It is what you read when you don't have to that determines what you will be when you can't help it.

Oscar Wilde

 
 
 
 
 
Tác giả: Thomas Mann
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 56
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3352 / 137
Cập nhật: 2017-09-15 16:22:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần 7 - Tâm Lý Kích Động Chung
ăm này qua năm khác, một bóng đen bắt đầu ám ảnh ‘Sơn trang’, một bóng ma đáng sợ mà Hans Castorp nghi rằng cùng dòng dõi với con quỷ chai lì chúng tôi đã vạch mặt chỉ tên ở phần trên. Với thói tò mò vô trách nhiệm của tuổi trẻ trên con đường trau dồi học vấn chàng đã bỏ công nghiên cứu tìm hiểu con quỷ ấy, đúng thế, chàng phát hiện ra những tiềm năng đáng ngại trong chính bản thân mình và rốt cục cũng cúi đầu chịu sự sai khiến của nó, chẳng khác gì thế giới xung quanh chàng. Cũng như con quỷ kia, bóng ma mới này thực ra trước nay vẫn lảng vảng ở đây nhưng còn giấu mặt, bây giờ là lúc nó bắt đầu xông ra hoành hành khắp mọi nơi. Thực ra bản tính điềm đạm của chàng không mấy phù hợp với nó, nhưng đôi khi chàng cũng giật mình kinh sợ, vì chỉ cần một phút lơ là, kém giữ gìn bản thân là thấy ngay những triệu chứng nhiễm bệnh thể hiện trên nét mặt, trong lời nói và cử chỉ. Có vẻ như không ai ở trên này thoát được bệnh dịch ấy.
Nó là cái gì vậy? Cái gì lơ lửng trong bầu không khí nơi này? Đó là tâm trạng cáu bẳn vô lối. Nghiện gây sự. Thiếu kiên nhẫn. Nóng nảy không lý do. Một sự kích động thần kinh khiến họ bất cứ lúc nào cũng có thể đổ quạu, lời qua tiếng lại, nổi trận lôi đình, thậm chí thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau. Những cuộc cãi vã to tiếng, nhục mạ lẫn nhau xảy ra mỗi ngày giữa các cá nhân và các nhóm bệnh nhân, mà dấu hiệu đáng ngại nhất là những người không tham dự, trước tình trạng mất tự chủ của các đối thủ, lẽ ra phải thấy bất bình hoặc đứng ra hòa giải thì họ lại buông mình theo cảm tính và vào hùa với bên này hoặc bên kia. Người ta tái mặt hồi hộp theo dõi các cuộc xung đột, mắt sáng rực, miệng méo xệch đầy say mê. Người ta ghen tị với những kẻ trong cuộc vì họ có quyền, có lý do để mà quát tháo và gào thét. Một hứng thú điên cuồng muốn được làm như những người kia nổi lên giày vò họ cả về linh hồn lẫn thể xác, và ai không đủ sức dứt ra tìm nơi lẩn trốn trong nỗi cô đơn sẽ bị hút không thương tiếc vào vòng xoáy bạo lực của nó. Những cuộc xung đột vô nghĩa lý, những lời buộc tội và chỉ trích lẫn nhau xảy ra như cơm bữa ở ‘Sơn trang’, và lãnh đạo viện, trong vai trọng tài phân xử bản thân lại cũng dễ dàng cao giọng và có thái độ cáu kỉnh thô lỗ một cách đáng sợ. Một người rời khỏi cửa trong trạng thái tâm thần lành mạnh không thể biết mình sẽ trở về trong tình trạng thế nào. Một thành viên của bàn Nga thượng lưu, một quý bà tỉnh lẻ thanh lịch đến từ Minsk, vẫn còn trẻ, một ca thực ra rất nhẹ - bà ta chỉ bị tuyên án có ba tháng không hơn không kém - một hôm xuống dưới thung lũng mua sắm gì đó trong một tiệm bán đồ may mặc của Pháp. Ở đó bà ta cãi lộn với cô bán hàng thế nào mà quay trở về trong trạng thái uất ức đến nỗi ho ra máu xối xả và từ đó trở đi bị liệt vào hạng vô phương cứu chữa. Ông chồng bà ta được gọi lên để nghe thông báo rằng bà ta sẽ không thể rời khỏi đây trước khi từ giã cõi đời.
Đó là một ví dụ tiêu biểu cho tình hình chung ở trên này. Mặc dù không muốn chúng tôi cũng phải dẫn chứng thêm một vài ví dụ khác nữa. Có lẽ ai đó trong quý độc giả còn nhớ cậu học trò hay cựu học trò đeo cặp kính mắt tròn thô lố ngồi ở bàn bà Salomon, cậu thiếu niên tội nghiệp có thói quen cắt vụn tất cả đồ ăn trong đĩa trộn thành một đống rồi lùa vào miệng, thỉnh thoảng lại đưa tấm khăn ăn lên lau đằng sau mắt kính thủy tinh dày cộp. Suốt những năm qua cậu học trò hay cựu học trò ấy vẫn ngồi chỗ đó, ngốn đĩa thức ăn và lau mắt, không gây ra một chút lý do dù chỉ là thoáng qua khiến người ta phải để ý đến mình. Nhưng giờ đây, một sáng ngày kia, ngay trong bữa điểm tâm đầu tiên, bất thình lình và có thể bảo rằng từ trên trời rơi xuống, một cơn thịnh nộ dữ dội nổ ra thu hút sự chú ý của cả phòng ăn về phía cậu. Người ta nghe tiếng quát tháo từ chỗ cậu ngồi; người ta thấy cậu tái mặt đi vì giận dữ, gầm lên với cô người lùn đứng bên cạnh. “Nói dối!” Cậu ta thét lạc cả giọng. “Lạnh ngắt! Ly trà cô mang lên cho tôi nguội tanh nguội ngắt rồi, tôi không uống! Cô đi mà uống thử, trước khi tiếp tục nói dối trắng trợn, cô cứ uống thử xem có phải nó hệt như nước rửa bát không, xem có người tử tế nào uống được không! Làm sao cô dám mang lên một ly trà nguội ngắt như thế đặt trước mặt tôi, và chắc mẩm là tôi sẽ uống?! Tôi không uống! Tôi từ chối uống cái thứ nước cống này!” Cậu ta rống lên và bắt đầu dùng cả hai nắm tay giộng liên hồi xuống bàn, khiến bát đĩa ly tách nhảy tưng tưng và kêu loảng xoảng. “Tôi muốn một ly trà nóng! Tôi muốn trà của tôi phải pha bằng nước sôi sùng sục, đó là quyền của tôi trước cả Chúa lẫn loài người! Nóng bỏng, cô nghe chưa, tôi thà chết ngay tại chỗ còn hơn uống một ngụm thứ nước này - đồ quái thai vô tích sự!” Với những lời nhục mạ này cậu ta vứt bỏ nốt chút tự chủ cuối cùng, để cho cơn giận tự do xổ ra ở cường độ tối đa. Cậu ta giơ nắm đấm trước mặt Emerentia, sùi bọt mép nhe răng ra với cô. Rồi cậu ta tiếp tục đấm bàn, giậm chân và nức nở gào “tôi muốn”, “tôi không muốn” - trong lúc cả phòng hồi hộp theo dõi như thường lệ. Người ta cảm thấy một mối đồng cảm ghê gớm và căng thẳng với cậu học trò nổi cáu. Một vài người đứng phắt dậy, mắt không rời khỏi cậu, tay cũng nắm thành quả đấm, răng nghiến chặt. Những người khác tái mặt ngồi im, mắt cụp xuống, ngực phập phồng dữ dội. Họ vẫn còn thở dốc sau khi cậu học trò đã thôi hò hét từ lâu và ngồi ủ rũ trước ly trà mới mà cậu ta không động tới.
Thế là thế nào?
Có một người đàn ông mới gia nhập cộng đồng “Sơn trang”, một cựu thương gia, tầm ba mươi tuổi, đã sốt từ lâu và mấy năm nay lưu lạc hết viện an dưỡng này đến viện an dưỡng khác. Ông ta là người bài Do Thái, một cách công khai, rất có nguyên tắc, đầy tinh thần thể thao và cuồng tín như một thánh tử vì đạo. Ông ta coi đó là niềm tự hào và ý nghĩa cuộc đời mình. Ông ta từng là thương gia, nay ông ta không còn là thương gia nữa, ông ta chẳng là cái thá gì trên đời, chỉ có tâm hồn bài Do Thái của ông ta là không thay đổi. Bệnh tật ông ta khá trầm trọng, ông ta ho rất nặng, đôi khi như khạc ra từng miếng phổi - tiếng ho ngắn, gắt, gióng một rất đáng sợ. Nhưng con người ông ta không dính chút gì Do Thái, và đó là ưu điểm không thể chối cãi của ông ta. Tên ông ta là Wiedemann, một cái tên Thiên Chúa giáo, không dơ bẩn như tên người Do Thái.
Ông ta đặt một tờ báo tên gọi Đuốc sáng Aryan, và hay giở giọng như sau:
“Tôi đến an dưỡng đường X. ở vùng A.... Vừa mới xuống phòng điều dưỡng chung định nằm nghỉ thì tôi gặp - ai nằm trên chiếc ghế bên trái mình? Ông Hirsch! Ai nằm bên phải? Ông Wolf[507]! Dĩ nhiên tôi rời khỏi đó ngay lập tức!” Đại loại như vậy.
‘Thế thì ngươi có mà đi suốt!’ Hans Castorp nghĩ bụng, đầy ác cảm.
Wiedemann có ánh mắt rình rập láo liên. Trông ông ta y như thể bị một quả bông treo lủng lẳng trước mũi, mắt ông ta lúc nào cũng hướng vào đó và không nhìn thấy cái gì khác đằng sau nữa. Cái quan niệm sai lầm ám ảnh ông ta đã trở thành một nỗi ngứa ngáy không yên, nó thúc đẩy ông ta săn lùng và vạch mặt bọn người dơ bẩn ẩn nấp hay giấu mặt trong phạm vi lưu trú của ông ta, chỉ để thóa mạ cho sướng miệng. Ông ta buông lời châm chọc, nói cạnh nói khóe hay chửi thẳng vào mặt họ ở bất kỳ nơi nào ông ta đặt chân đến. Tóm lại, cả ngày ông ta không làm gì khác ngoài việc kỳ thị những sinh linh không sở hữu cái nguồn gốc không Do Thái, ưu điểm duy nhất của ông ta.
Tâm trạng bức bối chung ở “Sơn trang” mà chúng tôi đã đề cập đến ở trên làm cái tật này của ông ta còn trầm trọng hơn gấp bội, và vì ở đây dĩ nhiên ông ta cũng không thể tránh khỏi chạm trán với các sinh linh có cái nhược điểm mà ông ta, Wiedemann, không có, nên trong hoàn cảnh ấy sự thể đi đến kết cục là một cảnh tượng nhục nhã mà Hans Castorp tận mắt chứng kiến và chúng tôi buộc lòng nêu ra làm một ví dụ nữa.
Bởi ở đây còn có một người đàn ông khác. Trường hợp này không có gì cần phải vạch mặt, nguồn gốc ông ta đã rõ như ban ngày. Họ ông ta là Sonnenschein[508], và vì người ta không thể có cái họ nào bẩn thỉu hơn thế, nên ngay từ ngày đầu tiên Sonnenschein đã trở thành cái quả bông treo toòng teng trước mũi Wiedemann, cái đích để ông ta lác mắt nhắm vào và đưa tay đập thật lực, không phải để đánh bạt nó đi mà là để nó đu đưa mạnh hơn và làm ông ta điên tiết hơn nữa.
