chưa nhận thức được những điều này. Ta từng tưởng rằng mình giết thú vật chẳng qua là vì mục đích thẩm mỹ, và ta lãng tránh cái câu hỏi lớn về đạo đức rằng liệu về bản chất, ta có bị nguyền rủa đời đời hay không.
“Bởi vì, anh thấy đấy, mặc dù Lestat không bao giờ nói bất cứ điều gì về ác quỷ hay địa ngục, ta tin rằng mình đã bị nguyền rủa khi trở thành đồng loại với hắn, cũng giống như Judas hẳn đã tin điều đó khi tra dây thòng lọng vào cổ mình. Anh có hiểu không?”
Chàng trai im lặng. Anh định nói gì đó nhưng rồi lại thôi. Má anh thoáng ửng hồng. “Anh có bị không?” anh thì thầm.
Ma cà rồng chỉ ngồi đó, mỉm cười, nụ cười thấp thoáng trên môi hắn như tia sáng. Chàng trai nhìn ma cà rồng chằm chằm như mới được thấy hắn lần đầu.
“Có lẽ...” ma cà rồng đáp, hắn ngồi thẳng dậy và bắt tréo hai chân. “... chúng ta không nên nói nhiều việc chồng chéo nhau. Có lẽ ta nên tiếp tục với câu chuyện đang dang dở.”
“Vâng, mời anh...” chàng trai nói.
“Như ta đã nói với anh, đêm đó ta vô cùng kích động. Ta đã cố gắng để trốn tránh câu hỏi đó khi biến thành ma cà rồng nhưng bấy giờ nó lại choán lấy ta, và trong trạng thái như vậy, ta chỉ muốn chết quách đi cho xong. Và cũng như với con người, nó khơi dậy trong ta khát khao thỏa mãn cho được ít ra là một ham muốn về mặt thể chất. Ta nghĩ rằng mình đã dùng điều đó như một cái cớ. Ta đã từng nói với anh về ý nghĩa của việc giết chóc đối với ma cà rồng; từ những gì ta nói, chắc anh cũng có thể thấy được sự khác biệt giữa việc giết người và giết chuột.
“Ta theo Lestat xuống phố và đi qua các dãy nhà. Mặt đường rất lầy lội, những ngôi nhà nổi lên trên các rãnh nước như những hòn đảo nhỏ, và thành phố thuở ấy tối hơn các thành phố bây giờ rất nhiều. Những ngọn đèn đường chỉ lập lòe như đèn tín hiệu giữa một mặt biển đen ngòm. Dù cho mặt trời đang từ từ ló dạng, chỉ có cửa sổ áp mái và hành lang của các tòa nhà là hiện lên rõ ràng trong bóng đêm, và với người thường thì những con đường chật hẹp ta đang đi này vẫn tối đen như mực. Thật sự ta đã bị nguyền rủa sao? Phải chăng ta là hiện thân của quỷ? Phải chăng bản chất ta chính là ác quỷ? Ta cứ lặp đi lặp lại những câu hỏi này với chính mình. Và nếu đã vậy, tại sao ta lại cố gắng phủ nhận điều đó, tại sao ta lại run rẩy khi Babette ném ngọn đèn dầu rực lửa vào ngực mình, tại sao ta lại kinh tởm quay đi khi phải nhìn Lestat giết người? Ta đã trở thành cái gì khi biến thành ma cà rồng? Rồi ta sẽ đi về đâu? Và trong lúc đó, khi ước vọng được chết dường như đã khiến ta quên đi cơn đói, ta lại thấy cơn khát máu càng dâng lên mãnh liệt hơn; mạch máu ta như những sợi chỉ nhức nhối dưới lớp da thịt; thái dương ta giật lên từng đợt, và cuối cùng ta không thể chịu được nữa. Bị giằng xé - một mặt ta chỉ muốn đứng bất động, để chết đói, để khô héo đi; mặt khác, ta bị thôi thúc dữ dội bởi ham muốn giết chóc - ta đứng đơn độc trên con đường vắng tanh, tiêu điều, và nghe thấy tiếng khóc của một bé gái.
“Cô bé đang ở đâu đó gần đây. Ta tiến lại gần các bức tường, cố gắng vượt qua sự thờ ơ quen thuộc để hiểu được nguyên nhân của tiếng khóc. Cô bé đang mệt mỏi, đau đớn và hoàn toàn cô đơn. Em đã khóc từ rất lâu và có vẻ sắp kiệt sức rồi. Ta rờ rẫm cánh cửa sổ bằng gỗ nặng và kéo nó ra. Trong căn phòng tối, có một cô bé đang ngồi bên xác một phụ nữ đã chết từ vài ngày trước. Căn phòng đầy những rương hòm và túi xách ngổn ngang, dường như có ai đó đang đóng đồ để chuẩn bị rời khỏi nơi này; nhưng người mẹ đang nằm đó trong tình trạng bán khỏa thân, xác bà đã bắt đầu rữa, và chẳng có ai bên cạnh ngoài một đứa trẻ. Phải mất một lúc cô bé mới nhìn thấy ta, nhưng khi đã thấy, em liền van xin ta hãy cứu mẹ em. Em chỉ khoảng năm tuổi và rất gầy, khuôn mặt lấm lem bụi bẩn và nước mắt. Em van nài ta giúp đỡ. Hai mẹ con phải lên một chuyến tàu, em nói, trước khi bệnh dịch lan tới đây; cha đang chờ hai mẹ con em tới. Cô bé vừa khóc thảm thiết vừa cố lay mẹ tỉnh đậy; rồi em lại ngước lên nhìn ta một lần nữa, những dòng nước mắt tuôn rơi.
“Anh phải hiểu rằng lúc đó ta đang bị cơn khát máu thiêu đốt cả cơ thể. Ta không thể trụ thêm ngày nào nữa nếu vẫn không được hút máu. Nhưng ta có rất nhiều lựa chọn: lũ chuột lúc nhúc trên đường phố và đâu đó quanh đây có một con chó đang tru lên tuyệt vọng. Lẽ ra ta đã có thể rời khỏi căn phòng ấy để đi săn và rồi ung dung quay trở lại. Nhưng ta cứ day dứt không yên bởi câu hỏi này: ta có bị nguyền rủa không? Nếu có, tại sao ta lại cảm thấy xót thương cho cô bé này, cho khuôn mặt ốm yếu của em? Tại sao ta lại muốn nắm lấy bàn tay mềm mại, nhỏ bé của em, bế em lên đùi và để em rúc đầu vào ngực mình trong lúc ta nhẹ nhàng vuốt mái tóc mềm như lụa của em? Tại sao ta lại hành động như vậy? Nếu ta đã bị nguyền rủa, lẽ ra ta phải muốn giết cô bé, muốn biến em thành thứ thực phẩm cho một sự tồn tại đầy ghê tởm, bởi vì nếu đã bị nguyền rủa, lẽ ra ta phải thấy căm ghét em.
“Và khi nghĩ về điều ấy, ta thấy khuôn mặt méo mó vì căm ghét của Babette lúc nàng giơ cây đèn lên chờ thắp sáng, ta thấy Lestat và căm ghét hắn, và ta cảm thấy, đúng, ta đã bị nguyền rủa và đây chính là địa ngục, trong khoảnh khắc ấy, ta đã cúi xuống và cắn mạnh vào cái cổ nhỏ nhắn và mềm mại của cô bé, nghe tiếng em khóc thút thít, và ta thầm thì ngay cả khi cảm nhận được dòng máu nóng hổi chảy trên môi mình. ‘Chỉ một chút thôi và em sẽ không còn phải chịu đau đớn nữa.’ Nhưng cô bé bám chặt lấy ta và chẳng mấy chốc ta không thể thốt nên lời nào nữa. Trong suốt bốn năm, ta không hề hút một giọt máu người nào; trong suốt bốn năm, ta không hề biết cảm giác đó sẽ ra sao; và giờ đây, ta nghe tiếng trái tim cô bé đang đập từng nhịp cuồng loạn, nhịp đập này không thuộc về trái tim của một con thú hay một gã đàn ông nào đó, mà thuộc về trái tim đang bị kích động nhưng kiên cường của một đứa trẻ, đang đập mỗi lúc một nhanh hơn, chối từ cái chết, như một bàn tay nhỏ xíu đang đập lên cánh cửa và khóc, ‘Tôi sẽ không chết, tôi sẽ không chết, tôi không thể chết, tôi không thể chết...’ Ta ôm cô bé đứng lên, nhịp đập hối hả của trái tim em khiến tim ta cũng đập nhanh hơn và không có vẻ gì là sẽ chậm lại, dòng máu nóng dồn dập chảy trong cơ thể ta, căn phòng chao đảo, và sau đó, dù không muốn, ta nhìn qua đầu cô bé, qua khuôn miệng đang mở của em, xuyên qua bóng tối xuống gương mặt người mẹ đã chết; và từ sau hai mí mắt he hé, mắt bà chợt lóe lên như thể vẫn đang còn sống! Ta bỏ cô bé xuống. Em nằm trên mặt đất như một con búp bê không xương. Khiếp sợ người mẹ ấy, ta quay người định chạy trốn thì thấy phía ngoài cửa sổ hiện lên một bóng hình quen thuộc. Đó là Lestat, hắn vừa rời khỏi cửa sổ vừa cười lớn, gập người lại mà nhảy múa trên đường phố đầy bùn. ‘Louis, Louis,’ hắn chế giễu và trỏ một ngón tay dài, gầy trơ xương vào mặt ta như muốn nói hắn đã bắt quả tang ta đang làm một việc đáng xấu hổ. Rồi hắn nhảy qua bậu cửa, gạt phăng ta sang một bên để tiến tới dựng cái xác thối rữa lên và khiêu vũ với nó.”
“Chúa ơi!” chàng trai thì thào.
“Phải, suýt chút nữa thì ta cũng đã thốt ra câu đó,” ma cà rồng nói. “Lestat vấp phải đứa trẻ lúc hắn kéo xác mẹ em di chuyển thành một vòng tròn lớn, vừa khiêu vũ vừa hát, mái tóc rối bù lòa xòa trên khuôn mặt người phụ nữ trong khi đầu bà ngửa ra sau và một chất lỏng màu đen trào ra khỏi miệng bà. Lestat ném cái xác xuống. Ta trèo qua cửa sổ chạy xuống đường, và hắn đuổi theo ta. ‘Anh sợ tôi à, Louis?’ hắn hét lên. ‘Anh có sợ không? Đứa trẻ vẫn còn sống, Louis, anh chưa giết chết nó. Hay là tôi quay lại và biến nó thành ma cà rồng nhé? Chúng ta có thể chơi với nó, Louis ạ, mua cho nó thật nhiều quần áo đẹp. Louis, chờ đã, Louis! Tôi sẽ quay lại bắt nó nếu anh muốn!’ Hắn đuổi theo ta trên suốt con đường quay về khách sạn, băng qua tất cả những nóc nhà mà ta đã nhảy lên với hy vọng sẽ cắt được đuôi hắn, cho đến tận khi ta chui được vào cửa sổ phòng khách sạn và đóng sập cánh cửa lại trong cơn thịnh nộ. Hắn húc vào cánh cửa, hai cánh tay dang ra như một con chim đang cố tìm đường bay qua cửa kính, và lắc mạnh khung cửa. Ta đã hoàn toàn mất trí. Ta đi vòng vòng quanh phòng, cố tìm ra một cách để giết hắn. Ta tưởng tượng hình ảnh cơ thể hắn cháy queo trên mái nhà bên dưới. Ta đã hoàn toàn mất lý trí, chỉ còn lại nổi điên giận tột bực, và khi hắn trèo qua ô kính cửa sổ đã bị đập vỡ, bọn ta lao vào một cuộc ẩu đả lớn chưa từng thấy. Chính địa ngục đã khiến ta dừng lại, ý nghĩ về địa ngục, về việc bọn ta là hai linh hồn bị đọa đày nơi địa ngục, đang vật lộn trong nỗi thù hận. Ta đã đánh mất sự tự tin, mục đích sống và sự bình tĩnh của mình. Ta nằm vật xuống sàn nhà trong khi hắn đứng đó, nhìn xuống ta với đôi mắt giá lạnh, mặc dù lồng ngực hắn vẫn phập phồng. ‘Anh là đồ ngu, Louis,’ hắn nói. Giọng hắn rất điềm tĩnh. Điềm tĩnh đến mức khiến ta tỉnh táo trở lại. ‘Mặt trời sắp lên rồi,’ hắn nói, ngực hắn hơi phập phồng sau cuộc vật lộn, mắt hắn nheo lại khi nhìn ra cửa sổ. Ta chưa từng thấy hắn như thế bao giờ. Cuộc ẩu đả với ta đã phần nào chế ngự hắn; hoặc điều gì đó khác. ‘Chui vào quan tài đi,’ hắn nói với ta bằng giọng mềm mỏng không chút giận dữ. ‘Nhưng vào đêm mai... chúng ta sẽ nói chuyện.’
“Ta đã bị sốc vì câu nói đó. Lestat sẽ nói chuyện! Thật không thể tưởng tượng được. Ta và hắn chưa bao giờ thật sự trò chuyện cùng nhau. Ta nghĩ ta đã mô tả rất rõ với anh các cuộc xung đột và các mâu thuẫn của bọn ta rồi.”
“Hắn rất cần tiền và nhà của anh,” chàng trai nói. “Hay là hắn cũng sợ phải sống cô độc như anh?”
“Ta đã tự hỏi mình những câu đó. Thậm chí ta còn nghi rằng Lestat đang âm mưu giết ta bằng cách nào đó mà ta không biết. Anh biết không, bấy giờ có nhiều việc mà ta vẫn chưa rõ, như là làm cách nào mình thức dậy được vào mỗi đêm, không biết có phải giấc ngủ tựa cái chết đã chủ động rời khỏi ta, và tại sao có lúc ta dậy sớm hơn, có lúc ta lại dậy muộn hơn. Đó là một trong những điều Lestat không bao giờ giải thích. Và hắn luôn dậy sớm hơn ta. Hắn vượt trội hơn ta về mặt cơ học, như ta từng nói. Vì vậy, sáng hôm ấy ta đã chui vào quan tài với một cảm giác gần như tuyệt vọng.
