I find television to be very educating. Every time somebody turns on the set, I go in the other room and read a book.

Groucho Marx

 
 
 
 
 
Tác giả: Thomas Mann
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 56
Phí download: 7 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3352 / 137
Cập nhật: 2017-09-15 16:22:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Phần 5 - Vũ Điệu Tử Thần
Ông hiệp sĩ người Áo qua đời ngay sau lễ giáng sinh…
Nhưng trước đó phải kể đến sự kiện trọng đại nhất trong năm, vỏn vẹn có hai ngày lễ - ba ngày nếu tính cả đêm trước giáng sinh - những ngày mà Hans Castorp đón đợi với một thoáng rùng mình kinh sợ và một cái lắc đầu ngao ngán, chẳng biết giáng sinh ở trên này ra sao; những ngày đương nhiên vẫn đủ cả sáng trưa chiều tối với thời tiết đỏng đảnh của vùng này (tuyết đã tan chút đỉnh); những ngày về thực chất cũng chẳng khác gì ngày thường, mở đầu lặng lẽ rồi tàn lụi cũng lặng lẽ như thế: được vẽ vời thêu dệt một chút bề ngoài, nó thống trị tâm trí người ta trong thời hạn ngắn ngủi do con người đặt ra, rồi chẳng để lại gì ngoài một lớp cặn lắng đọng các ấn tượng không phải của ngày thường, nó đã vội trở thành dĩ vãng không xa thì gần…
Cậu con trai ông cố vấn cung đình, tên là Knut, về nhà ăn lễ giáng sinh và ở trong căn hộ của người cha bên hông viện an dưỡng. Đó là một thanh niên trẻ khá đẹp trai, nhưng cổ đã bắt đầu ngẳng ra và hơi chúi về phía trước. Sự hiện diện của cậu Behrens làm cho bầu không khí viện an dưỡng như tích điện cao thế; các quý bà bỗng dưng cười nhiều hơn, trang điểm sửa soạn kỹ lưỡng hơn và tính khí trở nên rất thất thường, câu chuyện họ trao đổi với nhau chỉ còn xoay quanh những lần gặp mặt Knut ngoài vườn, trong rừng hay ở khu điều dưỡng dưới phố. Rồi bản thân cậu ta cũng lại có khách khứa tới thăm: một đám bạn ở trường đại học, sáu hay bảy sinh viên gì đấy, kéo nhau lên nơi khỉ ho cò gáy này, mặc dù ở trọ dưới thung lũng nhưng họ thường xuyên lên dùng bữa với cha con ông cố vấn cung đình, và sau đó có cậu bạn quen thung thổ dẫn đường họ kéo đàn kéo lũ đi càn quét quanh vùng. Hans Castorp cố tình tránh mặt họ. Hễ có thể là chàng kéo Joachim đi đường khác, tuyệt đối không cảm thấy có nhu cầu làm quen với đám sinh viên vô tư lự kia. Cuộc sống của những người ở trên này là một thế giới riêng, chẳng dính líu gì tới đám người trẻ tuổi ồn ào ca hát, hăm hở leo núi, vừa đi vừa vung vẩy batoong kia; chàng không muốn nghe, muốn biết gì về bọn họ. Nhất là chàng nghe nói phần lớn bọn họ là người Bắc Đức, biết đâu trong đám có người đồng hương với chàng, mà Hans Castorp thì rất ngại gặp người quen. Chàng thường lo lắng cân nhắc khả năng tình cờ chạm trán một người Hamburg đến điều trị ở đây, bởi chàng còn nhớ Behrens có lần bảo rằng thành phố quê hương chàng là nơi cung cấp cho an dưỡng đường này một lượng bệnh nhân đáng kể. Nếu có thì chắc họ phải thuộc vào số bệnh nhân liệt giường hoặc hấp hối, không ai thấy mặt bao giờ. Ở dưới phòng ăn chỉ có một tay thương gia má hóp vài tuần nay ngồi ở bàn bà Iltis, nghe đâu là người Cuxhaven[144]. Từ lúc ông ta lên đây Hans Castorp bỗng thấy hoan nghênh tục lệ ở trên này, theo đó những người không ngồi cùng bàn ăn gần như không bao giờ có cơ hội làm quen và bắt chuyện với nhau; ngẫm cho kỹ chàng cũng hơi yên tâm về nỗi thành phố quê hương mình khá lớn và là nơi tập hợp đủ mọi hạng người. Sự hiện diện vô hại của ông thương gia mới tới đã xua tan phần lớn mối lo ngại của chàng đối với những bệnh nhân Hamburg có thể đến điều trị ở trên này.
Lễ giáng sinh lừ lừ nhích tới, một hôm đứng ngay trước cửa và hôm sau đã trở thành hiện tại… Thật ra Hans Castorp nghe người ta nhắc đến giáng sinh lần đầu tiên từ trước cái ngày trọng đại ấy tới sáu tuần lễ, khoảng thời gian nếu chỉ tính theo lịch thì đúng bằng thời gian chàng dự định ở chơi trên này và thời gian chàng phải nằm đo giường cộng lại. Trên thực tế đó là một quãng thời gian dài, nhất là nửa đầu, như sau này nhìn lại Hans Castorp phải thừa nhận, trong khi theo tính toán đơn thuần thì khoảng thời gian ấy thật chẳng thấm vào đâu, gần như không đáng kể: giờ đây chàng đã thấy các thực khách trong phòng ăn có lý khi nhắc đến nó bằng giọng dửng dừng dưng. Sáu tuần, con số còn nhỏ hơn số ngày trong một tuần; nhưng nếu thế lại phải xét đến một câu hỏi khác, rằng vậy thì một tuần, một chu kỳ nhỏ từ thứ hai đến chủ nhật rồi trở lại thứ hai, đáng giá là bao. Người ta chỉ cần hỏi giá trị và ý nghĩa của đơn vị nhỏ kế tiếp là đủ để hiểu rằng có gom góp chúng lại thành một tổng cũng chẳng đem lại kết quả gì, rằng tác dụng của việc làm ấy rốt cuộc lại là một sự rút ngắn, xóa nhòa, làm tiêu hao và hủy diệt thời gian. Một ngày, tính từ thời điểm người ta ngồi vào bàn ăn trưa cho tới lúc thời điểm ấy lặp lại sau hai mươi bốn tiếng đồng hồ, mang lại được những gì? Chẳng được gì cả - mặc dù theo tính toán nó có tới hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Và một tiếng đồng hồ để lại dấu ấn gì, dù đó là một tiếng đồng hồ nằm nghỉ, dạo chơi hay ngồi ăn - bấy nhiêu hoạt động đã là tất cả các khả năng có thể có để sử dụng đơn vị thời gian này? Cũng lại không nốt. Tổng của một loạt số không cũng chẳng hơn gì không. Thời gian chỉ đột ngột có lại ý nghĩa và tầm quan trọng của nó ở những đơn vị và chi tiết đặc biệt nhỏ: khoảng thời gian bảy lần sáu chục giây mà người ta phải ngậm chiếc nhiệt kế trong miệng để có kết quả điền vào biểu đồ nhiệt độ bỗng kéo dài lê thê và trở nên nặng nề; nó giãn ra thành bất tận, lắng đọng thành trầm tích dưới đáy dòng thời gian không ngừng trôi tuồn tuột…
Nhưng dịp lễ trọng đại này cũng không đủ sức kéo cư dân ở ‘Sơn trang’ ra khỏi nhịp sống thường ngày của họ. Trước đó mấy hôm người ta đã dựng một cây thông sum sê ở đầu bên phải phòng ăn, chỗ bàn Nga hạ lưu, và mùi thơm hăng hắc của nó thi thoảng luồn vào mũi các thực khách, đánh bạt hương vị các món sơn hào hải vị, gợi lên một thoáng ưu tư trong ánh mắt đôi ba người ngồi bên bảy chiếc bàn. Đến giờ ăn tối ngày hai mươi tư tháng mười hai cây thông đã được trang hoàng lộng lẫy bằng những dây kim tuyến, quả cầu thủy tinh, quả thông quét nhũ vàng, những trái táo bọc trong túi lưới, rất nhiều kẹo bánh treo lủng lẳng trên cành và những cây nến đủ màu cháy suốt bữa ăn tới tận đêm khuya. Nghe nói trong phòng các bệnh nhân liệt giường cũng có cây thông, mỗi phòng một cây. Bưu kiện chứa quà được gửi lên kìn kìn trong mấy ngày cuối. Joachim Ziemßen và Hans Castorp cũng nhận được quà của gia đình ở dưới đồng bằng, những món quà được gói bọc chu đáo để la liệt trong phòng họ: quần áo các loại, cravat, đồ dùng xa xỉ bọc da hay mạ kền sáng loáng và vô số bánh trái, hạt dẻ, táo, hạnh nhân ngào đường - hai anh em vừa ngán ngẩm ngắm nhìn kho thực phẩm dự trữ phong phú vừa tự hỏi ngày năm bữa đã no lòi tù và ra rồi không biết còn lúc nào để ăn những thứ này. Hans Castorp biết rằng quà cáp của chàng do một tay Schalleen lo liệu, chính bà chứ không ai khác sau khi bàn bạc cụ thể với ông trẻ và cậu của chàng đã tự mình chọn mua và gói ghém. Cùng với đống quà chàng nhận được cả một bức thư của James Tienappel, trên giấy viết thư loại tốt nhưng không viết tay mà đánh bằng máy chữ. Cậu chàng nhân danh ông trẻ và bản thân mình chúc chàng sức khỏe và may mắn trong dịp lễ, tiện thể kèm luôn lời chúc mừng năm mới cũng không còn bao xa để tiết kiệm một lần viết thư, giống như Hans Castorp đã làm trong lá thư chúc mừng giáng sinh và báo cáo tình hình điều trị mà chàng viết từ nhiều ngày trước đó để kịp tới tay ông lãnh sự Tienappel trước đêm Chúa ra đời.
Cây thông trong phòng ăn thắp nến sáng lung linh, cháy lách tách, tỏa hương hăng hắc giữ cho ý thức về giờ phút thiêng liêng này tươi rói trong đầu và trong tim mọi người. Khách an dưỡng ai cũng sửa soạn thật bảnh, các ông mặc lễ phục, các bà đeo những món đồ trang sức đắt tiền chắc hẳn do bàn tay nâng niu của đấng phu quân ở dưới đồng bằng gửi lên cho. Cả Clawdia Chauchat cũng thay chiếc áo len thường ngày bằng chiếc váy dự tiệc kiểu cách có phần hơi lạ mắt, có thể nói là mang đậm bản sắc dân tộc: đó là một tấm áo dài thêu màu trắng, có thắt lưng ở giữa theo lối trang phục cổ của nông dân Nga hay dân xứ Balkan, có lẽ là dân Bulgaria, đính những hạt cườm nho nhỏ lóng lánh vàng, với vô số nếp gấp rủ xuống tạo cho nàng một dáng dấp hết sức mềm mại yêu kiều và càng tôn lên những nét sắc sảo trên “gương mặt Tatar”, nhất là “cặp mắt sói đồng hoang” theo cách nói ưa thích của Settembrini. Ở bàn Nga thượng lưu không khí đặc biệt vui nhộn, chai sâm panh đầu tiên được khui nổ vang ở đó, rồi hầu như tất cả các bàn khác cũng đua nhau chuyển sang loại đồ uống này. Ở bàn hai anh em Hans Castorp người ta cũng uống sâm panh, do bà cụ già vui tính đặt cho cô cháu gái và Marusia, rồi hào phóng đãi tất cả mọi người. Thực đơn được chọn với món tráng miệng gồm bánh pho mát và đồ ngọt, tiếp ngay sau đó là cà phê và rượu mùi, thỉnh thoảng một cành thông bén lửa cháy đùng đùng, việc dập lửa gây ra một cảnh huyên náo rộn ràng với tiếng kêu hoảng sợ vờ vĩnh của các quý bà. Gần cuối bữa ăn Settembrini, vẫn trong trang phục tứ thời của mình, miệng ngậm cây tăm, đến ngồi một lúc ở bàn hai anh em họ. Ông ta kiếm chuyện chọc quê bà Stöhr rồi tăng tăng chuyển sang đề tài gã con trai ông thợ mộc, thằng cha Do Thái được coi là đấng cứu thế, và được thiên hạ đổ hô cho là mở mắt chào đời vào ngày hôm nay. Chẳng có gì chứng tỏ là y từng sống trên đời này. Tuy nhiên cái tư tưởng nảy nòi từ thời ấy và mở đầu con đường chinh phục vẻ vang cho tới ngày nay chính là ý tưởng cốt lõi về giá trị của con người và quyền bình đẳng giữa họ - tóm lại đó là nguồn gốc của tự do cá nhân và dân chủ. Ông ta kết thúc bài diễn thuyết bằng cách ngửa cổ dốc cạn ly sâm panh người ta đẩy tới trước mặt mình. Bà Stöhr thấy lối ăn nói của ông ta “vô nghiêm túc và bất thành kính”; và thể hiện sự phẫn nộ của mình bằng cách đứng dậy rời bàn ăn, và vì xung quanh lác đác đã có người sang phòng giải trí nên cả bàn lục tục theo gương bà ta.
Đỉnh cao long trọng và vui nhộn của đêm lễ thánh là thời điểm trao quà cho ông cố vấn cung đình - ông ta dắt theo cả Knut và bà Mylendonk ghé qua chung vui với họ khoảng nửa giờ. Tiết mục đặc biệt ấy diễn ra trong gian phòng khách lớn nơi để các dụng cụ quang học giải trí. Quà riêng của đám người Nga là một đồ vật bằng bạc, một cái đĩa tròn khổng lồ ở giữa chạm lồng hai chữ cái đầu tên người được tặng, sự vô dụng của món đồ như cái gai chọc vào mắt hết thảy mọi người. Trên chiếc đi văng - quà tặng của các bệnh nhân khác - chí ít người ta còn có thể ngả lưng, mặc dù nó mới được bọc nệm chứ chưa có mền gối gì ráo. Nhưng đầu đi văng có thể nâng cao hạ thấp tùy ý, và Behrens hăng hái thử ngay những tiện nghi của nó, ông ta duỗi chân nằm dài trên đi văng, nhắm mắt ngáy như cưa gỗ, tay ôm khư khư cái đĩa vô dụng giả làm Fafnir[145] giữ gìn kho báu. Tất cả hò reo tán thưởng. Madame Chauchat cũng cười như nắc nẻ, mắt nhắm tít và miệng ngoạc ra, y chang điệu bộ của Přibislav mỗi khi cười, Hans Castorp thầm nhận xét.
Sếp vừa đi khỏi là người ta sà ngay vào bàn đánh bài. Đám người Nga lại chiếm gian phòng khách nhỏ như thường lệ. Một vài bệnh nhân thơ thẩn lưu lại trong phòng ăn nơi có cây thông Noel, ngắm những ngọn nến lụi dần và nhấm nháp kẹo bánh treo đầy cành. Bên mấy dãy bàn đã bày biện chuẩn bị cho bữa điểm tâm sáng hôm sau có đôi ba người bệnh còn ngồi ủ rũ, mỗi người một xó, mỗi người một tư thế khác nhau, chìm đắm trong im lặng cô đơn.
Ngày đầu tiên của lễ giáng sinh ẩm ướt và đầy sương mù. Đó là mây quấn quanh đỉnh núi, Behrens bảo, ở trên này không có sương mù. Nhưng mây hay sương mặc lòng, hơi ẩm làm cái lạnh như cứa vào da thịt. Lớp tuyết phủ đầy mặt đất tan ra được một chút bên trên, trở nên lỗ rỗ và nhớp nháp. Lúc nằm ngoài ban công mặt và tay buốt cóng khó chịu hơn khi tiết trời băng giá mà khô ráo rất nhiều.
Ngày hôm ấy được đánh dấu bằng một chương trình âm nhạc buổi tối do ban quản trị ‘Sơn trang’ tổ chức phục vụ khách an dưỡng, một buổi hòa nhạc thực thụ có cả tờ chương trình in màu mè phát cho khán giả và ghế ngồi được xếp thành hàng thành dãy tề chỉnh. Đó là một chương trình ca nhạc với nhân vật chính là một nữ ca sĩ chuyên nghiệp kiêm giáo viên thanh nhạc có tiếng ở vùng này, một người đàn bà khô héo với hai đồng xu hai bên dưới cổ áo dạ hội khoét rộng, đôi cánh tay như hai que củi và giọng hát cô hồn không một chút truyền cảm, tiết lộ lý do chính yếu khiến bà ta lên lập nghiệp tận nơi khỉ ho cò gáy này. Bà ta gân cổ hát:
“Người thương tôi để trong lòng…”
Tay nhạc công đệm đàn piano cho bà ta cũng lại là người địa phương nốt… Madame Chauchat ngồi ngay hàng đầu, nhưng đã tranh thủ giờ nghỉ giải lao kín đáo rút lui, nhờ thế sau đó Hans Castorp có thể chú tâm thưởng thức âm nhạc (vì nói gì thì nói, đó vẫn là âm nhạc), chàng vừa lắng nghe vừa dò theo lời bài hát in trong tờ chương trình. Settembrini đến ngồi một lúc cạnh chàng, nhưng rồi cũng chuồn mất sau khi tung ra vài lời bình luận gay gắt đầy hình tượng về nghệ thuật thanh nhạc của ca sĩ và châm biếm nhận xét rằng hôm nay họ lại trung thành và thân thiết[146] tụ tập ở đây. Thực lòng mà nói Hans Castorp thấy nhẹ cả mình khi hai người ấy bỏ đi, vắng bóng cô nàng mắt một mí và ông thầy luân lý chàng mới được tự do thả hồn theo lời ca tiếng nhạc. Chàng rất hài lòng với ý nghĩ âm nhạc có mặt trong mọi hoàn cảnh, ở khắp mọi nơi trên thế giới, có lẽ không thiếu vắng ngay cả trong những chuyến thám hiểm Bắc cực.
Ngày thứ hai của lễ giáng sinh chỉ khác với ngày chủ nhật hay thậm chí ngày thường bởi một thoáng ý thức mơ hồ còn vương lại, và khi ánh ngày lụi tắt thì lễ giáng sinh cũng thuộc về quá khứ - hoặc cũng có thể nói rằng nó thuộc về tương lai, vì một năm nữa, sau mười hai tháng là lại tới giáng sinh, đến hẹn lại lên theo chu kỳ vòng quay của trái đất - rốt cuộc mười hai tháng chỉ hơn thời gian Hans Castorp đã ở trên này vỏn vẹn có bảy tháng thôi.