Sonnenschein cũng là thương gia như ông kia, bệnh tật đến mức nhạy cảm và nhạy cảm đến mức bệnh tật. Là người không đến nỗi đần, thân thiện và hay đùa giỡn ông ta ghét thói phách lối và sự kệch cỡm của Wiedemann, lòng căm ghét ấy cuối cùng cũng trở nên bệnh hoạn và làm hại ông ta. Một buổi chiều nọ tất cả gọi nhau rầm rập chạy xuống đại sảnh, ở đó Wiedemann và Sonnenschein đang xông vào cắn xé nhau như hai con thú.
Thật là một cảnh tượng kinh khủng và vô cùng bệ rạc. Họ ôm nhau vật lộn như hai đứa trẻ, nhưng với vẻ thù hận của hai người lớn không đội trời chung. Họ cào cấu vào mặt nhau, tóm mũi tóm cổ nhau và đấm đá nhau túi bụi, ghì chặt lấy nhau, túm tóc nhau, người kéo kẻ đẩy, lăn lộn dưới đất với quyết tâm thua đủ khủng khiếp, nhổ nước miếng phèo phèo vào đối phương, sùi cả bọt mép. Nhân viên văn phòng hớt hải chạy đến và phải vất vả lắm mới tách được hai người ra khỏi nhau, vẫn còn người nhe nanh kẻ xòe vuốt. Wiedemann, máu me dãi rớt chảy ròng ròng, mặt méo xệch vì tức giận, trưng ra trước mắt mọi người một hiện tượng Hans Castorp chưa bao giờ trông thấy trong đời và từ trước tới nay cứ tưởng đó chỉ là một cách nói ví von: tất cả lông tóc ông ta dựng ngược trên đầu, sợi nào sợi ấy thẳng tưng và cứng đờ như dây thép. Ông ta hầm hầm bỏ đi, để lại ông Sonnenschein cũng không hơn gì: một mắt tím bầm sưng húp và mái tóc đen xoăn như cái vành đai bao quanh đỉnh đầu nhẵn thín bị nhổ mất một đám trụi thùi lụi và bê bết máu. Được đưa vào văn phòng ông ta ngồi phịch xuống ghế gục mặt vào hai bàn tay khóc nức nở.
Đấy là vụ việc Wiedemann và Sonnenschein. Tất cả những kẻ chứng kiến cuộc ẩu đả dã man ấy hàng tiếng đồng hồ sau vẫn còn run lên vì kích động. Vậy nên chúng tôi rất sung sướng được kể tiếp câu chuyện sau đây, so với hành vi man rợ vừa rồi thì đúng là một việc làm đầy danh dự, một sự kiện cũng xảy ra trong giai đoạn này và, vì diễn biến trang trọng đúng thể thức của nó, tỏ ra xứng đáng với khái niệm danh dự đến mức nực cười. Hans Castorp không mục sở thị mà chỉ được biết về sự kiện rắc rối đầy kịch tính ấy thông qua một số văn bản và biên bản, những giấy tờ tường trình về vụ việc này và được phổ biến rộng rãi không chỉ ở trong và ngoài phạm vi ‘Sơn trang’, không chỉ ở vùng này hay bang này hay nước này, mà còn được truyền bá ra nước ngoài và sang cả Mỹ châu, rơi cả vào tay những người chẳng dính líu gì đến chuyện này và chắc chắn cũng không mảy may muốn dính líu vào.
Đó là một vụ giải quyết vấn đề danh dự giữa người Ba Lan với nhau, nảy sinh trong nội bộ một nhóm người Ba Lan gần đây tập họp thành một cộng đồng khép kín ở ‘Sơn trang’ và chiếm lĩnh toàn bộ bàn Nga thượng lưu (Hans Castorp có dạo đã chen chân được vào đấy, nhưng giờ đây không còn ngồi đó nữa, cùng với thời gian chàng đã lưu lạc qua hết bàn ả Kleefeld đến bàn bà Salomon và cuối cùng là bàn cô Levi). Cái xã hội thu nhỏ của họ bóng bẩy, cầu kỳ và kiểu cách đến nỗi người ta chỉ biết nhướng mày mai mỉa và chuẩn bị tinh thần đón nhận mọi điều có thể xảy ra. Nhóm họ gồm một đôi vợ chồng, một cô gái trẻ có quan hệ thân tình với một quý ông trong bọn, còn lại toàn là các tay công tử phong lưu. Họ tên là Zutawski, Cieszynski, von Rosinski, Michael Lodygowski, Leo von Asarapetian và những gì gì nữa. Một hôm trong khách sạn của ‘Sơn trang’, một tay tên gọi Japoll, cao hứng bên chai sâm panh và với sự có mặt của hai trang công tử khác, đã buông lời nói những điều không thể nhắc lại được về phu nhân ông Zutawski cũng như về cô tiểu thư có mối quan hệ thân tình với ông Lodygowski tên là cô Krylow. Sự kiện ấy đã dẫn tới những biện pháp, thủ tục và hành động là chủ đề của những văn bản tài liệu được phát tán khắp nơi như đã nói ở trên. Hans Castorp đọc:
“Giải trình vụ việc, dịch từ bản gốc tiếng Ba Lan. - Ngày 27 tháng ba năm 19.. ông Stanislaw von Zutawski đã cử các ông Antoni Cieszynski và Stefan von Rosinski nhân danh mình tới gặp ông Kasimir Japoll để thách đấu theo thể thức danh dự, vì “hành vi vu khống và xúc phạm nghiêm trọng của ông Kasimir Japoll đối với phu nhân ông ta là bà Jadwiga von Zutawska, xảy ra trong cuộc chuyện trò với các ông Janusz Teofil Lenart và Leo von Asarapetian.”
Khi các chi tiết của cuộc chuyện trò nói trên, diễn ra vào cuối tháng mười một, mấy ngày trước lọt đến tai ông von Zutawski, ông này đã lập tức tiến hành các biện pháp cần thiết để đảm bảo việc xác minh cấu thành tội phạm của hành vi lăng nhục này. Ngày hôm qua, 27 tháng ba năm 19.., ông Leo von Asarapetian, nhân chứng trực tiếp tham dự cuộc trò chuyện trong đó những lời thóa mạ và vu khống kia được nói ra, đã xác nhận hành vi vu khống và xúc phạm là có thật, do đó ông Stanislaw von Zutawski đã không chậm trễ ủy quyền cho những người ký tên dưới đây tiến hành thủ tục thách đấu theo thể thức danh dự chống lại ông Kasimir Japoll.
Những người ký tên dưới đây có ý kiến như sau:
1. Căn cứ vào biên bản do một bên tham dự lập ngày mùng 9 tháng tư năm 19.. tại Lemburg, người lập là các ông Zdzislaw Zygulski và Tadeusz Kadyj, trong vụ việc ông Ladislaw Goduleczny kiện ông Kasimir Japoll, ngoài ra căn cứ vào tuyên bố của tòa án danh dự Lemburg ra ngày 18 tháng sáu năm 19.. cũng về vụ việc trên, cả hai văn bản thống nhất với nhau ở nhận định rằng ông Kasimir Japoll, “vì đã có những hành vi tái phạm hoàn toàn trái ngược với nguyên tắc danh dự nên không thể được coi là một người quân tử”,
2. Những người ký tên dưới đây, dựa vào sức thuyết phục và tầm vóc của các chứng cứ nêu trên, đi đến kết luận loại trừ tuyệt đối mọi khả năng ông Kasimir Japoll có thể còn năng lực thực hiện hành vi danh dự,
3. Thế nên về phần mình những người ký tên dưới đây tự thấy không thể tiến hành hay đóng vai trò trung gian cho một thủ tục thách đấu danh dự chống lại một người đứng ngoài vòng danh dự.
Sau khi cân nhắc tình hình thực tế những người ký tên dưới đây lưu ý ông Stanislaw von Zutawski rằng, việc thách đấu ông Kasimir theo thể thức danh dự để đòi quyền lợi chính đáng của mình là hoàn toàn vô ích, và khuyên ông ta nên chọn con đường truy cứu hình sự theo pháp luật, để tránh những tác hại khác còn có thể nảy sinh do phía một cá nhân không có năng lực thực hiện các thủ tục thách đấu danh dự như trường hợp ông Kasimir Japoll. - (Ngày tháng năm, ký tên:) Tiến sĩ Antoni Cieszynski, Stefan von Rosinski.”
Hans Castorp đọc tiếp:
“Biên bản của các nhân chứng về vụ việc giữa ông Stanislaw von Zutawski, ông Michael Lodygowski và các ông Kasimir Japoll và Janusz Teofil Lenart, tại quầy giải khát của khu giải trí D., ngày mùng 2 tháng tư năm 19.. trong khoảng từ 7 giờ 30 đến 7 giờ 45 tối.
Ông Stanislaw von Zutawski, dựa trên cơ sở bản giải trình của những người đại diện ông ta, các ông tiến sĩ Antoni Cieszynski và Stefan von Rosinski, lập ngày 28 tháng ba năm 19.. về vụ việc của ông Kasimir Japoll, sau khi cân nhắc chín chắn tình hình đã đi đến kết luận rằng, việc truy cứu hình sự ông Kasimir Japoll, theo lời khuyên của các ông nêu trên, vì tội ‘xúc phạm nặng nề và vu khống’ phu nhân ông ta là bà Jadwiga không thể bồi thường một cách xứng đáng về danh dự cho họ, vì các lẽ sau:
1. Có lý do chính đáng để tin rằng ông Kasimir Japoll sẽ tránh không ra hầu tòa, và vì ông ta là công dân Áo nên việc tiếp tục truy cứu sẽ gặp những khó khăn đáng kể, có thể nói là gần như không thể vượt qua được,
2. Không những thế một hình phạt theo luật định e rằng không đủ để trừng trị ông Kasimir Japoll một cách xứng đáng với những lời vu khống đốn mạt của ông ta nhằm bôi nhọ thanh danh gia đình ông Stanislaw von Zutawski và phu nhân ông ta là bà Jadwiga, nên ông Stanislaw von Zutawski đã quyết định chọn con đường ngắn nhất, cũng là con đường phù hợp nhất trong tình huống này theo sự cân nhắc và đánh giá kỹ càng của ông ta, nhất là sau khi gián tiếp nhận được tin ông Kasimir Japoll dự định rời khỏi vùng này trong vài ngày tới.
Vậy là ngày mùng 2 tháng tư năm 19.., vào khoảng từ 7 giờ 30 đến 7 giờ 45 tối, ông Stanislaw von Zutawski, với sự có mặt của phu nhân ông ta là bà Jadwiga và các ông Michael Lodygowski và Ignaz von Mellin, đã đến quầy giải khát “American Bar” trong khu giải trí vùng này, nơi ông Kasimir Japoll ngồi uống rượu cùng ông Janusz Teofil Lenart và hai cô gái lạ mặt, và công khai bạt tai ông Kasimir Japoll nhiều lần.
Lập tức ông Michael Lodygowski cũng bạt tai ông Kasimir Japoll kèm theo tuyên bố rằng, đó là hình phạt cho sự xúc phạm nặng nề của ông kia đối với tiểu thư Krylow và ông ta.
Liền sau đó ông Michael Lodygowski quay sang bạt tai ông Janusz Teofil Lenart, vì sự bất công hèn hạ mà ông và bà von Zutawski phải chịu, và không chậm trễ một giây ông Stanislaw von Zutawski cũng bạt tai ông Janusz Teofil Lenart nhiều lần để trả thù cho sự vu khống nhục mạ phu nhân ông ta cũng như tiểu thư Krylow.
Các ông Kasimir Japoll và Janusz Teofil Lenart tỏ ra hoàn toàn thụ động trong suốt quá trình diễn ra sự việc trên.
(Ngày tháng năm, ký tên:) Michael Lodygowski, Ign. v. Mellin.”