“Có lẽ ta nên giải thích cho anh hiểu rằng đóng nắp quan tài luôn là một việc đáng ngại. Nó cũng giống như việc bị gây mê trên bàn mổ của thời hiện đại vậy. Chỉ một chút sơ sẩy do một kẻ lạ mặt đột nhập vào cũng có thể gây nguy hiểm tính mạng.”
“Nhưng làm sao hắn ta giết anh được? Hắn không thể đẩy anh ra trước ánh sáng; chính hắn cũng không thể chịu được điều đó.”
“Đúng vậy, nhưng vì dậy trước ta nên hắn hoàn toàn có thể đóng đinh quan tài của ta. Hoặc đốt cháy nó. Điều quan trọng là, ta không thể biết hắn sẽ làm gì vì hắn có những kiến thức mà ta không hề biết. Nhưng ta cũng không thể làm gì khác được, và trong đầu vẫn không ngừng nghĩ đến người phụ nữ đã chết và cô bé trong khi mặt trời thì sắp mọc, ta chẳng còn hơi sức nào để tranh cãi thêm với hắn, nên đành chìm vào những giấc mơ đau khổ.”
“Anh cũng nằm mơ à!” chàng trai nói.
“Thường xuyên,” ma cà rồng nói. “Đôi khi ta ước gì mình không thể mơ. Những giấc mơ của ta luôn dài và rất rõ ràng, những giấc mơ ta chưa từng có khi còn là con người, và ta cũng chưa từng có những cơn ác mộng khủng khiếp như thế bao giờ. Khi mới biến đổi, ta đắm chìm vào những giấc mơ đó đến nỗi ta cố gắng ngủ càng lâu càng tốt, đôi khi ta nằm tới hàng giờ với những giấc mơ cho đến khi đêm đã qua mất một nửa; và chúng khiến ta choáng váng, phải đi lang thang để tìm cách giải mã ý nghĩa của chúng. Những giấc mơ đó khó nắm bắt hơn nhiều lần so với giấc mơ của con người. Ví dụ ta thường mơ về em trai mình, thấy nó đang đứng ở đâu đó gần ta, giữa ranh giới của sự sống và cái chết, cầu xin ta giúp đỡ. Và ta thường mơ thấy Babette; và hầu như bối cảnh của giấc mơ đó bao giờ cũng là một vùng đất hoang vu giống như vùng đất ta nhìn thấy trong cái đêm bị Babette nguyền rủa, như ta đã nói với anh. Cứ như có những người đang vừa bước đi vừa trò chuyện trong ngôi nhà điêu tàn nằm giữa tâm hồn đã bị nguyền rủa của ta. Ta không nhớ hôm ấy mình đã mơ gì, có lẽ vì ta nhớ quá rõ những gì Lestat và ta thảo luận tối hôm sau. Ta thấy anh có vẻ cũng đang nóng lòng muốn biết.
“Phải, như ta đã nói, Lestat làm ta bất ngờ vì vẻ tĩnh lặng và trầm tư mới mẻ của hắn. Tuy nhiên khi thức dậy vào đêm ấy, ta không thấy hắn có dáng vẻ đó nữa, hoặc ít nhất là lúc đầu. Có hai phụ nữ trong phòng khách. Những ngọn nến được thắp rải rác trên mặt bàn ăn và nóc chiếc tủ chạm khắc, còn Lestat đang ôm hôn một phụ nữ. Đó là một phụ nữ đẹp và đang say túy lúy như một con búp bê cỡ lớn đang trong cơn phê thuốc với mái tóc uốn cẩn thận xõa xuống đôi vai trần và phần ngực hở hang. Một phụ nữ khác đang ngồi bên cạnh chiếc bàn ăn tan hoang và uống rượu vang. Ta có thể thấy là cả ba người đều đã dùng bữa (Lestat đã giả vờ ăn... anh sẽ phải ngạc nhiên khi biết rằng con người không hề nhận ra ma cà rồng chỉ giả vờ ăn) và cô ả ngồi ngoài đang có vẻ chán nản. Cảnh tượng này khiến ta bối rối. Ta không biết Lestat đang định làm trò gì. Nếu ta bước vào phòng, cô ả sẽ lập tức hướng sự chú ý sang phía ta. Và ta không thể tưởng tượng được chuyện gì sẽ xảy ra, ngoại trừ việc Lestat rõ ràng muốn bọn ta giết cả hai người phụ nữ này. Cô ả nằm ngả ngớn bên Lestat trên ghế sofa đang chòng ghẹo về nụ hôn của hắn, sự lạnh lùng và vô cảm của hắn đối với ả. Đôi mắt hình quả hạnh đen của cô ả đang ngồi cạnh bàn dường như tràn ngập sự đắc ý; khi Lestat đứng lên tiến về phía ả, đặt tay lên cánh tay trần nõn nà của ả, mặt ả rạng rỡ hẳn lên. Hắn đang cúi xuống hôn ả thì nhìn thấy ta qua khe cửa. Hắn trừng trừng nhìn ta một lúc rồi tiếp tục tán chuyện với hai phụ nữ. Hắn cúi xuống, thổi tắt ngọn nến trên bàn. ‘Ở đây tối quá,’ ả ngồi trên sofa nói. ‘Thế thì cô nên đi đi,’ ả còn lại nói. Lestat ngồi xuống, vẫy tay ra hiệu cho ả lại ngồi lên đùi mình. Cô ả làm theo, vòng cánh tay trái lên cổ hắn, đưa tay phải lên vuốt ve mái tóc vàng của hắn. ‘Làn da ngài lạnh như băng vậy,’ ả nói, hơi co người lại ‘Không phải lúc nào cũng vậy đâu,’ Lestat đáp; hắn vùi mặt vào cổ ả. Ta mê mẩn đứng nhìn toàn bộ cảnh tượng đó. Lestat là một kẻ cực kỳ thông minh và xấu xa, nhưng ta không đoán được mức độ thông minh của hắn cho tới khi hắn cắn ngập răng vào cổ họng người phụ nữ, ngón tay cái của hắn ép xuống cổ họng cô ả, cánh tay còn lại của hắn khóa chặt nạn nhân để hắn có thể hút máu mà cô ả còn lại không hay biết gì. ‘Bạn của nàng chẳng biết uống rượu gì cả,’ hắn nói rồi nhẹ nhàng rời khỏi ghế, bỏ lại người phụ nữ đang bất tỉnh nằm đó, hai tay để trên bàn kê dưới đầu. ‘Nó đần độn lắm,’ ả kia nói, cô ta đã tới cửa sổ nhìn xuống những ngọn đèn đường. Có lẽ anh đã biết, New Orleans lúc đó vẫn là một thành phố của những tòa nhà thấp. Và trong một đêm trời quang mây tạnh như đêm ấy, những con phố sáng ánh đèn nom tuyệt đẹp khi được nhìn ngắm từ cửa sổ cao của cái khách sạn Tây Ban Nha mới xây này, và những ngôi sao thuở ấy dường như tỏa sáng ngay phía trên những ngọn đèn, chẳng khác nào trời sao giữa đại dương. ‘Em có thể ủ ấm làn da băng giá của ngài tốt hơn nó.’ Cô ả quay sang Lestat, và ta phải thú nhận rằng, khoảnh khắc ấy ta đã cảm thấy nhẹ nhõm hơn vì nghĩ Lestat cũng sẽ xử lý cô ả. Nhưng hắn không có kế hoạch đơn giản như vậy. ‘Nàng thực sự nghĩ vậy à?’ hắn nói. Hắn nắm lấy tay cô ả, và ả nói, ‘Nhưng ngài đã ấm lên rồi, sao vậy nhỉ?’”
“Ý anh là nhờ hút máu, hắn đã ấm lên,” chàng trai lên tiếng.
“Đúng vậy,” ma cà rồng trả lời. “Sau khi hút máu, cơ thể ma cà rồng sẽ ấm áp y như con người.” Chuẩn bị kể tiếp câu chuyện, hắn liếc nhìn chàng trai và mỉm cười. “Như ta vừa kể, Lestat đã nắm lấy tay cô ả còn lại và nói rằng bạn cô ta đã giúp hắn ấm lên mất rồi. Tất nhiên, khuôn mặt hắn bấy giờ đã trở nên hồng hào và có nhiều biến đổi so với trước đó. Hắn kéo cô ả lại gần, và cô ả hôn hắn, vừa cười vừa nhận xét rằng hắn quả thực là một lò lửa của niềm đam mê.
‘Những cái giá thì đắt lắm đấy,’ hắn nói với ả, ra bộ buồn rầu. ‘Cô bạn xinh xắn của nàng...’ Hắn nhún vai. ‘Ta đã làm nàng ấy kiệt sức rồi.’ Và hắn đứng lên, lùi lại như muốn mời người phụ nữ bước tới gần bàn ăn. Cô ả làm theo, trên khuôn mặt nhỏ bé hiện lên vẻ đắc thắng. Cô ả cúi xuống để nhìn bạn mình, rồi mất hứng thú - cho đến khi thấy được một thứ bất thường. Đó là một chiếc khăn ăn. Trên đó còn đọng lại vài giọt máu từ vết thương nơi cổ họng. Cô ả cầm chiếc khăn lên, căng mắt nhìn nó trong bóng tối. ‘Hãy xõa tóc nàng xuống,’ Lestat nói khẽ. Cô ả bèn ơ hờ bỏ chiếc khăn ăn xuống rồi kéo bím tóc ra, xõa thành một suối tóc vàng óng trên lưng. ‘Mềm,’ hắn nói, mềm lắm. Ta đang tưởng tượng cảnh nàng nằm dài trên một chiếc giường lót vải xa tanh.”
‘Ôi, xem ngài đang nói gì kìa!’ cô ả đùa, ngúng nguẩy quay lưng về phía hắn.
“‘Nàng có biết đó là loại giường gì không?’ Lestat hỏi. Cô ả cười lớn nói rằng chắc là giường của hắn chứ gì. Ả quay lại nhìn hắn trong lúc hắn tiến tới; và, vừa nhìn cô ả không chớp mắt, hắn vừa đẩy nhẹ cái xác của cô bạn kia, khiến nó ngã ngửa ra khỏi ghế và nằm chênh ềnh trên sàn, mắt trợn trừng. Người phụ há hốc miệng. Cô ta cố trườn xa khỏi cái xác, suýt nữa thì kéo đổ một cái bàn nhỏ. Những ngọn nến rơi xuống tắt ngấm. ‘Thổi tắt nến... rồi lại thổi tắt nến,’ Lestat khe khẽ ngân nga. Và sau đó hắn kéo người phụ nữ vào lòng, mặc cho cô ả cố vùng vẫy như một con bướm đêm, và cắn ngập răng vào cô ả.”
“Nhưng anh đã nghĩ gì khi chứng kiến toàn bộ cảnh tượng đó?” chàng trai hỏi. “Anh có muốn ngăn hắn lại như từng muốn ngăn hắn giết chàng trai nhà Freniere không?”
“Không,” ma cà rồng nói. “Ta không thể ngăn hắn lại được. Anh phải hiểu rằng ta biết hắn giết người mỗi đêm. Máu thú vật không thể thỏa mãn được hắn. Thú vật chỉ là lựa chọn bất đắc dĩ khi hắn không còn cách nào khác. Cho dù ta có chút cảm thông nào đối với hai người phụ nữ đó thì cảm xúc ấy cũng đã bị chôn sâu trong cơn khủng hoảng của ta. Ta vẫn cảm thấy nhịp tim của cô bé sắp chết đói ta gặp đêm qua trong lòng ngực; ta vẫn bị thiêu đốt bởi những câu hỏi về bản chất bị chia cắt của mình. Ta tức giận với Lestat vì đã cố tình dựng lên màn trình diễn này để khiêu khích ta, đợi ta thức dậy rồi mới tấn công hai người phụ nữ đó; và một lần nữa ta lại tự hỏi liệu mình có thể cắt đứt sợi dây liên kết với hắn, đồng thời cảm thấy nỗi thù hận và sự yếu hèn của bản thân hiện lên rõ mồn một.
“Trong khi đó, hắn dựng hai cái xác xinh đẹp lên tựa vào cạnh bàn và đi khắp phòng để thắp từng ngọn nến cho đến khi căn phòng sáng trưng như tiệc cưới. ‘Vào đi Louis,’ hắn nói. ‘Tôi cũng định thu xếp cho anh một người bạn đồng hành, nhưng thôi biết anh thuộc kiểu chỉ muốn tự mình đưa ra quyết định. Đáng tiếc là tiểu thư Freniere lại thích ném đèn dầu vào người khác. Thói quen đó không hợp với một bữa tiệc chút nào, đặc biệt là tiệc trong khách sạn, anh có nghĩ thế không?’ Hắn đặt cô ả tóc vàng ngồi ngoẹo đầu sang một bên tựa vào lưng chiếc ghế nhung đỏ, còn cô ả tóc sẫm màu hơn đang gục cằm xuống tận ngực; mặt cô ta đã tái nhợt và cứng đờ, như thể ả và loại phụ nữ chỉ đẹp được nhờ sự nồng nhiệt đầy sức sống. Nhưng cô ả còn lại trông chỉ như đang ngủ; và ta không dám chắc cô ta đã chết thật hay chưa. Lestat đã cắn hai vết, một ở cổ họng và một ngực trái, cả hai vết thương vẫn đang chảy máu. Hắn nhấc cổ tay cô ả lên, rạch một đường bằng dao và hứng máu đầy hai ly, rồi mời ta ngồi xuống.
‘Tôi sẽ rời bỏ anh, ta nói ngay lập tức. Tôi muốn cho anh biết ngay bây giờ.‘
‘Tôi cũng nghe vậy,’ hắn đáp và ngồi ngả ra trên ghế, ‘và tôi cũng biết là anh sẽ có một thông báo rất hoa mỹ. Cho tôi biết tôi là một con quái vật đáng kinh tởm; một con quỷ thô tục đến mức nào đi.’
