I would never read a book if it were possible for me to talk half an hour with the man who wrote it.

Woodrow Wilson

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Dịch giả: Lê Quang
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1778 / 50
Cập nhật: 2017-05-20 08:49:37 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17 - Chu Du Thế Giới Và Những Mạo Hiểm Kỳ Thú Khác
hìn mắt quý vị, tôi không nghi ngờ quý vị quên ráo cả mệt mỏi để muốn nghe tiếp các sự kiện kỳ thú trong đời tôi. Sự quan tâm của quý vị là niềm hân hạnh lớn lao, khiến tôi không thể lấy chuyến chu du lên mặt trăng để kết thúc buổi kể chuyện hôm nay được. Vậy mời quý vị nào còn hứng thú thì nghe thêm một chuyện nữa, cũng đáng tin như chuyện vừa rồi, song có lẽ còn vượt trội về mặt độc đáo và kỳ lạ.
Cuốn “Ký sự đi Sicilia” mà tôi từng say sưa nuốt từng dòng đã gây cảm hứng cho tôi đến núi Etna. Theo ý tôi, thì trên đường đến đó không xảy ra sự kiện nào đáng để tâm cả. Có thể ai đó sẽ cho rằng một số sự kiện cực kỳ đáng chú ý và cứ thuật lại từng chi tiết cho bõ công đi đường, tuy nhiên tôi thì chẳng muốn lạm dụng lòng kiên nhẫn của quý vị tí nào.
Một buổi sáng tôi xuất hành rất sớm từ một túp lều dưới chân núi Etna, với quyết tâm sắt đá phải nghiên cứu cặn kẽ bên trong ruột ngọn núi lửa nổi tiếng này. Sau khi vất vả leo núi được ba tiếng, tôi lên đến đỉnh. Bữa đó núi lửa đang phun dữ dội, từ ba tuần trước. Về cảnh trí ở đây, nếu như có thể dùng lời để miêu tả thì đã có nhiều người miêu tả rồi, còn tôi thì đằng nào cũng là kẻ đến muộn. Còn như, theo kinh nghiệm của tôi, một khi mà không lời nào tả nổi thì tôi cũng chẳng dại để tốn thời gian cố làm một việc vừa vô vọng vừa khiến quý vị ngán ngẩm làm gì.
Tôi đi ba vòng quanh miệng núi lửa mà quý vị có thể hình dung ra như một cái phễu khổng lồ và không phát hiện được điều gì đáng nghiên cứu. Không chần chừ, tôi quyết định nhảy vào trong. Không khí nóng rừng rực đến phát sợ, và thân thể đáng thương của tôi bị các tảng nham thạch nung đỏ bắn từ dưới sâu lên làm bầm giập cháy sém ở nhiều chỗ nên nói ra không nên nói ra. Nguy cơ bị luồng than nóng thổi bắn lên khá lớn, nhưng trọng lượng riêng kéo tôi rơi xuống còn lớn hơn nhiều, và rút cuộc tôi nhanh chóng đặt chân xuống đáy vực an toàn. Ấn tượng đầu tiên tôi cảm nhận được là tiếng ầm ầm hỗn loạn, tiếng kêu than nức nở như xoáy quanh và nhấn chìm tôi. Tôi mở mắt, và nhìn kìa! Tôi đang đứng bên Thần núi lửa và đám người khổng lồ một mắt của ngài. Những hình nhân mà lúc đầu óc tỉnh táo tôi sẽ xếp ngay vào mục chuyện bốc phét, suốt ba tuần nay họ cãi cọ phân chia trên dưới và do đó đã cho thế giới bên trên chứng kiến hậu quả. Sự hiện diện của tôi lập tức khiến trật tự và hòa bình được tái lập. Thần núi lửa lập cập đi cà nhắc đến mở tủ lấy ra thuốc mỡ và bông băng, tự tay chăm sóc các vết thương của tôi, và trong nháy mắt người tôi lành lặn trở lại. Ngài còn mời tôi đồ giải khát, một chai nước quả và các loại rượu vang hảo hạng mà chỉ các thần linh mới được phép nhấp môi. Sau khi nghỉ ngơi một lát, ngài giới thiệu tôi với vợ là thần Vệ Nữ và sai vợ làm mọi thứ để tôi có điều kiện ăn ở thoải mái. Tôi