Tình trạng căng thẳng nội tâm không cho phép Hans Castorp lăn ra cười trận tổng công kích bằng những cú bạt tai danh dự này, như phản ứng đáng lẽ mọi khi chàng đã có. Không những thế chàng còn run lên vì kích động khi đọc những văn bản ấy; hành vi đứng đắn không thể chê trách được của một bên cũng như sự đểu giả và hèn nhát của bên kia nổi bật lên như đập vào mắt người đọc, mặc dù được diễn tả bằng ngôn ngữ khô khan nhưng vẫn tạo nên một sự tương phản đầy ấn tượng và làm chàng xúc động sâu sắc. Mà ai ở đây cũng có tâm trạng ấy. Khắp nơi người ta tranh luận nảy lửa về vụ danh dự Ba Lan này với hàm răng nghiến chặt. Một tờ rơi với nội dung phản đối của ông Kasimir Japoll không gây được bao nhiêu tiếng vang. Theo lời ông ta thì von Zutawski đã biết rõ chuyện ông ta, Japoll, trong thời gian ở Lemberg bị vài tên cù lần hãnh tiến tuyên bố là không có khả năng tham gia thách đấu danh dự, cho nên tất cả các biện pháp rườm rà và kịp thời mà von Zutawski thực hiện chỉ là trò hề qua mắt thiên hạ, vì y đã biết ngay từ đầu là sẽ chẳng có chuyện thách đấu và y chẳng phải chịu rủi ro gì cả. Ngoài ra von Zutawski không chọn con đường kiện ông ta, Japoll, duy nhất chỉ vì một lý do là bàn dân thiên hạ - kể cả chính y - không ai không biết bà phu nhân Jadwiga đã cắm cho ông ta cả một bộ sưu tập sừng phong phú, điều đó ông ta, Japoll, có thể đưa ra bằng chứng dễ như trở bàn tay; cũng như hạnh kiểm của ả Krylow nếu phải ra trước tòa sợ có đốt đuốc cũng không tìm thấy chút gì danh dự. Còn một điều nữa, đó là chỉ có ông ta, Japoll, bị xác nhận là không có năng lực bồi thường danh dự, chứ người đi cùng ông ta hôm ấy là Lenart vẫn có thể nhận lời thách đấu như thường; von Zutawski đã vin vào sự bất lực của ông ta để lẩn tránh mọi nguy hiểm. Về vai trò của ông Asarapetian trong toàn bộ vụ việc này ông ta không muốn tiết lộ gì. Nhưng về sự việc diễn ra ở quầy giải khát của khu giải trí thì ông ta muốn trình bày cho rõ, rằng ông ta, Japoll, mặc dù nhanh mồm nhanh miệng và cũng thích đùa nhưng lại rất hạn chế về thể lực, von Zutawski được sự hỗ trợ của đồng bọn và nhất là của bà vợ khỏe như đô vật rõ ràng ở vào thế áp đảo, thêm vào đó hai cô nương lúc bấy giờ tháp tùng ông ta, Japoll, và Lenart, mặc dù rất vui tính nhưng nhút nhát như thỏ; vậy nên ông ta, để tránh một cuộc ẩu đả tai tiếng nơi công cộng, đã khuyên Lenart đừng chống cự mà xử sự một cách bình tĩnh và nhân danh Chúa chịu đựng sự động chạm thoáng qua của các ông von Zutawski và Lodygowski, những cái phẩy tay không gây đau đớn gì và được những người tình cờ chứng kiến coi là cử chỉ đùa cợt thân tình mà thôi.
Đó là sự việc theo lời trình bày của Japoll, tất nhiên chẳng xoay chuyển tình thế được bao nhiêu. Lời đính chính của ông ta chỉ làm xây xước sơ sơ sự tương phản đẹp mắt giữa danh dự và đê hèn trong lời tuyên bố của đối phương, nhất là ông ta lại không có trong tay những phương tiện kỹ thuật để phổ biến rộng rãi quan điểm của mình như phe von Zutawski, và chỉ có thể trả miếng bằng vài bản đánh máy rất hạn chế mà thôi. Trong khi những biên bản kia, như đã nói ở trên, được gửi tùm lum cho tất cả mọi người, kể cả những người chẳng liên quan gì với vụ việc. Naphta và Settembrini cũng nhận được những giấy tờ ấy, Hans Castorp nhìn thấy nó trong tay họ, và kinh ngạc quan sát vẻ chăm chú say mê của họ trong lúc đọc. Bản thân chàng vì tình trạng căng thẳng tâm lý không đủ sức châm biếm và giễu cợt những cú bạt tai nảy lửa này, tuy nhiên trong thâm tâm chàng vẫn mong được nghe điều gì đó tương tự từ miệng ông Settembrini. Nhưng chàng đã thất vọng tràn trề nhận ra, cả đến trí tuệ sáng láng của ông thành viên hội Tam Điểm cũng đã bị mờ đi vì căn bệnh truyền nhiễm nguy hại ấy, nó như một bóng đen đè nặng lên tinh thần và dập tắt tiếng cười của ông ta, khiến ông ta cũng hồi hộp căm tức; nó làm u ám tâm trạng ông ta, con người yêu cuộc sống bị giam hãm trong một tình trạng sức khỏe tồi tệ, lúc lên lúc xuống như trêu ngươi nhưng xu hướng chung là cứ từ từ xuống dốc không gì cản nổi, ông ta giận dữ nguyền rủa nó và lấy làm hổ thẹn vì nó, thời gian này nó đã tệ đến độ cứ vài ngày lại có một ngày buộc ông ta nằm bẹp trên giường.
Naphta, người cùng sống dưới một mái nhà và địch thủ trong tư tưởng của ông ta, cũng không khá gì hơn. Bệnh tật tiếp tục gặm nhấm bên trong tấm thân hữu cơ của ông ta, căn bệnh được coi là lý do - hay là cái cớ - dẫn đến kết cục quá sớm sự nghiệp tu hành, và những điều kiện sống vừa cao vừa nhẹ ở trên này cũng không ngăn nổi bước tiến của nó. Cả ông ta cũng thường phải nằm liệt giường, âm hưởng rè rè như tiếng gõ đĩa mẻ trong giọng ông ta vang lên càng rõ mỗi khi ông ta nói, và nhiệt độ càng cao ông ta nói càng nhiều, càng sắc sảo và cay độc hơn bao giờ hết. Sự phản kháng tinh thần chống lại bệnh tật và cái chết, chống lại sự đầu hàng của cơ thể trước sức mạnh áp đảo của một thiên nhiên hiểm độc, điều dằn vặt và làm ông Settembrini đau đớn lại là một điều hoàn toàn xa lạ đối với ông Naphta bé nhỏ, và ông ta ghi nhận tình trạng xuống cấp của cơ thể cũng theo một cách hoàn toàn khác, không lo buồn ủ dột mà lại phấn khích một cách mỉa mai và đặc biệt hiếu chiến, với những hoạt động tinh thần theo hướng hoài nghi, phủ định và gây rối, tất cả những cái ấy là một sự khiêu khích tệ hại đối với tâm trạng âu sầu của đối thủ ông ta, và những cuộc tranh luận giữa họ mỗi ngày một gay gắt hơn. Tất nhiên Hans Castorp chỉ có thể nói về những cuộc tranh luận mà chàng được chứng kiến; nhưng trong thâm tâm chàng khá chắc rằng mình không bỏ lỡ một cuộc khẩu chiến nào, vì nếu không có sự hiện diện của chàng, đối tượng dạy dỗ của họ, thì đã chẳng nổ ra tranh cãi. Mặc dù vẫn làm cho ông Settembrini đau khổ với lời tuyên bố lý luận độc địa của Naphta cũng đáng nghe, nhưng chàng cũng phải thừa nhận rằng con người bé nhỏ này đã đi quá lố và không hiếm khi vượt quá giới hạn trí tuệ lành mạnh của con người.
Người bệnh ấy không có sức lực hay thiện chí để vượt lên trên bệnh tật, mà ông ta nhìn cả thế giới trong dấu hiệu và biểu hiện của nó. Trong sự căm phẫn của ông Settembrini, người chỉ muốn tống cổ tên học trò đang lắng nghe ra khỏi phòng hoặc bịt tai gã lại, Naphta tuyên bố rằng vật chất là một nguyên liệu quá tồi để có thể thể hiện tinh thần chứa trong nó. Cố công đạt tới điều này là một việc làm điên rồ. Nó mang lại được cái gì nào? Một tấn bi hài kịch! Trên thực tế cuộc cách mạng Pháp được hết lời ca tụng chỉ đem lại một nhà nước tư bản chủ nghĩa của đám thị dân - thật là đẹp mặt! Và người ta hy vọng cải thiện tình hình bằng cách mở rộng sự kinh dị ấy lên quy mô vũ trụ. Một nền cộng hòa trên toàn thế giới, đó sẽ là hạnh phúc trần gian, phải rồi! Tiến bộ ư? Thật chẳng khác gì một người bệnh cứ liên tục trở mình, tưởng đâu thay đổi tư thế sẽ dễ chịu hơn. Phải thay đổi hẳn! Ước vọng chung về một cuộc chiến tranh, không thú nhận ra lời nhưng bí mật lan tràn khắp nơi, đã có những biểu hiện rất rõ rệt. Chiến tranh thế nào cũng sẽ xảy ra, và nó xảy ra là tốt, mặc dù nó sẽ đưa lại những kết quả khác hẳn toan tính của những kẻ chủ mưu. Naphta khinh bỉ khái niệm an ninh của nhà nước dân sự. Ông ta có cơ hội nói về đề tài này vào một ngày thu, lúc họ đang trên đường dạo chơi ngoài phố chính thì trời đột ngột đổ mưa, và như tuân theo một mệnh lệnh cả thế giới nhất loạt giương ô lên che đầu. Naphta coi đó là biểu tượng của sự hèn nhát, của nhu nhược và tầm thường, những hậu quả của nền văn minh. Một tai nạn mang tính cảnh báo như vụ đắm tàu Titanic đưa người ta trở lại với nỗi sợ thiên nhiên của thuở hồng hoang, nhưng cũng có tác dụng thức tỉnh nhất định. Sau đó dĩ nhiên người ta lớn tiếng kêu gào đòi thêm ‘an toàn giao thông’. Sự phẫn nộ luôn luôn dâng lên đến tột đỉnh một khi ‘an ninh’ có vẻ bị đe dọa. Thật là thảm hại, và sự nhu nhược của con người là miếng mồi ngon để bầy lang sói tư bản khai thác triệt để và tàn bạo trên chiến trường kinh tế, con đẻ của nhà nước dân sự. Chiến tranh, chiến tranh! Ông ta ủng hộ chiến tranh, đối với ông ta tâm lý khát máu chung không có gì là thiếu danh dự.
Khi ông Settembrini đưa khái niệm “công lý” vào câu chuyện và kêu gọi áp dụng nguyên tắc cao cả của nó như một biện pháp phòng chống những thảm họa chính trị trong nội và ngoại vụ, thì Naphta, vừa lúc nãy còn đề cao tinh thần là cái cao siêu đến mức không thể hoặc không nên biểu lộ ra trong vật chất, lập tức quay ngoắt một trăm tám mươi độ tỏ ý nghi ngờ và tìm cách hạ bệ tinh thần. Công lý! Nó là cái gì vậy, một thần tượng để tôn thờ chăng? Một điều thiêng liêng? Một khái niệm thượng hạng? Chúa và thiên nhiên không hề công bằng, cả hai đều thiên vị, cả hai hành xử theo nguyên tắc chọn lọc, tặng cho kẻ này tài năng nguy hiểm và ban cho kẻ khác một số phận tầm thường. Còn con người? Đối với con người, một mặt công lý là yếu đuối và bất lực, là hiện thân của sự hoài nghi - và mặt khác nó là tiếng kèn xung trận thúc đẩy người ta vào những hành động liều lĩnh. Thế là con người, để khỏi lọt ra ngoài phạm trù đạo đức, thường xuyên phải hiệu chỉnh “công lý” từ nghĩa này sang nghĩa kia và ngược lại - vậy thì tính tuyệt đối, tính cực đoan của khái niệm này ở đâu? Đồng thời người ta vẫn “có lý” khi chống lại quan điểm này hay quan điểm kia. Tất cả những cái còn lại đều là tự do chủ nghĩa, ngày nay không thể dùng nó để nhử dù chỉ một con chó ra khỏi ổ. Công lý do đó chỉ là một ngôn từ sáo rỗng trong nghệ thuật hùng biện của chủ nghĩa tư bản, để đi tới hành động trước hết người ta cần phải biết ở đây đang áp dụng thứ công lý nào: công lý đảm bảo cho mỗi cá nhân những gì thuộc về anh ta, hay công lý theo nghĩa chia đều cho tất cả.