‘Tôi không phán xét gì anh cả. Tôi không quan tâm đến anh. Các tôi quan tâm bây giờ là bản chất của mình và tôi cho rằng anh sẽ không bao giờ nói cho tôi sự thật về nó. Anh chỉ dùng kiến thức của mình cho những mục đích cá nhân mà thôi,’ ta nói với hắn. Và giống như hầu hết những người thông báo một điều tương tự, ta không trông mong hắn sẽ trả lời một cách chân thành. Ta không trông mong gì ở hắn. Ta chủ yếu chỉ đang lắng nghe những lời nói của chính mình. Nhưng bấy giờ ta lại thấy một lần nữa vẻ mặt của Lestat khi hắn nói rằng cần phải trò chuyện với ta. Hắn thực sự lắng nghe. Và đột nhiên ta không nói nổi nên lời. Ta cảm nhận được hố sâu giữa bọn ta một cách đau đớn hơn bao giờ hết.
‘Tại sao anh lại trở thành ma cà rồng?’ ta buột miệng. Và tại sao lại là một con ma cà rồng như thế này! Luôn thù hận và thích thú giết người ngay cả khi anh không hề có nhu cầu. Người phụ nữ này... tại sao anh lại giết thêm cô ta khi chỉ cần một người thôi? Tại sao anh lại phải dọa cho cô ta khiếp sợ trước khi lấy đi sinh mạng cô ta? Tại sao anh phải dựng xác cô ta trong tư thế dị hợm như thể anh muốn thách thức các vị thần trừng phạt anh vì tội phạm thượng này?’
“Hắn im lặng nghe ta nói, và trong khoảng lặng ngay sau đó, ta không biết nói gì tiếp. Mắt Lestat mở to đầy suy tư; ta đã từng thấy hắn trong bộ dạng ấy, nhưng ta không thể nhớ chính xác là lúc nào, chỉ biết là không phải khi trò chuyện cùng ta.
‘Thế anh nghĩ ma cà rồng là cái gì?’ hắn hỏi ta một cách chân thành.
‘Tôi không muốn giả vờ như mình biết. Còn anh thì luôn ra vẻ như anh biết. Vậy rốt cuộc nó là cái gì?’ ta hỏi. Và hắn dùng sự im lặng để đáp lại ta. Như thể hắn cảm nhận được sự thiếu thành thật và căm giận trong câu nói của ta. Hắn cứ ngồi đó nhìn ta với vẻ mặt bình thản như vậy. Một lúc sau, ta nói, ‘Tôi biết là sau khi rời khỏi anh, tôi sẽ cố tìm hiểu. Tôi sẽ đi khắp thế giới, nếu cần, để tìm những ma cà rồng khác. Tôi biết là họ có tồn tại; tôi không thấy có lý do gì để họ không thể tồn tại với một số lượng lớn. Tôi tự tin là sẽ tin thấy những ma cà rồng khác có thể đồng cảm với mình nhiều hơn anh. Những ma cà rồng có suy nghĩ giống tôi và biết dùng quyền năng của mình để khám phá những bí ẩn mà anh thậm chí không dám mơ tới. Nếu anh không chịu nói với tôi điều anh biết, tôi sẽ tự mình tìm hiểu hoặc học từ những ma cà rồng khác, khi tôi tìm ra họ.’
“Hắn lắc đầu. ‘Louis!’ hắn nói. ‘Anh quá say mê bản chất con người của mình! Anh đang tự đuổi theo bóng ma quá khứ của chính mình. Freniere, em gái hắn... với anh đó là những hình bóng của con người cũ và cái mà anh vẫn khát khao đạt được. Và khi anh còn vương vấn không rời cuộc đời ấy, bản chất ma cà rồng trong anh sẽ chết dần!’
“Ta lập tức bác bỏ nhận định của hắn. ‘Trở thành ma cà rồng là cuộc phiêu lưu vĩ đại nhất của tôi; trước đây, tôi đã sống một cuộc đời hỗn loạn, u ám; tôi sống cuộc đời con người như một gã mù lòa phải mò mẫm từng đồ vật. Chỉ khi đã trở thành ma cà rồng, lần đầu tiên tôi mới biết quý trọng mọi sự sống. Tôi chưa từng thực sự được thấy một con người còn sống với trái tim còn đập cho đến khi trở thành ma cà rồng; tôi chưa từng biết sự sống là như thế nào cho đến khi nó trào ra trong dòng máu đỏ chảy trên bờ môi, trên đôi tay mình!’ Ta nhìn chằm chằm hai phụ nữ, cô ả tóc sẫm màu bây giờ đã tím tái toàn thân. Cô ả tóc vàng vẫn còn thở. ‘Cô ta chưa chết!’ ta đột ngột bảo Lestat.
‘Tôi biết. Mặc kệ cô ta đi,’ hắn nói. Hắn nâng cổ tay cô ả lên, cắt thêm một đường nữa cạnh vết đầu tiên đang kín miệng và để máu chảy xuống đầy ly. ‘Toàn bộ những điều anh vừa nói đều rất có lý,’ hắn nói và hớp một hớp máu. ‘Anh là một trí thức. Tôi chưa bao giờ là người như thế. Những gì tôi học được là nhờ nghe lỏm những cuộc đối thoại của con người, chứ không phải từ sách vở. Tôi không được đi học tới nơi tới chốn. Nhưng tôi không phải một thằng đần, và anh cần phải nghe tôi nói vì anh đang gặp nguy hiểm. Anh không hề hiểu bản chất ma cà rồng của mình. Anh y như một người lớn đang ngoái đầu nhìn lại thời ấu thơ và nhận ra mình chưa bao giờ biết trân trọng nó. Là một người trưởng thành, anh không thể quay lại buồng trẻ và chơi đồ chơi, đòi hỏi tình yêu và sự quan tâm của người khác đổ dồn vào mình chỉ đơn giản vì giờ anh đã hiểu được giá trị của chúng. Đó là cách anh đang nhìn nhận quá khứ con người của mình. Anh đã từ bỏ nó rồi. Anh không còn nhìn đời qua một tấm gương đen tối nữa. Nhưng anh không thể trở lại thế giới con người khi đã có đôi mắt mới của ma cà rồng.’
‘Tôi biết rõ điều đó!’ ta nói. ‘Nhưng bản chất của chúng ta là gì! Nếu chúng ta vẫn sống được bằng máu thú vật, tại sao không hút máu thú vật thôi mà còn phải đi khắp thế giới này để gieo rắc nỗi đau và cái chết cho con người!’
‘Những việc đó có giúp anh hạnh phúc không?’ hắn hỏi. ‘Anh đi lang thang cả đêm, hút máu chuột như một gã ăn mày rồi thẫn thờ đứng bên cửa sổ phòng Babette với sự quan tâm vô hạn mà vẫn bất lực như Nữ thần Mặt Trăng hằng đêm vẫn ghé đến ngắm Endymion ngủ nhưng không thể có được chàng ta. Và cứ giả là anh có thể ôm cô ta trong tay mà cô ta sẽ không nhìn anh bằng cặp mắt kinh hãi và ghê tởm, thì sau đó sẽ ra sao? Anh có chấp nhận được việc chung sống vài năm ngắn ngủi để chứng kiến cảnh cô ta vật vã với sinh lão bệnh tử và chết ngay trước mắt mình? Đó có phải hạnh phúc không? Đó chỉ là chuyện điên rồ thôi Louis ạ. Đó là việc hoàn toàn vô nghĩa. Cái nằm trước mắt anh đây chính là bản chất thực sự của ma cà rồng, là giết chóc. Vì tôi đảm bảo với anh rằng, nếu chịu đi xuống đường đêm nay mà săn một cô gái giàu và đẹp như Babette, rồi hút máu cho đến khi cô ta gục xuống chân mình, anh sẽ không còn khao khát được ngắm nhìn Babette dưới ánh nến và lặng thầm nghe giọng nói của cô ta bên cửa sổ nữa. Sự trống rỗng trong anh sẽ được lấp đầy, Louis, đúng như bản chất anh đã định sẵn, với mọi sinh mạng mà anh có thể; và khi nó biến mất, anh sẽ lại thèm khát vẫn sự sống ấy, hết lần này đến lần khác. Màu đỏ trong ly thủy tinh này vẫn là màu đỏ, hoa hồng trên giấy dán tường kia cũng vẫn tinh xảo như vậy. Mặt trăng cũng chẳng có gì biến đổi, những ngọn nến vẫn lung linh một kiểu như vậy. Với tất cả những xúc cảm mà anh vẫn trân trọng bấy lâu, anh sẽ thấy được vẻ đẹp của cái chết, thấy được giá trị của sự sống chỉ hiện lên rõ rệt trong khoảnh khắc cái chết tìm đến mà thôi. Anh đã hiểu chưa, Louis? Anh là sinh vật duy nhất trên trần gian này có thể nhìn cái chết như vậy mà không bị trừng phạt. Dưới vầng trăng đang lên... chỉ mình anh... có thể giáng cái chết xuống như Chúa trời vậy!’
“Hắn ngồi ngả ra và uống cạn ly máu, liếc nhìn người phụ nữ đang bất tỉnh. Ngực cô ả phập phồng và cặp lông mày đang nhíu lại như thể ả sắp tỉnh dậy. Một tiếng rên thoát ra khỏi miệng cô ta. Hắn chưa từng nói những lời như vậy với ta trước đây và ta thậm chí không nghĩ là hắn có khả năng nói ra được những điều đó. ‘Ma cà rồng là kẻ giết người,’ hắn cất lời. ‘Là kẻ săn mồi. Với cặp mắt có thể nhìn thấu mọi thứ để giúp chúng tách rời cảm xúc trần tục. Để giúp chúng nhìn trọn vẹn cuộc đời con người, không phải với nỗi muộn phiền mà với sự hài lòng đầy phấn khích rằng mình chính là người đã chấm dứt cuộc đời đó, rằng mình đã góp phần vào một công việc hết sức thiêng liêng.’”
‘Đó chỉ là cách nhìn nhận của anh!’ ta vặc lại. Cô gái lại rên lên; mặt ả đã tái nhợt. Đầu ả ngoẹo vào lưng ghế.
‘Sự thực là như vậy,’ hắn trả lời. ‘Anh nói sẽ đi tìm những ma cà rồng khác! Ma cà rồng là kẻ giết người! Họ không cần anh và những cảm xúc của anh. Họ sẽ thấy anh đang đến trước khi anh thấy họ rất lâu, và họ sẽ phát hiện ra điểm yếu của anh, và vì không tin tưởng anh, họ sẽ tìm cách giết anh. Kể cả anh có giống tôi thì họ cũng vẫn giết anh. Bởi vì ma cà rồng là những kẻ săn mồi đơn độc như mèo rừng và không tìm kiếm bạn đồng hành. Họ ganh ghét những bí mật và những lãnh thổ của nhau; và nếu anh tìm được một nhóm ma cà rồng quây quần tại cùng một nơi, đó chẳng qua là vì lý do an toàn, và một tên sẽ phải làm nô lệ cho những tên khác, như là anh đối với tôi vậy.’
‘Tôi không phải nô lệ của anh,’ ta nói với hắn. Nhưng ngay khi hắn thốt ra câu đó, ta đã nhận ra mình đã làm nô lệ cho hắn suốt bấy lâu nay.
‘Cộng đồng ma cà rồng phát triển theo cách ấy... thông qua chế độ nô lệ. Còn làm thế nào được nữa?’ hắn hỏi. Hắn lại túm lấy cổ tay cô gái và ả kêu lên khi con dao rạch vào. Cô ả chầm chậm mở mắt khi hắn hứng máu từ cổ tay ả vào ly. Ả chớp chớp mắt, gắng sức giữ cho chúng mở. Như thể ả bị một tấm vải voan che lên mắt. ‘Nàng đang mệt lắm, phải không?’ hắn hỏi ả. Cô ả nhìn trừng trừng vào mặt hắn như không nhìn rõ. ‘Đã mệt lắm rồi!’ hắn nói, đoạn nghiêng sát lại và nhìn chằm chằm vào mắt ả. ‘Nàng muốn ngủ rồi.’
‘Vâng...’ ả khẽ rên lên. Và hắn bế ả lên, đi vào phòng ngủ. Quan tài của bọn ta đang đặt trên thảm, bên cạnh tường; trong phòng còn có một chiếc giường treo màn nhung. Lestat không đặt cô ả lên giường; hắn hạ ả xuống chiếc quan tài của mình. ‘Anh đang làm gì vậy?’ ta hỏi hắn và bước tới ngưỡng cửa. Cô nàng kia đang nhìn khắp chung quanh như một đứa trẻ đầy sợ hãi. ‘Không...’ ả rên rỉ. Và khi hắn đóng nắp quan tài lại, ả hét lớn. Tiếng hét của ả vẫn tiếp tục vọng ra từ bên trong quan tài.
‘Tại sao anh lại làm thế, Lestat?’ ta hỏi.
‘Vì tôi thích,’ hắn trả lời. ‘Tôi đang tận hưởng niềm vui.’ Hắn nhìn ta. ‘Tôi không bảo anh cũng phải thích giống như tôi. Cứ việc hướng gu thẩm mỹ của anh vào những thứ thanh khiết hơn. Kết thúc sinh mạng của chúng ngay lập tức nếu anh muốn, nhưng nhất định phải làm! Hãy học cách chấp nhận rằng anh là một kẻ giết người!’ Hắn vung tay lên vẻ kinh tởm. Người phụ nữ đã thôi la hét. Bấy giờ, hắn kéo một chiếc ghế đẩu chân cong lại gần quan tài, ngồi bắt tréo chân trên ghế và nhìn chằm chằm vào nắp quan tài. Quan tài của hắn được đánh véc ni đen, không phải hình chữ nhật đơn giản như quan tài ngày nay mà được thiết kế thuôn dần ở cả hai đầu và nở rộng ở phần người chết chắp tay trên ngực. Chiếc quan tài đó cho thấy hình dạng của người nằm bên trong. Nắp quan tài mở ra, và người phụ nữ hoảng hốt ngồi bật dậy, mắt hoang dại, môi xanh xám, người run rẩy. ‘Nằm xuống đi, tình yêu của ta,’ hắn nói, đẩy ả nằm xuống; và cô ả nằm đó gần như đã phát điên, mắt cuống cuồng nhìn hắn. ‘Nàng chết rồi, tình yêu của ta,’ hắn nói, và cô ả lại thét lên rồi quay cuồng trong quan tài một cách tuyệt vọng như con cá mắc cạn, như thể cô ta có thể thoát qua cả cạnh và đáy quan tài. ‘Đây là một chiếc quan tài, một chiếc quan tài!’ cô ả than khóc. ‘Thả tôi ra.’