Nhưng ngay sau lễ giáng sinh năm nay, trước thềm năm mới, ông hiệp sĩ người Áo bị thần chết đón đi. Hai anh em biết tin qua Alfreda Schildknecht, tục danh Berta - cô y tá chăm sóc cậu Fritz Rotbein tội nghiệp. Trong một lần kháo chuyện ngoài hành lang cô ta đã kể cho họ nghe cái tin thường được tế nhị giấu kín không cho ai biết ấy. Hans Castorp lặng người cảm động, một phần vì chuyện đời ông hiệp sĩ là một trong những ấn tượng đầu tiên chàng tiếp nhận khi mới tới trên này - chàng có cảm tưởng những ấn tượng ban đầu ấy là nguyên nhân chính gợi lên phản xạ nóng bừng trên mặt còn đeo đẳng theo chàng đến tận bây giờ - phần khác là vì những lý do tinh thần, cũng có thể bảo rằng: những lý do có tính chất tâm linh. Chàng giữ Joachim lại chuyện trò thật lâu với cô y tá, cô này bám lấy dịp may hiếm có với vẻ biết ơn. Nội chuyện ông hiệp sĩ cầm cự qua được dịp lễ này đã là một phép màu rồi, cô ta kể. Thực ra lâu nay ông ta vẫn chứng tỏ sức sống dai dẳng của mình, nhưng giai đoạn cuối ông ta thở bằng cách nào thì thật không ai hiểu nổi. Đương nhiên mấy ngày sau cùng ông ta không rời cái ống nối với bình dưỡng khí, và đã tiêu tốn một lượng oxy khổng lồ: riêng ngày hôm qua hết bốn chục bình, mỗi bình sáu franc. Chắc các ông cũng có thể tính ra bao nhiêu tiền đã tan thành mây khói, trong khi ấy bà vợ ông ta, người đã tận tụy chầu chực bên giường đến tận lúc bệnh nhân thanh thản lìa đời, bị bỏ lại một thân một mình với hai bàn tay trắng. Joachim tỏ ý không tán thành. Tại sao lại phải nhất định kéo dài mạng sống lay lắt của bệnh nhân một cách đau đớn và tốn kém như thế, khi đã thực sự không còn tia hy vọng nào nữa? Không thể trách người bệnh được, vì ông ta chẳng tự ý hít vào thứ dưỡng khí đắt như vàng kia mà bị người ta cố tình bơm cho. Lỗi là ở những người điều trị, lẽ ra họ phải biết nghĩ một chút và vì lòng kính Chúa mà để cho con người đau khổ ấy được nhẹ nhõm ra đi, không cần biết đến khả năng tài chính của bệnh nhân, hay thậm chí càng nên làm thế nếu xét đến hoàn cảnh kinh tế khó khăn của ông ta. Lý lẽ này bị Hans Castorp kịch liệt phản đối. Anh họ chàng phát biểu chẳng khác gì Settembrini, thiếu sự kính trọng cần thiết và hoàn toàn dửng dưng trước nỗi bất hạnh của người khác. Họ đang nói tới phút lâm chung của ông hiệp sĩ, sau đó là chấm hết, không còn cơ hội nào để bày tỏ lòng kính trọng đối với ông ta nữa, thế nên một người hấp hối phải được nhận mọi quan tâm săn sóc và thái độ thành kính tuyệt đối, Hans Castorp đòi hỏi. Hy vọng lúc từ giã cõi đời ông hiệp sĩ không bị Behrens quát tháo và mắng mỏ một cách thiếu lễ độ đấy chứ? Không đâu, cô y tá Schildknecht vội trả lời. Thực ra trong một thoáng ông ta đã không cưỡng lại được nỗi sợ và muốn nhảy ra khỏi giường, nhưng chỉ cần một lời nhắc nhở nhẹ nhàng là đủ để ông ta từ bỏ ý định vô ích ấy.
Hans Castorp tới viếng người vừa qua đời. Đó là cách chàng biểu lộ sự phản kháng của mình, đương đầu với cả một hệ thống lề luật do những kẻ trên này dựng lên để giấu diếm mọi điều liên quan đến chết chóc, vì chàng không chịu nổi thái độ ích kỷ không muốn biết, không muốn nhìn và không muốn nghe của đám bệnh nhân, chàng nhất định phải thể hiện ra bằng hành động. Chàng đã thử đưa cái chết của ông hiệp sĩ ra làm đề tài nói chuyện bên bàn ăn, nhưng vấp phải một bức tường chống đối chung đầy nhất trí và thù địch đến nỗi chàng cảm thấy vừa hổ thẹn vừa phẫn uất. Bà Stöhr trở nên gần như thô lỗ. Chàng ăn phải cái bả gì mà giở giói lôi chuyện ấy ra kháo ở đây, bà ta hỏi, và rằng hồi nhỏ chàng không được giáo dục lễ nghĩa gì hết hay sao. Nội quy của viện được đặt ra để bảo vệ họ, những bệnh nhân yếu ớt, khỏi bị chấn động tinh thần vì những sự kiện loại này, vậy mà một gã hỉ mũi còn chưa sạch lại dám đem nó ra kể bô bô bên bàn ăn, nhất là trước mặt cả ông tiến sĩ Blumenkohl, người có thể theo gót ông hiệp sĩ bất kỳ lúc nào (câu này bà ta nói sau bàn tay che miệng). Chuyện này mà còn lặp lại lần nữa thì chàng sẽ biết tay bà ta. Thế là người bị khiển trách đi đến một quyết định dứt khoát mà chàng lớn tiếng công bố với cả bàn: chàng sẽ nhân danh cá nhân đến viếng người đồng cảnh ngộ vừa mới qua đời, đứng mặc niệm một phút bên linh cữu để tỏ chút lòng thương mến của người sống, và chàng cũng không cần hỏi xem Joachim có đồng ý với mình không mà cứ đương nhiên gộp luôn cả người anh vào thành “chúng tôi”.
Nhờ cô y tá Alfreda môi giới họ đến phòng người chết, ở lầu hai ngay dưới phòng họ. Bà vợ góa của ông hiệp sĩ đón tiếp hai người, đó là một phụ nữ tóc vàng nhỏ nhắn, xơ xác, tiều tụy vì thức đêm, mũi đỏ ửng vì khóc, chiếc khăn tay che trước miệng và cổ áo khoác len dày dựng lên cao vì trong phòng rất lạnh. Lò sưởi tắt ngấm, và cửa ban công mở toang. Hai người trẻ tuổi hạ giọng nói lời chia buồn, và được một cử chỉ đau đớn của bà vợ cho phép, họ kính cẩn rón rén đi nhón gót qua gian phòng đến cạnh giường, đứng lại bên chỗ quàn người quá cố, mỗi người theo một cách riêng: Joachim đứng nghiêm trong tư thế chào, đầu hơi cúi, Hans Castorp trầm mặc đứng khom lưng, hai tay chắp trước bụng, đầu nghiêng xuống một bên vai, nét mặt bần thần như những khi chàng nghe nhạc. Ông hiệp sĩ nằm đầu lót gối ngóc cao, khiến cho tấm thân khuất dưới lớp chăn càng thêm dẹp lép, phẳng như một tấm ván chỉ trừ hai bàn chân nhô lên ở cuối giường, cái thân thể từng được hình thành và lớn mạnh nhờ vô số vòng tuần hoàn của sự sống không ngừng sinh sôi nảy nở, nay chỉ còn là cái vỏ bọc trống rỗng. Một vòng hoa nhỏ đặt quãng đầu gối, từ đó thò ra một cành cọ chạm vào hai bàn tay to xương xẩu vàng ệch chắp lại trên bộ ngực lép kẹp. Cả khuôn mặt với cái đầu sói sọi cũng hốc hác và vàng vọt, sống mũi gồ cao, xương gò má nhô lên và hàng ria mép hung hung rậm rạp xù ra càng làm cặp má lởm chởm chân râu hõm sâu xuống. Đôi mắt nhắm chặt thiếu tự nhiên - bị đè xuống, một ý nghĩ vụt đến trong đầu Hans Castorp, chứ không phải được vuốt cho khép lại: người ta gọi đó là việc làm nghĩa cử cuối cùng, nhưng thực ra cử chỉ ấy nhằm phục vụ người sống chứ không phải người đã chết. Mà nó cũng phải được làm kịp thời, nếu chậm trễ để huyết tơ đông chắc làm co cứng các bắp thịt rồi thì sẽ không có cách nào vuốt cho mắt họ nhắm lại được, người chết sẽ nằm mở mắt trừng trừng, và thế là những hình ảnh văn hoa mỹ miều như “yên ngủ” không thể nào áp dụng được nữa.
Đã được trang bị một số kiến thức cần thiết trong nhiều lĩnh vực, Hans Castorp đứng mặc niệm người quá cố, thái độ tự tin nhưng đầy thành kính. “Ông ấy như người nằm ngủ”, chàng nói thế chỉ vì tế nhị, chứ kỳ thực có một sự khác biệt không thể chối cãi. Rồi chàng hạ giọng nhã nhặn gợi chuyện bà vợ góa của ông hiệp sĩ, thăm hỏi về quá trình bệnh tật của ông này, về những ngày cuối đời và phút lâm chung, về kế hoạch đưa linh cữu về quê quán người quá cố ở Kärnten, tóm lại chàng thể hiện một mối quan tâm nhân đạo nửa y học nửa tâm linh và tỏ ra có kiến thức sâu rộng trong các lĩnh vực này. Người vợ góa trả lời nhỏ nhẹ giọng Áo rặt, thỉnh thoảng bị một cơn nấc nghẹn chặn ngang, bà ta tỏ ý khâm phục những thanh niên còn trẻ như họ mà đã biết quan tâm đến nỗi bất hạnh của người khác; và Hans Castorp đáp lại rằng anh họ chàng và chàng cũng là bệnh nhân, thêm vào đó bản thân chàng cũng đã từng đứng bên linh cữu những người thân từ rất sớm, chàng mồ côi cả cha lẫn mẹ, và vì thế có thể nói rằng cái chết đối với chàng không còn lạ lẫm gì. Chàng đã chọn cho mình nghề nghiệp nào, bà ta hỏi tiếp. Chàng trả lời, “trước kia” mình làm nghề kỹ thuật. - Trước kia ư? - Trước kia, bởi vì nay chàng mắc bệnh và còn phải điều trị không biết đến bao giờ ở đây, điều đó đã làm đảo lộn hoàn toàn, có thể nói là đã tạo ra một bước ngoặt trong cuộc đời chàng, ai mà biết được. (Joachim kinh hãi trợn tròn mắt nhìn chàng.) Còn anh họ ông? - Anh ấy muốn theo binh nghiệp ở dưới đồng bằng, anh ấy sắp sửa được đóng lon sĩ quan. Ôi, bà góa bảo, binh nghiệp là một nghề nguy hiểm, quân nhân chắc hẳn cũng phải tính đến khả năng chạm trán với cái chết trong những hoàn cảnh nhất định, và nếu được làm quen từ sớm với hình ảnh ấy thì cũng tốt. Rồi bà ta thân thiện chia tay hai chàng trẻ tuổi với thái độ tự chủ đáng kinh ngạc trong tình cảnh ấy, phải nói là đáng kính nể mới đúng nếu tính đến tấm hóa đơn tiền oxy mà ông chồng để lại. Hai anh em quay trở lên tầng mình. Hans Castorp tỏ ý mãn nguyện với chuyến viếng thăm, những ấn tượng thu được khiến tinh thần chàng phấn chấn.
“Requiescat in pace”, chàng bảo. “Sit tibi terra levis. Requiem aeternam dona ei, Domine[147]. Cậu thấy không, mỗi khi có việc tang tóc, khi khấn người chết hoặc nhắc đến họ người ta lại quay sang dùng tiếng Latinh, nghiễm nhiên coi đó là ngôn ngữ chính thức trong thủ tục ma chay, để nhấn mạnh tính nghiêm trang của sự chết chóc. Nhưng ở đây người ta sử dụng tiếng Latinh không phải để khoe khoang kiến thức, tiếng Latinh nói với người chết không phải thứ tiếng Latinh bác học, cậu hiểu không, mà nó được dùng với một tinh thần khác, có thể bảo rằng với ý nghĩa đối nghịch hoàn toàn. Đấy là thứ tiếng Latinh dùng trong tang lễ, ở cửa miệng các vị tu sĩ, phổ biến rộng rãi thời trung cổ, là tiếng kinh cầu đơn điệu, âm u như vọng lên từ dưới mộ - Settembrini rất ác cảm với thứ tiếng ấy, đó không phải là ngôn ngữ của những người theo chủ nghĩa nhân đạo, ủng hộ nền cộng hòa và gánh vác sứ mệnh giáo dục, nó khơi gợi một luồng tư tưởng khác, mang một tinh thần khác. Theo tớ người ta phải phân biệt rõ ràng hai luồng tư tưởng ấy, hai xu hướng tinh thần trái ngược nhau, có thể gọi nôm na là tư tưởng tự do và tư tưởng mộ đạo. Cái nào cũng có những ưu việt riêng của nó, nhưng trong thâm tâm tớ phản đối tư tưởng tự do, ý tớ muốn nói tư tưởng của Settembrini, vì nhân danh tư tưởng ấy những nhà nhân đạo tự cho mình độc quyền đại diện cho phẩm giá con người, như vậy là tự cao tự đại quá đáng. Phái mộ đạo cũng coi trọng nhân phẩm đấy chứ, và đã tạo điều kiện không ít cho những hành vi cao quý, tư cách tốt đẹp và lễ nghi trang trọng được phát huy, về mặt này thậm chí họ còn hơn phái ‘tự do’, mặc dù họ thẳng tay trừng phạt những tội lỗi và sai lầm của con người, cái chết cũng như sự hủy diệt đóng một vai trò đáng kể trong giáo lý của họ. Không biết trong nhà hát cậu có bao giờ để ý khi xem vở ‘Don Carlos’[148], cảnh diễn tả triều đình Tây Ban Nha ấy, lúc vua Philippe bước ra sân khấu trong trang phục đen tuyền lủng lẳng bội tinh, chậm rãi nhấc mũ lên - cái mũ trông đã gần giống kiểu mũ quả dưa của chúng ta bây giờ - và nói: ‘Các đại thần, ta miễn lễ’ hoặc câu gì đó tương tự - thật là một cử chỉ vô cùng trang trọng, không một chút tùy tiện hay suồng sã, ngược lại là đằng khác, và hoàng hậu cũng phải lên tiếng: ‘Ở nước Pháp chúng tôi thì khác’, tất nhiên là khác rồi, bà ta thấy thế là quá trịnh trọng và nhiêu khê, bà ta muốn tỏ ra bình dân hơn, nhân đạo hơn. Nhưng mà nhân đạo là gì? Nhân đạo muốn hiểu thế nào cũng được. Theo tớ lòng kính Chúa và thái độ khiêm tốn đầy trang nghiêm và kính cẩn của người Tây Ban Nha là một phong cách đáng quý, trong khi khái niệm ‘nhân đạo’ có thể bị người ta lạm dụng để che giấu thói cẩu thả và sự nhu nhược, hy vọng cậu cũng tán thành ý tớ.”
“Tớ tán thành ý cậu”, Joachim bảo, “nhu nhược và tùy tiện là điều không thể chấp nhận được, phải có kỷ luật.”
“Ừ, cậu nói thế vì cậu là quân nhân, tớ phải công nhận rằng trong quân đội người ta rất chú trọng điều này. Bà vợ góa của ông hiệp sĩ nói đúng, nghề binh của các cậu có phần khác thường, các cậu luôn phải chuẩn bị tinh thần cho những tình huống đặc biệt hiểm nghèo, và phải tính đến cả khả năng có lúc đối mặt với cái chết. Các cậu mặc quân phục bó sát người gọn gàng và đỏm dáng có cổ cứng, khiến cho dáng dấp các cậu lúc nào cũng nghiêm trang. Rồi các cậu còn có nhiều cấp bậc lằng nhằng và kỷ luật chặt chẽ, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, tất cả những điều đó đều theo tinh thần mộ đạo Tây Ban Nha, tôn trọng nền nếp, tớ rất tán thành. Giá mà giới dân sự chúng tớ cũng có được tinh thần ấy trong việc giữ gìn đạo lý và trong thái độ cư xử hằng ngày thì hay biết bao. Tớ cho rằng, thế giới và cuộc đời này sẽ tốt đẹp hơn nhiều nếu mọi người đều mặc đồ đen với cổ áo trắng hồ bột xếp nếp cao thay cho cổ cứng quân phục của các cậu, và đối xử với nhau một cách lịch sự nghiêm trang theo đúng lễ nghi mỗi khi có việc bàn về chết chóc, theo tớ như thế mới đúng, mới hợp đạo lý. Cậu thấy không, đấy lại là một sai lầm nữa của Settembrini, một ý tưởng lạ đời của ông ta, may làm sao có dịp này để tớ trao đổi với cậu. Ông ta không chỉ đòi độc quyền về nhân phẩm, mà còn kèo thêm cả đạo đức và đó nữa - với ‘hoạt động nghề nghiệp ngoài đời’ và những buổi lễ mừng tiến bộ ngày chủ nhật (làm như chủ nhật người ta không có việc gì khác ngoài tôn vinh tiến bộ) và với nỗ lực tiêu diệt khổ đau một cách có hệ thống, cái này cậu chưa biết, vì ông ta lôi chuyện này ra để dạy dỗ mình tớ, đại khái ông ta muốn diệt trừ đến tận gốc rễ mọi đau khổ trên đời, bằng cách soạn một bộ từ điển bách khoa toàn thư. Thế nếu như tớ thấy tất cả những trò ấy là không thể chấp nhận được - thì sao? Dĩ nhiên tớ không dại gì mà hé răng cãi, để ông ta đè bẹp và dìm tớ xuống bùn đen bằng cái lưỡi ác khẩu đầy hình tượng của ông ấy, ông ấy sẽ trịnh trọng giơ ngón tay lên bảo: ‘Tôi xin cảnh cáo ông, ông kỹ sư!’ Nhưng nghĩ thì tớ có quyền chứ - tâu bệ hạ, xin cho chúng thần được tự do suy nghĩ[149]. Tớ muốn bàn với cậu điều này”, chàng kết luận (họ đã lên tới phòng Joachim Ziemßen, và Joachim đang sửa soạn đồ lề để ra ban công nằm nghỉ), “tớ dự định một việc. Ở đây người ta sống sát cạnh nhau, vách kề vách với những người gần đất xa trời khốn khổ không để đâu cho hết mà chẳng ai đoái hoài tới, mà cũng không thể đổ tội cho một mình những người hàng xóm láng giềng là sống dửng dưng với đồng loại, thực ra người ta cố tình bảo vệ và che chở họ bằng cách giấu nhẹm những chuyện ấy đi để không ai hay biết, ông hiệp sĩ người Áo chắc cũng sẽ bị người ta lén lút đưa ra lối cửa sau trong khi chúng mình ăn sáng hoặc uống trà chiều. Tớ thấy như thế không được. Tớ chỉ vừa mới đề cập đến chuyện ông ấy qua đời mà mụ Stöhr đã nổi khùng lên rồi, tớ không thèm chấp, nhưng cho dù cái đầu mụ ấy rỗng tuếch đến mức tưởng ‘Nhẹ nhàng, nhẹ nhàng, kính cẩn bước chân’[150] là một câu trong vở ‘Tannhäuser’[151] như mới đây mụ ấy xổ ra bên bàn ăn, thì chí ít mụ cũng phải có một mẩu lương tâm trong bụng chứ, những người khác cũng vậy. Tớ dự định tương lai sẽ quan tâm nhiều hơn đến những người bệnh nặng và những ca hấp hối ở đây, việc làm ấy sẽ giúp tớ cảm thấy thanh thản hơn - vừa rồi viếng ông hiệp sĩ xong tớ cũng thấy lương tâm thanh thản được phần nào. Anh chàng Reuter tội nghiệp ở phòng số 27 mà có lần tớ thoáng thấy hồi mới chân ướt chân ráo đến đây chắc đã về chầu ông vải từ lâu và bị khiêng ra lối cửa sau mất rồi, hồi ấy đôi mắt lờ đờ của hắn ta đã giãn ra to khủng khiếp. Nhưng thế nào cũng phải còn những người khác nữa, cái viện an dưỡng này đầy nghẹt bệnh nhân, mà những người mới vẫn cứ ùn ùn kéo đến. Tớ tin rằng cô y tá Alfreda hay bà y tá trưởng hay thậm chí cả Behrens cũng sẽ tạo điều kiện cho chúng mình thăm hỏi họ, chuyện ấy không khó. Giả sử như một người hấp hối tới ngày sinh nhật, và chúng mình biết được thông qua mấy vị lương y kia. Thế là chúng mình gửi đến phòng anh ta - hay cô ta, tùy trường hợp đấy là nam hay nữ bệnh nhân - một bó hoa, một chút quà nho nhỏ của hai người đồng cảnh ngộ muốn giấu tên, cùng với lời chúc sớm bình phục - lời chúc này không thể thiếu được dẫu có biết rằng họ sắp tiêu tùng đến nơi rồi, cái nhẽ nó phải thế. Rồi thì tất nhiên họ vẫn dò hỏi ra được tên bọn mình, và cất tiếng chào bằng giọng yếu ớt mỗi khi bọn mình đi qua cửa, rất có thể họ còn mời mình vào phòng họ một lát nữa, và mình có dịp an ủi họ đôi lời trước khi họ từ giã cõi đời. Tớ dự định như vậy đấy. Cậu có đồng ý không? Về phần tớ thì tớ đã quyết định dứt khoát rồi.”