Đó chỉ là một ví dụ bất kỳ trong những lý luận tràng giang đại hải của ông ta, chúng tôi viện dẫn ra đây để minh họa cái cách ông ta dẫn tư tưởng người nghe đi vào mê lộ. Nhưng khi nói về khoa học ông ta còn tệ hại hơn nhiều. Ông ta không tin vào khoa học, ông ta bảo, vì con người có quyền tự do lựa chọn tin hay không tin vào nó. Vì nó cũng là một tín ngưỡng như tất cả các tín ngưỡng khác, chỉ khác ở chỗ nó xấu xa ngu dốt hơn tất cả, nội cái từ “khoa học” bản thân nó đã thể hiện một thực tế ngu si nhất trần đời, khi nó trơ trẽn cho rằng sự phản ảnh còn hơn cả đáng ngờ của thực tế khách quan lên trí tuệ con người là sự thật, tuyên truyền quảng bá điều đó khắp mọi nơi, và từ đó chế ra một giáo điều nghèo nàn phi trí tuệ nhất trong lịch sử nhân loại. Đó chẳng phải là quan niệm của một thế giới giác quan chỉ tồn tại trong và cho riêng mình nó, một mâu thuẫn tự thân nực cười nhất trần đời hay sao? Là một học thuyết, khoa học tự nhiên hiện đại chỉ sống được duy nhất nhờ vào nguyên lý siêu hình cho rằng trật tự và liên hệ của không gian, thời gian, nhân quả, nơi các hiện tượng của thế giới khách quan diễn ra, là những mối quan hệ thực tế tồn tại độc lập với nhận thức của chúng ta. Lập luận nhất nguyên này là một sự nhục mạ tinh thần trắng trợn nhất tự cổ chí kim. Không gian, thời gian, và nhân quả - hiểu theo thuyết nhất nguyên có nghĩa là: tiến hóa - ở đây người ta đụng phải trung tâm điểm của giáo điều tự do tư tưởng và vô thần, một học thuyết hậu tôn giáo mà người ta sử dụng để loại trừ Sáng thế ký của Moses[509] và thay vào đó một huyền thoại ngu xuẩn về khai sáng và hiểu biết, làm như Haeckel[510] có mặt lúc trái đất được hình thành không bằng. Chủ nghĩa kinh nghiệm! Môi trường ether[511] trong vũ trụ đã xác minh được chưa? Nguyên tử, trò đùa toán học được định nghĩa như là “phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa” - có bằng chứng nào không? Lý thuyết về sự vô tận của không gian và thời gian cũng dựa trên kinh nghiệm chắc? Thật thế, chỉ cần suy nghĩ logic một chút là người ta có thể thu được những kết quả thú vị về cái học thuyết vô tận kia và hiểu ra sự thực về không gian và thời gian: không có gì hết! Người ta sẽ đi đến chỗ phải công nhận rằng, thuyết hiện thực đúng ra là thuyết hư vô. Tại sao? Rất đơn giản, vì tương quan của một đại lượng bất kể bao lớn so với vô tận luôn luôn bằng không. Không có độ lớn trong vô tận và không có sự tiếp diễn hay thay đổi trong vĩnh cửu. Trong không gian vô tận, vì mọi khoảng cách theo toán học đều bằng không, nên không thể có hai điểm gần nhau, lại càng không thể nói đến hai vật thể hay là chuyển động. Ông ta, Naphta, tuyên bố điều này để đập tan luận điệu trơ trẽn của khoa học duy vật về vũ trụ, những điều hoàn toàn không có cơ sở về cái gọi là “vũ trụ” mà họ nhận xằng là nhận thức tuyệt đối. Nhân loại đáng thương, bị một đống con số huênh hoang vô nghĩa áp đảo tinh thần đến nỗi mất hết lòng tự hào và tự tin vào giá trị bản thân! Bởi vậy cũng có thể tha thứ được nếu trí tuệ và nhận thức của con người dừng lại trên mặt đất và trong phạm vi ấy họ coi những trải nghiệm chủ quan-khách quan của mình như là thực tế. Nhưng nếu như họ đi xa hơn và với tay tới câu đố vĩnh cửu, rồi bày đặt ra những là vũ trụ học và thuyết nguồn gốc vũ trụ, thì bấy giờ không còn là chuyện đùa nữa, vì sự ngông cuồng của họ đã đạt tới đỉnh cao quái gở. Thật là một sự bậy bạ đến mức tội lỗi, khi đòi đo ‘khoảng cách’ từ một vì sao nào đó tới trái đất bằng hàng tỉ tỉ kilômét hay bao nhiêu năm ánh sáng, và tự mãn cho rằng đám số má nhảm nhí ấy có thể giúp trí tuệ con người thâm nhập vào bản chất vô hạn của không gian và thời gian - không gian vô hạn thì liên quan gì tới kích thước, và trong cõi vĩnh hằng làm gì có lâu mau hay khoảng cách thời gian, những cái ấy không thể coi là khái niệm khoa học, mà là sự hủy diệt những gì chúng ta gọi là thiên nhiên! Thật tình, quan niệm ngốc nghếch của đứa trẻ coi các vì sao là những lỗ thủng trên vòm trời, qua đó ánh sáng vĩnh hằng lọt xuống, đối với ông ta còn vạn lần dễ nghe hơn những lời huênh hoang rỗng tuếch, đầy mâu thuẫn và kiêu căng không thể tưởng mà thuyết nhất nguyên giảng giải về “vũ trụ”!
Settembrini hỏi, liệu câu chuyện các vì sao có phản ảnh niềm tin của chính bản thân Naphta không. Và nhận được câu trả lời, rằng ông ta bảo lưu quyền tự do tin tưởng hay hoài nghi. Qua đó lại một lần nữa có thể thấy ông ta hiểu thế nào về “tự do”, và với cách hiểu ấy khái niệm này có thể dẫn đến đâu. Làm sao ông Settembrini không lo ngại cho được, khi Hans Castorp tuyên bố rằng những điều đó đáng nghe!
Naphta hiểm ở chỗ, ông ta chuyên rình rập cơ hội thuận tiện chộp lấy chỗ yếu của quá trình tiến bộ chế ngự thiên nhiên để đem ra bêu riếu những người đi tiên phong và ủng hộ nó, biến những sai lầm mang tính người thành ra sự phi lý về tư tưởng. Nhân viên ngành hàng không, phi công, ông ta bảo, phần lớn là những người xấu tính, không đáng tin cậy, nhưng trên hết là rất mê tín. Họ mang theo lên máy bay đủ thứ bùa ngải lấy may hình con heo hay con quạ, họ nhổ nước miếng ba lần về hướng này hay hướng khác, họ đặc biệt đi đôi găng tay của những chuyến bay may mắn trước đó. Làm sao kết hợp những điều mê tín dị đoan này với thế giới quan duy vật, cơ sở nghề nghiệp của họ? Vạch ra được điều mâu thuẫn ấy ông ta sung sướng lắm, thỏa mãn ra mặt, và sa đà vào đó thật lâu... Nhưng chúng tôi cũng đã sa đà khá lâu với những ví dụ về sự thù địch của Naphta, trong khi còn có biết bao nhiêu điều thiết thực hơn để kể.
Một buổi chiều tháng hai cả bọn hẹn nhau làm một chuyến dã ngoại đến Monstein, một địa điểm cách sân khấu thường ngày của họ khoảng tiếng rưỡi đồng hồ xe trượt tuyết. Thành phần tham dự gồm có Naphta và Settembrini, Hans Castorp, Ferge và Wehsal. Họ khởi hành lúc ba giờ trên hai cỗ xe trượt tuyết một ngựa, Hans Castorp đi cùng xe với ông văn sĩ, Naphta cùng Ferge và Wehsal, gã này ngồi ở bục trước cạnh người đánh xe. Khăn áo ấm áp họ rời nhà trọ của hai bệnh nhân ngoại trú lướt đi trong tiếng nhạc ngựa rộn ràng giữa khung cảnh im lìm bốn bề tuyết trắng, theo con đường men bên sườn phải thung lũng đi qua Frauenkirch và Glaris, trực chỉ hướng nam. Mây đen nặng tuyết đùn lên rất nhanh từ phía này, chẳng bao lâu chỉ còn thấy một dải trời xanh lợt đằng sau lưng họ trên đỉnh dãy Rhätikon. Trời rất lạnh, núi non mù sương. Con đường họ đang đi, như một bậc thềm hẹp không có lan can nằm giữa vách núi và vực sâu, bò lên dốc đứng luồn vào rừng thông. Ngựa chỉ đi được bước một. Nhiều người ngồi xe trượt tuyết kéo tay lao xuống từ trên núi, khi gặp họ phải dừng lại nhường đường. Đôi khi sau những khúc ngoặt lanh canh vang lên tiếng chuông lạ cảnh báo, và rồi những chiếc xe trượt tuyết hai ngựa thắng con trước con sau chạy tới, đôi bên thận trọng tránh nhau. Gần tới đích trước mắt họ thình lình mở ra phong cảnh một đoạn vách đá đẹp tuyệt vời của con đường Zügenstraße[512]. Trước cửa cái quán trọ nhỏ xíu ở Monstein - tự mệnh danh là ‘Nhà nghỉ’ - họ dỡ chăn ấm bước xuống, bỏ xe trượt tuyết lại đấy đi bộ thêm một quãng về phía đông nam để ngắm dãy Stulsergrat. Vách núi khổng lồ với độ cao ba ngàn thước chìm trong màn sương mờ mịt. Đâu đó từ trong sương mù nhô lên một đỉnh núi chọc trời, lơ lửng như không thuộc về trần gian, xa xôi như nơi yên nghỉ của các anh hùng trong thần thoại, kiêu sa, không đặt chân tới được. Hans Castorp bày tỏ lòng ngưỡng mộ sâu sắc trước thiên nhiên hùng vĩ và kêu gọi những người khác theo gương mình. Cũng chính chàng, bằng giọng kính cẩn, lên tiếng gọi đó là nơi “không đặt chân tới được” và cung cấp cho ông Settembrini cơ hội dạy dỗ rằng vách đá ấy chẳng có gì là không đặt chân tới được; nói chung trong thiên nhiên gần như không còn nơi nào chưa có dấu chân người. Nói thế có quá lời không, Naphta cười khẩy, và dẫn chứng bằng đỉnh Everest, cho đến ngày hôm nay vẫn lạnh lùng đập tan mọi cố gắng chinh phục của con người, và có vẻ như còn muốn giữ tình trạng ấy lâu dài. Ông văn sĩ tức nổ đom đóm mắt. Cả nhóm lục tục quay trở lại ‘Nhà nghỉ’, ở đó họ thấy trước cửa cạnh hai cỗ xe của họ đã có thêm mấy xe khác đậu.
Người ta có thể nghỉ đêm tại đây. Ở tầng trên có các phòng trọ đánh số, và một phòng ăn bài trí mộc mạc kiểu nhà nông, rất ấm cúng. Họ đặt bà chủ hiếu khách mang lên một bữa ăn nhẹ: cà phê, mật ong, bánh mì trắng và bánh mì lê, đặc sản của vùng này. Rượu đỏ được mang ra cho những người đánh xe. Các bàn khác có du khách người Thụy Sĩ và người Hà Lan ngồi.