‘Nhưng tất cả chúng ta rồi đều phải nằm trong quan tài thôi mà,’ hắn bảo ả. ‘Cứ nằm yên đó đi, tình yêu của ta. Đây là quan tài của nàng. Hầu hết chúng ta đều không biết cảm giác nằm trong quan tài là như thế nào. Nhưng nàng được biết rồi đấy,’ hắn nói với ả. Ta không rõ cô ả có nghe thấy những lời đó không, hay đã hóa điên rồi. Nhưng cô ả đã nhìn thấy ta đang đứng ở ngưỡng cửa, và vẫn nằm yên trong quan tài, cô ả nhìn Lestat rồi quay sang ta. ‘Cứu tôi với!’ cô ả cầu xin ta.
“Lestat nhìn ta. ‘Tôi hy vọng anh nhìn nhận việc này một cách hoàn toàn bản năng, như tôi,’ hắn nói. ‘Trong lần đầu tiên cho anh nếm trải hương vị giết chóc, tôi đã tưởng rằng anh sẽ thèm khát lần săn mồi tiếp theo, rằng anh sẽ lấy đi mỗi mạng người như uống một ly nước đầy, giống như tôi vậy. Nhưng anh không chịu làm. Và tôi nghĩ trong suốt thời gian qua, tôi đã không bắt anh thay đổi vì tốt hơn là anh nên yếu hơn tôi. Tôi đã quan sát anh lẫn vào trong bóng đêm, nhìn những hạt mưa rơi, và tôi nghĩ rằng, anh ta rất đơn giản, rất dễ kiểm soát. Nhưng anh là kẻ hèn, Louis. Anh là một cái bia đỡ đạn. Với ma cà rồng và giờ với cả con người nữa. Sự việc với Babette đã gây nguy hiểm cho cả hai ta. Như thể anh muốn chúng ta phải chết chung vậy.’
‘Tôi không thể trơ mắt nhìn việc anh đang làm được,’ ta nói và quay lưng lại. Ánh mắt người phụ nữ như ngọn lửa đang thiêu đốt da thịt ta. Trong lúc hắn nói, cô ả vẫn nằm trong quan tài nhìn chằm chằm vào ta.
‘Anh có thể chịu được!’ Lestat nói. ‘Đêm qua tôi đã chứng kiến anh với đứa trẻ đó. Anh là ma cà rồng, cũng giống như tôi mà thôi!’
“Hắn đứng dậy đi về phía ta, nhưng người phụ nữ lại ngẩng đầu lên và hắn quay lại đẩy ả xuống. ‘Anh có nghĩ là chúng ta nên biến cô nàng này thành ma cà rồng không? Chia sẻ cuộc sống của mình với ả?’ hắn hỏi. Ta lập tức nói, ‘Không!’
‘Tại sao, vì ả là một con điếm à?’ hắn hỏi. ‘Không những thế còn là một con điếm giá cao khủng khiếp nữa,’ hắn nói.
‘Cô ta còn sống được không? Hay đã mất quá nhiều máu rồi?’ ta hỏi hắn.
‘Cảm động quá nhỉ,’ hắn đáp. ‘Ả không sống nổi nữa đâu. Vậy thì giết ta đi.’
“Cô ả lại hét lớn. Hắn vẫn ngồi nguyên tại chỗ. Ta quay lại. Hắn mỉm cười trong khi cô nàng kia gục mặt xuống tấm vải xa tanh thổn thức khóc. Cô ả gần như đã mê sảng; ả vừa khóc vừa cầu nguyện. Ả cầu xin Đức Mẹ Đồng trinh cứu vớt, rồi ả đưa tay lên mặt, lên đầu, máu từ cổ tay dây lên tóc ả và tấm vải xa tanh. Ta cúi xuống nhìn vào quan tài. Cô ả sắp chết, đúng như vậy; mắt ả đỏ ngầu nhưng những tia máu trong tròng mắt đã ngả sắc xanh xám và giờ ả đang mỉm cười. ‘Ngài sẽ không để tôi chết phải không?’ ả thì thào. ‘Ngài sẽ cứu tôi.’ Lestat liền vươn người tới nắm cổ tay ả. ‘Nhưng đã muộn rồi, tình yêu ạ,’ hắn nói. ‘Nàng hãy nhìn xuống cổ tay và ngực mình đi.’ Và hắn chạm vào vết cắn nơi cổ ả. Cô ả đưa tay chạm vào cổ mình và thở hổn hển, miệng há hốc, tiếng thét chưa kịp phát ra thì đã nghẹn lại. Ta trừng mắt nhìn Lestat. Ta không hiểu vì sao hắn phải làm như vậy. Khuôn mặt hắn cũng nhẵn mịn như mặt ta bây giờ, giàu sức sống hơn nhờ hút máu người, nhưng hoàn toàn lạnh lùng vô cảm.
“Hắn không có vẻ mặt xảo quyệt như những nhân vật phản diện trên sân khấu kịch, cũng không có vẻ thèm khát nỗi thống khổ của nạn nhân tựa hồ sự độc ác có thể thỏa mãn cơn đói của mình. Hắn chỉ quan sát cô ả. ‘Tôi chẳng bao giờ làm chuyện gì xấu xa,’ cô ả than khóc. ‘Tôi chỉ làm những việc mà tôi buộc phải làm thôi. Ngài sẽ không để tôi phải chết, ngài sẽ để tôi đi. Tôi không thể chết như thế này được, không thể!’ Cô ả nức nở, tiếng khóc khàn đục, yếu ớt. ‘Ngài sẽ để tôi đi. Tôi phải tìm một linh mục. Ngài sẽ để tôi đi.’
‘Nhưng bạn ta là một linh mục,’ Lestat mỉm cười đáp lại. Như thể hắn vừa chợt nghĩ ra câu đùa này. ‘Đây là tang lễ của nàng, tình yêu ạ. Nàng thấy không, nàng đã tham gia một bữa tiệc đêm và đã chết rồi. Nhưng Chúa trời muốn cho nàng thêm một cơ hội để sám hối. Nàng thấy không? Hãy thú nhận mọi tội lỗi của nàng với anh bạn ta đi.’
“Mới đầu cô ả lắc đầu, rồi lại nhìn ta với ánh mắt khẩn nài. ‘Có thật không?’ cô ả thì thào. ‘Chà,’ Lestat nói, ‘ta thấy nàng không có vẻ gì là ăn năn cả, tình yêu ạ. Ta sẽ phải đóng nắp quan tài lại thôi!’
‘Dừng lại, Lestat!’ ta hét lên. Người phụ nữ lại tiếp tục gào thét và ta không thể chịu đựng cảnh tượng này thêm một phút nào nữa. Ta cúi xuống, nắm tay cô ả. ‘Tôi không thể nhớ mình đã phạm tội gì,’ ả nói trong khi ta đang nhìn cổ tay ả và quyết tâm sẽ giết ả. ‘Cô không cần phải cố nhớ. Chỉ cần nói với Chúa rằng cô vô cùng ăn năn,’ ta nói, ‘sau đó cô sẽ ra đi vĩnh viễn và nỗi đau này sẽ chấm dứt.’ Cô ả nằm xuống, mắt nhắm nghiền. Ta cắn ngập răng vào cổ tay ả và bắt đầu hút kiệt máu. Cô ả rùng mình như đang trong cơn mơ và thốt lên một cái tên; rồi khi thấy tim ả đã đập chậm lại đến cái nhịp mê hoặc ấy, ta buông ả ra, choáng váng và bối rối, tay bấu lấy cánh cửa. Ta nhìn ả như đang trong giấc mộng. Những ngọn nến chói sáng nơi khóe mắt ta. Ta thấy ả nằm bất động. Lestat bình tĩnh ngồi cạnh ả như một kẻ đưa tang. Mặt hắn trơ cứng. ‘Louis,’ hắn nói với ta. ‘Anh đã hiểu hay chưa? Tâm hồn anh chỉ được bình yên nếu anh đều đặn làm việc này mỗi đêm trong suốt cuộc đời mình. Chẳng có gì khác nữa. Đây là tất cả!’ Giọng hắn gần như dịu dàng, rồi hắn đứng dậy, đặt cả hai tay lên vai ta. Ta bước vào phòng khách, cảm thấy ghê sợ cái đụng chạm của Lestat nhưng lại không đủ kiên quyết để gạt tay hắn ra. ‘Đi cùng tôi xuống phố nào. Đã muộn lắm rồi. Anh vẫn chưa uống đủ máu đâu. Hãy để tôi cho anh thấy bản chất thực sự của anh. Thật đấy! Tha thứ cho sự vụng về của tôi trong thời gian qua, vì tôi đã để cho anh tự mò mẫm quá nhiều điều. Đi thôi!’
‘Tôi không thể chịu được, Lestat,” ta nói với hắn. “Anh đã chọn nhầm bạn đồng hành rồi.’
‘Nhưng Louis,’ hắn nói, ‘anh thậm chí còn chưa từng thử cơ mà!’
Ma cà rồng ngừng lời. Hắn nghiền ngẫm nhìn chàng trai. Và chàng trai, vẫn đang sửng sốt, không nói gì.
“Hắn nói đúng. Ta vẫn chưa uống đủ máu, và vì vẫn còn bị chấn động bởi cơn hoảng loạn của người phụ nữ, ta để hắn dẫn ra khỏi khách sạn, đi xuống cầu thang. Nhiều người đang túa ra từ phòng khiêu vũ phố Conde và con phố chật hẹp trở nên tắc cứng. Có những bữa tiệc đêm trong các khách sạn và một lượng lớn các gia đình chủ đồn điền giàu có đã tràn vào thành phố, và bọn ta phải cố chen chúc giữa đám đông đó như trong một cơn ác mộng. Nỗi đau đớn của ta dâng lên đến cực hạn. Chưa bao giờ kể từ khi còn là con người, ta phải trải qua nỗi đau tinh thần như vậy. Đó là bởi vì mọi lời Lestat nói đều có lý. Ta chỉ cảm nhận được bình yên khi giết chóc, chỉ trong khoảnh khắc đó mà thôi; và hẳn nhiên, giết thú vật thay cho con người chỉ làm dấy lên trong ta một nỗi thèm khát mơ hồ và cảm giác bất mãn, khiến ta càng muốn tiếp cận con người, để nhìn cuộc đời họ xuyên qua một lớp kính chắn. Ta không phải là ma cà rồng. Và trong cơn đau, ta ngờ nghệch tự hỏi liệu có còn đường nào cho ta quay lại hay không? Ta có thể lại trở về làm con người được không? Ngay cả khi máu của người phụ nữ đó sưởi ấm cơ thể ta, giúp ta cảm thấy dòng sinh lực rần rật chảy trong mạch máu và sức mạnh đang tăng lên, ta vẫn tự hỏi mình như vậy. Những khuôn mặt người lướt qua ta như ánh nến đang nhảy múa trên làn sóng tăm tối của màn đêm. Ta đang chìm vào đêm đen. Ta mệt mỏi vì nỗi thèm khát của mình. Ta cứ lảo đảo bước trên đường phố, ngước lên những vì sao và nghĩ rằng, đúng, tất cả đều là sự thật. Ta biết rằng những gì hắn nói đều là sự thật, rằng chỉ khi giết người ta mới không thấy thèm khát nữa; và ta không thể chịu đựng được sự thật đó, ta không thể chịu đựng được.
“Đột nhiên, thời gian dường như đứng yên. Đường phố trở nên hoàn toàn yên tĩnh. Bọn ta đã đi xa khỏi trung tâm khu phố cổ và đang đến gần tường thành. Khu vực này không có đèn đường, chỉ có một đốm lửa bên cửa sổ và tiếng cười nói vọng lại từ xa xa. Nhưng không có người nào ở đây. Không có ai ở gần bọn ta cả. Ta có thể cảm thấy một làn gió bất ngờ từ bờ sông lùa tới và hơi đêm ấm nóng đang bốc lên, và Lestat đang đứng cạnh ta, im phăng phắc như một tảng đá. Thấp thoáng phía trên một dãy dài những nóc nhà thấp, nhọn hoắt là đường nét của những cây sồi khổng lồ đang xào xạc lắc lư dưới ánh sáng của những vì sao. Trong khoảnh khắc ấy, nỗi đau và sự hỗn loạn trong ta biến mất. Ta nhắm mắt lại để lắng nghe tiếng gió và tiếng dòng nước róc rách chảy trên sông. Những thứ ấy xoa dịu ta, trong chốc lát. Ta biết là chúng sẽ không kéo dài, chúng sẽ bay xa như bị giằng khỏi tay ta, và ta sẽ cố đuổi theo, đơn độc đến tuyệt vọng hơn bất cứ sinh vật nào khác dưới bàn tay của Chúa, để bắt chúng lại. Và rồi một tiếng nói trầm đục vang lên giữa âm thanh của đêm tối, một tiếng trống ngay khi khoảnh khắc mơ màng của ta chấm dứt, ‘Hãy làm theo đúng bản chất của mình đi. Đây mới chỉ là một chút vị thoảng qua thôi. Làm theo đúng bản chất của mình đi.’ Và khoảnh khắc ấy đã chấm dứt hoàn toàn. Ta đứng đó như một thiếu nữ giữa phòng chờ khách sạn, mê mụ và sẵn sàng đón nhận bất kỳ gợi ý nào dù là mơ hồ nhất. Ta gật đầu với Lestat và hắn gật đầu lại với ta. ‘Nỗi đau là điều cực kỳ khủng khiếp đối với anh,’ hắn nói. Anh sẽ cảm nhận được nó ở một mức độ đáng sợ hơn bất cứ loài sinh vật nào khác, bởi vì anh là ma cà rồng. Anh không muốn nó tiếp diễn đâu.’
‘Không,’ ta đáp lại hắn. ‘Tôi sẽ đồng cảm như đã đồng cảm với nàng, hòa cảm xúc của mình vào cảm xúc của nàng và trở nên nhẹ nhõm, như đang khiêu vũ.’
‘Như thế và nhiều hơn thế nữa.’ Hắn nắm tay ta. ‘Đừng chống cự lại nó, hãy đi cùng tôi.’