Joachim chẳng đào đâu ra lý lẽ để phản đối cái dự định hay ho ấy. “Thế là vi phạm nội quy”, chàng chỉ bảo. “Cậu sẽ bị coi là phá lệ trên này. Nhưng xét cho cùng đó là những trường hợp ngoại lệ, nếu cậu đã nhất định làm thế thì tớ cho rằng Behrens cũng sẽ phê chuẩn thôi. Cậu có thể viện cớ có những mối quan tâm trong lĩnh vực y học.”
“Ừ, đấy cũng là một lý do”, Hans Castorp bảo; kỳ thực động cơ làm việc thiện của chàng rối rắm phức tạp hơn nhiều. Tinh thần phản kháng chống lại thái độ ích kỷ thống trị trên này chỉ là một phần trong đó mà thôi. Động lực chính thúc đẩy chàng là một nhu cầu cấp thiết về mặt tinh thần, lòng khao khát được bày tỏ thái độ trân trọng khổ đau và cái chết, cái nhu cầu có lần vừa mới hé răng thổ lộ đã bị Settembrini uốn ba tấc lưỡi hùng hồn kết tội khiến chàng hậm hực tới tận bây giờ - chàng hy vọng khi gần gũi với những người bệnh nặng thập tử nhất sinh nhu cầu ấy sẽ được thỏa mãn và củng cố, trở thành đối trọng đủ sức cân bằng lại những xúc phạm và lăng mạ đập vào mắt chàng từng ngày từng giờ ở đây. Ví dụ thì nhiều vô số kể, nếu được hỏi có lẽ Hans Castorp trước hết sẽ kể đến những bệnh nhân chẳng bệnh tật gì, chỉ kiếm cớ chữa bệnh để ở lì lại ‘Sơn trang’, trên thực tế họ muốn chơi bời thả cửa và thấy nếp sinh hoạt nhàn tản ở đây rất hợp ý mình nên tình nguyện ở lại, chẳng hạn như bà góa Hessenfeld đã được nhắc tới ở trên, một người đàn bà hoạt bát ghiền cá cược: bà ta sẵn sàng cá với các quý ông trong viện về tất cả mọi thứ trên đời, nào là thời tiết sắp tới sẽ ra sao, bữa ăn sắp tới người ta sẽ dọn món gì, kết quả khám của ai đó sẽ tốt hay xấu và liệu người ấy sẽ bị kết án bao nhiêu tháng nữa, cá xem chiếc xe thể thao hay vận động viên nào sẽ thắng giải cuộc thi trượt tuyết trượt băng sắp tới, cá về kết cục một cuộc tình mới chớm nở trong đám bệnh nhân và về hàng trăm thứ dớ dẩn khác nữa, giải thưởng của những trò cá cược loại này thường là sôcôla, rượu sâm panh và trứng cá mà sau đó họ khui ra ăn mừng tưng bừng trong khách sạn, rồi thì họ còn cá ăn tiền, ăn vé xem phim, thậm chí còn cá ăn nụ hôn nữa - cả được hôn lẫn phải hôn - tóm lại, máu cờ bạc đáng nể của bà ta giúp cho bầu không khí trong phòng ăn trở nên sôi động và hồi hộp, có điều chàng trẻ tuổi Hans Castorp không tán thưởng những trò nhố nhăng ấy, phải, chàng thấy nội sự có mặt của bà ta cũng đã đủ làm ô uế cái nơi đáng ra phải thanh tịnh này rồi.
Bởi trong thâm tâm chàng vẫn cố gắng giữ tròn danh dự, dầu rằng việc ấy không phải dễ sau gần nửa năm chung chạ với những kẻ trên này. Chàng đã dần dần thấu hiểu bụng dạ đa số bệnh nhân ở đây, nhận rõ chân tướng, hành vi, đạo lý và quan điểm của họ, nhưng điều đó tỏ ra chẳng mấy hữu ích cho quyết tâm bảo vệ nhân cách của chàng. Cứ xem trường hợp hai gã thiếu niên lêu lổng mười bảy mười tám tuổi được mệnh danh là “Max và Moritz” thì thấy, những chuyến vượt tường tối tối trốn đi tiêu khiển ngoài sòng bạc hay rượu chè quán xá với gái giang hồ của chúng là nguồn đề tài không cạn cho người ta buôn chuyện. Mới đây thôi, khoảng tám ngày sau lễ mừng năm mới (vì trong lúc chúng tôi kể chuyện thời gian vẫn không ngừng lặng lẽ trôi theo dòng chảy âm thầm của nó), trong một bữa điểm tâm người ta khoái chí loan tin gã thợ tẩm quất lúc sáng sớm đến làm nhiệm vụ của mình thì bắt gặp hai tên đại bợm còn mặc nguyên đồ lớn ngủ say như chết trong giường. Hans Castorp khi nghe chuyện cũng phải bật cười. Và mặc dù như thế đã là tệ lắm rồi, nhưng vẫn không thấm vào đâu so với hành vi bệ rạc của ông luật sư Einhuf người Jüterbog, một tay trạc ngoại tứ tuần với bộ râu cằm vuốt nhọn và hai bàn tay lông lá có một dạo ngồi ở bàn Settembrini thế chỗ gã lực sĩ Thụy Điển đã bình phục. Y nổi tiếng vì tối nào trở về viện cũng đã say bí tỉ, gần đây có bữa còn không tìm thấy lối về mà ngủ ngay ngoài đồng cỏ cho đến khi người ta lượm được. Nhưng không phải chỉ rượu chè bê bối, ngoài ra y còn khét tiếng trăng hoa, và bà Stöhr có thể chỉ mặt một thiếu nữ còn rất trẻ - đáng buồn hơn nữa là ở dưới đồng bằng đã đính hôn rồi - bị người ta bắt quả tang bước ra khỏi phòng Einhuf vào một giờ khuya khoắt, trên mình chỉ khoác tấm áo choàng lông và một manh quần kiểu tân thời[152]. Thật là một vụ xì căng đan lớn, không phải chỉ bị dư luận chung lên án, mà còn đáng hổ thẹn và xúc phạm cả đối với cá nhân Hans Castorp, làm tổn thương những nỗ lực tinh thần cao đẹp của chàng. Tệ hơn thế nữa, về sau Hans Castorp mỗi khi nghe nhắc đến tên ông luật sư phóng đãng lại phải ngậm ngùi nghĩ tới cô bé Fränzchen Oberdank, cô tiểu thư tóc vàng rẽ ngôi giữa hiền lành, mấy tuần trước được bà mẹ, một phu nhân tỉnh lẻ đáng kính, đưa lên gửi gắm trên này. Lúc mới tới, trong lần khám đầu tiên Fränzchen Oberdank được xếp vào loại nhẹ; nhưng rồi hoặc giả cô ta không chịu giữ gìn, hoặc bầu không khí trên này chẳng những có tác dụng chữa bệnh mà còn thúc đẩy bệnh tật bùng phát, hoặc giả cô bé vướng vào một chuyện riêng tư thầm kín nào đó có tác động xấu đến sức khỏe, chỉ biết rằng bốn tuần sau, khi đi khám lần thứ hai về cô ta lao vào phòng ăn tung hê chiếc xắc tay lên trời và đắc thắng reo to: “Hoan hô, tôi được ở lại một năm!” Mọi người phá lên cười tưởng vỡ nhà. Nhưng rồi mười bốn ngày sau có tin đồn luật sư Einhuf đã giở trò đểu cáng với Fränzchen Oberdank. Cũng phải nói thêm rằng cái hình dung từ nặng nề xuất hiện ở đây là do chúng tôi tự ý chọn và cùng lắm cũng chỉ tồn tại trong đầu Hans Castorp, chứ người buôn cái tin ấy bên bàn ăn chừng như đã chai lì với những mối tình có kết cục loại này nên không thấy cần thiết phải tỏ vẻ bất bình. Bà ta còn nhún vai phát biểu thêm rằng, trong chuyện này phải có sự tham gia của cả hai phía, tại anh tại ả tại cả đôi bên chứ có ai bị ép buộc gì đâu. Ít nhất đó cũng là ý kiến riêng và quan điểm đạo đức của bà Stöhr về vụ việc tai tiếng kia.
Karoline Stöhr là một phụ nữ khủng khiếp. Nếu như có cái gì làm Hans Castorp chướng tai gai mắt nhất trong khi cố gắng giữ gìn tư cách, thì đó chính là người đàn bà khả ố này. Nội cái thói dốt lại cứ đòi nói chữ của bà ta cũng đủ khiến chàng khổ tai lắm lắm. Bà ta kể về một ca “bất hối” khi có người sắp sửa lìa đời, dùng từ “bất thành kính” để buộc tội người khác thiếu lễ độ, và đưa ra một lời giải thích ngu xuẩn đến rùng rợn cho hiện tượng nhật thực. Khi nói đến những đống tuyết ngổn ngang đầy đường bà ta gọi đó là “những chống ngại vật”; và một hôm bà ta làm ông Settembrini há hốc miệng kinh ngạc với lời tuyên bố, bà ta đang đọc một cuốn sách mượn ở thư viện an dưỡng đường mà chắc ông ta cũng quan tâm, đó là cuốn “Benedetto Cenelli, bản dịch của Schiller”[153]! Đã thế bà ta còn có thói quen dùng từ ẩu tả theo lối mới, a dua theo đám trẻ ra vẻ ta đây cũng chịu chơi, làm Hans Castorp nhiều khi điên tiết. Dễ sợ thì bảo là “kinh khủng khiếp”, nhiều lắm thì “có mà ối a”! Và một thời gian dài tính từ nào cũng được bà ta tô điểm thêm bằng “hơi bị”: “hơi bị đẹp”, “hơi bị ngon”, “hơi bị mệt”, đến lúc cái từ này bị lạm dụng, bị hạ nhục và bị bóc lột tối đa, trở nên nhàu nhĩ tiều tụy và tả tơi xơ xác chẳng còn hấp dẫn nổi ai, thì bà ta lại vồ lấy một từ mốt mới khác, từ “hoành tráng”. Cái gì cũng “hoành tráng” được, muốn hiểu một cách nghiêm túc hay mai mỉa mặc lòng: cuộc thi trượt tuyết thật “hoành tráng”, món tráng miệng hôm nay rất “hoành tráng”, thậm chí thân nhiệt của bà ta cũng “hoành tráng” nốt, nghe đến đây bất giác người ta cảm thấy ghê ghê… Rồi lại còn thói ngồi lê đôi mách quá hạn lệ của bà ta nữa chứ. Đã đành cái tin bà ta vừa mới tung ra có thể cũng không xa sự thật là mấy, rằng bà Salomon hôm nay đặc biệt thắng lên người bộ đồ lót đăng ten đắt tiền nhất để trình diễn trước các bác sĩ lúc vào kiểm tra sức khỏe - bản thân Hans Castorp cũng đã để ý thấy các quý bà coi thủ tục khám bệnh là một dịp đặc biệt để lấy le và họ không tiếc công sức trang điểm sửa soạn cho dịp này, còn kết quả khám hay dở thế nào chỉ là chuyện phụ. Nhưng bà Stöhr không dừng lại ở đó, bà ta còn khẳng định rằng bà Redisch người Posen, vì có nghi vấn lao cột sống nên tuần nào cũng phải cởi hết quần áo lượn đi lượn lại mười phút đồng hồ trước mặt ông cố vấn cung đình Behrens! Chuyện ấy không những tục tĩu mà còn khó tin; thế nhưng bà Stöhr cứ khăng khăng bảo vệ tới cùng với thái độ hăng hái, nhiệt tình và bảo thủ đến mức không thể hiểu nổi, có lẽ tại vì người đàn bà khốn khổ ấy tự mình cũng đã có quá nhiều lo lắng rồi chăng? Thỉnh thoảng một cơn sợ chết ập đến dìm bà ta chìm ngập trong nước mắt - duyên cớ có thể là tình trạng “bất lực” ngày càng tăng hoặc biểu đồ nhiệt độ ngóc lên cao. Những ngày ấy bà ta ngồi nức nở bên bàn ăn, gò má đỏ ửng rạn nứt giàn giụa nước mắt, vừa hỉ mũi rột rẹt vào tấm khăn tay vừa kể lể rằng Behrens tính bắt bà ta nằm liệt giường mà không chịu nói rõ lý do, bà ta muốn biết sau lưng mình người ta bàn soạn những gì, bà ta muốn biết chắc chắn mình bị làm sao và mức độ nặng nhẹ thế nào, bà ta muốn tận mắt nhìn vào sự thật! Một hôm bà ta bỗng kinh hoàng phát hiện ra chiếc giường trong phòng mình kê quay chân ra lối cửa và thiếu điều lăn đùng ra vì phát hiện này. Mới đầu người ta không hiểu lý do nỗi tức giận và hoảng sợ của bà ta, Hans Castorp cũng ngớ ra chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì. Thế thì sao? Có gì không ổn? Tại sao lại không được kê giường như thế? - Trời đất thiên địa ơi, thế ra ông chẳng hiểu gì hết hay sao? “Chân khiêng ra trước…” và bà ta òa lên khóc nức nở, thảm thiết đến nỗi ngay lập tức người ta phải cho kê lại chiếc giường, mặc dù từ đấy về sau bà ta bị bóng đèn rọi thẳng vào mắt và lại luôn mồm kêu khó ngủ.
Tóm lại rặt là những chuyện nhảm nhí, không đầu không cuối và hoàn toàn không có tác dụng tích cực đối với nhu cầu tinh thần của Hans Castorp. Trong thời gian này chỉ có một sự kiện dễ sợ xảy ra vào một bữa ăn trưa gây được ấn tượng nhất định đối với chàng trai trẻ. Ông thầy giáo Popow, một bệnh nhân mới gầy gò và trầm lặng ngồi ở bàn Nga thượng lưu cùng với vị hôn thê cũng gầy gò và trầm lặng như ông ta, té ra bị mắc chứng động kinh. Đúng lúc bữa ăn đang hồi cao điểm thì ông ta lên một cơn ác tính, cất tiếng rú rùng rợn đầy ma quái, không còn giống tiếng người, y như Hans Castorp vẫn thường được nghe tả. Ông ta ngã quay lơ xuống đất nằm co quắp bên chân ghế, thân mình vặn vẹo rất kinh khủng và tay chân thì đập loạn xạ. Khổ một nỗi lúc bấy giờ người ta lại mới đưa lên món cá, thế nên ai cũng sợ Popow trong lúc co giật còn có thể bị hóc xương. Sự náo loạn trong phòng ăn thật không lời nào tả nổi. Các bà, dẫn đầu là bà Stöhr, nhưng những bà Salomon, Redisch, Hessenfeld, Magnus, Iltis, Levi và chẳng biết tên họ là gì gì nữa cũng không chịu kém, họ giãy lên đành đạch mỗi người một kiểu đến nỗi người ta có thể tưởng họ đều mắc chứng động kinh như ông Popow. Họ thét lên như xé vải. Nhìn đâu cũng chỉ thấy những cặp mắt trợn ngược, những cái miệng há hốc và những tấm thân vặn vẹo. Một bà chọn cách lăn ra bất tỉnh. Hàng loạt người mắc nghẹn, vì ai cũng bị sự cố bất thình lình làm ngắt quãng công đoạn nhai và nuốt. Một phần thực khách tuông bừa qua mấy cánh cửa chạy ra ngoài, không từ cả hai cánh cửa mở ra hiên, mặc dù ngoài ấy vừa ướt vừa lạnh thấu xương. Hành vi trốn chạy của họ mang lại cho vụ việc một sắc thái khác lạ, ngoài ấn tượng kinh hoàng còn có cái gì đó gần như khiếm nhã. Người ta bất giác nhớ tới bài thuyết trình mới nhất của bác sĩ Krokowski. Bởi vì nhà phân tâm học trong loạt bài nói chuyện chuyên đề về tình yêu như là nguồn gốc phát sinh bệnh tật, hôm thứ hai vừa rồi mới đề cập đến chứng động kinh, một căn bệnh mà nhân loại trước khi biết đến môn tâm lý học lúc thì tôn lên là trạng thái xuất thần của đấng tiên tri, lúc lại đổ cho là quỷ ám. Bằng những lời lẽ nửa hoa hòe hoa sói nửa chính xác đến trần trụi ông ta gọi đó là hình thức cực khoái của não bộ, chẳng khác gì cơn cực khoái trong tình dục, tóm lại, hiểu theo nghĩa ấy người ta ngờ rằng những khán giả nhiệt tình của Krokowski có thể nhìn ra trong những cử động giật cục của ông thầy giáo Popow, dẫn chứng sống minh họa cho bài thuyết trình, những dấu hiệu thầm kín và thần bí kém phần thanh lịch, và như thế trong cử chỉ trốn chạy của các quý bà nhút nhát người ta ngờ rằng hoảng sợ thì ít mà âm thầm hổ thẹn thì nhiều. May sao ông cố vấn cung đình hôm ấy dùng bữa chung với họ, và cũng chính ông ta, được sự phụ giúp của bà Mylendonk và một vài thực khách lực lưỡng, đã khiêng người lên cơn mặt mũi tím xanh, mép sùi bọt, chân tay cứng đờ co quắp ra khỏi phòng ăn đặt nằm tạm ngoài tiền sảnh, ở đó người ta còn thấy các bác sĩ, bà y tá trưởng và những nhân viên được gọi đến bận rộn hồi lâu với người bất tỉnh trước khi đặt ông ta lên cáng khiêng đi. Nhưng chỉ lát sau người ta đã thấy ông Popow, vẫn trầm lặng như mọi khi và được vị hôn thê cũng trầm lặng như ông ta hộ tống một bên, lại chễm chệ ngồi bên bàn Nga thượng lưu ăn nốt bữa trưa như thể không có chuyện gì xảy ra!