Chúng tôi sẽ sung sướng biết bao nếu có thể tường thuật rằng, một trong năm vị khách của chúng ta, nhờ tác dụng sưởi ấm của ly cà phê tuyệt hảo, bắt đầu một cuộc đàm luận cao siêu. Nhưng nói thế là không chính xác, vì cuộc đàm luận này, sau mấy lời đóng góp ban đầu của những người kia, hóa ra chỉ là một màn độc thoại của Naphta - một cuộc độc thoại khác thường và về phương diện xã hội có thể bảo là khiếm nhã, vì ông cựu tu sĩ dòng Tên bằng giọng bảo ban thân tình chỉ nhắm tới một người nghe duy nhất là Hans Castorp. Ông ta thậm chí quay lưng lại với ông Settembrini ngồi ngay phía bên kia, và hoàn toàn không đếm xỉa gì tới hai quý ông còn lại.
Khó mà tìm được một tên gọi cho chủ đề bài diễn thuyết ngẫu hứng của ông ta mà đối tượng của nó, Hans Castorp, vừa theo dõi vừa gật gù phụ họa một cách dè dặt. Nói đúng ra nó không có một chủ đề nhất định, mà được khai triển tự do theo dòng tư tưởng, đụng chạm chỗ này chỗ kia, nhưng chủ yếu bàn về hiện tượng hai mặt của đời sống tinh thần, bản chất biến đổi không lường và sự vô dụng hiếu thắng của những khái niệm đao to búa lớn người ta rút ra từ đó; với cách diễn đạt nản lòng người ông ta muốn làm sáng tỏ bộ áo muôn sắc cầu vồng của sự hiện hữu trên mặt đất.
Tựu trung lại người ta có thể hiểu ông ta muốn phân tích vấn đề tự do, nhưng theo cái nghĩa tiêu cực, vô tổ chức. Trong đó ông ta nói về chủ nghĩa lãng mạn ở châu Âu hồi đầu thế kỷ mười chín và tính chất nước đôi rất mê hoặc của nó, vì sao đứng trước nó các khái niệm phản động và cách mạng không thể tồn tại nổi nếu không có những liên kết mới ở một mức độ cao hơn. Bởi đương nhiên người ta đã làm một chuyện hết sức nực cười khi quả quyết rằng cách mạng chỉ liên quan tới tiến bộ và phong trào khai sáng với những thắng lợi vẻ vang. Chủ nghĩa lãng mạn châu Âu trước hết là một phong trào tự do: chống chủ nghĩa kinh điển, chống giáo điều, đặc biệt chĩa mũi nhọn vào hệ tư tưởng Pháp đề cao lý trí, và chế giễu gọi những kẻ bảo vệ trường phái này là những cái đầu tóc giả rắc phấn.
Và Naphta say sưa bàn về các cuộc chiến tranh giành tự do, về nhiệt huyết của Fichte[513], về cuộc nổi dậy tưng bừng rộn vang tiếng hát của cả dân tộc chống lại ách độc tài - mà hiện thân của nền độc tài này, hê hê, đáng tiếc lại chính là tự do, là những tư tưởng cách mạng. Thế có buồn cười không: người ta cất cao giọng hát và vung tay đập tan gông cùm của nền độc tài cách mạng, để phục vụ lợi ích của chế độ phong kiến phản động, và cho rằng mình làm tất cả những cái đó vì tự do.
Người nghe trẻ tuổi của ông ta hẳn sẽ thấy ở đó sự khác biệt, thậm chí trái ngược giữa tự do trong đối ngoại và đối nội - và đồng thời đứng trước một vấn đề khó xử, đó là câu hỏi: gông cùm nô lệ nào phù hợp nhất, hê hê, ít phù hợp nhất với danh dự quốc gia.
Nói đúng ra tự do có lẽ là một khái niệm lãng mạn hơn là khai sáng, vì cũng như chủ nghĩa lãng mạn, nó mang trong mình sự đan xen không thể tháo gỡ giữa bản năng bành trướng của loài người và tâm lý nhỏ nhen của cái tôi vị kỷ. Khát vọng tự do cá nhân đã tạo nên nền văn hóa lịch sử-lãng mạn của quốc gia, một nền văn hóa hiếu chiến và bị những người nhân văn tự do gọi là đen tối, mặc dù họ cũng rao giảng cho chủ nghĩa cá nhân, chỉ có điều theo một cách khác. Chủ nghĩa cá nhân mang đậm tính lãng mạn-trung cổ với niềm tin vững chắc của nó vào tầm quan trọng vô hạn và quy mô vũ trụ của một cá thể, từ đó sinh ra học thuyết về sự bất tử của linh hồn, thuyết địa tâm và môn chiêm tinh học. Nhưng mặt khác chủ nghĩa cá nhân là một tư tưởng nhân văn và tự do, nó không chấp nhận ràng buộc và bất luận thế nào cũng ra sức bảo vệ để mỗi cá nhân quý giá không bị biến thành vật hy sinh cho mục đích chung. Đó là chủ nghĩa cá nhân, vừa là cái này vừa là cái kia, đúng là đòn xóc hai đầu.
Nhưng người ta phải thừa nhận rằng, khát vọng tự do đã sản sinh ra những kẻ thù sáng giá nhất của tự do, những hiệp sĩ bảo vệ truyền thống giỏi giang nhất trong cuộc đấu tranh chống lại sự tiến bộ đầy bất kính và hủy diệt. Và Naphta kể tên Arndt[514], người không tiếc lời nguyền rủa công nghiệp hóa và ca tụng tầng lớp quý tộc; nêu tên Görres[515], người sáng tác ra Thần bí học Cơ Đốc giáo. Vậy thần bí học có liên quan gì đến tự do không? Liệu nó có chống kinh điển, chống giáo điều, chống tư tế không? Phải thấy rằng trong hệ thống đẳng cấp của thần bí học có ẩn giấu một sức mạnh tự do, nó chính là con đê ngăn chặn quyền lực vô bờ của chế độ quân chủ. Và thần bí học ở giai đoạn cuối thời Trung cổ đã chứng tỏ bản chất tự do của mình trong vai trò tiền thân của phong trào cải cách tôn giáo. Còn phong trào cải cách tôn giáo, hê hê, bản thân nó cũng là một mớ bòng bong không thể tách rời giữa tự do và lạc hậu của thời Trung cổ...
Hành động của Luther[516]... Chà, nó có cái ưu điểm là đã trưng bày ra một cách trực quan thô bạo nhất bản chất đáng ngờ của hành động, hiểu theo nghĩa chung nhất. Liệu người đối thoại với Naphta có biết thế nào là một hành động không? Hành động, đó là một việc làm ví dụ như vụ ám sát ông cố vấn nhà nước Kotzebue[517], thủ phạm là Sand, một thành viên Hội sinh viên[518]. Nói theo ngôn ngữ trinh thám thì cái gì đã “ấn vũ khí vào tay” chàng sinh viên trẻ Sand? Khát vọng tự do, đương nhiên là thế. Nhưng lại gần hơn người ta sẽ thấy động cơ chính không phải là tự do, mà là sự cuồng tín về đạo đức và lòng căm ghét lối sống phóng túng, coi nhẹ bản sắc dân tộc. Nhưng Kotzebue bấy giờ đang phục vụ nhà nước Nga, tức là phục vụ Liên minh thần thánh; như thế hóa ra Sand đã đâm ông ta vì lý tưởng tự do - điều này tỏ ra không mấy phù hợp với thực tế, vì trong số bạn bè thân cận của Sand có người của dòng Tên. Tóm lại, bất kể hành động là gì, trong mọi trường hợp nó là một phương tiện tồi để bày tỏ chính kiến, và cũng chẳng đóng góp được gì nhiều cho việc giải quyết các vấn đề tư tưởng.
“Liệu tôi có được phép đặt câu hỏi, ông đã sắp kết thúc bài diễn văn khó ngửi của ông chưa?”
Ông Settembrini lên tiếng, giọng cực kỳ phẫn nộ. Nãy giờ ông ta ngồi gõ ngón tay xuống mặt bàn và vân vê ria mép. Nhưng đủ rồi. Lòng kiên nhẫn của ông ta đã cạn. Ông ta vươn cao người, vươn cao hơn cả cao, có thể bảo ông ta ngồi kiễng trên đầu ngón chân, chỉ có một phần đùi chạm nhẹ vào ghế; mặt tái nhợt ông ta đưa cặp mắt đen sáng quắc nhìn xoáy vào kẻ thù vừa quay về phía ông ta với vẻ ngạc nhiên vờ vịt.
“Xin phép được hỏi đấy có phải là cách diễn đạt ưa thích của ông không?” Naphta quật lại.
“Cách diễn đạt ưa thích của tôi”, ông người Ý khó nhọc nuốt giận, “tôi ưa diễn đạt một cách rõ ràng, rằng tôi nhất quyết không để ông tiếp tục làm hoen ố một tâm hồn trẻ trung trong trắng bằng sự lập lờ nước đôi của ông!”
“Thưa ông, tôi yêu cầu ông lựa lời mà nói!”
“Yêu cầu ấy, thưa ông, hoàn toàn không cần thiết. Tôi rất thận trọng trong lời nói. Và lời lẽ của tôi hoàn toàn đúng với thực tế, khi tôi bảo rằng cái cách ông ve vãn và làm rối trí con người trẻ tuổi đang dao động kia, làm tiêu tan sức mạnh tinh thần và đạo đức của anh ta, là một việc làm đểu cáng, mà không lời lẽ nào có thể trừng trị một cách xứng đáng...”
Khi nói đến từ “đểu cáng” ông Settembrini đập mạnh tay xuống bàn và đứng bật dậy, đẩy chiếc ghế đang ngồi ra đằng sau - đó là dấu hiệu khiến tất cả những người còn lại bên bàn đứng lên theo. Khách ở các bàn khác tò mò ngoái cổ nhìn sang - đúng ra chỉ có một bàn khác, vì đám khách Thụy Sĩ đã bỏ đi từ lúc nào, chỉ còn đám Hà Lan đần mặt ra theo dõi cuộc đấu khẩu đến hồi gay cấn.
Vậy là tất cả đứng cứng đờ người bên bàn: Hans Castorp và hai địch thủ, đối diện với họ là Ferge và Wehsal. Cả năm người mặt mày tái mét, mắt mở to, môi giật giật. Chẳng phải lẽ ra ba người không can dự nên thử tìm cách hòa giải, đưa ra một câu nói đùa phá tan sự căng thẳng, hay lựa lời khuyên nhủ đôi bên để xoay chuyển tình thế, khôi phục hòa bình? Họ không làm gì cả. Sự kích động nội tâm ngăn cản họ có bất kỳ hành động nào theo hướng ấy. Họ đứng thẳng, người run lên, và tay họ bất giác xiết lại thành nắm đấm. Cả đến A. K. Ferge, người xa lạ với tất cả những gì cao siêu và ngay từ đầu đã khước từ việc bỏ công đánh giá tầm quan trọng của cuộc tranh luận - cả đến ông ta cũng tin rằng tình thế đã vô phương cứu chữa và rằng người ta không thể làm gì khác hơn là để cho sự việc tự tiến triển theo ý nó. Bộ ria mép rậm rạp hiền từ của ông ta xù ra, phồng lên xẹp xuống liên hồi.