“Hắn dẫn ta bước nhanh qua các con phố. Mỗi khi cảm thấy ta do dự, hắn liền quay lại và mỉm cười chìa tay với lấy tay ta, sự hiện diện của hắn trong mắt ta lúc ấy lại diệu kỳ hệt như cái đêm hắn tìm đến và nói rằng sẽ biến ta thành ma cà rồng. ‘Tàn nhẫn chỉ là một cách nhìn thôi,’ hắn thì thầm. ‘Chúng ta bất tử. Và trước mắt chúng ta là những bữa tiệc thịnh soạn mà lương tâm không thể thưởng thức và con người trần tục không thể không hối hận nếu trải nghiệm. Chúa giết chóc, và chúng ta cũng vậy; Người tùy ý giết kẻ giàu nhất cũng như kẻ nghèo nhất, và chúng ta cũng vậy; bởi vì không một sinh vật dưới Chúa nào giống như chúng ta, không một sinh vật nào giống với Người như chúng ta; chúng ta là những thiên thần hắc ám không bị mắc kẹt nơi địa ngục hôi thối mà lại có thể ngao du khắp thế gian của Người và mọi vương quốc nơi đây. Đêm nay tôi muốn một đứa trẻ. Tôi cảm thấy mình như một người mẹ vậy. Tôi muốn một đứa trẻ!’
“Lẽ ra ta phải hiểu ngụ ý của hắn. Nhưng không. Hắn đã thôi miên, đã mê hoặc ta. Hắn đang chơi đùa với ta như cách hắn từng làm khi ta còn là con người; hắn đang dẫn dắt ta. Hắn nói, ‘Nỗi đau trong anh sẽ chấm đứt.’
“Bọn ta đi đến một khu phố cửa sổ được thắp sáng. Đó là nơi có các phòng trọ, là chốn tụ tập của những tay thủy thủ và dân chài lưới. Bọn ta bước vào một cánh cửa hẹp; rồi, trong một hành lang trống trơ đến mức ta có thể nghe được hơi thở mình vang lên như tiếng gió, hắn mò mẫm dọc theo bức tường cho đến khi bóng hắn lộ ra trong vùng sáng của một ô cửa khác, đổ xuống ngay cạnh bóng của một người đàn ông nào đó, hai cái đầu của họ chúi vào nhau, tiếng thì thào của họ vang lên xào xạo như lá khô. Cái gì vậy? Ta tiến tới gần khi hắn quay lại, đột nhiên lo sợ rằng niềm hứng khởi mới chớm trong ta sẽ tàn lụi. Một lần nữa, ta lại thấy vùng đồng hoang ác mộng mà ta đã thấy khi đối mặt với Babette; ta rùng mình vì nỗi cô đơn và cảm giác tội lỗi. ‘Con bé đang ở đây!’ hắn nói. ‘Nạn nhân bé bỏng của anh. Con gái của anh đấy.’
‘Cái gì, anh nói gì vậy!’
‘Anh đã cứu con bé,’ hắn thì thầm. ‘Tôi biết mà. Anh đã để mở cửa sổ khi rời khỏi con bé và bà mẹ đã chết của nó, rồi người qua đường đã thấy và mang nó đến đây.’
‘Là đứa trẻ đó. Là cô bé đó sao!’ ta thốt lên. Nhưng hắn đã dẫn ta bước qua cánh cửa, tiến tới tận cuối căn phòng có một dãy dài giường gỗ, trên mỗi chiếc giường đều có một đứa trẻ đang nằm đắp tấm chăn trắng nhỏ, chỉ có một ngọn nến duy nhất ở cuối phòng, một y tá đang nằm gục mặt xuống bàn. Bọn ta bước trên lối đi giữa hai dãy giường. ‘Trẻ em đói và mồ côi,’ hắn nói. ‘Những đứa trẻ sống sót sau trận dịch hạch và dịch sốt.’ Hắn dừng lại. Ta thấy cô bé đang nằm trên giường. Và một người đàn ông tiến tới, thì thầm gì đó với Lestat; thật quá quan tâm đến những đứa bé đang say ngủ. Bỗng có tiếng khóc vang lên trong phòng bên. Cô y tá đứng dậy, vội vã bước đi.
“Vị bác sĩ nọ cúi xuống và bọc cô bé vào tấm chăn. Lestat móc tiền từ trong túi áo để xuống chân giường. Bác sĩ nói ông ta rất vui khi chúng ta đến đón cô bé này, rằng phần lớn trẻ em nằm đây là trẻ mồ côi; chúng được chở đến bằng tàu, có những đứa bé đến mức không cách nào biết được thi thể nào trên tàu là mẹ chúng. Ông ta nghĩ Lestat là cha của cô bé này.
“Và chỉ trong chớp mắt, Lestat đã ôm theo cô bé chạy xuống phố, tấm chăn trắng sáng lên trên nền chiếc áo khoác và áo choàng không tay màu đen của hắn; và khi ta chạy theo sau Lestat, ngay cả với đôi mắt ma cà rồng, đôi lúc ta vẫn có cảm tưởng chiếc chăn đang bay tự đo trong màn đêm, một hình thù chập chờn lướt đi trong gió như chiếc lá thẳng đứng đang xuôi theo con đường phía trước, nương theo sức gió mà bay lên. Cuối cùng ta bắt kịp hắn dưới những ngọn đèn gần quảng trường Place d’Armes. Đứa trẻ nằm tựa trên vai hắn, hai má vẫn bầu bĩnh như trái đào, mặc dù cô bé đã bị hút cạn máu và sắp không trụ nổi nữa. Cô bé mở mắt ra, hay nói đúng hơn là mi mắt em nhếch lên; và bên dưới hàng mi cong của em, ta thấy một vệt trắng hiện ra. ‘Lestat, anh đang định làm gì? Anh định đưa cô bé đi đâu?’ ta hỏi hắn. Nhưng ta đã biết rõ rồi. Hắn đang bế cô bé hướng thẳng về khách sạn và rõ ràng muốn đưa cô bé vào phòng bọn ta.
“Hai cái xác vẫn nguyên vị trí như khi bọn ta rời đi, một cái nằm ngay ngắn trong quan tài như thể được người mai táng sắp xếp, một cái vẫn gục trên chiếc ghế cạnh bàn. Lestat lướt qua như thể không nhìn thấy họ, trong khi ta mê mải quan sát hắn. Tất cả nến đều đã cháy hết, ánh sáng duy nhất trong phòng là nhờ mặt trăng và những ngọn đèn đường rọi vào. Ta có thể nhìn thấy nét mặt trắng bóng lạnh lùng của hắn khi hắn đặt cô bé xuống gối. ‘Đến đây nào, Louis, anh vẫn chưa hút đủ máu, tôi biết là anh đang đói,’ hắn nói, vẫn bằng giọng điềm đạm, đầy thuyết phục như hắn đã dùng một cách thành thục suốt đêm đó. Hắn nắm chặt lấy bàn tay ta, tay hắn đã ấm lên nhiều. ‘Nhìn con bé này, Louis, trông nó thật mũm mĩm và ngọt ngào, ngay cả Tử thần cũng không thể lấy đi khỏi nó vẻ tươi trẻ; ý chí sống thực mãnh liệt! Hắn có thể khiến đôi môi nhỏ và hai bàn tay tròn trịa này đờ đẫn ra như tượng, nhưng không thể làm con bé khô héo được. Anh còn nhớ anh đã muốn hút máu con bé đến mức nào khi bước vào căn phòng đó mà.’ Ta cố cưỡng lại hắn. Ta không hề muốn giết cô bé. Đêm qua ta không hề có khao khát đó. Và đột nhiên ta nhớ ra cơn xung đột nội tâm và tâm hồn ta bị xé toạc một cách đau đớn: ta nhớ tiếng đập thình thịch của trái tim cô bé dội vào lồng ngực mình và cảm giác thèm muốn nhịp tim đó, thèm muốn đến mức ta phải quay lưng lại và suýt chút nữa đã lao ra khỏi phòng nếu Lestat không túm chặt lấy ta; ta nhớ khuôn mặt của người mẹ và khoảnh khắc kinh hoàng khi ta buông cô bé xuống và Lestat bước vào căn phòng đó. Nhưng lúc này hắn không giễu cợt mà đang cố khiến ta dao động. ‘Anh muốn hút máu con bé, Louis. Anh không hiểu sao, khi anh đã hút máu nó rồi, anh sẽ có thể hút máu bất cứ ai khác. Anh đã muốn hút máu nó từ đêm qua nhưng lại quá ủy mị, và đó là lý do nó vẫn chưa chết.’ Ta cảm thấy tất cả những điều hắn vừa nói đều là sự thật. Và ta lại thấy nỗi thèm muốn được cắm ngập răng vào cổ cô bé, được thấy trái tim cô bé đập liên hồi. Cô bé quá mạnh mẽ... trái tim cô bé sẽ không chịu bỏ cuộc, ta nói với hắn. ‘Con bé mạnh mẽ thật à?’ Lestat cười. Hắn kéo ta lại gần hắn. ‘Hút máu nó đi, Louis, tôi biết là anh muốn điều đó mà.’ Và ta nghe lời hắn. Ta tiến tới gần giường và chỉ đứng đó nhìn ngắm cô bé. Ngực em phập phồng theo từng nhịp thở, bàn tay nhỏ bé bị lấp trong mái tóc dài, vàng óng. Nhìn cô bé, ta không thể chịu được khi vừa muốn hút máu em vừa muốn em không phải chết; và càng nhìn lâu, ta càng như nếm được mùi vị của làn da non trẻ, như đã luồn cánh tay xuống tấm lưng nhỏ kéo em lên gần mình, cảm nhận cổ họng mềm mại của em. Mềm mại, mềm mại, đó là từ chính xác nhất để diễn tả về cô bé, rất mềm mại. Ta cố thuyết phục bản thân rằng với em lúc này, chết là tốt - nếu không thì tương lai nào sẽ đón chờ em? Nhưng đó chỉ là những suy nghĩ dối lừa. Ta đang khao khát cô bé! Và ta nâng bổng em lên, ôm lấy em, gò má nóng hổi của em áp vào má ta, mái tóc em xõa lên cổ tay ta và quét qua mi mắt ta, mùi hương ngọt ngào của một đứa trẻ vẫn tràn đầy sức sống mãnh liệt bất chấp bệnh tật và cái chết. Cô bé đang rên rỉ và cựa quậy trong giấc ngủ, khiến ta không thể chịu đựng nổi. Ta phải giết cô bé trước khi em kịp tỉnh giấc và nhận ra mọi chuyện. Ta tìm đến cần cổ cô bé và nghe tiếng Lestat cất lên, ‘Hãy cắn nhẹ nhàng thôi. Đó là một cái cổ nhỏ bé.’ Và ta nghe theo hắn.
“Ta sẽ không mô tả chi tiết cảm giác đó cho anh nghe một lần nữa, mà chỉ nói rằng nó khiến ta chao đảo y như lần trước, y như những khi ta giết chóc, chỉ khác là dữ dội hơn mà thôi; vậy nên ta khuỵu gối xuống, vươn nửa người lên giường, hút máu cô bé; trái tim đó vẫn đập liên hồi, không hề chậm lại, không chịu bỏ cuộc. Và đột nhiên, trong lúc ta hút không ngừng, phần bản năng trong ta đang chờ đợi, chờ để nghe tiếng trái tim kia đập chậm lại báo hiệu cái chết, thì Lestat giật ta ra khỏi cô bé. Nhưng cô bé vẫn chưa chết, ta thì thào. Nhưng tất cả đã kết thúc rồi. Ta thấy đường nét đồ đạc trong phòng hiện lên giữa màn đêm. Và ta sững sờ ngồi đó, nhìn chằm chằm vào cô bé, kiệt sức đến mức không thể cử động được, đầu ta ngất ra tựa vào đầu giường, tay ép chặt xuống tấm trải giường bằng nhung. Lestat đã vồ lấy cô bé, nói chuyện với em, thốt ra một cái tên. ‘Claudia, Claudia, con nghe không, tỉnh đi nào, Claudia.’ Hắn bế cô bé từ phòng ngủ ra phòng khách và giọng hắn nhỏ tới mức ta gần như không nghe được. ‘Con đang bị ốm, con có nghe thấy không? Con phải làm theo lời ta thì mới khỏe lên được.’ Và trong khoảng lặng sau đó, các giác quan của ta từ từ hồi phục. Ta nhận ra Lestat đang làm gì, hắn đã cắt cổ tay mình đưa cho cô bé và giờ cô bé đang hút máu hắn. ‘Đúng rồi bé yêu, hút nhiều nữa lên,’ hắn nói với cô bé. Con phải uống thứ này thì mới khỏe lên được.’
‘Tên khốn!’ ta hét lên, và hắn rít lên đáp trả, cặp mắt rực cháy. Hắn đang ngồi trên ghế sofa trong khi cô bé bám riết lấy cơ tay hắn. Ta thấy bàn tay trắng muốt của cô bé đang bấu chặt tay áo Lestat, và ta có thể thấy hắn đang thở hổn hển, khuôn mặt méo mó chưa từng thấy. Hắn rên lên nhưng vẫn thì thầm bảo cô bé tiếp tục hút máu, và khi ta bước qua ngưỡng cửa, hắn lại trừng trừng nhìn ta như thể muốn nói, ‘Tôi sẽ giết anh!’
‘Nhưng tại sao, Lestat?’ ta thì thào với hắn. Hắn đang cố gắng đẩy cô bé ra trong khi em cố bám riết lấy. Cô bé bấu chặt ngón tay và cẳng tay hắn, cố gắng kéo cổ tay hắn xuống miệng mình, gầm gừ. ‘Dừng lại, dừng lại!’ hắn bảo cô bé. Rõ ràng hắn đang rất đau đớn. Hắn lùi ra xa cô bé và dùng hai tay giữ chặt đôi vai em. Cô bé vẫn nỗ lực một cách tuyệt vọng để vươn răng về phía cổ tay hắn nhưng không được; và sau đó em nhìn hắn với vẻ ngạc nhiên vô cùng ngây thơ. Hắn đứng lên, rút tay ra thật xa vì sợ cô bé cử động. Rồi hắn ấn mạnh một chiếc khăn lên cổ tay và rời khỏi cô bé, tiến tới gần cái chuông cửa. Hắn giật mạnh chuông, mắt vẫn dán vào cô bé.