Suốt thời gian xảy ra sự cố Hans Castorp giữ thái độ điềm đạm lễ phép một cách đúng mực, nhưng trong thâm tâm chàng chẳng chút động lòng, xin Chúa tha tội cho chàng. Popow rất có thể chết hóc vì miếng cá trong miệng, nhưng trên thực tế ông ta còn sống nhăn răng, có lẽ lúc bất tỉnh và cực khoái trong vô thức ông ta vẫn lẳng lặng đề phòng. Giờ thì ông ta tỉnh bơ ngồi ăn như thể chưa bao giờ vật vã giãy giụa điên cuồng không khác gì người say hay người mất trí, cũng có thể bản thân ông ta chẳng còn nhớ lúc lên cơn mình giở những trò gì. Vậy là sự hiện diện của ông thầy giáo Popow cũng không có ý nghĩa tích cực đối với những phấn đấu tinh thần của Hans Castorp nhằm tôn vinh khổ não và bệnh tật; cả ông ta, bằng những cơn động kinh của mình, cũng chỉ góp phần làm tăng ấn tượng sa đọa của lối sống phóng đãng trên này mà chàng phải miễn cưỡng chứng kiến hằng ngày, và như thế ý định thăm hỏi gần gũi những người bất hạnh gần đất xa trời là cách chàng tỏ thái độ chống lại những thói tục thống trị nơi đây.
Ở cùng tầng với hai anh em, không xa phòng họ bao nhiêu có một cô gái còn rất trẻ tên là Leila Gerngroß, theo lời cô y tá Alfreda thì nữ bệnh nhân tuổi chưa được bao lăm này đang có ý định từ giã cõi đời. Trong vòng mười ngày cô bé bị thổ máu xối xả tới bốn lần, và cha mẹ cô ta đã cất công lên đây với nguyện vọng đưa cô về nhà trước khi quá muộn; nhưng nguyện vọng ấy không được đáp ứng vì ông cố vấn cung đình từ chối cấp giấy chứng nhận bệnh nhân đủ sức khỏe đi đường. Cô bé mới khoảng mười sáu, mười bảy tuổi. Hans Castorp mừng rỡ thấy ngay đây là một dịp thuận tiện để chàng thực hiện kế hoạch tặng hoa và chúc sớm bình phục. Đành rằng chưa đến sinh nhật của Leila, nhưng cứ tình hình này thì cô bé khó lòng cầm cự nổi tới ngày ấy, vì, như Hans Castorp đã thăm dò và được biết, đó là một ngày mãi tận cuối mùa xuân; vậy nên chàng quyết định không cần dịp gì đặc biệt vẫn có thể thực hiện kế hoạch từ thiện của mình. Trong một lần đi dạo xuống khu điều dưỡng dưới ‘Phố’ chàng rủ anh họ vào một cửa hàng hoa, cảm động hít căng lồng ngực bầu không khí ẩm ướt ngai ngái mùi đất mùn lẫn với mùi thơm hoa cỏ, chọn mua một cây cẩm tú cầu xinh xinh kèm theo tấm thiệp không đề tên, chỉ để mấy chữ “Của hai người đồng cảnh ngộ, thành tâm chúc tiểu thư sớm bình phục”, và bảo họ đưa lên tận phòng cho cô bé moribundus[154]. Lòng lâng lâng vui sướng, ngây ngất trong mùi hương nồng nàn của đất đai, mắt nhòa lệ vì hơi ấm đột ngột thay cho cái lạnh bên ngoài, chàng nghe tim mình đập thình thịch, hồi hộp vì việc làm phiêu lưu táo bạo vừa rồi, một hành vi nhỏ nhặt khiêm nhường nhưng trong thâm tâm được chàng gán cho một ý nghĩa mang tính biểu tượng lớn lao.
Leila Gerngroß không có người chăm sóc riêng mà hưởng sự quan tâm trực tiếp của bà y tá trưởng von Mylendonk và các bác sĩ, tuy nhiên cô y tá Alfreda vẫn ra vào phòng cô bé coi sóc việc vặt, và do đó cô ta có thừa cơ hội truyền đạt đến hai anh em tác động món quà của họ đối với bệnh nhân. Cô bé, bị hạn chế mọi mặt vì tình trạng sức khỏe nguy kịch của mình, đã vui sướng như trẻ nít khi nhận được món quà bất ngờ của những người tặng vô danh. Chậu cây được đặt sát cạnh giường cô bé, nó vuốt ve không biết chán cái cây cả bằng mắt lẫn bằng tay, luôn miệng nhắc mọi người tưới nước, và không rời mắt khỏi chỗ ấy ngay cả khi bị những trận ho rũ rượi hành hạ. Cha mẹ cô bé, ông thiếu tá phục viên Gerngroß và vợ, cũng hết sức cảm động về sự quan tâm của những người lạ dành cho con gái họ, và vì họ không quen biết ai ở đây nên dĩ nhiên họ chẳng thể nào đoán ra tên tuổi người tặng quà; vậy là cô nàng nhiều chuyện Schildknecht, theo lời thú nhận của cô ta, phải tiết lộ danh tính hai anh em với ông bà thiếu tá. Cô ta còn chuyển tới hai người lời mời của gia đình Gerngroß, xin được gặp mặt để trước lạ sau quen và có lời cảm ơn họ. Thế là hai ngày sau người ta đã thấy hai anh em rón rén đi theo cô y tá vào phòng bệnh của Leila.
Người hấp hối hóa ra là một cô gái nhỏ tóc vàng rất dễ thương với đôi mắt xanh biếc như màu hoa lưu ly và mặc dù chức năng hô hấp chỉ còn được duy trì bởi một dúm tế bào phổi chưa bị hủy hoại, cộng thêm lượng máu khủng khiếp bị mất khi ho, nhìn bề ngoài cô bé tuy xanh xao nhưng không đến nỗi quá tiều tụy. Cô ta lên tiếng cám ơn và trò chuyện với họ bằng giọng nói có phần yếu ớt nhưng rất êm tai. Một vệt đỏ ửng hiện lên trên gò má cô bé và không chịu rời khỏi nơi đó nữa. Hans Castorp khiêm nhường trình bày lý do tặng quà với cô bé trước mặt cả cha mẹ cô ta, xin họ thứ lỗi cho sự đường đột của mình, giọng chàng khản đặc vì cảm động và thái độ hết sức dịu dàng trân trọng. Chỉ còn thiếu nước chàng quỳ một gối xuống bên giường cô bé - chàng phải cố cưỡng lại nỗi xúc động nội tâm để khỏi làm như thế - và nắm chặt tay Leila một lúc lâu trong bàn tay mình, mặc dù bàn tay bé nhỏ nóng hổi và ướt đẫm, vì cô bé đổ mồ hôi quá hạn lệ, lượng nước thải bị cơ thể cô ta bài tiết ra nhiều đến nỗi nếu không có bình nước chanh luôn được chế đầy để trên bàn đầu giường cân bằng lại thì có lẽ cơ thể cô bé đã khô queo như xác ướp rồi. Cha mẹ cô ta, đau khổ như mọi bậc cha mẹ ở vào hoàn cảnh ấy, cố gắng duy trì cuộc trò chuyện xã giao theo phép lịch sự giữa người và người bằng cách hỏi han gia cảnh và bệnh tật của hai anh em họ. Ông thiếu tá là một người đàn ông lực lưỡng với đôi vai rộng, vầng trán thấp và bộ ria mép rậm rì rậm rịt - một cơ thể tràn đầy sức lực hữu cơ mà chứng cớ vô tội đối với tình trạng thể lực kém cỏi cũng như hứng thú tiếp nhận vi trùng quá mức của cô con gái đập ngay vào mắt tất cả mọi người. Có lỗi trong vụ này rõ ràng là bà vợ, một phụ nữ nhỏ thó với vóc dáng tiêu biểu của bệnh nhân lao phổi, và sự cắn rứt lương tâm về món của hồi môn bà di truyền cho con gái hiện rõ trên nét mặt héo hon. Sau khoảng mười phút chuyện trò Leila tỏ vài dấu hiệu mệt mỏi - hay cũng có thể là quá xúc động: vết đỏ ửng trên má cô bé loang rộng ra, đôi mắt xanh xin đừng quên tôi sáng long lanh một cách bất thường, và hai anh em vội lên tiếng giã từ sau khi nhận ra cú liếc mắt cảnh cáo của cô y tá. Bà Gerngroß tiễn chân họ ra cửa và chìm đắm trong những lời than thở xen lẫn tự buộc tội mình khiến Hans Castorp vô cùng thương cảm. Lỗi tại bà, chỉ tại một mình bà mà thôi, bà đau khổ lặp đi lặp lại; cô con gái bé bỏng phải gánh chịu căn bệnh hiểm nghèo ấy là do bà truyền cho, ông nhà bà hoàn toàn không có lỗi, ông ấy không can dự gì vào chuyện này. Nhưng bản thân bà, xin thề rằng đó là sự thật, cũng chỉ mắc phải căn bệnh khủng khiếp ấy có một lần và cũng chỉ thoáng qua thôi, bà chỉ có những triệu chứng rất nhẹ và nhất là chỉ trong một thời gian ngắn, khi còn là thiếu nữ. Nhưng bà đã quyết tâm vượt qua bệnh tật, đã bình phục hoàn toàn, người ta đoan chắc với bà như thế, vì khi ấy bà có nguyện vọng lập gia đình, bà thiết tha mong được kết hôn và sống một cuộc đời bình thường như tất cả mọi người, thế nên bà đã chiến thắng bệnh tật, đã khỏe mạnh hoàn toàn để trao thân gửi phận cho người chồng yêu quý vững chắc như gốc cổ thụ kia, ông ấy trong mơ cũng không bao giờ ngờ tới những hiểm họa như thế này. Nhưng mặc dù mạnh khỏe và giống tốt đến thế ông ấy cũng không cản nổi tai họa ập xuống gia đình họ. Cái điều khủng khiếp từ thời con gái đã bị bà đào sâu chôn chặt và cố gắng quên đi nay lại xuất đầu lộ diện trong đứa con gái yêu của họ, và nó không đủ sức chiến thắng cơn bệnh hiểm ác, nó cứ tàn lụi dần đi, trong khi bà, người mẹ, đã vượt qua được để sống đến tận tuổi này - nó đang chết dần chết mòn, con bé tội nghiệp, đáng thương vô hạn, các bác sĩ bảo không còn hy vọng gì nữa, và người duy nhất có tội là bà với cái quá khứ bệnh tật của mình.
Hai chàng trai trẻ cố lựa lời an ủi bà mẹ, bảo rằng vẫn có khả năng biến chuyển đột ngột trong quá trình điều trị. Nhưng bà thiếu tá chỉ khóc sụt sùi và cảm ơn họ lần nữa, cây cẩm tú cầu và chuyến viếng thăm của họ đã làm con bé rất sung sướng và giúp nó lên tinh thần rất nhiều. Con bé tội nghiệp phải nằm bẹp một chỗ, vừa đau đớn vừa cô đơn, trong khi bạn bè cùng trang lứa được hưởng bao nhiêu vui thú ngoài đời, và được tự do khiêu vũ với các công tử bảnh bao. Nó đau yếu thật đấy, nhưng như thế đâu có nghĩa là nó không ham sống. Hai ông ghé thăm thế này là đã mang lại một chút nắng ấm cho con bé, lạy Chúa, có lẽ đó là những tia nắng cuối cùng rọi vào đời nó. Cây cẩm tú cầu là nguồn an ủi lớn và cuộc gặp gỡ vừa rồi với hai chàng công tử đẹp trai hẳn phải như một cuộc chuyện trò tìm hiểu đối với nó, đúng thế, cặp mắt người mẹ của bà đã thấy ngay như vậy.
Nghe tới đây Hans Castorp giật mình, nhất là từ “tìm hiểu” bà thiếu tá nói ra một cách gọn hơ làm chàng bối rối không để đâu cho hết. Chàng nào có định đóng vai công tử đẹp trai đến tán tỉnh gì đâu, thực ra chàng ghé thăm cô bé Leila hoàn toàn trên tinh thần y học nhân đạo và chủ yếu là để phản kháng lại thói ích kỷ ngự trị trên này. Tóm lại, chàng hơi phật ý thấy sự thể cuối cùng lại xoay ra theo chiều hướng ấy, ít nhất là theo cách hiểu của bà thiếu tá, nhưng tựu trung chàng rất phấn chấn và hài lòng với việc làm của mình. Đặc biệt có hai ấn tượng còn đọng lại sâu đậm trong tâm trí chàng: mùi đất ấm nồng trong cửa hàng hoa và bàn tay nhỏ bé ướt đẫm mồ hôi của Leila. Đang đà thắng lợi, chàng dấn thêm một bước nữa và hẹn cô y tá Alfreda ngay ngày hôm ấy đến thăm cậu Fritz Rotbein, bệnh nhân được cô ta chăm sóc, cả người bệnh lẫn người chăm sóc đều buồn như chấu cắn không biết giết thời gian bằng cách nào, mặc dù cứ theo các dấu hiệu bề ngoài mà xét thì cậu Rotbein chẳng còn được bao lăm thời gian để mà giết.
Chàng Joachim hiền lành không biết làm sao, đành cắm cúi đi theo. Quyết tâm làm việc thiện của Hans Castorp rõ ràng là mạnh hơn sự chống đối của người anh, vả chăng Joachim nhiều lắm cũng chỉ có thể bày tỏ sự không đồng tình của mình bằng cách im lặng cụp mắt nhìn xuống, vì chàng chẳng thể nào thoái thác mà không bị mang tiếng thiếu tình thương yêu đồng loại theo tinh thần Cơ Đốc giáo. Hans Castorp biết tỏng điều đó và lợi dụng tối đa cho mục đích của mình. Chàng cũng thừa hiểu ông anh muốn giữ kỷ luật quân sự chứ không khoái chí gì những trò thăm viếng này. Nhưng nếu như nhờ thế mà bản thân chàng được mãn nguyện và hạnh phúc, đời sống tinh thần của chàng được nâng cao? Thế thì mặc kệ sự phản kháng thầm lặng của Joachim, chàng cứ tiếp tục làm tới. Chàng bàn với anh họ xem có nên tặng hoa cho cậu Fritz Rotbein không, vì ca moribundus này không phải là phụ nữ mà lại thuộc phái mày râu. Theo cân nhắc của chàng thì vẫn rất nên; chàng thấy hoa trong hoàn cảnh nào cũng phù hợp cả; thành công vừa rồi nhờ cây cẩm tú cầu sum sê tím biếc vẫn còn làm chàng đắc ý; và thế là chàng đi đến quyết định rằng giới tính của cậu Rotbein vì tình trạng sức khỏe của cậu ta nên kể như đã được trung hòa, và rằng cậu ta cũng không cần phải đợi đến sinh nhật mới có quyền nhận hoa, vì xét cho cùng người sắp sửa lìa đời ngày nào cũng phải được cưng chiều như ngày sinh nhật. Với lý luận ấy chàng lại kéo anh họ vào cửa hàng hoa ấm áp sực mùi đất và mùi cây, rồi sau đó họ nhón gót bước vào phòng cậu Rotbein với một bó hoa tươi thắm đủ cả hoa hồng, hoa cẩm chướng cắm chung với vài nhánh thủ hoa, có cô y tá Alfreda Schildknecht đi trước trịnh trọng giới thiệu.
Người bệnh - mặc dù chưa tới tuổi hai mươi nhưng mái tóc đã rụng lưa thưa và ngả bạc, xanh như tàu lá và gầy đến nỗi đôi bàn tay xương xẩu, cái mũi gồ ghề và đôi tai vểnh đều trở nên ngoại cỡ - cảm động đến phát khóc trước sự quan tâm hai người lạ dành cho mình và mừng rỡ vì có cơ hội giải trí bất ngờ. Quả thực cậu ta đã nhỏ vài giọt nước mắt - cũng có thể chỉ vì kiệt lực - lúc chào hai người khách đến thăm và nhận bó hoa, nhưng liền ngay đó cậu ta đã nói thao thao bất tuyệt, mặc dù giọng yếu ớt phều phào như tiếng gió, về thị trường hoa châu Âu đang trên đà phát triển, về lượng hàng xuất khẩu khổng lồ của các vườn ươm ở Nice và Cannes, những toa xe hàng và xe thư ngày ngày từ những nơi này tỏa đi bốn phương tám hướng, về khả năng bán sỉ ở Paris và Berlin và hình thức bỏ mối sang Nga. Vì cậu ta vốn dĩ là thương gia, đó là những kiến thức nghề nghiệp và mối quan tâm của cậu ta cho tới hơi thở cuối cùng. Cha cậu ta, ông giám đốc nhà máy búp bê ở Koburg, đã gửi cậu ta sang tận Anh học nghề, cậu ta phều phào kể, thế rồi cậu ta mắc bệnh. Ở đó người ta cứ tưởng cơn sốt dai dẳng của cậu ta là triệu chứng bệnh thương hàn nên ra sức điều trị theo hướng ấy, nghĩa là áp đặt một chế độ ăn kiêng với súp loãng không chất béo, sau một thời gian thể trạng cậu ta suy sụp hoàn toàn. Ở trên này thì cậu ta được phép ăn thả cửa, và cậu ta cũng múc một cách tận tình: mồ hôi mồ kê nhễ nhại, cậu ta ngồi trên giường gắng sức nhồi nhét. Nhưng muộn mất rồi, đường ruột cậu ta đã hỏng hẳn, người nhà uổng công gửi lên nào là lưỡi muối và lươn hun khói, cậu ta chẳng còn tiêu hóa được gì. Giờ thì cha cậu ta đang trên đường từ Koburg lên đây, do Behrens vừa đánh điện gọi. Bởi vì cậu ta đang phải đứng trước một quyết định có tính chất sống còn, đó là quyết định can thiệp bằng phẫu thuật cắt xương sườn, người ta đã tính chuyện dùng đến biện pháp tối hậu này mặc dù triển vọng thành công nhỏ tới mức không đáng kể. Rotbein phều phào kể những điều này bằng giọng thực tế đến mức lạnh lùng, rõ ràng cậu ta xem xét biện pháp phẫu thuật sắp áp dụng cho chính mình cũng với con mắt tỉnh táo của nhà kinh doanh - cậu ta sẽ còn quan sát và đánh giá mọi việc dưới góc độ này cho tới hơi thở cuối cùng. Phí tổn cho can thiệp này, cậu ta thở hắt ra, nếu tính gộp cả chi phí gây tê tủy sống là chẵn một ngàn franc Thụy Sĩ, vì phạm vi phẫu thuật bao gồm gần như toàn bộ lồng ngực, sáu cho đến tám rẻ xương sườn, và cậu ta còn đang cân nhắc xem có đáng đầu tư số tiền ấy hay không. Behrens ra sức thuyết phục cậu ta đồng ý mổ, điều đó không có gì là lạ vì nó mang lại cho ông ta lợi nhuận, trong khi về phần cậu ta chẳng ai nói trước được là kết quả sẽ ra sao, nếu đằng nào cũng ngỏm thì có lẽ cứ để nguyên thế này lại hơn, vừa được xuống mồ với đầy đủ xương sườn vừa đỡ tốn kém.