được nàng dẫn vào một căn phòng tuyệt đẹp, đặt ngồi lên chiếc ghế đệm êm ái gợi cảm. Vẻ mê hoặc thiên thần của nàng, sự dịu dàng từ trái tim nồng ấm của nàng – tất cả vượt quá ngàn lần khả năng diễn tả của ngôn ngữ, và chỉ cần hồi tưởng lại cũng đủ làm tôi mê mẩn tâm thần. Thần núi lửa trình bày cho tôi biết chi tiết ngọn núi Etna. Ngài nói, Etna kỳ thực là một núi tro bụi phun ra từ ống khói nhà bếp, và trong cơn thịnh nộ ngài thường xuyên phải ra tay trừng phạt đám quần thần bằng cách ném than hồng lên người chúng, nhưng chúng chống đỡ rất cừ và làm bắn tung các thứ lên thế giới bên ngoài. Những xung đột đó, như ngài nói, đôi khi kéo dài hàng tháng, và các hiện tượng mà người trần mắt thịt trên kia được chứng kiến vẫn gọi là núi lửa phun. Núi Vesuvius cũng là một trong các xưởng của ngài, và tôi được đưa tới đó, theo một lối đi rộng ít nhất ba trăm năm mươi dặm xuyên dưới đáy biển. Cả ngọn núi Vesuvius cũng là nơi những vụ lộn xộn gây ra nham thạch phun trào.
Tôi rất thỏa mãn với những trình bày của Thần núi lửa, song còn thích ở cạnh vợ của ngài hơn, và có lẽ chẳng bao giờ tôi muốn rời khỏi những cung điện ngầm này nếu không có mấy kẻ thối mồm rỉ tai ngài những lời ti tiện, làm bùng cháy ngọn lửa ghen tuông trong trái tim vốn nhân hậu của ngài. Một buổi sớm mai, trong khi tôi đang định giúp thần Vệ Nữ sửa soạn xiêm y, ngài không hề tỏ một ý gì cho tôi biết trước mà lôi tôi đến một căn phòng chưa bao giờ nhìn thấy, giữ tôi trên miệng một cái giếng sâu hun hút và nói: “Kẻ người trần mắt thịt vô ơn, hãy trở về thế giới nơi mi vẫn sống!” Nói xong, không để tôi kịp thốt một lời bào chữa, ngài thả luôn tôi xuống vực thẳm. Tôi rơi mãi, rơi mãi, ngày càng nhanh, đến khi nỗi sợ hãi khiến tôi ngất đi. Đột nhiên tôi tỉnh lại và thấy mình ở giữa một biển nước mênh mông rực rỡ ánh dương huy hoàng. Từ trẻ tôi đã bơi tựa rái cá cũng như thành thạo mọi nghệ thuật dưới nước, do đó tôi cảm thấy như đã về đến nhà. So với tình cảnh đáng sợ mà tôi vừa thoát ra được thì lúc này tôi sướng như bước vào thiên đường. Tôi ngó quanh, nhưng ngán thay, không thấy gì ngoài nước và nước, khí hậu lúc này cũng rất khó chịu chứ không ấm áp như trong ống khói của Thần núi lửa. Lát sau tôi phát hiện ra một thứ gì đó, trông xa như tảng đá khổng lồ và hình như đang tiến lại phía tôi. Lúc đến gần, tôi nhận ra đó là núi băng trôi, rồi tìm một lúc lâu thì tôi cũng thấy một chỗ để trèo rồi leo tận đến đỉnh. Tôi vô cùng tuyệt vọng, vì ở độ cao này cũng chẳng thấy được đất liền. May thế chứ, trước khi trời sập tối tôi đã thấy một tàu thủy thủ đi về hướng mình. Đợi khoảng cách đủ ngắn, tôi gào lên kêu cứu. Người ta trả lời bằng tiếng Hà Lan. Tôi nhảy xuống biển, bơi ra tàu và được kéo lên boong. Tôi hỏi mình đang ở đâu thì được biết là đang trên vùng biển Nam Thái Bình Dương, và thế là tôi hiểu ra tất cả. Thì ra tôi đã rơi từ đỉnh núi Etna, xuyên qua tâm trái đất đến biển Nam Thái Bình Dương – ít nhất thì quãng đường đó cũng ngắn hơn là đi vòng quanh thế giới. Trước tôi chưa hề có ai từng làm điều đó, và giờ mà nếu có dịp gặp lại thì tôi nhất định sẽ quan sát tỉ mỉ hơn. Tôi uống vài ngụm để giải khát rồi đi ngủ.