‘Anh đã làm gì thế, Lestat?’ ta hỏi. ‘Anh đã làm gì?’ Ta nhìn cô bé chằm chằm. Em đang ngồi điềm tĩnh, hoàn toàn hồi phục, gương mặt căng tràn sức sống, không hề xanh xao yếu ớt, đôi chân em duỗi thẳng trên lớp vải gấm hoa, chiếc váy trắng đang bao bọc cơ thể bé nhỏ của em mỏng và nhẹ như tấm áo choàng của thiên thần. Cô bé đang nhìn Lestat. Không thể là ta được, hắn nói với cô bé, không bao giờ nữa. Con có hiểu không? Nhưng ta sẽ chỉ cho con cách làm! Khi ta đang cố gắng thu hút sự chú ý của hắn và yêu cầu hắn giải thích hành động vừa rồi, hắn đã đẩy ta ra, vung tay mạnh đến nỗi ta văng vào tường. Đúng lúc đó có tiếng gõ cửa vang lên. Ta biết hắn định làm gì. Ta cố gắng tiếp cận một lần nữa nhưng hắn xoay người nhanh đến mức ta còn không kịp nhận ra là hắn đánh mình. Khi có thể mở mắt ra được, ta nhận ra mình đang nằm trên ghế còn hắn đang ra mở cửa phòng. Đúng rồi, xin mời vào, ở đây vừa xảy ra tai nạn, hắn nói với tên nô lệ trẻ. Và ngay khi cánh cửa khép lại, hắn tấn công tên nô lệ từ phía sau để anh ta không kịp biết chuyện gì đã xảy ra. Và trong lúc quỳ xuống hút máu tên nô lệ, hắn vẫy tay gọi cô bé lại gần, em liền tụt xuống khỏi ghế sofa, bò lại gần cầm lấy cổ tay tên nô lệ mà hắn đang đưa ra cho rồi nhanh chóng kéo cổ tay áo anh ta lên. Em nhai như thể em muốn ăn thịt anh ta, và Lestat hướng dẫn em hút máu đúng cách. Rồi hắn lùi lại để cô bé tự do thưởng thức bữa ăn, mắt hắn chăm chú quan sát ngực tên nô lệ, đến khi nhận thấy khuôn ngực đó không còn phập phồng, hắn cúi xuống nói với cô bé, ‘Dừng hút lại đi, nó sắp chết rồi... Con không được uống máu khi trái tim con mồi đã ngừng đập, nếu không con sẽ lại bị ốm, ốm đến chết. Con hiểu chứ?’ Nhưng cô bé đã hút đủ máu, em lại ngồi cùng Lestat, dựa lưng vào ghế sofa, duỗi chân lên sàn nhà. Vài giây sau, tên nô lệ chết. Ta cảm thấy cực kỳ mệt mỏi và kinh tởm, như thể đêm ấy đã kéo dài cả ngàn năm. Ta ngồi đó quan sát hai người họ, cô bé đang rúc đầu vào Lestat trong khi hắn vòng cánh tay sang ôm lấy em, dù cho đôi mắt ơ hờ của hắn vẫn đang dừng lại trên xác tên nô lệ. Rồi hắn ngước lên nhìn ta.
‘Mẹ đâu rồi?’ cô bé nhỏ nhẹ hỏi. Em có chất giọng đẹp không kém gì vẻ bề ngoài của mình; ngân lên thánh thót như một chiếc chuông bạc tí hon. Giọng nói rất lôi cuốn. Em cũng rất lôi cuốn. Mắt em to và trong trẻo y như mắt Babette. Anh phải hiểu là ta hầu như không ý thức được toàn bộ chuyện này có ý nghĩa gì. Ta biết điều đó có thể có ý nghĩa, nhưng ta đã quá đỗi kinh hoàng. Bấy giờ, Lestat đứng lên, nhấc bổng cô bé dậy và tiến tới phía ta. ‘Con bé là con gái chúng ta,’ hắn nói. ‘Từ nay con sẽ sống cùng chúng ta.’ Hắn tươi cười với cô bé, nhưng ánh mắt hắn vẫn rất lạnh lùng như thể đó chỉ là một trò đùa khủng khiếp; rồi hắn quay sang nhìn ta, và khuôn mặt hắn toát lên vẻ tự tin. Hắn đẩy cô bé về phía ta. Ta nhận ra em đã ngồi trên đùi mình và ta vòng tay ôm lấy em, lại cảm nhận được sự mềm mại của cơ thể em, làn da căng tràn sức sống như vỏ trái cây ấm áp, một quả mận đang tắm mình dưới ánh mặt trời rực rỡ, nhìn đôi mắt to sáng long lanh của em đang ngước lên ta với vẻ hiếu kỳ đầy tin cậy. ‘Đây là Louis, còn ta là Lestat,’ hắn nói với cô bé rồi ngồi xuống bên cạnh em. Cô bé nhìn quanh rồi bảo đây là một căn phòng đẹp, rất đẹp, nhưng em muốn ở với mẹ. Hắn rút ra một chiếc lược chải mái tóc dài cho cô bé; mái tóc nhanh chóng hết rối và trở nên suôn mềm như lụa. Cô bé là đứa trẻ xinh đẹp nhất ta từng thấy, và bây giờ em đang tỏa ra thứ ánh sáng đến từ ngọn lửa băng giá của loài ma cà rồng. Đôi mắt em là đôi mắt của một phụ nữ trưởng thành, ta đã nhận ra điều này ngay. Cô bé có thể trở nên trắng sáng và mịn màng như bọn ta, nhưng không thể thay đổi kích thước cơ thể mình. Bây giờ thì ta đã hiểu điều Lestat nói về cái chết, điều mà hắn muốn ám chỉ. Ta chạm lên cổ cô bé, nơi hai vết cắn vẫn còn rỉ máu. Ta nhặt chiếc khăn tay Lestat vứt trên sàn nhà và thấm lên cổ cô bé. ‘Mẹ con đã gửi con cho chúng ta, bà muốn con được sống hạnh phúc,’ hắn thốt ra những điều này vẫn với thái độ cực kỳ tự tin như vậy. ‘Mẹ con biết là chúng ta có thể cho con một cuộc sống hạnh phúc.’
‘Con muốn nữa,’ cô bé nói, quay ra nhìn xác chết trên sàn nhà.
‘Không, không phải đêm nay; hãy chờ đến đêm mai,’ Lestat nói với cô bé. Hắn kéo xác người phụ nữ ra khỏi quan tài. Cô bé tụt xuống khỏi đùi ta, và ta đi theo em. Em nhìn Lestat đặt xác hai người phụ nữ và tên nô lệ lên giường. Hắn kéo chăn lên che kín tới cằm ba nạn nhân. ‘Họ đang bị ốm ạ?’ cô bé hỏi.”
‘Phải, Claudia ạ,’ Lestat trả lời. ‘Họ bị bệnh nặng và đã chết rồi. Con thấy đấy, họ sẽ chết khi con hút máu họ.’ Hắn tiến tới gần cô bé, nâng bổng em lên tay một lần nữa. Bọn ta cứ đứng đó, ở giữa là cô bé. Ta đã bị cô bé mê hoặc, bị lôi cuốn bởi sự biến đổi và mọi cử chỉ của em, cô bé không còn là một đứa trẻ bình thường nữa, giờ em đã là một ma cà rồng nhí. ‘Louis định rời bỏ chúng ta,’ Lestat nói, ánh mắt hắn chuyển từ ta sang cô bé. ‘Chú ấy đã định ra đi. Nhưng giờ thì không. Vì chú ấy muốn ở lại chăm sóc con và giúp con được hạnh phúc.’ Hắn nhìn thẳng vào ta. ‘Anh sẽ không bỏ đi đâu, phải không Louis?’
‘Anh là đồ khốn!’ ta thì thào với hắn. ‘Anh là đồ quái vật!’
‘Sao anh lại nói năng như thế trước mặt con gái anh,’ hắn nói.
‘Tôi không phải con gái ông,’ cô bé cất giọng trong trẻo. ‘Tôi là con gái của mẹ tôi.’
‘Không, con yêu, không còn như vậy nữa,’ hắn nói với cô bé. Hắn liếc nhìn ra cửa sổ rồi đóng cánh cửa phòng ngủ sau lưng bọn ta lại và khóa chặt. ‘Con là con gái chúng ta, là con của Louis và con của ta, con hiểu chưa? Bây giờ con muốn ngủ cùng ai nào? Louis hay ta?’ Và nhìn thẳng vào ta, hắn tiếp tục nói, ‘Có lẽ con nên ngủ cùng Louis. Xét cho cùng, khi ta mệt... ta không được thân thiện cho lắm.’”
Ma cà rồng ngừng lời. Chàng trai không nói gì. “Một ma cà rồng nhí!” cuối cùng anh thì thào. Ma cà rồng đột ngột ngước lên nhìn như thể bị giật mình, mặc dù cơ thể hắn vẫn giữ nguyên tư thế. Hắn nhìn chằm chằm vào chiếc máy ghi âm như thể đó là một vật vô cùng quái dị.
Chàng trai nhận ra cuộn băng đã sắp hết. Anh liền vội vàng mở cặp tài liệu lấy một cuộn băng mới, vụng về lắp nó vào máy. Anh ấn nút ghi âm, vẫn không rời mắt khỏi ma cà rồng. Khuôn mặt ma cà rồng toát lên vẻ mỏi mệt, u sầu. Xương gò má hắn dường như càng nhô lên rõ hơn và đôi mắt màu xanh sáng dường như càng mở ra to hơn. Họ đã bắt đầu cuộc phỏng vấn khi trời vừa chuyển tối, bóng tối thường đến sớm ở đêm mùa đông San Francisco này, và giờ đã là mười giờ kém. Ma cà rồng ngồi thẳng người lại, mỉm cười và bình thản nói, “Chúng ta đã sẵn sàng tiếp tục chưa nhỉ?”
“Hắn đã biến cô bé đó thành ma cà rồng chỉ để giữ anh ở lại?” chàng trai hỏi.
“Khó mà nói chính xác được. Hành động đó là một lời tuyên bố. Ta tin Lestat là loại người không thích phải nghĩ hay nói về động cơ hay niềm tin của mình, cho dù chỉ là với chính bản thân hắn. Loại người thích dùng hành động hơn lời nói. Một người như vậy sẽ phải chịu một sức ép rất lớn thì mới chịu mở miệng và thú nhận rằng cách sống của hắn cũng có phương pháp và suy nghĩ. Đó chính là điều đã xảy ra với Lestat đêm ấy. Hắn đã bị dồn đến chỗ phải tự mình khám phá ra lý do tại sao hắn lại sống như vậy. Việc giữ ta lại cũng chính là một phần của sức ép đó. Nhưng khi nhìn lại tất cả, ta nghĩ rằng chính hắn cũng muốn hiểu được vì sao hắn lại thèm khát giết chóc và cũng muốn chiêm nghiệm cuộc đời của mình. Khi nói thành lời, hắn đã phát hiện ra mình tin vào điều gì. Nhưng đúng là hắn muốn ta ở lại. Hắn đã sống cùng ta theo cái cách mà hắn không thể sống khi đơn độc. Và như ta đã nói với anh, ta đã rất cẩn thận không chuyển nhượng bất cứ tài sản nào cho hắn, khiến hắn phát điên. Việc đó thì hắn không thể thuyết phục ta được.” Đột nhiên ma cà rồng cười lớn, “Anh hãy nhìn xem hắn đã thuyết phục ta làm những việc gì! Thật quái lạ. Hắn có thể thuyết phục ta giết một đứa trẻ, nhưng lại không thể thuyết phục ta đưa tiền cho hắn.” Ma cà rồng lắc đầu. “Nhưng,” hắn nói, đó thực ra không phải là vì ta tham lam, như anh có thể nhận thấy. Đó là vì ta sợ sẽ bị trói buộc với hắn.”
“Anh nói như thể hắn ta đã chết rồi vậy. Anh luôn miệng nói là Lestat đã thế này và đã thế nọ. Hắn đã chết rồi sao?” chàng trai hỏi.
“Ta không biết,” ma cà rồng nói. “Ta nghĩ có lẽ hắn đã chết rồi. Nhưng ta sẽ nói về việc đó sau. Chúng ta đang nói về Claudia, phải không nhỉ? Ta muốn nói vài điều khác về động cơ của Lestat đêm đó. Lestat không tin ai cả, như anh thấy đấy. Hắn là một con mèo rừng, như chính hắn từng thú nhận, một kẻ săn mồi đơn độc. Nhưng đêm ấy hắn đã nói chuyện với ta; hắn đã mở lòng ở một mức độ nhất định chỉ đơn giản bằng cách nói ra sự thật. Hắn đã thôi nhạo báng, thôi tỏ vẻ hợm mình. Trong một khoảnh khắc, hắn đã tạm quên đi cơn giận dữ thường trực. Và với Lestat, đó cũng giống như bị phơi bày. Khi bọn ta đứng bên nhau trên con phố tối ấy, ta đã cảm nhận được từ hắn một sự thấu hiểu mà ta chưa từng thấy từ khi biến thành ma cà rồng. Ta nghĩ rằng hắn đã biến Claudia thành ma cà rồng để trả thù.”
“Không chỉ trả thù anh mà là trả thù cả thế giới này,” chàng trai mớm lời.
“Đúng vậy. Như ta đã nói, động cơ của tất cả những việc Lestat làm là trả thù.”
“Và việc trả thù đó bắt đầu với người cha mù? Với trường học của hắn ta?”
“Ta không biết. Ta không nghĩ vậy,” ma cà rồng nói.
“Nhưng hãy để ta tiếp tục câu chuyện của mình.”
“Vâng, mời anh. Anh phải tiếp tục thôi! Ý tôi là, mới mười giờ tối.” Chàng trai chìa chiếc đồng hồ trên cổ tay ra.
Ma cà rồng nhìn đồng hồ và mỉm cười với chàng trai. Mặt anh biến sắc. Anh đờ ra như thể vừa bị sặc. “Anh vẫn còn sợ ta à?” ma cà rồng hỏi.