Trong tình huống này thật khó tìm ra một lời khuyên cho cậu Rotbein. Hai anh em đành nói vòng vo, và góp ý rằng có lẽ khi cân nhắc cũng nên tính đến tay nghề phẫu thuật tài ba của ông cố vấn cung đình. Cuối cùng họ nhất trí đợi ông Rotbein cha còn đang trên đường đến đây, mong rằng khi tới nơi ông sẽ đưa ra ý kiến quyết định. Lúc chia tay cậu Fritz lại nhỏ vài giọt nước mắt, và mặc dù cậu khóc vì kiệt lực, nhưng những giọt nước mắt ấy vẫn tương phản lạ lùng với những tính toán tỉnh táo trong suy nghĩ và lời nói của cậu. Cậu ta năn nỉ họ tiếp tục tới thăm mình, hai anh em sốt sắng hứa ngay nhưng rồi không thể thực hiện được lời hứa. Vì tối hôm ấy ông giám đốc nhà máy búp bê đã lên tới nơi, và ngay sáng hôm sau người ta tiến hành phẫu thuật, sau khi mổ cậu Fritz yếu quá không thể tiếp khách được. Và hai ngày sau trong khi cùng Joachim đi dọc hành lang Hans Castorp tình cờ nhìn thấy người ta đang dọn dẹp tẩy uế trong phòng cậu Rotbein. Cô y tá Alfreda đã khăn gói rời ‘Sơn trang’ chẳng biết từ lúc nào, cô ta được mời đi chăm sóc một ca moribundus khác ở một viện điều dưỡng khác, và vừa thở dài não nuột vừa đưa tay sửa sợi dây đeo kính quàng sau tai, cô ta vội vàng đến với người bệnh mới, vì đó là tất cả tiền đồ mở ra trước mắt cô, và một tương lai tươi sáng hơn chẳng bói đâu ra.
Một căn phòng trống, khi người ở trong đó vừa ‘ra đi’, với hai lớp cửa đôi mở toang, đồ đạc lỏng chỏng phơi ra trước mắt những bệnh nhân đang trên đường xuống phòng ăn hay ra ngoài dạo chơi, là một khung cảnh nhiều ý nghĩa nhưng đã quá quen thuộc nên không khiến người ta lưu tâm nhiều nữa, nhất là khi bản thân người quan sát cũng ở trong một gian phòng ‘trống’ bằng cách ấy mà vẫn cảm thấy thoải mái như ở nhà. Đôi khi người ta quen biết cái người đã từng ở sau cánh cửa đánh số kia, lúc bấy giờ người ta mới phải suy nghĩ. Đó là trường hợp của Hans Castorp lần này cũng như tám ngày sau đó, khi chàng vô tình đi qua phòng cô bé Gerngroß và gặp một cảnh tương tự. Phản ứng đầu tiên của lý trí chàng là xù lông chống đối, không chịu lĩnh hội ý nghĩa cảnh tượng đang diễn ra trước mắt. Chàng dừng bước tần ngần đứng lại, tư lự và buồn bã, đúng lúc ông cố vấn cung đình chúi đầu hùng hục đi tới.
“Chào ông cố vấn cung đình”, Hans Castorp lên tiếng. “Tôi thấy người ta đang dọn dẹp phòng này. Cô bé Leila…”
“Chà”, Behrens đáp và nhún vai. Sau một quãng lặng đủ để cho cử chỉ này phát huy tác dụng ông ta nói tiếp: “Nhưng nghe đâu trước lúc hạ màn ông còn kịp trồng một cây si to lắm mà? Ông chịu khó quan tâm đến những con chim nằm bẹp trong lồng của tôi, chỉ còn cất tiếng hót bi thương từ đáy phổi[155] thế này thật tử tế quá, nhất là sức khỏe của ông cũng chẳng khá khẩm hơn họ bao nhiêu. Tư cách ông rất hợp ý tôi, không, không, ông không việc gì phải tỏ ra quá khiêm nhường, rõ ràng đó là một nét cá tính đẹp ở ông. Tôi có nên thỉnh thoảng tiếp tay cho ông không nhỉ? Ở đây tôi còn cả một bầy chim hồng tước, nếu ông có nhu cầu. Như bây giờ tôi cũng đang trên đường đến chỗ bà ‘đầy tràn’ đây, ông có muốn đi cùng không? Tôi sẽ giới thiệu ông là một người đồng hội đồng thuyền giàu lòng nhân ái.”
Hans Castorp đáp rằng, ông cố vấn nói cứ như người ngồi trong bụng dạ chàng, rằng đề nghị của ông cũng chính là điều chàng ấp ủ bấy lâu nay. Được lời như cởi tấm lòng, chàng lót tót đi ngay theo ông ta đến chỗ bà “đầy tràn”. Nhưng bà “đầy tràn” là ai thế nhỉ, và chàng phải hiểu cái tên ấy theo nghĩa nào đây.
“Theo nghĩa đen”, ông cố vấn cung đình bảo. “Đúng từng chữ chứ chẳng có bóng gió ẩn dụ gì ráo. Nhưng để bà ấy tự kể cho ông nghe.” Chỉ vài bước họ đã tới trước cửa phòng bà “đầy tràn”. Ông cố vấn ra lệnh cho người tháp tùng đứng ngoài đợi rồi lách mình qua hai lớp cửa đi vào. Từ trong phòng vẳng ra tiếng cười lảnh lót và giọng nói líu ríu có vẻ hụt hơi lúc Behrens bước qua ngưỡng cửa rồi tắt ngấm cũng đột ngột như thế khi cánh cửa khép lại sau lưng ông ta. Mấy phút sau người khách giàu lòng nhân ái cũng được đón tiếp bằng giọng cười trong trẻo ấy, lúc chàng được mời vào và được Behrens giới thiệu với một phụ nữ tóc vàng nửa nằm nửa ngồi trên giường, một cái gối to lót dưới lưng, cặp mắt xanh hoạt bát tò mò nhìn chàng trai trẻ, vừa bồn chồn cựa quậy bà ta vừa không ngớt cười khanh khách, tiếng cười cao và trong như pha lê xen lẫn hơi thở hổn hển, căng thẳng và đầy kích động như thể bà ta cố tạo vẻ vui nhộn để xua đi nỗi sợ. Nghe cái cách ông cố vấn cung đình giới thiệu người khách đến thăm bà ta lại phá lên cười, và lúc ông ta quay gót bỏ đi bà ta còn gửi với theo những là “tạm biệt” và “cảm ơn ông rất nhiều” và “hẹn gặp lại”, vừa đưa tay vẫy vẫy vừa thở dài ồn ào và lại cười như bị thọc lét, hai tay ôm chặt bộ ngực phập phồng trong chiếc áo ngủ bằng lụa, chân đạp liên hồi dưới tấm chăn. Bà ta tên là Zimmermann.
Hans Castorp biết mặt người đàn bà này. Chàng nhớ có dạo bà ta ngồi mấy tuần ở bàn bà Salomon và cậu học trò háu ăn, bấy giờ đã thấy cười luôn miệng. Sau đó bà ta đột nhiên biến mất, và chàng trai trẻ chẳng bận tâm đến gương mặt thoáng qua ấy nữa. Rất có thể bà ta đã xuống núi, chàng tự nhủ nếu có lúc sự vắng mặt của bà ta gợn lên trong tâm trí. Nhưng bây giờ chàng gặp lại bà ta trong hoàn cảnh này ở đây, dưới cái tên bà “đầy tràn” mà chàng đang đợi một lời giải thích.
“Ha ha ha ha”, bà ta cười ré lên, bộ ngực nâng lên hạ xuống một cách đáng ngại. “Tức cười quá, cái ông Behrens này, thật tiếu lâm hết sức, tôi đến chết cười mất thôi. Mời ông ngồi, ông Kasten, hay ông Carsten, hay ông gì cũng được, ông có cái tên tức cười quá, ha ha, hi hi, xin lỗi ông! Mời ông ngồi xuống chiếc ghế phía dưới chân tôi kia, chỉ xin ông cho phép tôi đạp chân, tôi không thể… ha…a”, bà ta thở dài một cái thật mạnh, miệng há to, rồi lại tiếp tục liến thoắng, “tôi không thể giữ yên hai chân được.” Đó là một người đàn bà có thể coi là đẹp, gương mặt thanh thoát với những đường nét sắc sảo khá hấp dẫn và cái cằm hai ngấn xinh xinh. Nhưng cặp môi tím xanh và chóp mũi cũng ngả màu chàm là những biểu hiện thiếu dưỡng khí không lẫn vào đâu được. Hai bàn tay bà ta, với những ngón búp măng thon thả được tôn thêm vẻ quý phái nhờ cổ tay áo ngủ viền đăng ten, cũng không thể nằm yên chẳng khác gì đôi chân. Bà ta có cần cổ dài tròn trịa như cổ thiếu nữ, với một chỗ hõm nhỏ nao lòng giữa cặp xương quai xanh mảnh dẻ, và cả bộ ngực phập phồng liên hồi dưới làn lụa mỏng vì những trận cười và hơi thở gấp cũng có vẻ còn trẻ trung rắn chắc. Hans Castorp thầm quyết định sẽ gửi tặng hoặc đích thân mang hoa đến cho bà ta, những bông hoa đẹp ngát hương sản phẩm xuất khẩu của các vườn ươm ở Nice và Cannes. Bằng giọng nhẹ nhàng pha lẫn lo âu chàng ân cần phụ họa vào những tràng cười vô cớ và câu chuyện không đầu không cuối của bà Zimmermann.
“Vậy ra ông đi thăm những người bệnh nặng ở đây?” Bà ta hỏi. “Ông thật vui tính và tử tế quá, ha ha ha ha! Ông biết không, thực ra bệnh tôi không hề nặng, tức là trước đây không nặng, mới đây thôi, hoàn toàn không nặng một tí nào… Cho đến khi chuyện này xảy ra… Ông nghe nhé, để xem đấy có phải là chuyện kỳ cục nhất trần đời hay không…” Và vừa thở hổn hển vừa cười khanh khách, bà ta tăng tăng tường trình với chàng câu chuyện kỳ cục xảy ra với mình. Lúc mới lên bà ta còn tương đối khỏe - dĩ nhiên là có mắc bệnh, nếu không bà ta đã chẳng phải lên đây, có thể cũng không hẳn là bệnh nhẹ, nhưng được coi là nhẹ chứ chưa đến nỗi nặng. Pneumothorax, liệu pháp bơm khí vào lồng ngực tuy còn mới mẻ nhưng đã được hưởng ứng rầm rộ và ưa chuộng khắp nơi, trong trường hợp này cũng tỏ ra là một biện pháp điều trị tích cực. Ca phẫu thuật thành công tốt đẹp, tình trạng sức khỏe bà Zimmermann có những tiến bộ đáng mừng, chồng bà ta - bà ta đã có chồng, mặc dù không con - có triển vọng được nhận lại vợ sau ba hay bốn tháng nữa. Thế rồi bà ta cao hứng đi Zürich - chỉ là đi chơi thôi chứ hoàn toàn không có mục đích gì khác. Bà ta đã chơi bời xả láng ở đó, đến nỗi cần phải bơm thêm khí, và ghé đại vào một phòng mạch tư để một ông bác sĩ địa phương bơm cho. Vị bác sĩ còn rất trẻ, rất tử tế và vui tính, ha ha ha, ha ha ha, nhưng rồi kết quả ra sao? Ông ta bơm quá tay đến mức bà ta bị đầy tràn! Không có khái niệm nào diễn tả tình trạng của bà ta đúng hơn thế nữa, riêng một từ ấy đã đủ để nói lên tất cả. Thực ra ông ta chỉ có ý tốt mà thôi, có lẽ ông ta không hiểu rõ vấn đề, tóm lại là bà ta bị đưa trở về ‘Sơn trang’ trong tình trạng đầy tràn, tức là tim phổi bị ép và gần như ngạt thở - ha! Hi hi hi! Behrens nổi khùng lên quát tháo om sòm và lập tức nhét bà ta vào giường. Giờ thì bà ta bị xếp vào hạng nặng - chưa đến nỗi hấp hối, nhưng kể như đã hỏng hẳn, lợn lành chữa thành lợn què - ha ha ha, coi kìa, ông làm bộ mặt mới kỳ cục làm sao chứ! Và bà ta lại cười rú lên, vừa cười vừa chỉ tay vào mặt Hans Castorp, cho đến lúc hụt hơi và cả vầng trán cũng chuyển màu chàm. Nhưng tức cười nhất ở đây, bà ta tiếp tục hổn hển, là thái độ của Behrens và những lời quát tháo vô lối của ông ta - cũng phải thừa nhận rằng trước đấy bà ta đã cười lăn cười lóc rồi, từ lúc nhận ra mình bị bơm đầy tràn. “Bà còn cười được nữa à, bà có thể mất mạng như chơi”, ông ta nói toạc móng heo như thế, không úp mở lựa lời gì ráo. “Thật dữ như gấu, ha ha ha, hi hi hi, xin lỗi ông.”
Không thể biết tiếng cười ròn rã của bà ta về câu mắng của ông cố vấn cung đình phải hiểu theo ý nghĩa nào - chẳng rõ bà ta cười vào những lời “quát tháo vô lối” vì không tin ông ta, hay là bà ta có tin (vì không tin bác sĩ thì còn tin ai) nhưng vẫn thấy sự cố ấy, tức là tình trạng sắp mất mạng của mình, là buồn cười khủng khiếp. Hans Castorp ngầm thiên về giả thuyết sau, chàng có cảm tưởng bà ta đúng là chỉ cười nói liên hồi vì tính nhẹ dạ trẻ con và bộ óc chim sẻ ngốc nghếch khiến bà ta không nhận thức được sự nghiêm trọng của vấn đề, và chàng thấy mất cảm tình rất nhiều. Mặc dù vậy chàng vẫn gửi hoa tặng bà ta, song không bao giờ gặp lại bà Zimmermann hay cười nữa. Vì sau vài ngày thở oxy bà ta đã mất mạng thực sự[156] trong vòng tay người chồng được điện tín gọi lên cấp tốc - một con vịt xiêm đại bự rồi đời, đó là lời bình luận của ông cố vấn cung đình, người báo cho Hans Castorp cái tin này.
Nhưng trước đó nhờ sự tiếp tay của ông cố vấn và các nhân viên y tế ở đây Hans Castorp đã có nhiều dịp làm quen với những bệnh nhân nặng khác của viện an dưỡng để tiến hành hoạt động giàu lòng nhân ái của mình, và Joachim bắt buộc phải theo. Chàng phải cùng em đi thăm con trai bà cụ ‘Tous-les-deux’, cậu thứ hai còn sót lại sau khi phòng cậu lớn kế bên đã được dọn dẹp và tẩy uế bằng H2CO từ lâu. Rồi họ đến thăm cậu Teddy, bệnh nhân được học viện y tế mang tên ‘Fridericianum’ gửi lên đây vì ở đó họ đã bó tay. Rồi họ còn thăm ông Anton Karlovitsch Ferge, nhân viên hãng bảo hiểm người Nga gốc Đức, một con người nhẫn nhục và hiền hậu. Và cả bà von Mallinckrodt nữa chứ, một người đàn bà bất hạnh mắc hội chứng muốn được lòng tất cả mọi người; bà này cũng được tặng hoa như ông nhân viên hãng bảo hiểm, và còn được Hans Castorp nhiều lần kiên nhẫn ngồi đút cho từng thìa thức ăn với sự chứng kiến của Joachim… Dần dà họ nổi tiếng là cặp anh em nhân từ chuyên làm việc thiện. Đến nỗi một hôm Settembrini giữ Hans Castorp lại hỏi han.
“Quỷ thật, ông kỹ sư, tôi nghe người ta dị nghị nhiều điều bất thường về ông. Bỗng dưng ông sinh lòng từ bi hỉ xả lo cứu giúp những người khốn khổ. Ông muốn tìm sự cứu rỗi trong những việc làm từ thiện ấy hay sao?”
“Ôi, có gì đâu, ông Settembrini. Quả thật không bõ công nói đến làm gì. Anh họ tôi và tôi…”
“Xin ông đừng có lôi anh họ ông vào chuyện này! Ông mới là thủ phạm chính trong những vụ việc người ta đồn đại về hai người! Ông thiếu úy có một tư cách đáng trọng, nhưng là người tâm hồn đơn giản và về mặt tinh thần không có gì đáng ngại, không phải là mối lo đối với các nhà sư phạm chúng tôi. Ông không làm cho tôi tin vào vai trò lãnh đạo của ông ấy được đâu. Chính ông mới là kẻ đầu têu, nên cũng đáng lo ngại hơn nhiều. Ông là, tôi nói ông đừng giận, một học sinh cá biệt của trường đời - người ta phải luôn luôn để mắt đến ông. Thêm vào đó chính ông cũng đã cho phép tôi theo sát dìu dắt ông, ông còn nhớ chứ.”
“Đúng thế, ông Settembrini. Quân tử nhất ngôn. Vả lại được ông quan tâm dìu dắt là hân hạnh lớn đối với tôi. Và ‘học sinh cá biệt của trường đời’ nghe văn hoa lắm. Đúng là chỉ có một nhà văn mới biết cách diễn đạt hay ho như thế! Tôi không chắc mình có nên tự hào vì cái danh hiệu ấy hay không, nhưng phải công nhận là nghe rất đã tai. Vâng, đúng là hồi này tôi dành nhiều chú ý cho các ‘ứng cử viên của tử thần’, gọi họ như thế có lẽ cũng hợp ý ông đấy nhỉ. Tôi tạt qua thăm nom những người bệnh nặng đôi chút, chỉ là tranh thủ lúc rảnh rỗi thôi, hoàn toàn không để ảnh hưởng đến lịch điều trị, ông hiểu không, họ đều là những ca trầm trọng, những người ở đây không phải để chơi bời tiêu khiển mà đang lặng lẽ đợi tử thần.”