Im lặng đến mức người ta nghe rõ tiếng Naphta nghiến răng. Điều đó cũng lại là một kinh nghiệm mới đối với Hans Castorp, giống như khi chàng nhìn thấy ông Wiedemann tóc tai dựng ngược: trước đây chàng cứ tưởng đó chỉ là một cách nói ví von, không thể diễn ra trong thực tế. Giờ đây chàng được chứng kiến Naphta nghiến răng ken két trong yên lặng, một tiếng động kinh khủng, hoang dại, lạ lùng, nhưng cũng có thể hiểu là một biểu hiện tự kiềm chế đến tột đỉnh, vì sau đó ông ta trả lời, không lớn tiếng mà thậm chí còn hạ giọng, lẫn vào đó một âm thanh hổn hển như tiếng cười đứt đoạn:
“Đểu cáng? Trừng trị? Có người đã bị chạm nọc rồi sao? Chúng tôi đã đi xa đến nỗi viên sen đầm sư phạm hết lòng bảo vệ văn minh phải tuốt vũ khí ra rồi sao? Cái ấy phải gọi là thắng lợi - một thắng lợi quá dễ dàng, cho phép tôi tỏ ý coi thường, vì chỉ cần một chuyện như đùa cũng đủ để người lính canh đạo đức thổi kèn báo động! Cái gì phải đến sẽ đến, thưa ông. Cả “trừng trị” cũng sẽ có. Tôi hy vọng các nguyên tắc dân sự của ông không ngăn cản ông biết rằng ông mắc nợ tôi điều gì, nếu không tôi buộc phải có biện pháp kiểm tra...”
Ông Settembrini ra dấu bằng một cử động cứng nhắc, và Naphta tiếp tục: “A, như tôi thấy, chuyện ấy không cần thiết. Tôi cản đường ông và ông cản đường tôi - được rồi. Chúng ta sẽ dời địa điểm giải quyết mối bất hòa nho nhỏ này đến một nơi thích hợp hơn. Chỉ còn một điều này nữa. Tâm hồn nhạy cảm nơm nớp lo sợ cho nguyên tắc nhà nước cổ điển theo tinh thần cách mạng Jacobin của ông nhìn thấy ở tôi kẻ làm lung lay niềm tin của tuổi trẻ, đảo lộn tôn ti trật tự và cướp đoạt giá trị danh nghĩa học vấn của các ông, tóm lại là một trọng tội về giáo dục. Nỗi sợ này hoàn toàn có cơ sở, vì cái bị mất ở đây là tư tưởng nhân đạo của các ông, ông có thể tin chắc điều này - quá trình mất giá của nó đang và đã xảy ra. Nó giờ đây chỉ còn là một tàn dư của thời quá khứ, một khái niệm kinh điển vô nghĩa lý, một sự nhạt nhẽo tinh thần khiến người ta phải ngáp dài, và sẽ bị quét sạch bởi một cuộc cách mạng mới, cuộc cách mạng của chúng tôi, thưa ông. Nếu như chúng tôi, những người lãnh trách nhiệm giáo dục thế hệ trẻ, có gieo trồng hoài nghi sâu sắc hơn, ở mức độ những nhà tư tưởng văn minh tầm thường các ông trong mơ cũng không dám, thì cũng là vì chúng tôi biết rõ việc mình làm. Chỉ từ thái độ hoài nghi tất cả của chúng tôi, từ sự hỗn loạn về đạo đức mới có thể hình thành cái tuyệt đối, sự khủng bố thần thánh mà thời đại đang cần. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói để ông biết. Phần còn lại nằm trên một trang khác. Ông sẽ sớm nhận được tin tôi.”
“Rất sẵn lòng, thưa ông!” Ông Settembrini gọi với theo sau lưng kẻ hấp tấp rời khỏi bàn đến bên giá áo quấn mình vào áo choàng lông. Rồi ông hội viên hội Tam Điểm buông mình ngồi phịch xuống ghế và đưa cả hai tay ôm lấy ngực. “Distruttore! Cane arrabiato! Bisogna ammazzarlo!”[519] Ông ta thốt ra trong hơi thở hổn hển.
Những người khác vẫn đứng bên bàn. Bộ ria mép của Ferge tiếp tục phồng lên xẹp xuống dữ dội. Hàm dưới Wehsal trẹo hẳn đi. Hans Castorp bắt chước động tác tựa cằm vào cổ áo của ông nội, vì cổ chàng run bần bật. Tất cả đều nghĩ đến chuyện, trên đường đến đây chẳng ai ngờ tới một kết cục thế này. Tất cả, không trừ ông Settembrini, đều đồng thời có một ý nghĩ, may mắn làm sao họ đến đây trên hai cỗ xe trượt tuyết chứ không ngồi cùng một xe. Điều này trước mắt làm cho chuyến về đơn giản hơn. Nhưng sau đó thì sao?
“Ông ấy vừa thách đấu ông”, Hans Castorp đau khổ nói.
“Đúng thế”, ông Settembrini đáp và ngước mắt ném một cái nhìn nhanh lên phía chàng, sau đó quay ngay đi và tựa đầu vào tay.
“Ông có nhận lời không?” Wehsal muốn biết.
“Ông còn phải hỏi?” Settembrini trả lời và cũng nhìn y một thoáng... “Thưa các ông”, cuối cùng ông ta nói tiếp, và nhổm dậy, đã hoàn toàn lấy lại tự chủ, “tôi rất tiếc là chuyến đi chơi của chúng ta lại kết thúc như vậy, nhưng ai cũng phải tính đến những sự cố thế này trong đời. Trên lý thuyết tôi không tán thành quyết đấu, tôi là người tôn trọng luật pháp. Nhưng trên thực tế lại là chuyện khác. Có những tình huống, khi - ngược lại, có những... Tóm lại, tôi nhận lời thách đấu của ông ta. Rất hay là hồi còn trẻ tôi có đấu kiếm chút đỉnh. Vài tiếng đồng hồ tập luyện, và cổ tay tôi sẽ mềm dẻo trở lại. Chúng ta đi thôi! Mọi chuyện rồi đâu sẽ có đó. Tôi đồ rằng quý ông kia đã ra lệnh thắng ngựa vào xe rồi.”
Hans Castorp, trên đường về và cả sau đó, có những khoảnh khắc cảm thấy đất dưới chân chao đảo vì tính chất kinh khủng của sự kiện sắp xảy ra, nhất là khi mọi người vỡ lẽ ra rằng Naphta không muốn nghe nói đến gươm kiếm gì hết, mà khăng khăng đòi đấu súng. Và theo nguyên tắc thách đấu đúng là ông ta có quyền chọn vũ khí, vì ông ta là người bị xúc phạm. Cũng có những giây phút, theo ý chúng tôi, khi chàng trai trẻ có thể giải phóng phần nào trí tuệ của mình khỏi tình trạng hỗn độn và mờ mịt do những kích động nội tâm chung, chàng đã tự bảo mình rằng đây quả là một sự điên rồ và rằng cần phải ngăn chặn không cho nó xảy ra.
“Nếu mà có một sự xúc phạm thực sự thì tôi không nói làm gì!” Chàng kêu lên trong khi bàn bạc với Settembrini, Ferge và Wehsal - gã người Mannheim trên đường về đã được Naphta chiêu dụ làm người phụ tá cho ông ta trong cuộc thách đấu và chịu trách nhiệm liên lạc giữa đôi bên. “Nếu đó là một vụ tai tiếng thông thường trong xã hội thì còn hiểu được! Nếu một người bôi nhọ thanh danh của người kia, nếu trong chuyện này có dính líu đến một người đàn bà, hay vì bất kỳ lý do thực tế và đời thường nào đó, mà người ta không thấy có cách nào khác để bồi hoàn danh dự kia! Tôi đồng ý là trong những trường hợp ấy thì thách đấu là biện pháp cuối cùng, nếu sau đó danh dự được phục hồi mà không có thiệt hại gì lớn lắm, tức là đôi bên chia tay trong hòa giải, thì thậm chí có thể bảo rằng đó là một biện pháp rất hay, hữu ích và thuận tiện trong một số trường hợp nhất định. Nhưng ông ta đã làm gì cơ chứ? Không phải tôi muốn bênh vực ông ta, tôi chỉ tự hỏi không biết ông ta đã làm gì xúc phạm đến ông. Ừ thì ông ta làm đảo lộn tôn ti trật tự. Ông ta cướp đoạt giá trị danh nghĩa học vấn của ông, tự ông ta nói thế. Ông cảm thấy bị xúc phạm - cứ cho là ông đúng...”
“Cứ cho là?” Ông Settembrini nhắc lại và ngước nhìn chàng.
“Ông đúng, ông có lý! Ông ta đã xúc phạm ông. Nhưng mà ông ta không sỉ nhục ông! Hai cái ấy có sự khác biệt, xin ông thứ lỗi! Đó là những vấn đề trừu tượng, thuộc lĩnh vực tư tưởng. Với những chuyện ấy người ta có thể xúc phạm nhau, nhưng mà không thể sỉ nhục nhau. Đấy là một nguyên tắc, bất kỳ tòa án danh dự nào cũng sẽ xử như thế, tôi có thể nhân danh Chúa bảo đảm với ông điều đó. Vậy nên khi ông trả lời ông ta bằng ‘đểu cáng’ và ‘trừng trị’ thì đó cũng không phải là sỉ nhục, vì ông nói thế theo cái nghĩa tinh thần, toàn bộ chuyện này thuộc về lĩnh vực tinh thần và chẳng liên quan gì đến cá nhân, mà chỉ đụng chạm đến cá nhân thì mới có chuyện sỉ nhục. Tinh thần không bao giờ mang tính cá nhân, tôi xin bổ sung và giải nghĩa cho cái nguyên tắc nói trên...”
“Ông nhầm rồi, ông bạn”, ông Settembrini đáp, mắt nhắm nghiền. “Trước hết ông nhầm ở chỗ cho rằng tinh thần không thể có tính chất cá nhân. Ông không nên nghĩ thế”, ông ta mỉm một nụ cười tinh tế lạ lùng và đầy đau khổ. “Nhưng ông phạm sai lầm lớn nhất khi đánh giá về tinh thần nói chung, khi cho rằng nó quá yếu mềm để có được những xung đột và cảm xúc ở mức độ mạnh mẽ như trong đời thực, có những mâu thuẫn chỉ có thể giải quyết bằng vũ khí. All´ incontro[520]! Tinh thần là cái trừu tượng, cái tinh hoa, cái lý tưởng nhưng đồng thời cũng là cái tuyệt đối, và như thế bản thân nó đã là sự nghiêm khắc, nó giấu trong mình khả năng căm thù một cách sâu sắc và cực đoan, khả năng đối đầu vô điều kiện và không hòa giải, cứng rắn hơn trong đời sống xã hội rất nhiều. Ông lấy làm lạ khi nghe nói nó thậm chí còn tuyệt đối và không khoan nhượng hơn cả tình thế một mất một còn của một cuộc quyết đấu, một tình huống cực đoan, một cuộc đấu về thể lực? Một cuộc thách đấu, ông bạn thân mến, không phải là một ‘biện pháp’ như những giải pháp khác. Đó là lối thoát cuối cùng, là sự trở về với trạng thái nguyên thủy của tự nhiên, chỉ được giảm nhẹ một chút bằng những luật lệ thượng võ, nhưng thực ra rất hời hợt thôi. Về bản chất đó vẫn là tình huống cổ sơ nhất, mỗi bên phải tự khẳng định bằng sức lực của chính mình, và trách nhiệm của mỗi một người đàn ông, dù đã xa rời cái gốc tự nhiên ấy đến đâu, là sẵn sàng đương đầu với nó. Anh ta có thể lâm vào tình thế ấy bất kỳ lúc nào. Ai không dám hy sinh thân mình, cánh tay, dòng máu của mình để phục vụ lý tưởng thì không xứng đáng là một người đàn ông, và bất kể mọi hoạt động tinh thần trước hết người ta vẫn phải chứng tỏ mình là một người đàn ông.”