Chàng trai không nói gì, nhưng anh từ từ lùi ra xa bàn. Anh vươn thẳng người lên, lê đôi chân trên sàn nhà bóng loáng và chụm hai bàn chân vào nhau.
“Nếu không thấy sợ ta thì anh hẳn phải là một kẻ vô cùng ngốc nghếch,” ma cà rồng nói. “Nhưng không cần phải vậy đâu. Chúng ta sẽ tiếp tục chứ?”
“Xin mời anh,” chàng trai nói. Anh ra hiệu về phía chiếc máy ghi âm.
“Vậy là,” ma cà rồng bắt đầu, “cuộc sống của bọn ta đã thay đổi rất nhiều sau khi tiểu thư Claudia xuất hiện, như anh có thể tưởng tượng ra được. Thể xác cô bé đã chết, nhưng các giác quan lại được đánh thức một cách mạnh mẽ y như ta. Và ta trân trọng những dấu hiệu này trong em. Nhưng trong suốt nhiều ngày, ta không hề nhận ra mình muốn có cô bé ở bên, muốn được trò chuyện với em đến mức nào. Ban đầu, ta chỉ chú trọng bảo vệ em tránh khỏi Lestat. Ta đặt cô bé vào quan tài mình mỗi sáng và luôn cố gắng hết sức để không cho em ở với Lestat ngoài tầm mắt mình. Đó chính là những gì Lestat muốn, và hắn thỉnh thoảng lại ám chỉ là sẽ làm hại cô bé. ‘Một đứa trẻ chết đói thì thật khủng khiếp,’ hắn bảo ta, ‘một ma cà rồng chết đói thậm chí còn thảm thương hơn.’ Dân Paris có thể nghe tiếng con bé gào thét vì đói, hắn nói, nếu hắn khóa cửa mặc cho cô bé chết. Nhưng tất cả những điều đó là để nhằm vào ta, để khiến ta phải ở gần hắn và không thể bỏ đi đâu được. Ta sợ phải chạy trốn một mình, ta sẽ không mạo hiểm làm thế với Claudia. Cô bé chỉ là một đứa trẻ. Em cần được chăm sóc.
“Và việc chăm sóc cô bé mang lại cho ta rất nhiều niềm vui. Cô bé đã quên năm năm của cuộc đời con người gần như ngay lập tức, hoặc ít ra là cũng có vẻ như vậy, vì em luôn lặng im một cách bí ẩn. Và theo thời gian, ta sợ rằng cô bé đã mất hết khả năng cảm nhận, rằng căn bệnh em từng mắc phải khi còn là con người kết hợp với cú sốc của việc biến thành ma cà rồng đã cướp đi lý trí của em; nhưng không phải vậy. Chỉ đơn giản là em khác hẳn ta và Lestat, đến mức ta không thể hiểu được em; dù chỉ là một cô bé, em vẫn có thể giết người một cách rất tàn nhẫn để thỏa mãn cơn khát máu với tất cả sự đòi hỏi của một đứa trẻ. Và dù Lestat vẫn hăm dọa ta là cô bé sẽ gặp nguy hiểm, hắn lại không hề đe dọa em, ngược lại, hắn còn hết lòng yêu thương, luôn tỏ ra tự hào vì vẻ đẹp của em, nôn nóng dạy em rằng bọn ta phải hút máu để sống và là những kẻ bất tử.
“Lúc đó, như ta đã kể, bệnh dịch đang hoành hành trong thành phố và hắn đã đưa cô bé đến nghĩa trang, nơi xác của nạn nhân của bệnh dịch và chứng sốt vàng da chất thành hàng đống còn tiếng xẻng đào đất vang lên xuyên ngày đêm. Đây là cái chết, Lestat nói với Claudia, chỉ vào một cái xác phụ nữ đang phân hủy, là thứ chúng ta không thể chịu được. Cơ thể chúng ta sẽ không bao giờ bị như vậy, luôn tươi trẻ và sống động; nhưng chúng ta không được chần chừ khi mang đến cái chết cho kẻ khác, bởi vì đó là cách chúng ta sinh tồn. Và Claudia chăm chú nhìn cái xác với ánh mắt trong veo bí hiểm.
“Trong những năm tháng đầu đời, nếu không biết gì thì sẽ không sợ. Luôn lặng im và duyên dáng, Claudia ngồi chơi với búp bê, mặc và cởi quần áo cho chúng đến cả tiếng đồng hồ. Luôn lặng im và duyên dáng, cô bé giết người. Và ta, thay đổi dưới sự hướng dẫn của Lestat, cũng đã bắt đầu đi săn một số lượng người lớn hơn trước kia rất nhiều. Nhưng không phải chỉ có việc giết chóc mới xoa dịu nỗi đau dai dẳng thầm kín ta từng phải chịu đựng trong những đêm ở Pointe du Lac, khi ta chỉ có hai người bạn đồng hành là Lestat và người cha mù của hắn; ta còn được xoa dịu bởi dòng người qua lại không ngớt trên đường phố, nơi không bao giờ yên lặng, nơi có những hộp đêm không bao giờ đóng cửa, những dạ hội nhộn nhịp tới tận sáng, tiếng nhạc và tiếng cười nói rộn ràng tuôn ra từ khắp các ô cửa sổ; con người đang bao quanh ta, những con mồi với mạch đập quyến rũ ta, đối với họ, ta không cảm thấy thứ tình yêu như đã dành cho em gái và Babette, mà chỉ có một cảm giác cần thiết và thờ ơ mới mẻ. Và ta đã giết họ, những vụ giết chóc rất khác nhau và cách xa nhau, trong khi ta lướt đi, với thị giác sắc bén và cử động uyển chuyển của ma cà rồng, giữa thành phố đông đúc đang phát triển như vũ bão ấy, con mồi của ta lúc nhúc xung quanh, hấp dẫn ta, mời gọi ta đến với bàn ăn tối, xe ngựa và nhà thổ của họ. Nhưng ta thường chỉ ở lại trong thời gian ngắn, đủ lâu để có được thứ ta cần, nỗi u sầu sâu thẳm trong ta được xoa dịu vì thành phố này đã ban tặng ta một dòng vô tận tuyệt vời những kẻ lạ mặt.
“Bởi vì đúng thế. Ta hút máu những người dưng. Ta chỉ đến đủ gần để thấy được vẻ đẹp của nhịp đập trái tim họ, những biểu cảm độc đáo, những giọng nói mới mẻ đầy niềm đam mê của họ, rồi giết họ ngay trước khi trong ta kịp thức tỉnh cảm giác ghê sợ, nỗi sợ ấy, nỗi muộn phiền ấy.
“Claudia và Lestat có thể săn và quyến rũ, ở lại rất lâu bên những nạn nhân bất hạnh đó để tận hưởng niềm vui của khoảnh khắc kẻ đó bất thình lình bị cái chết chiếm lĩnh. Nhưng ta vẫn không thể chịu được điều đó. Vì vậy đối với ta, thành phố đông dân này là một hồng phúc, như một khu rừng mà ta đã lỡ lạc bước vào và không thể ngăn mình lại, quay cuồng trong vòng xoay chóng mặt đến mức không còn thời gian mà nghĩ ngợi và đau đớn, hết lần này đến lần khác chấp nhận lời mời gọi của cái chết thay vì kéo dài nó.
“Trong thời gian đó, ba người bọn ta sống ở một trong những ngôi nhà kiến trúc Tây Ban Nha kiểu mới của ta tại khu hồ Royale, một căn hộ chạy dài sang trọng trên lầu, phía trên một cửa hàng ta đã cho một gã thợ may thuê, phía sau nhà có một khoảng sân vườn kín đáo, với một miệng giếng sát bên đường, những cánh cửa chớp bằng gỗ an toàn và cửa cho xe ngựa ra vào có chấn song - một nơi ở sang trọng và an toàn hơn Pointe du Lac rất nhiều. Đầy tớ của bọn ta đều là những người da màu tự do, luôn trở về nhà họ trước lúc bình minh để bọn ta được yên, và Lestat đã trang hoàng cho ngôi nhà bằng hàng loạt đồ nội thất nhập khẩu đời mới nhất từ Pháp và Tây Ban Nha: đèn chùm pha lê, thảm trải sàn phương Đông, bình phong bằng lụa có thêu hình những con chim thiên đường, những con hoàng yến hót véo von trong những chiếc lồng vàng có mái vòm, các bức tượng thần Hy Lạp được điêu khắc tinh tế từ đá cẩm thạch và bình sứ Trung Hoa với các hoa văn đẹp mắt. Dù không cần cuộc sống xa hoa hơn cuộc sống từng có trước đây, nhưng ta cũng không khỏi ngẩn ngơ trước làn sóng mới của các sản phẩm nghệ thuật, thủ công và thiết kế, có thể dành hàng giờ để đứng ngắm các hoa văn phức tạp trên tấm thảm trải sàn hoặc chiêm ngưỡng ánh sáng chói lòa của những ngọn đèn làm màu sắc ảm đạm của một bức họa Hà Lan rực rỡ hẳn lên.
“Với sự kính sợ thầm lặng của một đứa trẻ chưa bị nuông chiều đến hư người, Claudia cảm thấy tất cả những thứ đó thật tuyệt diệu và đã rất kinh ngạc khi Lestat thuê hẳn một họa sĩ để biến bức tường phòng em thành một khu rừng huyền bí với những con kỳ lân, bầy chim lông vàng và hàng cây trĩu quả trên dòng suối lấp lánh.
“Hàng loạt thợ may và thợ đóng giày đã đến nhà bọn ta để cung cấp cho Claudia những sản phẩm thời trang họp mốt nhất để cô bé luôn khiến người khác phải ngỡ ngàng, không chỉ vì nét đẹp ngây thơ với hàng mi cong và mái tóc xoăn vàng óng mà còn vì những chiếc mũ hoa tinh tế, đôi găng tay đăng ten nhỏ xíu, những áo khoác và áo choàng nhung lộng lẫy, những chiếc váy trắng tay phồng mềm mại đi cùng chiếc thắt lưng xanh bóng loáng. Lestat vui đùa với cô bé như thể em là một con búp bê tuyệt đẹp, và ta cũng vui đùa với em như với một con búp bê tuyệt đẹp, và thể theo nguyện vọng của cô bé, ta đã thay chiếc áo khoác đen sờn của mình bằng áo vest đúng mốt với cà vạt lụa, áo khoác màu xám nhạt, găng tay và áo choàng đen. Lestat nghĩ rằng màu đen luôn là màu tuyệt vời nhất cho ma cà rồng, có lẽ đó là nguyên tắc thẩm mỹ duy nhất mà hắn rất kiên định duy trì, nhưng hắn cũng không phản đối những thứ có hơi hướng thời thượng và bóng bẩy. Hắn thích cả ba người chúng ta xuất hiện cùng nhau, ngồi trong lô ở Nhà hát Opera Pháp hoặc Nhà hát kịch d’Orleans, nơi chúng ta thường xuyên lui tới. Lestat khiến ta ngạc nhiên vì niềm đam mê hắn dành cho kịch Shakespeare, dù hắn thường ngủ gà ngủ gật trong suốt các vở opera và chỉ thức dậy đúng lúc hạ màn để chiêu dụ một quý cô xinh đẹp nào đó tới bữa ăn khuya, để rồi hắn sẽ dùng toàn bộ kỹ năng ma mị của mình hòng chiếm trọn tình yêu của nàng rồi tàn bạo tiễn biệt họ tới thiên đường hoặc địa ngục, và cuối cùng, hắn sẽ về nhà mang cho Claudia một chiếc nhẫn kim cương chóp được.
“Và trong suốt quãng thời gian đó, ta hết lòng dạy dỗ Claudia, ta thì thầm vào đôi tai bé như vỏ sò của em rằng nếu bọn ta không nhận ra được vẻ đẹp của thế giới quanh mình và sự sáng tạo của con người ở khắp mọi nơi thì cuộc sống vĩnh cửu cũng sẽ là vô nghĩa; ta cố gắng đo chiều sâu của tâm hồn cô bé khi em chăm chú nhìn cuốn sách ta đưa cho em, hay khi em thì thầm bài thơ ta đã dạy và lặng lẽ ngồi chơi những bản nhạc piano kỳ lạ, mượt mà của riêng mình với những ngón tay bé nhỏ nhưng đầy tự tin. Cô bé có thể ngồi hàng giờ nhìn ngắm những bức tranh trong sách và lắng nghe ta đọc cho đến khi sự lặng lẽ của em khiến ta xao động, khiến ta phải bỏ sách xuống và quay sang nhìn em xuyên qua căn phòng tràn đầy ánh sáng; rồi em sẽ cựa mình như một con búp bê vừa sống dậy, rồi nói bằng giọng nhẹ nhàng nhất là em muốn nghe ta đọc nhiều hơn.
“Và sau đó những điều kỳ lạ bắt đầu xảy ra. Dù cho Claudia vẫn lặng lẽ và vẫn là một đứa trẻ bụ bẫm với bàn tay tròn trịa, ta bắt đầu thấy em rúc sâu vào trong ghế bành, đọc những cuốn sách của Aristotle, Boethius hoặc một cuốn tiểu thuyết mới được gửi đến từ bên kia Đại Tây Dương. Hoặc mày mò chơi lại những bản nhạc của Mozart mà chúng ta vừa nghe đêm hôm trước bằng đôi tai thẩm âm tinh nhạy và vẻ tập trung cao độ đến mức ma quái, trong lúc em ngồi hàng giờ để khám phá từng giai điệu, từng tiết tấu, và kết nối chúng với nhau. Claudia là một bí ẩn. Ta không cách nào đoán ra được cô bé đã biết và không biết những gì. Ta ớn lạnh xương sống khi quan sát em giết người. Em sẽ ngồi trơ trọi trong bóng đêm giữa quảng trường chờ đợi một quý ông hoặc quý bà tốt bụng nào đó xuất hiện, với ánh mắt còn vô cảm hơn cả ánh mắt của Lestat. Đóng giả một cô bé đang mụ mẫm vì sợ hãi, em sẽ thì thào cầu xin người qua đường đưa em về với người bảo trợ hiền từ, đáng kính nào đó, và ngay khi người tốt bụng nọ bế em ra khỏi quảng trường em sẽ quấn chặt cánh tay lên cổ nạn nhân, cái lưỡi nhỏ thè ra giữa hai hàm răng trắng ởn, đôi mắt dại đi vì cơn khát máu dâng trào. Trong những năm đầu tiên ấy, nạn nhân của cô bé chết chỉ trong chớp mắt, trước khi cô bé học được cách vờn mồi, dẫn họ đến những cửa hàng búp bê và quán cà phê, đến đó họ sẽ mua cho em một tách trà hoặc sô cô la nóng để giúp hai bầu má nhợt nhạt của em hồng hào lên, dẫu rằng em sẽ đẩy những tách nước ấy ra xa trong khi im lặng chờ đợi, chờ đợi như thể muốn nuốt hết vào lòng sự tử tế khủng khiếp của họ.