“Sách đã viết: Cứ để những kẻ đã chết phần hồn chôn cất người chết của họ”[157], ông người Ý bảo.
Hans Castorp giơ cả hai tay lên trời với nét mặt như muốn nói rằng, sách vở chắc chắn có viết đủ thứ, khó là ở chỗ biết làm theo cái nào. Tất nhiên ông già quay đàn thùng sẽ kiếm chuyện, chàng không trông đợi điều gì khác. Mặc dầu Hans Castorp trước sau vẫn để một tai lắng nghe những lời dạy bảo của ông ta và tiếp thu một cách có chọn lọc những ảnh hưởng mang tính sư phạm ông ta tìm cách nhồi nhét cho mình, nhưng như thế không có nghĩa là chàng sẵn sàng vì những quan điểm sư phạm nào đó mà từ bỏ việc làm từ thiện của mình, thây kệ bà thiếu tá Gerngroß với cặp mắt người mẹ tưởng lầm chàng “tìm hiểu”, thây kệ những tính toán lạnh lùng của cậu Rotbein hay những tràng cười ngu ngốc của bà “đầy tràn”, công việc ấy đối với chàng vẫn mang một ý nghĩa tinh thần nhất định với tầm quan trọng lớn lao.
Con trai bà cụ ‘Tous-les-deux’ tên là Lauro. Cậu ta nhận được một bó hoa tím ngát hương từ vườn ươm ở Nice, “của hai người đồng cảnh ngộ, với lời chúc sớm bình phục”, và vì sự ẩn danh hoàn toàn chỉ còn mang tính hình thức, ai cũng biết tỏng người tặng là ai rồi, nên đích thân ‘Tous-les-deux’, người mẹ Mexico trang phục đen tuyền, đã lên tiếng cảm ơn trong một lần chạm trán hai anh em ngoài hành lang và bằng giọng sang sảng, hay chủ yếu bằng một cử chỉ tang thương rất bi kịch, mời họ vào phòng cậu con trai - de son seul et dernier fils qui allait mourir aussi[158] - để nghe lời tạ ơn từ chính miệng cậu ta. Hai anh em đồng ý ngay. Lauro hóa ra là một thanh niên rất đẹp trai với đôi mắt đen sáng rực, cái mũi thanh tú như mỏ đại bàng, hai bên cánh mũi phập phồng, cặp môi đầy đặn dưới hàng ria mép đen nhánh. Nhưng cậu ta có những lời nói và cử chỉ tự cao tự đại quá lố như người diễn kịch khiến hai vị khách, Hans Castorp có lẽ còn hơn cả Joachim Ziemßen, phải thở phào nhẹ nhõm khi cánh cửa phòng người bệnh đã khép lại sau lưng. Vì trong khi ‘Tous-les-deux’, chiếc khăn san đen choàng kín quanh mình, tấm mạng đen cột nút dưới cằm, những vết nhăn như luống cày rạch ngang vầng trán và hai bọng mắt phồng to dưới đôi con ngươi đen như than, đầu gối lum khum cất từng bước giật cục đi tới đi lui trong phòng, thỉnh thoảng ghé lại bên giường người bệnh, cái miệng rộng một bên mép xệ xuống đầy đau khổ lặp đi lặp lại như con vẹt câu cửa miệng thê lương của bà ta: “Tous les dé, vous comprenez, messiés… Premièrement l’un et maintenant l’autre”[159] - trong lúc ấy thì cậu Lauro đẹp trai cất tiếng sang sảng diễn thuyết, cũng bằng tiếng Pháp, với những lời lẽ đao to búa lớn, kiêu hãnh đến mức lố bịch, đại ý cậu ta muốn có một cái chết anh hùng, comme héros, à l’espagnol[160], như anh cậu ta, de même que son fier jeune frère Fernando[161], anh ấy cũng đã chết như một vị anh hùng Tây Ban Nha - cậu ta khoa tay múa chân, xé toạc ngực áo sơmi ưỡn bộ ngực trần vàng vọt ra thách thức tử thần, và cứ lải nhải tự lừa dối mình như thế cho đến khi một cơn ho rũ rượi nổi lên làm đùn ra một lớp bọt mỏng hồng hồng nơi khóe mép, dập tắt những lời huênh hoang rỗng tuếch và tạo cơ hội cho hai anh em Hans Castorp nhón gót rón rén ra khỏi phòng.
Sau đấy họ không trao đổi thêm lời nào nữa về cuộc thăm viếng Lauro, ai nấy lẳng lặng tự cất giữ đánh giá riêng của mình về những cử chỉ anh hùng rơm của cậu ta. Cả hai có cảm tình với ông Anton Karlovitsch Ferge người Petersburg[162] hơn nhiều, ông nhân viên bảo hiểm nằm bẹp trong giường với bộ ria mép rậm hiền hậu và cục yết hầu cũng hiền hậu như thế nổi gồ lên trên cần cổ, chậm chạp phục hồi sức lực sau ca phẫu thuật pneumothorax thất bại, ca mổ đã có lúc làm tính mạng ông ta như treo đầu sợi tóc. Ông ta bị choáng đột ngột trong khi mổ, một cơn sốc phế mạc, sự cố khá thường xuyên của biện pháp điều trị mốt mới này. Điều đáng nói ở đây là cơn sốc ông ta gặp phải có dạng đặc biệt nguy hiểm, kèm theo cả bất tỉnh và trụy tim mạch, tóm lại là nguy kịch đến nỗi người ta phải ngừng ngay cuộc phẫu thuật và hoãn việc điều trị đợi hạ hồi phân giải.
Đôi mắt xám hiền hậu của ông Ferge vẫn còn giãn ra hãi hùng và mặt ông ngả màu xám ngoét mỗi khi nhắc đến sự cố này, sự cố đối với ông hẳn là kinh khủng lắm. “Không gây mê, thưa các ông. Vâng, đúng là thể trạng tôi không chịu được thuốc mê nên người ta không thể áp dụng cách gây mê thông thường cho ca mổ, tôi cũng hiểu và đủ trí khôn để chấp nhận điều đó. Nhưng mà biện pháp gây tê bộ phận không đủ sâu, thưa các ông, nó chỉ đủ để làm thịt tê đi thôi, tôi vẫn biết lúc lớp thịt ngoài bị rạch ra, có điều không đau mà chỉ cảm thấy tức ngực do bị ấn. Tôi nằm thẳng cẳng trên bàn mổ, mặt trùm khăn kín mít chẳng nhìn thấy gì, bị ông trợ lý ghì chặt bên phải và bà y tá trưởng bên trái. Tôi có cảm giác mình bị đè bẹp dí, rồi thịt da bị xẻ một nhát và bị người ta dùng kẹp phanh ra. Tôi vẫn còn nghe tiếng ông cố vấn cung đình bảo: ‘Được rồi!’ Và cùng lúc ấy, thưa các ông, ông ta bắt đầu dùng một dụng cụ gì đó cùn cùn dò dẫm bên ngoài màng phổi tôi - cái dụng cụ ấy không được sắc để khỏi đâm thủng màng phổi quá sớm. Thế là ông ta rờ rẫm màng phổi tôi bằng cái dụng cụ ấy, thăm dò để tìm chỗ chọc thủng nó đặng bơm khí vào lồng ngực - ôi các ông, các ông ơi! Thế là tai biến ấy xảy ra, tôi như người dở sống dở chết, thật không có lời nào tả nổi. Phế mạc, thưa các ông, là một bộ phận không nên động tới, không được phép và không thể động chạm vào, điều đó nên cấm ngặt, chẳng phải vô cớ mà nó được thịt da bao phủ để không thể tự do sờ mó được. Vậy mà giờ đây nó bị phanh phui phơi trần ra và bị nắn bị gõ chỗ này chỗ nọ. Thưa các ông, thế là tôi bị choáng. Kinh khủng quá, thưa các ông, không bao giờ tôi có thể ngờ rằng trên trần gian này, ở ngoài vòng địa ngục mà lại có thể tồn tại một cảm giác bảy lần kinh khủng và chó má đến thế! Tôi lăn ra bất tỉnh - ba lần bất tỉnh, một màu xanh, một màu nâu và một màu tím chồng chất lên nhau! Đã thế trong cơn bất tỉnh tôi còn ngửi thấy mùi hôi thối nồng nặc, có vẻ như cơn sốc phế mạc quật vào dây thần kinh khứu giác tôi, thưa các ông, vậy là tôi ngửi thấy mùi diêm sinh xông lên ngạt thở, dưới địa ngục chắc cũng chỉ hôi thối đến thế là cùng, và đồng thời tôi lại nghe thấy tiếng mình cười trong khi ngáp chết, nhưng đó không còn là tiếng cười của con người mà là một tiếng cười rùng rợn, bỉ ổi và ghê tởm không thể tả, vì thưa các ông, cái màng phổi khi bị sờ nắn động chạm vào thì cũng giống như con người ta bị thọc lét một cách đê tiện, quá hạn lệ và vô nhân đạo nhất, thế đấy. Đó là kiểu tra tấn khủng khiếp và nhục nhã nhất trần đời, cái cơn sốc phế mạc này, cầu Chúa nhân từ tha cho các ông không bao giờ gặp phải nó.”
Lần nào cũng thế, mỗi khi nhớ đến cái kinh nghiệm “chó má” ấy của mình Anton Karlovitsch Ferge lại mặt xám như tro và tỏ ra hãi hùng vô hạn, không muốn nhắc lại những điều này. Vả chăng ngay từ đầu ông ta đã thẳng thắn tự nhận mình là một người hết sức tầm thường, hoàn toàn xa lạ với tất cả những gì được coi là “cao siêu”, và người ta không nên đòi hỏi ở ông ta những cố gắng tinh thần cao cả hay một tâm hồn sâu sắc, điều mà bản thân ông ta cũng chẳng đòi hỏi ở người khác bao giờ. Sau khi đã giao hẹn rõ ràng như thế, ông ta kể cho họ nghe vô số điều không phải là không lý thú về cuộc đời mình trước khi bị bệnh tật quật ngã, cuộc đời nhân viên lưu động của một hãng bảo hiểm hỏa hoạn: Từ Petersburg ông ta đã đi dọc ngang cùng khắp nước Nga, đến thăm những nhà máy công xưởng đóng bảo hiểm cho hãng ông ta, thăm dò tình hình kinh tế tài chính của họ; vì thống kê đã chỉ ra rằng ở những cơ sở công nghiệp làm ăn thua lỗ rất hay xảy ra hỏa hoạn. Vậy là ông ta được cử đi, viện cớ này cớ nọ dò la công cuộc kinh doanh của một cơ sở sản xuất rồi báo cáo kết quả về cho hãng mình để họ kịp thời mua tái bảo hiểm hoặc tăng phí bảo hiểm phòng sẵn cho những khoản bồi thường lớn sau này. Ông ta kể về những chuyến đi dài ngày xuyên qua nước Nga hoang vắng trong mùa đông băng giá, những đêm ông ta nằm ngủ chập chờn trong xe trượt tuyết dưới mấy lớp chăn lông cừu, có lúc choàng tỉnh giấc thấy mắt chó sói sáng rực như sao sa trên tuyết. Lương thực ông ta mang theo để ăn đường, bánh mì cũng như súp bắp cải, đông cả lại thành đá cục lăn lộc cộc trong thùng gỗ, nhưng khi đến trạm nghỉ thay ngựa để tan đá bánh mì vẫn tươi nguyên như vừa mới ra lò. Dĩ nhiên tình hình xấu đi rất nhiều khi trời đột ngột ấm lên làm những cục súp bắp cải của ông tan ra thành nước chảy hết cả xuống đường.
Cứ như thế ông Ferge nhẩn nha kể chuyện, thỉnh thoảng xen vào một tiếng thở dài và lời than, mọi sự lẽ ra tốt đẹp biết bao nếu không có cái vụ pneumothorax chết tiệt kia. Những câu chuyện của ông ta chẳng có gì là cao siêu, nhưng rất sinh động nên cuốn hút được người nghe, nhất là Hans Castorp, chàng háo hức như nuốt từng lời về nước Nga và cuộc sống nơi đó, nào là ấm samôva, bánh nướng nhân thịt, người côdắc ngang tàng và những ngôi nhà thờ gỗ đội những ngọn tháp củ hành lúp xúp như nấm mọc lên trên mặt đất. Chàng còn đề nghị ông Ferge kể về những dân tộc sống trên đất ấy, càng lên cao mạn Bắc cực càng tỏ ra lý thú đối với chàng, về dòng máu Á châu pha trộn trong huyết quản, nguyên nhân của những gò má cao và những cặp mắt xếch của chủng tộc Phần Lan - Mông Cổ, chàng lắng nghe say sưa và chăm chú với sự quan tâm nghiêm túc của một nhà nhân chủng học, yêu cầu người kể chuyện nói cho mình nghe một vài từ tiếng địa phương - những âm thanh lạ tai, trơn tuột và mềm oặt như không có xương tuôn ra dưới hàng ria rậm hiền từ của ông Ferge, trong khi cục yết hầu hiền từ của ông ta chạy lên chạy xuống - và trong thâm tâm Hans Castorp thấy tất cả những điều ấy càng thêm hấp dẫn bội phần (đó là một cái tật của tuổi trẻ) vì chàng biết mình đang dấn thân vào một lĩnh vực bị cấm đoán về mặt sư phạm.
Họ đến thăm Anton Karlovitsch Ferge nhiều lần, và hay nán lại chuyện trò mươi mười lăm phút. Trong giai đoạn ấy họ còn tới úy lạo cậu nhỏ Teddy được chuyển đến từ viện ‘Fridericianum’, một công tử mười bốn tuổi tóc vàng, người mảnh khảnh, rất quý phái, có người chăm sóc phục vụ riêng và mặc pyjamas lụa trắng thắt đai ngang lưng. Theo lời cậu bé tự kể thì nó mồ côi cha mẹ nhưng rất giàu. Trong khi chờ đợi cuộc đại phẫu thuật cắt đi một phần những bộ phận cơ thể đã bị vi trùng đục ruỗng, một thí nghiệm y học mạo hiểm, những hôm thấy trong người dễ chịu cậu ta có thể rời khỏi giường khoảng một tiếng đồng hồ, thắng lên mình bộ đồ thể thao láng coóng rồi lò dò xuống dưới nhà giải trí đôi chút. Các bà các cô thi nhau cưng nựng cậu bé, và nó ngồi chầu hẫu nghe họ buôn đủ thứ chuyện trên đời, ví dụ như chuyện của ông luật sư Einhuf, cô gái trẻ mặc quần tân thời và Fränzchen Oberdank. Rồi nó lại về giường nằm nghỉ. Đó là nếp sống quý phái của cậu Teddy hết ngày này sang ngày khác, và cậu ta cũng thẳng thắn thừa nhận rằng cậu chẳng mong đợi gì nhiều hơn thế trong đời.
Nhưng ở phòng số năm mươi có một nữ bệnh nhân họ von Mallinckrodt, tên là Natalie, một người đàn bà mắt đen tai đeo khuyên vàng rủng rỉnh, rất nhõng nhẽo, ưa làm đỏm, đồng thời có thể nói không ngoa là một Lazarus và Ijob[163] trong nữ giới, bị Chúa giáng lên đầu tất cả các loại bệnh tật trên đời. Cơ thể bà ta đã thấm đẫm độc tố và mất hết sức đề kháng đến nỗi bị kính thưa các loại bệnh thay phiên nhau hay đồng loạt nổi lên cùng một lúc hành hạ. Tệ nhất là một căn bệnh ngoài da, một dạng eczema lở lói ngứa ngáy loang ra gần như khắp thân thể, không chừa cả môi miệng nên việc ăn uống rất khó khăn. Những viêm nhiễm trong lục phủ ngũ tạng, thôi thì đủ cả viêm thận, viêm phổi, viêm màng phổi, màng xương và thậm chí cả viêm màng não với những cơn bất tỉnh trầm trọng thi nhau dày vò bà von Mallinckrodt, rồi thì những cơn đứng tim, hậu quả của sốt cao và đau đớn quá sức chịu đựng, làm bà ta sợ hãi tới mức gặp khó khăn khi nuốt và thức ăn cứ thường xuyên mắc lại trên thực quản. Tóm lại, người đàn bà ấy phải chịu đựng đủ thứ đau khổ không thể tưởng tượng nổi về thể xác, đã thế bà ta lại chỉ có một thân một mình trên đời, vì sau khi bỏ chồng bỏ con đi theo một người đàn ông khác, đúng ra là một gã thiếu niên còn dở ông dở thằng, thì chính bà ta lại bị người tình bỏ rơi (những điều này hai anh em được nghe một cách không úp mở từ miệng chính bà ta) và giờ đây trở nên tứ cố vô thân, mặc dù về vật chất không đến nỗi hai bàn tay trắng vì được người chồng cũ chu cấp hào phóng. Bà ta điềm nhiên tận dụng sự tử tế hay lòng thương yêu dai dẳng của người chồng, lương tâm không gợn chút tự ái vô bổ, vì đã tự coi khinh chính bản thân mình, chấp nhận là một người đàn bà tội lỗi không còn danh dự. Trên quan điểm ấy bà ta đón nhận những thử thách nặng nề của Chúa với một sức chịu đựng và lòng nhẫn nại đáng kinh ngạc, bản năng kháng cự của nữ giới giúp bà ta kiêu hãnh vượt lên trên mọi nỗi thống khổ dày vò tấm thân tàn tạ của mình, và thậm chí còn biến vòng băng trắng bà ta phải quấn quanh đầu chẳng hiểu vì lý do ghê gớm gì thành một vành khăn tuy ban đỏm dáng. Một ngày bà ta thay đổi đồ trang sức không biết bao nhiêu lần, sáng bảnh mắt đã bắt đầu bằng san hô và lúc đi ngủ kết thúc với ngọc trai. Hớn hở nhận bó hoa Hans Castorp gửi tặng, cử chỉ được quy cho là ga lăng chứ không phải từ thiện, bà ta nhắn tin mời hai chàng trai trẻ đến dùng trà cùng mình, tức là chỉ có khách uống bằng tách sứ còn bà ta nhấp nhấp nước trà trong một cái ca có vòi để ngậm miệng vào cho dễ hút, bàn tay đưa cái ca lên miệng trừ ngón cái ra còn thì đeo đầy nhẫn mặt lam ngọc, lục ngọc, bạch ngọc không thiếu loại đá quý nào. Chẳng mấy chốc họ đã chuyện trò cởi mở, và vừa đong đưa những chiếc khuyên vàng đeo tai bà ta vừa kể cho hai anh em nghe về cuộc đời mình: về người chồng tử tế nhưng chán ngắt và những đứa con cũng tử tế nhưng chán ngắt giống hệt cha chúng, những đứa trẻ tội nghiệp chưa bao giờ nhen nhóm được một đốm cảm tình ấm áp trong lòng bà ta, và về gã thiếu niên dở ông dở thằng mà bà ta trốn nhà đi theo, cho tới giờ vẫn còn không tiếc lời ca ngợi tài âu yếm lãng mạn của gã. Nhưng thân nhân gã đã không từ một mưu mô thủ đoạn nào nhằm chia rẽ hai người, và rồi có lẽ chính gã cũng thấy ghê tởm các loại bệnh tật lúc bấy giờ đồng loạt phát ra ở bà ta. Không biết các quý ông đây có thấy ghê tởm không, bà ta kiêu kỳ hỏi, và bản năng nữ giới của bà ta lại một lần nữa chiến thắng mảng eczema lở lói che hết nửa khuôn mặt.