Bấy nhiêu đủ để làm Hans Castorp đuối lý. Chàng biết đáp lại thế nào? Chàng lặng thinh, đăm chiêu lo lắng. Những lời giảng giải của ông Settembrini tỏ ra hợp lý và tự chủ, nhưng không hiểu sao nghe rất xa lạ và thiếu tự nhiên từ miệng ông ta. Những ý nghĩ của ông ta không phải là ý nghĩ của chính ông ta - cũng như cuộc đấu tay đôi sắp tới không phải sáng kiến của ông ta, mà ông ta bị ông Naphta bé nhỏ khủng bố đẩy vào tình huống ấy. Những điều ông ta nói là sự thể hiện đầy đủ tâm trạng kích động chung ở trên này, mà trí tuệ minh mẫn của ông Settembrini đã trở thành nô lệ và công cụ trong tay nó. Tại sao tinh thần, chỉ vì nó nghiêm khắc và cứng rắn, lại phải không khoan nhượng đi đến chỗ hành động như thú vật, phải xông vào nhau trong một cuộc đọ sức tay đôi? Hans Castorp cố chống lại điều này - hay ít nhất chàng thử làm thế - và kinh hoàng nhận ra chàng không thể làm gì được. Nó đã quá mạnh ở trong chàng, cái sự kích động nội tâm đáng sợ này, ngay cả chàng cũng không thể thoát ra khỏi vòng cương tỏa của nó. Từ một miền ký ức trong đầu chàng trỗi dậy những hình ảnh kinh dị của cuộc ẩu đả giữa Wiedemann và Sonnenschein, khi họ lăn xả vào nhau như hai con thú hung hăng. Và chàng hãi hùng nhận ra rằng, cuối cùng mọi sự đều kết thúc bằng vũ lực, bằng móng, bằng răng. Đúng thế, người ta phải choảng nhau, dù chỉ để cứu vãn chí ít là những luật lệ thượng võ giảm thiểu phần nào sự dã man nguyên thủy... Hans Castorp tình nguyện xin làm người phụ tá cho ông Settembrini.
Đề nghị của chàng bị từ chối. Không, không thể được, như thế là trái thể thức, người ta trả lời chàng - đầu tiên từ phía ông Settembrini, với nụ cười tinh tế và đau khổ; rồi cả Ferge và Wehsal, sau một thoáng cân nhắc, không có lý do gì đặc biệt, cũng quyết định Hans Castorp không thể tham dự cuộc đấu súng trong vai trò này. Nhưng chàng được phép có mặt ở nơi xảy ra cuộc đấu với tính cách trung lập, không thiên vị bên nào - vì trong luật lệ thượng võ để giảm bớt thú tính cũng quy định sự có mặt của một phe như thế. Cả Naphta, qua miệng người đại diện danh dự cho ông ta là Wehsal, cũng ngỏ ý tán thành, và Hans Castorp bằng lòng với giải pháp ấy. Là nhân chứng hay quan sát viên trung lập, bất kể thế nào chàng sẽ có cơ hội ảnh hưởng đến việc ấn định thể thức quyết đấu, một điều rốt cuộc tỏ ra tối cần thiết.
Bởi vì Naphta đưa ra những đề nghị quá cỡ thợ mộc. Ông ta đòi khoảng cách giữa các đối thủ là năm bước chân và mỗi người được bắn lần lượt ba phát - nếu cần. Những điều kiện điên rồ này được ông ta thông báo ngay tối hôm xảy ra vụ cãi cọ, thông qua phát ngôn viên Wehsal, kẻ đã nhập hẳn vào vai người đại diện cho những quyền lợi man rợ của Naphta, và phần do sự ủy nhiệm, phần chắc chắn theo nhu cầu của bản thân, gã khăng khăng bảo vệ những đề nghị rùng rợn của người được mình đại diện với một sự dai dẳng ngoài sức tưởng tượng. Settembrini tất nhiên không phản đối. Nhưng Ferge với tư cách phụ tá của ông ta và Hans Castorp trong vai trung lập thì nhảy lên đùng đùng, chàng trẻ tuổi Hans Castorp thậm chí còn nặng lời với Wehsal. Chẳng lẽ gã không thấy xấu hổ khi đưa ra những điều kiện kinh dị như thế, chàng hỏi, cho một cuộc thách đấu vì lý do thuần túy trừu tượng và hoàn toàn không có một sự xúc phạm thực tế nào! Đấu súng còn chưa đủ kinh khủng hay sao mà phải thêm vào những chi tiết giết người kia nữa! Tinh thần thượng võ đâu rồi, hay là người ta còn muốn bắn lén dưới tấm khăn tay che trên nòng súng? Gã ta, Wehsal, không phải là người sẽ bị bắn ở khoảng cách năm bước chân, thế cho nên những điều kiện khát máu ấy mới thoát ra từ miệng gã trơn tru đến vậy - và vân vân. Wehsal nhún vai, lẳng lặng lưu ý phía bên kia về tình huống bất thường của họ, và như thế ở một mức độ nào đó gã tước mất vũ khí của Hans Castorp, người có vẻ như đã quên phứt điều này. Tuy nhiên sau những giằng co quyết liệt trong mấy ngày kế chàng đã thành công với việc đòi rút bớt từ ba phát súng xuống còn một phát, và về vấn đề khoảng cách thì họ đi đến thỏa thuận rằng các đối thủ đứng cách nhau mười lăm bước và có quyền bước lên năm bước trước khi bắn. Nhưng để đạt được những quy định ấy chàng đã phải đổi lại bằng lời hứa không được có bất kỳ cố gắng nào để hòa giải đôi bên. Ngoài ra còn một vấn đề nữa: họ không có súng.
Ông Albin có. Ngoài khẩu súng lục xinh xắn sáng loáng mà ông ta ưa mang ra dọa các bà các cô ông ta còn có một cặp súng ngắn sĩ quan đựng trong hộp lót nhung, sản xuất tại Bỉ: hai khẩu súng tự động hiệu Browning báng gỗ màu nâu bên trong chứa băng đạn, bộ phận cơ bằng thép sáng xanh và nòng súng bóng láng, bên trên họng súng gắn cái đầu ruồi nhỏ xíu. Hans Castorp đã có lần nào đó thấy chúng ở chỗ thằng cha ba láp kia và, trái với ý mình, hoàn toàn không thiên vị, chàng xung phong hỏi mượn y. Chàng làm thế thật, chẳng thèm giấu giếm mục đích mượn, nhưng bắt ông Albin lấy danh dự ra thề giữ kín bí mật này, và đạt được mục đích không khó khăn gì. Ông Albin thậm chí còn hướng dẫn chàng cách lên đạn và cùng chàng ra cánh đồng bắn thử vài phát lên trời bằng cả hai khẩu súng.
Tất cả những việc ấy cần đến thời gian, cho nên hai ngày và ba đêm trôi qua trước khi có cuộc hẹn hò bí mật. Điểm hẹn là sáng kiến của Hans Castorp: chàng đề nghị chốn rừng hoang đẹp như tranh, mùa hè nở đầy hoa tím, nơi ẩn dật và “cai trị” của chàng. Ở đây, vào sáng ngày thứ ba sau cuộc cãi cọ, ngay khi trời đủ sáng để nhìn rõ mặt người, các xung đột sẽ được giải quyết. Mãi tối hôm trước Hans Castorp mới sực nhớ ra một cách khá muộn màng, rằng có lẽ họ cần mang theo một bác sĩ ra ngoài đấu trường.
Chàng lập tức thảo luận với Ferge về điểm này, vấn đề tỏ ra rất nan giải. Rhadamanthys đã đành là cựu thành viên Hội sinh viên, nhưng không thể nghĩ đến chuyện thuyết phục ông bác sĩ viện trưởng ủng hộ một hành vi trái pháp luật, đã thế các bên tham dự lại đều là bệnh nhân. Nói chung gần như không có hy vọng tìm thấy một bác sĩ trong vùng chịu nhúng tay vào một cuộc đấu súng giữa hai bệnh nhân nặng. Về phần Krokowski người ta không dám chắc con người thông thạo phần hồn ấy có khả năng băng bó một vết thương.
Wehsal khi được hỏi ý kiến thông báo rằng Naphta đã tuyên bố từ trước là ông ta không muốn có bác sĩ. Ông ta không định đến chỗ ấy để được băng bó và làm thuốc, mà là để quyết đấu, để choảng nhau một cách thực sự. Cái gì xảy ra sau đó đối với ông ta không quan trọng, muốn ra sao thì ra. Đó có vẻ là một thông điệp đen tối, nhưng Hans Castorp cố hiểu theo hướng như thể Naphta ám chỉ rằng, sự có mặt của một bác sĩ là không cần thiết. Chẳng phải chính Settembrini cũng đã thông báo khi ông Ferge được cử đến hỏi rằng người ta có thể loại trừ câu hỏi ấy, đó là điều ông ta chẳng hề quan tâm đấy thôi. Có lẽ Hans Castorp không hoàn toàn phi lý khi hy vọng rằng các đối thủ về cơ bản đồng ý với nhau trong dự định không để đến nỗi xảy ra đổ máu. Hai đêm đã trôi qua kể từ khi xảy ra cuộc khẩu chiến nọ, và còn một đêm thứ ba nữa. Thời gian làm nguội những cái đầu, thời gian mang lại sự sáng suốt trong đó; một tâm trạng nhất thời không thể bất biến trước bước tiến của thời gian. Sáng sớm ngày mai, cầm khẩu súng trong tay, không ai trong số hai đấu thủ còn là người của buổi tối xô xát kia nữa. Cùng lắm họ chỉ hành động một cách máy móc và miễn cưỡng vì danh dự, chứ không tự nguyện, nóng nảy và vững tin như hôm cãi nhau; và chối bỏ nguyện vọng bản thân trong hiện tại để phục vụ những điều đã thuộc về quá khứ là một điều thậm vô lý và cần phải được ngăn chặn!
Hans Castorp không mấy sai lầm trong những suy luận của chàng - chỉ tiếc rằng không sai lầm theo một cách mà trong mơ chàng cũng không thể ngờ tới được. Về phía ông Settembrini thậm chí chàng còn đúng hoàn toàn. Nhưng nếu chàng ngờ được Leo Naphta cho đến thời điểm quyết định kia sẽ thay đổi những dự định của mình theo hướng nào, hay chính lúc này đây đã thay đổi rồi, thì ngay cả sự bồn chồn nóng nảy nội tâm, từ đó sinh ra tất cả những chuyện này, cũng không đủ để chàng bó tay nhìn những điều sắp tới xảy ra.
Bảy giờ sáng, mặt trời còn chưa có dấu hiệu gì tỏ ra muốn rời chỗ nấp sau đỉnh núi nhưng ngày đã cực nhọc rạng dần trong sương mù, Hans Castorp rời khỏi “Sơn trang” sau một đêm trằn trọc mất ngủ để đi đến điểm hẹn. Mấy cô giúp việc đang quét dọn trong đại sảnh kinh ngạc dừng tay nhìn theo chàng. Thế nhưng cổng viện đã mở từ lúc nào: Ferge và Wehsal, riêng lẻ hay cả đôi, dĩ nhiên đã đi qua đó để, một người đón Settembrini, người kia đón Naphta, ra đấu trường. Còn chàng, Hans, đi một mình, vì vai trò trung lập không cho phép chàng nhập bọn với một trong hai bên.
Chàng bước đi một cách máy móc và miễn cưỡng vì danh dự, bị đè nặng dưới sức ép của sự kích động nội tâm. Sự có mặt của chàng trong cuộc hẹn hò này đương nhiên là cần thiết. Chàng không thể lảng tránh và nằm trên giường đợi nghe kết quả, thứ nhất vì... - nhưng chàng bỏ qua lý do thứ nhất để nhảy ngay sang lý do thứ hai, rằng không thể phó mặc mọi sự muốn tới đâu thì tới. Vẫn chưa có điều gì tệ hại xảy ra, ơn Chúa, và không cần phải có điều gì tệ hại xảy ra, thậm chí có rất ít khả năng điều gì tệ hại sẽ xảy ra. Họ phải dậy từ lúc còn đêm, nhịn bữa sáng, lặn lội trong sương sớm lạnh cắt da để gặp nhau ở điểm hẹn, đó là thỏa thuận từ trước. Nhưng rồi, do ảnh hưởng từ sự có mặt của chàng, Hans Castorp, bằng cách nào đó mọi sự chắc chắn sẽ chuyển sang chiều hướng tốt đẹp và có một kết cục vui vẻ - bằng cách nào thì chưa thể thấy trước được, và cũng không nên đoán già đoán non, vì kinh nghiệm đã cho thấy, cả đến một sự kiện đơn giản nhất cũng sẽ diễn ra khác với những gì trước đó người ta cố vẽ lên trong tưởng tượng.