“Nhưng sau khi đã ăn no, cô bé lại là bạn đồng hành, là học trò của ta, dùng quãng thời gian dài bên ta để thẩm thấu ngày một nhanh hơn những kiến thức ta dạy, và ngược lại, em cũng chia sẻ cho ta những thấu hiểu tĩnh lặng mà em không thể cho Lestat biết. Mỗi buổi bình minh, em lại chui vào quan tài cùng ta, nhịp đập trái tim em dội vào lồng ngực ta, và nhiều lần, khi ta đứng ngắm cô bé chơi đàn hoặc vẽ tranh, tập trung đến mức không hay biết ta đang ở trong phòng, ta lại nghĩ rằng ta đã có với Claudia một trải nghiệm hết sức dị kỳ, trải nghiệm mà ta không hề có với ai khác, rằng ta đã giết em, lấy đi mạng sống của em, uống hết máu trong cơ thể em bằng một cái ôm siết chết chóc như ta đã từng làm với rất nhiều nạn nhân của mình, những nạn nhân giờ đã thối rữa trong nền đất ẩm. Nhưng em đã sống, em đã sống để vòng đôi tay bé nhỏ ôm lấy cổ ta, ép đôi môi nhỏ xíu uốn cong như cung tên Thần Ái Tình lên môi ta, áp thật sát đôi mắt long lanh của em vào mắt ta cho đến khi mi mắt chúng ta chạm vào nhau và chúng ta sẽ cùng cười lớn, rồi lao đi quanh phòng như thể đang nhảy một điệu valse hoang dại nhất. Cha và Con Gái. Tình nhân với Tình nhân. Anh cứ tưởng tượng mà xem, thật tuyệt làm sao khi Lestat không mảy may ghen tị mà thường chỉ mỉm cười nhìn từ đằng xa, kiên nhẫn chờ đợi cô bé chạy đến với hắn. Và hắn sẽ đưa cô bé xuống phố, hai người họ sẽ vẫy tay chào ta từ dưới cửa sổ, rồi ra đi để chia sẻ thứ mà họ chia sẻ: đi săn, quyến rũ và giết chóc.
“Nhiều năm đã trôi qua như vậy. Rất nhiều năm đã trôi qua. Tuy nhiên phải mất một thời gian dài ta mới nhận thức được một sự thật hiển nhiên về Claudia. Nhìn vẻ mặt của anh, ta đoán là anh đã biết và đang thắc mắc tại sao chính ta lại không nghĩ ra. Ta chỉ có thể nói với anh rằng, thời gian của anh khác với thời gian của ta, khác với thời gian của ba người bọn ta lúc đó. Ngày không nối ngày để tạo thành một sợi xích thẳng căng; chỉ là mặt trăng mọc lên trên những làn sóng vỗ bờ mà thôi.”
“Cơ thể cô bé!” chàng trai thốt lên. “Cơ thể cô bé không thể lớn lên nữa.”
Ma cà rồng gật đầu. “Cô bé sẽ vĩnh viễn là một ma cà rồng nhí,” hắn nói, giọng dịu dàng như thể hắn vẫn còn kinh ngạc về điều đó. Ta cũng vĩnh viễn là người đàn ông trẻ tuổi như khi cơ thể ta chết đi. Còn Lestat? Cũng vậy. Nhưng còn trí não cô bé, đó là trí não của một ma cà rồng. Và ta đã cố gắng tìm hiểu xem cô bé đang dần dần trở thành một phụ nữ trưởng thành như thế nào. Cô bé bắt đầu nói chuyện nhiều hơn, mặc dù em không bao giờ hết trầm tư, và có thể ngồi nghe ta nói hàng giờ mà không cắt ngang dù chỉ một lần. Tuy nhiên càng ngày khuôn mặt búp bê của em càng như chứa đựng đôi mắt một người trưởng thành đầy hiểu biết, và sự ngây thơ dường như đã bị đánh rơi đâu đó cùng những món đồ chơi bị quên lãng và tính nhẫn nại của một cô bé ngoan. Hình ảnh em nằm dài trên ghế sofa trong chiếc váy ngủ nhỏ xíu bằng ren thêu ngọc trai có cái gì đó gợi cảm đến khủng khiếp; em đã trở thành một mỹ nhân quyến rũ ma quái và không thể cưỡng lại được, giọng nói của em vẫn ngọt ngào và trong trẻo như vốn dĩ, nhưng nay đã có thêm âm sắc của phụ nữ trưởng thành, đôi khi còn trở nên sắc sảo đến mức khiến người khác phải kinh ngạc. Sau nhiều ngày tĩnh lặng, có thể em sẽ đột nhiên cất lời chế giễu những dự đoán của Lestat về chiến tranh, hoặc vừa nhấp một ngụm máu trong chiếc ly thủy tinh vừa phàn nàn rằng nhà chẳng còn cuốn sách nào để đọc, rằng bọn ta nên mang sách về nhiều hơn kể cả có phải đi ăn cắp, đoạn, em sẽ hờ hững nói với ta rằng em từng nghe về thư phòng trong biệt thự nguy nga ở Faubourg St. Marie, một quý bà thích sưu tập sách như thể chúng là đồ cổ hay bướm ép vậy. Cô bé hỏi ta có thể đưa em vào phòng ngủ của quý bà đó được không.
“Những khoảnh khắc đó đã khiến ta kinh ngạc; tâm trí của cô bé không thể đoán trước, không thể đo lường được. Nhưng ngay sau đó, cô bé sẽ ngồi lên đùi ta, luồn ngón tay vào tóc ta, ngủ gật trên ngực ta và thì thầm rằng ta sẽ không thể trưởng thành được bằng em nếu vẫn chưa hiểu được giết chóc là việc nghiêm túc hơn những cuốn sách và âm nhạc rất nhiều. ‘Luôn luôn là âm nhạc...’ em thì thầm. ‘Búp bê của ta, búp bê của ta,’ ta gọi cô bé. Em là búp bê. Một búp bê kỳ diệu. Em có tiếng cười đáng yêu, một trí tuệ vô hạn, khuôn mặt tròn bầu bĩnh và đôi môi như nụ hồng. ‘Để ta mặc váy và chải tóc cho em,’ ta sẽ nói với em theo thói quen cũ, trong khi ta biết em đang mỉm cười và quan sát ta với vẻ nhàm chán thấp thoáng trên mặt. ‘Cứ làm ta như anh muốn,‘ cô bé thở vào tai ta khi ta cúi xuống để cài lại nút áo ngọc trai. ‘Chỉ cần đi săn cùng em đêm nay thôi. Anh chưa bao giờ cho em thấy cách anh giết người, Louis!‘
“Và cô bé muốn có một cái quan tài của riêng mình, việc đó khiến ta đau đớn hơn mức mà ta để cho em thấy được. Ta bước ra khỏi phòng sau khi đồng ý với em một cách lịch thiệp; ta không biết đã bao nhiêu năm ta ngủ cùng em như thể em là một phần thân thể mình. Nhưng sau đó, ta bắt gặp em đứng trơ trọi bên tu viện Ursuline như một đứa trẻ mồ côi đang lạc trong bóng đêm, và đột nhiên em chạy tới ôm chặt lấy ta với nỗi tuyệt vọng rất con người. ‘Em sẽ không làm thế nếu điều đó khiến anh buồn,’ em thì thầm rất nhỏ để những người đi qua bọn ta không thể nghe thấy tiếng em và cảm nhận được hơi thở của em. ‘Em sẽ luôn ở bên anh. Nhưng em cần nhìn thấy nó, anh hiểu không? Một chiếc quan tài cho trẻ con.’
“Bọn ta đã tìm đến một người đóng quan tài. Một buổi lễ diễn, một vở bi kịch một màn: ta để cô bé ngồi lại bên ngoài quầy hàng và nói riêng với người đóng quan tài trong phòng tiếp khách rằng cô bé sắp chết. Ta nói rằng vì tình yêu đối với em, ta muốn cho em mọi điều tốt nhất, nhưng em không được biết, và người đóng quan tài, đang run lên vì xúc động khi phải đóng một chiếc quan tài cho cô bé, phải tưởng tượng cảnh em nằm trên lớp vải xa tanh trắng, lau đi dòng lệ tuôn ra trên mắt dù đã bao năm phải chứng kiến cái chết.
‘Nhưng tại sao vậy Claudia...’ ta van vỉ cô bé. Ta ghét phải làm điều này, ghét phải chơi trò mèo vờn chuột với những con người không có khả năng kháng cự. Nhưng vì quá yêu em, ta lại bế em ngồi lên ghế sofa, để em ngồi đó, chắp đôi tay nhỏ nhắn lên đùi, chiếc mũ bé xinh nghiêng nghiêng như thể em hoàn toàn không biết những lời ta đã thì thầm với người đóng quan tài trong phòng khách. Người đóng quan tài, một ông lão da màu rất tinh tế, đã gọi ta ra riêng một góc để ‘em bé’ không nghe thấy. “Nhưng tại sao cô bé lại phải chết?” ông ta năn nỉ ta giải thích, như thể lời ta nói chính là ý chỉ của Chúa trời. “Do tim của cô bé, em không sống lâu được,” ta đáp, những lời ấy chứa đựng một sức mạnh đặc biệt, một sự âm vang đầy bối rối. Cảm xúc dâng trào trên khuôn mặt nhỏ nhăn nheo của ông lão khiến ta khó chịu; một điều gì đó bỗng ùa về trong tâm trí ta, một tia sáng, một cử chỉ, một âm thanh, một đứa trẻ đang khóc váng lên trong căn phòng hôi thối. Người đóng quan tài lần lượt mở khóa các căn phòng dài của mình, chỉ cho ta thấy những chiếc quan tài đánh véc ni đen mạ bạc, cô bé thích kiểu đó. Và đột nhiên, ta nhận ra mình đang lùi lại tránh xa ông ta, rời khỏi phòng chứa quan tài và chộp lấy tay cô bé. ‘Hàng đã được đặt rồi,’ ta nói với em. ‘Chuyện này khiến ta phát điên đây này!’ Ta hít lấy hít để bầu không khí thoáng đãng trên đường phố như thể bị nghẹt thở, và rồi ta thấy cô bé chăm chú nhìn ta với vẻ mặt vô cảm quen thuộc. Cô bé luồn bàn tay đang đeo găng của mình vào tay ta. ‘Em muốn có nó, Louis,’ em nhẫn nại giải thích.
“Và rồi một đêm nọ, cùng với Lestat, Claudia tìm đến nhà người làm quan tài để lấy thứ mình cần và bỏ lại ông lão tội nghiệp chết gục bên đống giấy tờ bụi bặm trên bàn làm việc. Chiếc quan tài được đặt trong phòng ngủ của bọn ta, và cô bé dành hàng giờ nhìn ngắm nó khi nó vẫn còn mới, như thể nó là một vật biết di chuyển, hoặc một vật sống, hoặc từng chút một đã gợi mở cho em một bí ẩn nào đó, như những thứ có thể thay đổi. Nhưng cô bé không ngủ trong chiếc quan tài đó. Em vẫn tiếp tục ngủ cùng ta.
“Em còn có những thay đổi khác nữa. Ta không thể nói rõ thời gian và sắp xếp những thay đổi đó theo thứ tự. Em không còn giết người bừa bãi nữa. Em bắt đầu chọn lọc. Sự nghèo khổ mê hoặc em; em thường xin xỏ Lestat hoặc ta lái xe ngựa chở em băng qua Faubourg St. Marie đến bờ sông, nơi những người nhập cư sinh sống. Cô bé dường như bị ám ảnh bởi phụ nữ và trẻ con. Lestat đã kể lại điều đó cho ta với vẻ đắc ý, vì ta ghét phải đi tới đó và đôi khi còn không thể bị thuyết phục dù em có nài nỉ như thế nào. Nhưng ở đó, có một gia đình để em giết lần lượt từng thành viên một. Và em còn đòi vào nghĩa trang ở vùng ngoại ô Lafayette, tìm kiếm sau các tấm bia mộ bằng đá cẩm thạch những gã lang thang tuyệt vọng đang phải nương náu ở đó vì chẳng còn nơi nào khác để đi, một kẻ đã tiêu hết số tiền ít ỏi hắn có vào men rượu và phải lê lết trú tạm trong những hầm mộ hôi thối. Lestat hết sức bất ngờ và ấn tượng về điều này. Hắn khen ngợi cô bé và gọi em là Tử Thần Nhí. Cô bé Tử thần, Tử Thần Ngọt Ngào; còn với ta, hắn vừa cúi chào vừa mỉa mai gọi, Tử Thần Nhân Từ bằng cái giọng y như một mụ đàn bà đang vỗ tay và bật thốt lên giữa cuộc tán dóc hăng say: hỡi thượng đế nhân từ! khiến ta chỉ muốn bóp cổ hắn.
“Nhưng không có cuộc cãi vã nào nổ ra cả. Bọn ta đều kìm nén cảm xúc. Bọn ta biết tự điều chỉnh. Sách xếp chật căn hộ dài của chúng ta từ sàn đến trần thành từng dãy dài bọc da sáng bóng, vì ta và Claudia muốn thỏa mãn sở thích đọc, còn Lestat thì muốn thỏa mãn thú vui tiêu xài hoang phí. Cho tới khi cô bé bắt đầu đặt ra các câu hỏi.”
Phỏng Vấn Ma Cà Rồng Phỏng Vấn Ma Cà Rồng - Anne Rice Phỏng Vấn Ma Cà Rồng