Hans Castorp thấy khinh gã thiếu niên đã tỏ ra ghê tởm bệnh tật ở người đàn bà tội nghiệp, và tỏ thái độ bằng một cái nhún vai. Về phần mình, để không thua tính dịu dàng âu yếm của gã thiếu niên lãng mạn, chàng thể hiện sự chăm sóc của mình theo chiều hướng khác, những lúc có thể chàng thay thế vai trò của người y tá trong những việc không cần đến kiến thức chuyên môn, ví dụ gặp lúc bữa ăn thì cẩn thận đút cho bà ta từng thìa bột, nhanh nhảu lấy cái ca có vòi cho bà ta uống nước chiêu miếng ăn mắc nghẹn trong cổ, hoặc giúp bà ta trở mình trên giường cho đỡ mỏi, vì thêm vào tất cả những đau đớn khổ sở kia lại còn một vết mổ gây nhiều trở ngại cho bà ta khi nằm. Tất cả những việc này chàng tranh thủ làm lúc xuống phòng ăn, hoặc trên đường về nằm nghỉ sau một cuộc đi dạo, thông thường chàng bảo Joachim cứ đi trước, mình còn đảo qua phòng số năm mươi một chút - và cảm thấy một niềm hạnh phúc dâng lên tràn ngập tâm hồn, niềm vui âm thầm khi thấy mình làm được một việc có ích và có tầm quan trọng lớn lao, nhưng có cả một chút tự mãn lén lút xen lẫn vào niềm vui trong sáng của hành vi giúp đỡ đồng loại theo tinh thần Cơ Đốc giáo, mà cả kỷ luật quân sự lẫn những tư tưởng sư phạm nhân đạo cũng không thể chê trách vào đâu được.
Nãy giờ chúng tôi vẫn chưa kể lời nào về Karen Karstedt, mà cô ta mới chính là người được Hans Castorp và Joachim quan tâm nhiều hơn cả. Đó là một bệnh nhân tư của ông cố vấn cung đình ở ngoài viện an dưỡng, và được ông ta tiến cử với hai anh em để họ làm việc thiện. Cô ta đã trải qua bốn năm ở trên này, bởi không có tài sản gì nên hoàn toàn bị phụ thuộc vào những người bà con nhẫn tâm, đã có lần họ tự tiện mang cô bé về nhà lúc bệnh cô ta trở nặng tưởng chết, và chỉ miễn cưỡng đưa trở lại đây khi ông cố vấn phản đối và dọa sẽ làm dữ. Cô ta ngụ tại một nhà trọ rẻ tiền dưới ‘Làng’ - một cô gái mười chín tuổi, gầy gò ốm yếu với mái tóc mượt chải dầu, cặp mắt rụt rè giấu một tia sáng long lanh thỉnh thoảng mới lóe lên, rất hợp với đôi gò má đột ngột nhô cao và giọng nói trầm ấm dễ mến. Cô ta ho luôn miệng, và chất độc ngấm trong cơ thể đã nặng tới độ làm các đầu ngón tay bị rò phải quấn băng.
Vậy là hai anh em đặc biệt quan tâm đến Karen Karstedt, theo lời thỉnh cầu của ông cố vấn cung đình, vì họ là hai thanh niên từ tâm đến thế cơ mà. Mọi sự bắt đầu bằng một bó hoa họ gửi tặng cô bé, tiếp theo là một chuyến viếng thăm trên cái ban công nhỏ xíu phòng Karen ở dưới ‘Làng’, và sau đó là hoạt động ngoại khóa với sự tham gia của cả ba người: họ đưa cô bé đi xem cuộc thi trượt băng cá nhân và cuộc thi đấu bằng xe trượt bobsleigh. Bởi bấy giờ đang là thời kỳ cao điểm của các môn thể thao mùa đông trên thung lũng sơn cước của chúng ta, một tuần thi đấu thể thao mới được khai mạc, các sự kiện chồng chất lên nhau, những hội hè lễ lạt mà cho tới giờ hai anh em chỉ thi thoảng lưu tâm một cách hời hợt. Joachim ác cảm với tất cả các hình thức vui chơi giải trí ở trên này. Chàng ở đây đâu phải để giải trí - chàng hoàn toàn không có ý định cắm rễ lâu dài và tìm cách an cư lạc nghiệp ở đây nên không việc gì phải thu xếp cho cuộc sống trở nên dễ chịu và thú vị, mục đích duy nhất của chàng là giải độc càng nhanh càng tốt để xuống đồng bằng làm nhiệm vụ, nhiệm vụ thực sự chứ không phải nhiệm vụ đi dạo như ở trên này, đó chỉ là một hình thức để thay thế, để lấp chỗ trống mà thôi, mặc dù vậy chàng vẫn không cho phép mình được lơ là. Vì vậy tham dự vào những cuộc thi đấu ở đây đối với chàng là điều đáng cấm ngặt, trà trộn vào đám khán giả hiếu kỳ là điều đáng chê trách. Về phần Hans Castorp, chàng cảm thấy mình là một thành viên của những người ở trên này và coi trọng sự gắn bó mật thiết ấy đến mức có cái nhìn không quá nghiêm khắc đối với những kẻ biến cái thung lũng này thành sân vận động để bày những trò vui của họ.
Nhưng giờ đây thiện tâm dành cho cô Karstedt tội nghiệp đã làm thay đổi hẳn vấn đề - Joachim không có cách nào phản đối để khỏi bị mang tiếng thiếu tình thương đồng loại. Vậy là họ đến đón cô bé trong căn phòng trọ tồi tàn ở dưới ‘Làng’ rồi cả ba thả bộ trong ánh nắng đông gay gắt phản chiếu chói chang trên tuyết, đi qua khu Ăng lê - được gọi theo tên khách sạn Hotel d’ Angleterre - dọc theo trục đường chính đóng khung giữa những cửa hiệu hào nhoáng và nườm nượp xe trượt tuyết các loại, người giàu ham hưởng thụ và người vô công rồi nghề khắp thế giới, cư dân của các an dưỡng đường và khách trọ ở trung tâm giải trí, đầu trần bó mình trong những bộ quần áo thể thao mốt mới nhất, may bằng những loại vải vóc sang trọng và đắt tiền nhất, mặt mày rám nắng đỏ như đồng trong ánh mặt trời mùa đông và ánh phản quang từ mặt đất phủ tuyết, tất cả chen vai thích cánh đổ về khoảng sân băng dưới đáy thung lũng cách khu điều dưỡng không bao xa, hồi mùa hè chỗ ấy vẫn còn là bãi cỏ chơi bóng đá. Âm nhạc nổi lên inh ỏi, dàn nhạc của khu điều dưỡng ngồi chơi trên cái bục cao giữa dãy chòi gỗ dựng dọc theo một đầu sân băng hình chữ nhật, sau lưng họ nổi lên sừng sững dãy núi xanh lam đỉnh nhọn phủ đầy tuyết trắng. Họ đi qua cổng, lách qua đám đông trên khán đài dốc bao quanh ba mặt sân băng và lựa một chỗ vừa ý ngồi xem. Các vận động viên trượt băng nghệ thuật trong trang phục bó sát người, áo dệt kim đen, áo khoác ngoài thêu kim tuyến và viền lông thú, đua nhau nhún nhảy, lượn quanh, biểu diễn nhiều tư thế, lấy đà nhảy lên và quay tít. Một cặp múa đôi nam nữ chuyên nghiệp tỏ ra đặc biệt điêu luyện, tuyệt đối không có đấu thủ, cuối cùng được nổi một điệu kèn chào mừng và vỗ tay nhiệt liệt. Môn trượt băng tốc độ có sáu vận động viên nam trẻ mang màu cờ nhiều quốc gia thi đấu với nhau, họ cúi rạp người chắp tay sau lưng, thỉnh thoảng đưa khăn tay lên miệng, trượt vun vút sáu vòng quanh khoảng sân chữ nhật rộng thênh thang. Chuông gióng liên hồi lẫn vào tiếng nhạc. Chốc chốc trên khán đài lại cồn lên tiếng hò reo cổ vũ và tiếng vỗ tay vang dội.
Nhìn xung quanh hai anh em và người được họ bảo trợ chỉ thấy một đám đông sặc sỡ muôn màu muôn vẻ. Những người Anh đội mũ Scotland răng trắng xóa nói tiếng Pháp lục cục với các quý bà thơm lừng từ đầu đến chân quấn các loại len dạ màu sắc rực rỡ, vài người còn táo bạo mặc quần chứ không mặc váy. Những người Mỹ đầu tí xíu, tóc chải láng ốp sát vào sọ, miệng phì phèo tẩu thuốc, mặc áo lông lộn mặt trái ra ngoài. Những người Nga rậm râu bặt thiệp giàu dã man và những người Hà Lan mang nét Mã Lai ngồi lẫn lộn giữa đám khán giả Đức và Thụy Sĩ, đâu đâu cũng chỉ nghe thấy một thứ tiếng Pháp hổ lốn, không biết là giọng vùng Balkan hay vùng Cận Đông, những miền đất đầy vẻ phiêu lưu có sức hấp dẫn đặc biệt với Hans Castorp nhưng lại bị Joachim chê là không minh bạch và thiếu trật tự. Giữa chừng có cả những cuộc thi đấu vui nhộn dành cho trẻ nít, chúng loạng choạng trên đường đua vì phải chạy một chân mang giày trượt băng một chân mang ván trượt tuyết, hoặc phải đẩy cô bạn tiểu thư bé nhỏ ngồi trên cái xẻng. Hoặc là chúng phải trượt thi trên băng với một ngọn nến cháy dở trên tay, ai tới đích mà nến không bị tắt thì được coi là thắng cuộc, nhưng trong khi chạy còn phải leo qua chướng ngại vật hoặc dùng thìa lượm khoai tây trong những cái bình tưới để rải rác khắp sân. Khán giả tán thưởng ầm ầm. Người ta giới thiệu những đứa giàu nhất, xinh xắn nhất, con nhà danh giá nhất trong đám trẻ, con gái một triệu phú Hà Lan và con trai một hoàng thân Phổ và một cậu bé mười hai tuổi có cái họ là một hiệu sâm panh nổi tiếng thế giới. Cô bé Karen tội nghiệp cũng reo hò cho đến lúc nổi ho sù sụ. Cô ta khoái chí vỗ liên hồi hai bàn tay với những ngón bị rò. Cô biết ơn lắm lắm.
Hai anh em còn đưa cô bé đi xem cuộc đua xe trượt bobsleigh, vì đích cuộc đua cách ‘Sơn trang’ và nhà trọ của Karen chẳng bao xa. Ở cuối đường đua dốc ngược chạy vòng vèo từ Schatzalp xuống đích đặt ở dưới ‘Làng’, giữa các cụm dân cư dựa vào chân sườn tây thung lũng, người ta đã dựng một gian chòi giám khảo để tính giờ chạy của mỗi chiếc xe đua, giờ khởi hành được báo từ điểm xuất phát qua điện thoại. Từng chiếc xe đáy thấp lướt sát mặt đường đua đóng băng trơn tuột lao đi vun vút giữa hai vách tường bóng loáng, lượn quanh những khúc ngoặt chữ chi, chiếc nọ cách xa chiếc kia; trong xe các vận động viên ngồi điều khiển nam cũng như nữ mặc quần áo len trắng bó sát người, quanh ngực quấn một dải băng mang màu cờ nước mình. Người ta chỉ thoáng thấy những gương mặt đỏ gay căng thẳng, bám tuyết trắng lấm tấm. Có những chiếc xe bị lật lúc vào cua, hất những người điều khiển văng tung tóe xuống tuyết, và khán giả xô tới chụp ảnh lia lịa. Cả ở đây người ta cũng chơi nhạc rộn ràng. Người xem ngồi trên khán đài hoặc chen chúc nhau trên lối đi chỉ được dọn tuyết như cái rãnh hẹp té chạy song song với đường đua. Họ đứng đầy cả trên những cây cầu gỗ bắc vượt trên đường đua, ngó xuống bên dưới đợi xem từng chiếc bobsleigh chốc chốc lao vụt qua. Những tử thi của viện an dưỡng trên kia cũng xuống núi bằng đường ấy, chui bên dưới những cây cầu, lượn quanh những khúc quẹo, tuồn tuột lướt xuống, lướt xuống thung lũng, Hans Castorp nghĩ tới cảnh ấy và cũng đem chia sẻ ý nghĩ của mình với các bạn đồng hành.
Thậm chí một chiều nọ họ còn đưa Karen Karstedt vào rạp chiếu bóng dưới ‘Phố’, vì cô bé nhất định muốn thưởng thức mọi trò tiêu khiển. Bầu không khí ngột ngạt trong rạp làm khổ mũi cả ba người, bởi từ trước tới giờ họ chỉ quen hít thở khí trời loại tinh khiết nhất, nó đè nặng như đá lên ngực họ và tạo ra một đám sương mù dày đặc trong đầu họ, trong khi mắt họ căng lên đau nhức theo dõi những cảnh nhoáng nhoàng hiện lên trên màn ảnh, những mảnh đời bị cắt vụn, ngắn ngủi và gấp gáp, với một loạt hình ảnh run rẩy, giật cục, nhảy cóc, biến mất cũng đột ngột như khi xuất hiện, với thứ âm nhạc rẻ tiền cố gắng ghép hiện tại bị nó phân chia tủn mủn với quá khứ tái hiện vội vàng, bằng những phương tiện hết sức hạn chế vẫn cố sức phô trương tất cả những gì được coi là trang trọng, hào nhoáng, mê say, hoang dại và nồng nàn nhục cảm. Bộ phim họ ngồi xem kể về một câu chuyện lâm li gay cấn có cả ái tình và án mạng, câm lặng diễn ra trong triều đình của một bạo chúa phương Đông. Trên màn ảnh loang loáng đuổi theo nhau những hình ảnh tột đỉnh xa hoa và hết sức hở hang, đầy tham vọng bạo tàn của kẻ thống trị và căm phẫn nhẫn nhục của người bị trị, đầy bạo lực, dục vọng, khát máu, và cả cận cảnh với cánh tay đao phủ bắp thịt nổi cuồn cuộn - tóm lại, một sản phẩm được chế ra theo hiểu biết của các nhà làm phim về những nguyện vọng thầm kín của khán giả văn minh quốc tế. Settembrini, con người của lý trí, hẳn sẽ cương quyết chối từ thưởng thức một tiết mục giải trí phi nhân đạo đến thế, sẽ tự thấy mình có trách nhiệm phải dùng vũ khí trào phúng cổ điển và chính trực để cực lực lên án sự lạm dụng tiến bộ kỹ thuật vào việc làm sống lại những tư tưởng hạ thấp nhân phẩm con người như thế, Hans Castorp tự nhủ và hạ giọng thầm thì chia sẻ ý nghĩ của mình với anh họ. Ngược lại, bà Stöhr hôm ấy cũng có mặt trong rạp chiếu bóng và ngồi không xa bộ ba của chúng ta bao nhiêu thì lại để tâm trí hoàn toàn bị cuốn hút theo những hình ảnh đuổi nhau, gương mặt đỏ bừng ngây ngô méo xệch đi vì hứng thú.
Cũng phải nói thêm rằng hầu như tất cả các gương mặt người ta thấy ở đây đều mê mẩn đờ đẫn như thế. Nhưng khi cảnh cuối cùng chấm dứt, hình ảnh cuối cùng biến mất, đèn trong rạp bật sáng trưng và nơi diễn ra những cảnh tượng lạ mắt kia chỉ còn là một tấm màn trống trơn trước mắt đám đông, thì các khán giả say mê lại chẳng thể vỗ tay tán thưởng để thể hiện sự hài lòng của mình. Ở đó làm gì có ai để người ta khen ngợi hay tạ ơn tài năng nghệ thuật! Các diễn viên tập họp với nhau để đóng bộ phim người ta vừa thưởng thức đã tan tác bốn phương trời từ khi nảo khi nào rồi; ở đây người ta chỉ được xem hình ảnh họ trong một sản phẩm ghi lại những diễn xuất trong hàng triệu triệu bức hình ghép lại với nhau, với mục đích tùy ý tái hiện lại quá khứ bằng cách cho những bức hình ấy loang loáng chạy qua trước mắt. Cái im lặng bao trùm đám đông sau khi những ảo ảnh kia biến mất có cái gì đó vô hồn và thật đáng sợ. Hai bàn tay thừa thãi bất lực buông xuôi trước khoảng không trống rỗng. Người ta dụi mắt, trân trân nhìn thẳng về phía trước, hổ thẹn trong ánh sáng chói chang và ngấm ngầm mong được rút lui về lại bóng tối, để lại được nhìn, được xem những điều đã chết từ lâu trong quá khứ nhưng được dựng dậy, được trồng vào hiện tại và được tô điểm bằng âm nhạc để làm mê hoặc lòng người.