Nhưng rồi buổi sáng hôm ấy là buổi sáng tệ hại nhất lưu lại trong trí nhớ của chàng. Phờ phạc và thiếu ngủ, thần kinh Hans Castorp căng như dây đàn, răng chàng gõ lập cập vào nhau, và trong thâm tâm chàng đã rất muốn nghi ngờ những lý lẽ tự trấn an của mình. Thời điểm này có nhiều cái quá đặc biệt... Bà phu nhân người Minsk sức khỏe bị hủy hoại vì một cuộc cãi lộn, cậu học trò nổi cơn khùng, Wiedemann và Sonnenschein, vụ bạt tai danh dự của đám người Ba Lan, tất cả chen lấn hiện lên trong trí chàng. Chàng không thể tưởng tượng được là sắp tới trước mắt chàng, với sự hiện diện của chàng, sẽ có hai người bắn vào nhau, làm nhau đổ máu. Nhưng chỉ cần nghĩ đến cảnh tượng chính mắt chàng chứng kiến, đã diễn ra thực sự giữa Wiedemann và Sonnenschein là chàng lại thấy nghi ngờ cả bản thân mình lẫn thế giới xung quanh và rùng mình ớn lạnh trong chiếc áo choàng lông - mặc dù vậy trong lúc ấy cảm giác hồi hộp nôn nao trước ý nghĩa trọng đại và cao cả của tình huống trước mắt, cộng thêm làn gió trong lành buổi sớm mai vẫn làm chàng phấn chấn lạ lùng.
Với tâm trạng lẫn lộn và những ý nghĩ trái ngược đuổi nhau trong đầu, dưới bầu trời bàng bạc dần dần sáng tỏ, từ chỗ kết thúc đường đua bobsleigh đầu ‘Làng’ chàng theo con đường mòn leo lên sườn núi, tới vạt rừng nằm chìm trong tuyết, qua cây cầu gỗ nhỏ vắt trên đường xe đua và lội vào một lối mòn len lỏi giữa những gốc cây, được nhận ra qua vết chân dẫm hơn là vết xẻng xúc tuyết. Chàng bước gấp, và chẳng mấy chốc đã bắt kịp Settembrini và Ferge, ông này một tay ôm khư khư cái hộp súng lục dưới vạt áo choàng. Hans Castorp không tỏ ý muốn nhập bọn, và vừa lên ngang tầm họ chàng đã thấy Naphta cùng Wehsal đi trước một đoạn.
“Lạnh quá, ít nhất âm mười tám độ”, chàng lên tiếng với dụng ý tốt, nhưng bản thân cũng phải giật mình vì sự lạc lõng của những từ này, và thêm vào: “Thưa các quý ông, tôi tin rằng...”
Những người khác im lặng. Ferge phồng mang để cho bộ ria mép hiền từ nhô lên xẹp xuống liên hồi. Lát sau Settembrini dừng bước, nắm lấy tay Hans Castorp, đặt cả bàn tay kia của mình lên tay chàng và nói:
“Bạn ơi, tôi sẽ không giết người. Tôi sẽ không làm thế. Tôi sẽ hứng chịu viên đạn của ông ta, đó là tất cả những gì tôi có thể làm vì danh dự. Nhưng tôi sẽ không giết người, xin ông hãy tin như thế!”
Ông ta buông tay chàng ra và đi tiếp. Hans Castorp xúc động tận đáy lòng. Sau vài bước chân chàng bảo:
“Điều ông nói thật vô cùng cao thượng, thưa ông Settembrini. Chỉ có điều, mặt khác... Nếu ông ta về phần mình...”
Ông Settembrini chỉ lắc đầu. Và Hans Castorp suy luận, nếu một người không bắn thì người kia cũng không thể nào hành động khác đi được, theo ý chàng như vậy mọi việc đã có vẻ đi theo chiều hướng tốt đẹp, và các dự đoán của chàng bắt đầu được chứng tỏ là đúng. Trái tim chàng nhẹ hẳn đi.
Họ bước qua nhịp cầu ván bắc ngang khe suối, nơi thác nước mùa hè đổ xuống làm nên chất thơ mộng đặc biệt của chốn này, dòng thác giờ đây câm lặng và đông cứng. Naphta và Wehsal lội tuyết đi tới đi lui trước băng ghế phủ một lớp tuyết dày như cái gối, trên đó đã có lần Hans Castorp nằm đợi cầm máu cam và được sống lại một khoảnh khắc vô cùng sinh động trong ký ức. Naphta hút một điếu thuốc, và Hans Castorp lưỡng lự không biết có nên làm theo không, cuối cùng chàng quyết định bỏ qua cử chỉ đỏm dáng ấy vì không thấy một mảy may hứng thú nào. Với cảm giác mãn nguyện luôn tràn ngập lòng chàng mỗi lần tới đây chàng đưa mắt nhìn quanh một lượt cảnh vật quen thuộc, trong băng giá lặng câm cũng đẹp không thua thời kỳ nở đầy hoa tím. Cây thông đổ nghiêng mình vào giữa bức tranh mùa này thân cành chất đầy tuyết trắng.
“Xin chào!” Chàng hồ hởi cất tiếng, mong mở đầu câu chuyện một cách tự nhiên để tìm sự đồng cảm của những người kia và xua tan bầu không khí hắc ám - chàng không gặp may, chẳng ai lên tiếng trả lời. Họ lẳng lặng cúi chào, thân mình cứng đờ chỉ hơi nghiêng đi một chút xíu. Mặc dầu vậy chàng vẫn quả quyết đem sự phấn chấn có được trên đường tới đây, nhịp thở dồn dập, hơi ấm sinh ra do cuộc dạo chơi dài trong buổi sáng mùa đông lạnh lẽo để dùng vào mục đích tốt, và bắt đầu:
“Thưa các ông, tôi tin rằng...”
“Ông sẽ phải bày tỏ niềm tin của mình vào một dịp khác”, Naphta lạnh lùng cắt lời chàng. “Vũ khí!” Ông ta yêu cầu cũng với vẻ kênh kiệu như vậy. Và Hans Castorp, sượng sùng im lặng, đứng nhìn Ferge lôi cái hộp tai họa ra khỏi áo choàng, nhìn Wehsal bước tới nhận một khẩu súng đem lại cho Naphta. Settembrini nhận khẩu súng còn lại từ tay Ferge. Ferge lẩm bẩm yêu cầu người ta dãn ra nhường chỗ cho mình rồi bắt đầu đo khoảng cách và đánh dấu: ranh giới ngoài được ông ta dùng đế giày vạch thành hai đường ngắn trên tuyết, ranh giới bên trong là hai cây ba toong, một của ông ta và một của Settembrini.
Con người nhẫn nại và hiền hậu kia làm cái gì vậy? Hans Castorp không tin vào mắt mình nữa. Ferge có cặp chân dài và ông ta cũng sải những bước đâu ra đấy khiến cho mười lăm bước chân làm thành một khoảng cách đáng kể, nếu như không có hai cái ranh giới bên trong chết tiệt kia, chúng nằm gần nhau đến phát sợ. Tất nhiên ông ta chỉ làm đúng trách nhiệm của mình. Nhưng ông ta hành động dưới sự ám ảnh ma quỷ nào mà phải chính xác tới mức độ kinh dị như thế?
Naphta quăng chiếc áo choàng xuống tuyết để lộ lớp lông ấm lót bên trong, và bước đi với khẩu súng trên tay đến bên một đường kẻ ngoài ngay khi nó được vạch xuống tuyết và Ferge còn đang bận rộn kẻ tiếp ở đầu bên kia. Khi Ferge xong việc Settembrini cũng vào vị trí, chiếc áo lông sờn cũ mở phanh trước ngực. Hans Castorp dứt mình ra khỏi trạng thái tê liệt và vội vã bước lên lần nữa.
“Thưa các ông”, chàng khó nhọc lên tiếng, “xin chớ xốc nổi! Dù sao tôi cũng có trách nhiệm...”
“Ông đừng nói nữa!” Naphta gay gắt. “Phát hiệu lệnh đi.”
Nhưng không ai ra hiệu lệnh. Khâu tổ chức trục trặc ở chỗ này. Lẽ ra phải có ai hô “Bắn!” - nhưng liệu đưa ra cái mệnh lệnh khủng khiếp này có phải là trách nhiệm của người trung lập không thì chẳng ai nghĩ tới và cũng không bàn tới. Hans Castorp im thin thít, và không ai nói thay cho chàng.
“Chúng tôi cứ bắt đầu!” Naphta tuyên bố. “Ông hãy tiến lên phía trước, thưa ông, và bắn đi!” Ông ta gọi với về phía đối thủ và tự mình bắt đầu tiến lên mấy bước, khẩu súng trong tay chĩa thẳng vào Settembrini, tầm giữa ngực - một cảnh tượng kinh hoàng không thể tả. Settembrini làm theo. Khi bước đến bước thứ ba - đối thủ của ông ta đã tới sát bên cây gậy làm ranh giới nhưng chưa bắn - thì ông ta chĩa nòng súng lên rất cao và bóp cò. Phát súng to đanh kéo theo nhiều tiếng vang. Những ngọn núi quây quần xung quanh hứng lấy tiếng nổ rồi ném cho nhau, vọng qua vọng lại rền vang cả thung lũng. Hans Castorp nghĩ bụng, khéo người ta đổ xô cả đến đây bây giờ.
“Ông bắn lên trời”, Naphta nói giọng kiềm chế, hạ súng xuống.
Settembrini trả lời:
“Tôi thích bắn đâu là chuyện của tôi.”
“Ông phải bắn thêm lần nữa!”
“Không đời nào. Bây giờ tới lượt ông.” Và ông Settembrini ngẩng cao đầu ngước mắt nhìn lên trời, hơi xoay người đứng quay nghiêng về phía đối thủ, một hình ảnh làm ai cũng phải mủi lòng. Thấy ngay là ông người Ý đã nghe nói đến chuyện không nên đưa bề rộng thân mình ra làm đích và hành động theo chỉ dẫn này.
“Hèn nhát!” Naphta thét lên, cùng với tiếng kêu rất người ấy ông ta đồng thời thú nhận rằng muốn bắn vào người khác cần nhiều can đảm hơn là để người ta bắn vào mình; rồi ông ta nâng khẩu súng trong tay lên không theo tư thế quyết đấu, và bắn vào đầu mình.
Một cảnh tượng thê thảm, không thể nào quên! Ông ta lảo đảo hay loạng choạng vài bước về phía sau, trong khi núi đồi thản nhiên chơi trò tung hứng tiếng súng tội lỗi, chân ông ta đá văng về phía trước, cả người quay nửa vòng sang bên phải, và ngã úp mặt xuống tuyết.
Tất cả đứng đờ người ra một lát. Settembrini, sau khi vứt khẩu súng ra xa, là người đầu tiên chạy lại bên ông ta. “Infelice!” Ông ta kêu lên. “Che cosa fai per l´amor di Dio!”[521]
Hans Castorp giúp ông ta lật tấm thân sang tư thế nằm ngửa. Họ nhìn thấy cái lỗ đen ngòm bên cạnh thái dương. Họ nhìn vào một gương mặt tốt nhất nên đậy lại bằng tấm khăn tay lụa một đầu thò ra từ túi áo ngực Naphta.
Núi Thần Núi Thần - Thomas Mann Núi Thần