Tên bạo chúa chết dưới lưỡi dao, miệng há hoác trong một tiếng rú không ai nghe thấy. Rồi sau đó hiện lên trước mắt người xem những hình ảnh từ khắp nơi trên thế giới: tổng thống nước Cộng hòa Pháp đầu đội mũ ống, vai mang ngù kim tuyến, ngồi trên cỗ xe tứ mã mui trần đáp lại diễn văn chào mừng của công chúng; tể tướng Ấn Độ là khách mời danh dự trong lễ cưới một vị tiểu vương; thái tử Đức tập dượt trong sân một doanh trại ở Potsdam. Người ta được chứng kiến sinh hoạt của một làng thổ dân ở Neumecklenburg[164], một cuộc thi chọi gà trên đảo Borneo[165], những kẻ man di mọi rợ ở trần thổi khèn mũi[166], một cuộc săn voi rừng, một nghi lễ trong triều đình Xiêm[167], một phố làng chơi ở Nhật Bản, với các Geisha ngồi sau chấn song cũi gỗ. Người ta thấy những người Samoyede[168] mặt che mạng kín mít điều khiển xe trượt tuyết do tuần lộc kéo trên vùng đất Bắc Á hoang vu đầy tuyết phủ, thấy những người Nga mộ đạo hành hương đến Hebron[169], thấy cảnh phạt hèo một tội phạm Ba Tư. Người xem cảm thấy mình có mặt ở tất cả những nơi ấy; không gian bị tiêu hủy, thời gian bị đảo lộn, xa xôi và quá khứ bỗng trở thành gần gũi và hiện tại dưới tác dụng của âm nhạc và những hình ảnh loang loáng lướt qua đánh lừa mắt và trí não. Đột nhiên trên màn ảnh xuất hiện một phụ nữ Morocco còn trẻ cao lớn như người thật lừng lững tiến về phía khán giả, cô ta mặc váy lụa kẻ sọc sặc sỡ, khắp người rủng rỉnh nhẫn, dây chuyền, kẹp tóc như con ngựa thắng đủ lệ bộ yên cương, bộ ngực đồ sộ phơi ra đến gần một nửa, hai cánh mũi bè bè phập phồng, cặp mắt rừng rực một sức sống man dại, nét mặt không ngừng biến đổi. Cô ta cười phô hàm răng trắng muốt, đưa một bàn tay với những chiếc móng trắng ngà nổi bật trên làn da nâu sẫm lên che mắt, tay kia vẫy vẫy về phía khán giả. Người ta ngượng ngùng nhìn chòng chọc vào gương mặt quyến rũ của người đàn bà không có thật kia, bóng hình trên màn ảnh nhìn họ mà không thấy họ, ánh mắt sỗ sàng của họ chẳng hề chạm được tới cô ta, nụ cười và cái vẫy tay của cô ta không dành cho họ và hiện tại mà thuộc về thời quá khứ ở xứ sở xa xôi nơi làng quê cô ta, thế nên đáp lại cử chỉ mời gọi ấy là một điều hoàn toàn vô nghĩa. Nhận thức ấy, như đã nói, làm cho hứng thú bị pha trộn với một cảm giác gần như bất lực. Rồi bóng ma ấy biến mất. Ánh sáng chói chang trần trụi chiếm lĩnh màn ảnh, chữ “Hết” to tướng nhảy lên chấm dứt tiết mục và kết thúc một vòng trình diễn, khán giả lặng lẽ rời khỏi rạp trong lúc từ bên ngoài một lớp khán giả mới lại tràn vào, háo hức đón xem vòng trình diễn ấy lặp lại lần nữa.
Bà Stöhr nhập bọn cùng với họ, và bị bà ta rủ rê hai anh em quyết định chiều ý Karen ghé vào quán cà phê của trung tâm giải trí, làm cô bé tội nghiệp sung sướng chắp cả hai tay lại cảm ơn. Cả ở đây cũng có âm nhạc. Một dàn nhạc giao hưởng nhỏ mặc đồng phục màu đỏ biểu diễn theo sự điều khiển của một tay vĩ cầm lĩnh xướng người Tiệp Khắc hay Hungary, anh ta tách riêng khỏi nhóm ra đứng trên sàn nhảy, trà trộn giữa những đôi lứa quấn quít xoay tròn, vừa hăng hái vặn vẹo thân hình vừa không tiếc tay hành hạ cây đàn. Ngồi bên các bàn là bộ mặt của tất cả giới thượng lưu quốc tế. Xung quanh người ta thi nhau gọi tên những món đồ uống lạ lùng. Hai anh em gọi nước cam có ga cho mình và cho người được họ bảo trợ để giải khát, vì trong quán vừa nóng vừa bụi, còn bà Stöhr chọn rượu ngọt. Giờ này chưa phải giờ cao điểm đâu, bà ta sành sỏi giải thích. Chiều càng muộn sàn nhảy sẽ càng nhộn nhịp, đa số bệnh nhân ở các viện an dưỡng quanh đó, bệnh nhân tự túc trọ trong các khách sạn và cả khách nghỉ tại trung tâm giải trí này đến đêm mới mò ra, đông hơn bây giờ nhiều, và đã có những người nhảy sang thế giới bên kia trong điệu valse, có thể nói không ngoa là họ đã dốc cạn chén đời và khạc ra những giọt máu cuối cùng trong dulci jubilo[170] trên sàn nhảy này. Bà Stöhr, bằng sự vô học không ranh giới của mình, đã có một sáng tạo đáng kể với từ “dulci jubilo”: từ đầu tiên được bà ta quy đổi ra ngôn ngữ âm nhạc của ông chồng và phát âm theo tiếng Ý thành “dolce”[171], còn từ thứ hai bị chuyển thành một dạng reo hò “juhu”, “hola” hay có trời mới biết là cái gì - hai anh em không ai bảo ai cùng chộp lấy ly nước giải khát, phùng má ngậm cái ống cắm trong đó khi nghe thứ tiếng Latinh giả cầy của bà ta, nhưng bà Stöhr vẫn phớt tỉnh như không. Bà ta còn bận tìm lời bóng gió, những chiếc răng thỏ chìa ra một cách hết sức ngây ngô, để thăm dò mối quan hệ thật giữa ba người trẻ tuổi, mà theo lời thú nhận của bà ta thì chỉ có động cơ về phía cô bé Karen tội nghiệp là đã rõ ràng như bánh đúc bày sàng, được hai chàng hiệp sĩ hào hoa phong nhã thế này dẫn đi chơi thì còn sung sướng nào hơn. Nhưng tại sao hai anh em lại bỏ công làm chuyện hão hề như thế thì đối với bà ta vẫn còn là điều bí ẩn; mặc dù dốt nát vô học nhưng ở đây bản năng nữ giới đã giúp bà ta lần ra manh mối, dẫu rằng dự đoán của bà ta chỉ đúng có một nửa và không mấy thanh lịch. Hiểu rồi, bà ta dài giọng châm chọc, thực ra vai chính hiệp sĩ ở đây do Hans Castorp đóng, anh chàng Ziemßen chỉ đi theo cho đẹp đội hình mà thôi, và vì bà ta biết mối tương tư thầm kín Hans Castorp dành cho Madame Chauchat, nên hấp tấp đi đến kết luận rằng cô nàng Karstedt ốm ròm chỉ là vật lấp chỗ trống cho đối tượng thờ phụng không với tới được của chàng mà thôi - một kết luận quá đỗi phù hợp với con người bà Stöhr, hoàn toàn vô luân thường đạo lý, không có cơ sở và bắt nguồn từ một bản năng thấp hèn đến nỗi Hans Castorp chỉ đáp lại bằng một ánh mắt khinh bỉ đầy mệt mỏi lúc bà ta nửa đùa nửa thật bày tỏ ý kiến của mình. Bởi dĩ nhiên những lần tiếp xúc với cô Karen tội nghiệp quả thực cũng là một hình thức lấp chỗ trống trong tâm hồn chàng, một dạng món ăn tinh thần, như tất cả những việc làm từ thiện của chàng từ trước tới nay. Nhưng không chỉ có thế, đó cũng là những cử chỉ mộ đạo với mục đích riêng, và cảm giác thỏa mãn tràn ngập lòng chàng mỗi khi ngồi tỉ mẩn đút từng thìa bột cho bà Mallinckrodt ẻo lả, kiên nhẫn lắng nghe ông Ferge tả đi tả lại cơn sốc phế mạc của mình hay nhìn cô Karen tội nghiệp sung sướng và cảm động vỗ hai bàn tay mười ngón quấn băng, là một cảm giác nếu như có hơi giáo điều và đầy vẻ mộ đạo thì đồng thời đối với chàng cũng rất gần gũi và trong sáng; nó xuất thân từ một tinh thần hoàn toàn trái ngược với tinh thần sư phạm nhân văn do Settembrini đại diện, tuy nhiên theo ý chàng trẻ tuổi Hans Castorp cũng rất đáng thử nghiệm theo phương châm placet experiri.
Túp nhà nhỏ nơi Karen Karstedt ở trọ nằm không xa lối mòn dọc theo dòng suối nhỏ và khúc đường ray chạy qua ‘Làng’, nên rất tiện đường mỗi khi hai anh em nảy ra ý định đón cô bé cùng đi dạo sau bữa điểm tâm. Từ đó thả bộ về hướng ‘Làng’, đi hết quãng đường dạo chơi theo quy định họ sẽ thấy hiện ra trước mắt ngọn Tiểu Schiahorn, xế xế bên phải là ba đỉnh núi răng cưa được mệnh danh là những ngọn tháp xanh, có điều bây giờ không hề xanh mà chói chang một màu tuyết trắng, và xa hơn nữa về bên phải là ngọn núi làng. Lưng chừng sườn núi, ở khoảng một phần tư độ cao, người ta thấy một cái nghĩa trang nho nhỏ, nghĩa trang của ‘Làng’, có tường thấp bao quanh, và hứa hẹn nhìn xuống phong cảnh hồ tuyệt đẹp dưới thung lũng nên cũng được nhắm làm đích cho một cuộc dã ngoại. Và như thế, một hôm ba người nối đuôi nhau nương theo sườn núi leo lên trên ấy. Đó là một buổi sáng đẹp trời - nhưng vào thời điểm ấy của mùa đông hầu như ngày nào cũng đẹp: gió lặng và nắng vàng như mật, bầu trời xanh thăm thẳm, không khí hanh hao buốt giá và tuyết trắng lóa khắp nơi. Hai anh em, một người mặt đỏ như gạch nung non lửa, người kia nâu bóng như đồng thau, phong phanh mỗi tấm áo vét khoác ngoài vì áo măng tô chỉ tổ vướng tay dưới ánh mặt trời gay gắt, chàng trẻ tuổi Ziemßen mặc quần thể thao và giày cao su đi tuyết, Hans Castorp cũng mang giày ấy nhưng mặc quần dài vì chàng tự cảm thấy thể lực mình không đủ cho quần cộc. Bấy giờ vào khoảng giữa thượng tuần và trung tuần tháng hai của năm mới. Đúng thế, họ đã qua một năm mới kể từ khi Hans Castorp đặt chân đến đây; người ta đã viết lên lịch một con số khác, tiếp theo con số của năm cũ. Chiếc kim lớn của đồng hồ thế gian đã nhích thêm một đơn vị thời gian: không phải một cái mốc đặc biệt giả dụ như thời điểm mở đầu một thiên niên kỷ mới - sẽ có rất ít người hiện diện ở đây được chứng kiến thời điểm ấy - cũng không phải cái mốc chẵn đánh dấu một thế kỷ hay thậm chí chỉ một thiên niên kỷ mà thôi, không phải thế. Nhưng dù sao cây kim chỉ năm cũng vừa mới nhích thêm một bước, dẫu rằng Hans Castorp ở đây chưa được một năm mà nhiều lắm cũng mới hơn nửa năm thôi, giờ đây cây kim ấy đứng yên chỉ vào một con số, giống như kim phút của một chiếc đồng hồ lớn cứ năm phút mới nhảy một lần, và bình thản đợi đến khi được nhích thêm bước nữa. Cho tới lúc ấy thì cây kim tháng còn phải nhảy thêm mười bước, nhiều hơn số lần nó đã nhảy kể từ khi Hans Castorp lên trên này - tháng hai không được chàng tính vào đó nữa, vì đã đến là kể như sắp qua, dẫu còn non cũng kể như đã già.
Vậy là bộ ba của chúng ta làm một chuyến du ngoạn lên cái nghĩa trang nhỏ trên ngọn núi làng - có lẽ cũng nên giải thích cặn kẽ hơn một chút về chuyến dã ngoại này. Người khởi xướng là Hans Castorp, Joachim mới đầu còn cản vì sợ ảnh hưởng đến cô Karen tội nghiệp, nhưng rồi cũng thừa nhận rằng chơi trò ú tim với cô bé là một việc làm vô nghĩa, cô ta không hèn nhát như bà Stöhr để đến nỗi phải kiêng như kiêng húy tất cả những gì hơi dính dáng đến chết chóc. Karen Karstedt chưa đến mức buông thả hoàn toàn vào sự tự lừa dối bản thân của giai đoạn cuối, cô bé biết rõ tình trạng sức khỏe của mình cũng như căn nguyên của chứng hoại thư ở mười đầu ngón tay. Hơn thế, cô còn biết rằng những người bà con nhẫn tâm ở dưới đồng bằng không bao giờ chịu chi khoản phí tổn xa xỉ để vận chuyển thi hài về quê, cho nên sau khi từ giã cõi đời chắc chắn cô sẽ vẫn ngụ lại đây và nằm vào một góc khiêm nhường nào đó trên kia. Tóm lại, có thể bảo rằng chọn nơi này để dạo chơi đối với cô bé hợp tình hợp lý hơn những nơi giải trí như đua xe bobsleigh hay xem chiếu bóng nhiều, đấy là chưa kể một chuyến viếng thăm cũng là dịp thể hiện lòng tử tế đối với những người đồng hội đồng thuyền nằm trên đó, là một cử chỉ đầy trân trọng chứ không đơn thuần coi cái nghĩa trang nhỏ bé ấy là một nơi danh lam thắng cảnh cho một cuộc dạo chơi bình thường.
Ba người nối đuôi nhau thành hàng một chậm chạp leo lên dốc, vì con đường mòn chỉ được dọn tuyết đủ chỗ cho một người đi. Họ đã bỏ lại sau lưng tòa biệt thự cuối cùng nằm cheo leo trên sườn núi, dưới chân họ phong cảnh tuyệt đẹp của thung lũng mùa đông trải ra dưới một góc độ hơi lệch đi không giống quang cảnh quen thuộc mọi ngày: nó mở rộng về hướng đông bắc, nơi cổng vào thung lũng, cho thấy cái hồ mặt nước mùa này đóng băng cứng phủ đầy tuyết, bờ hồ rậm rạp cây rừng, phía sau dải bờ xa nhất những sườn núi dốc như đâm nhào xuống đất, xa hơn nữa là những đỉnh núi lạ bọc trong tuyết trắng xóa, đua nhau vươn lên chọc trời xanh. Họ bồi hồi chiêm ngưỡng quang cảnh hùng vĩ ấy một lúc, trước khi dừng chân trong tuyết đứng lại nơi cái cổng đá và nhìn vào sự yên tĩnh vĩnh hằng của nghĩa trang qua những chấn song cánh cổng sắt chỉ khép hờ.
Ở đây cũng có những lối đi được dọn tuyết gọn gàng, chạy ngang chạy dọc giữa những ngôi mộ quây rào và được một lớp tuyết dày độn cao lên, những chiếc giường an nghỉ ngàn thu được phân bổ đều đặn và có bàn tay chăm sóc chu đáo mặc dù khắp nơi tịnh không nghe tiếng hay nhìn thấy bóng người nào, với những cây thánh giá bằng sắt hay bằng đá, khắc chữ hay khảm một tấm hình nho nhỏ lồng khung kính tròn để tưởng niệm người nằm bên dưới. Sự yên tĩnh, cách biệt, thanh thản của chốn này mang vẻ sâu lắng và bí hiểm theo nhiều nghĩa, thể hiện rõ rệt nhất qua bức tượng một chú bé hài đồng hay một thiên thần nhỏ bằng đá, chắc hẳn là thần hộ mệnh của nơi này, đứng náu mình giữa đám cây xanh, chiếc mũ bằng tuyết nghiêng nghiêng trên đầu, một ngón tay đặt lên môi như muốn nói: xin hãy im lặng, nhưng đó là cái im lặng đối ngẫu với tiếng nói, là tiếng nói đã bặt đi, chứ không phải cái im lặng trống rỗng và vô nghĩa. Đối với hai người khách nam giới thì đây hẳn là một dịp thích hợp để ngả mũ cầm tay, nếu như họ có đội mũ. Nhưng vì hai người đi đầu trần, cả Hans Castorp cũng không còn là ngoại lệ, nên họ chỉ biết kính cẩn đi nhón gót, dồn hết trọng lượng cơ thể lên đầu mũi chân, thỉnh thoảng nghiêng mình như cúi chào bên phải bên trái, người nọ nối gót người kia theo hàng một với Karen Karstedt dẫn đầu.
Cái nghĩa trang nhỏ có hình dạng không đều, từ cổng vào là một dải chữ nhật hẹp trải dài về phía nam, rồi mở rộng ra cả hai phía thêm một khúc nằm ngang cũng hình chữ nhật. Rõ ràng nó đã nhiều lần phải tăng diện tích để đáp ứng nhu cầu, và được cơi nới bất cứ chỗ nào có thể. Mặc dù vậy lúc bấy giờ khoảng đất bằng phẳng có tường bao quanh cũng đã gần như kín chỗ, không chỉ dọc theo chân tường mà cả những vị trí bên trong ít được ưa chuộng cũng không chỗ nào khả dĩ có thể đặt thêm một người chen vào. Ba người khách chậm rãi loanh quanh một hồi lâu trên các lối đi hẹp giữa những hàng mộ, thỉnh thoảng dừng bước đọc một cái tên khắc vào đá cùng ngày sinh và ngày mất. Những tấm bia đá và thánh giá đều giản dị, ít cầu kỳ. Cứ theo những cái tên chạm trên đó thì người nằm bên dưới đã đến từ khắp mọi phương trời, có những cái tên tiếng Anh, tiếng Nga hoặc tiếng Slavic nói chung, cả tiếng Đức, tiếng Bồ Đào Nha và những tiếng gì gì khác nữa; tuy nhiên ngày tháng đề bên cạnh những cái tên ấy đều có một đặc điểm chung, đó là khoảng cách ngắn ngủi giữa năm sinh và năm tử, đâu đâu cũng chỉ khoảng trên dưới hai chục năm chứ hiếm khi hơn, dân cư ở đây toàn là những thanh niên thanh nữ chưa kịp bước vào đời đã từ giã cõi đời, những cánh bèo lưu lạc từ khắp nơi trên thế giới trôi dạt về đây để cuối cùng nằm đo đất vĩnh viễn ở chốn lưng chừng trời này.
Đâu đó giữa những ngôi mộ chen chúc nhau trong lòng cái truông vắng trên sườn núi, khoảng giữa bãi, có một rẻo đất trống bằng phẳng vừa đủ cho một người nằm, kẹp giữa hai ngôi mộ có vòng hoa giả quàng trên bia đá, và ba người khách không ai bảo ai bất giác dừng cả lại. Họ đứng đó, cô gái hơi vượt lên trước hai người đồng hành, chăm chú đọc những dòng số non trẻ trên các tấm bia - Hans Castorp dáng điệu thanh thản, hai tay chắp trước bụng, miệng hé mở, mắt thẫn thờ; chàng trẻ tuổi Ziemßen trong tư thế nghiêm, thậm chí còn hơi ưỡn ngực về phía trước - chẳng ai bảo ai hai người cùng tò mò đưa mắt liếc trộm xem vẻ mặt Karen Karstedt. Cô bé nhận ra ánh mắt họ và đứng lặng thinh, thẹn thùng khiêm tốn, mái đầu cúi thấp nghiêng nghiêng, môi chúm chím trong một nụ cười ngập ngừng, mắt chớp chớp liên hồi.
Núi Thần Núi Thần - Thomas Mann Núi Thần