Dân Hà Lan cũng là giống người thô lậu. Tôi thuật lại chuyến phiêu lưu của mình cho các sĩ quan nghe, kể một cách đơn giản như cho các quý vị đây, vậy mà có mấy người, đặc biệt là viên thuyền trưởng, tỏ ý nghi ngờ sự trung thực của tôi. Dù vậy họ vẫn thân mật đón tiếp tôi trên tàu, còn tôi, do phải phụ thuộc vào lòng tốt của họ nên muốn hay không thì cũng phải ngậm miệng nín nhịn. Tôi hỏi tàu đi đâu và được biết họ đang làm một chuyến thám hiểm, và nếu chuyện của tôi là sự thật thì mục đích chuyến đi coi như đã hoàn thành. Tàu đi trên tuyến đường do thuyền trưởng Cook đã vạch ra và sáng sớm hôm sau thì đến vịnh Botany, nơi triều đình Anh không đày các phạm nhân đến để chịu hình phạt, mà cử những người có công lao đến để thưởng công – với núi tặng phẩm hảo hạng được thiên nhiên hào phóng ban cho ở đây.
Chúng tôi chỉ dừng chân có ba ngày. Ngày thứ tư sau khi nhổ neo, một trận bão khủng khiếp nổi lên, và trong vòng vài giờ đã xé nát mọi cánh buồm, bẻ gãy thanh sào đầu mũi tàu và thổi bay thanh treo buồm chính, khiến nó rơi đúng hộp đựng la bàn và nghiền nát tất cả. Ai từng đi biển sẽ biết sự mất mát đó có hậu quả bi thảm ra sao. Chúng tôi không biết tiến thoái ra sao nữa, trong khi gió vẫn tiếp tục gào rú.
Sau ba tháng trời trên biển, đồng nghĩa với một quãng đường dài dằng dặc đã đi qua, bỗng nhiên chúng tôi nhận thấy một sự biến đổi kinh ngạc ở mọi thứ xung quanh. Những mùi hương ngọt ngào tràn đầy cánh phổi, ngay cả nước biển cũng chuyển màu, từ xanh lá mạ sang trắng. Tiếp theo sự đổi thay kỳ diệu đó là đất liền hiện ra, và tàu đi thẳng vào một hải cảng vừa rộng vừa sâu. Thay vì nước mặn, chúng tôi đi trên biển sữa thơm phức. Tàu cập bến, và cả hòn đảo là một khối phô ma khổng lồ. Lẽ ra chúng tôi cũng chẳng nhận ra điều đó, nếu như không có một sự kiện đặc biệt xảy ra. Số là trên tàu có một thủy thủ bị dị ứng bẩm sinh với phô ma. Anh này vừa đặt chân lên bờ thì lăn ra co giật rồi ngất xỉu. Lúc tỉnh lại, anh ta nhờ mọi người vứt tảng phô mai dưới chân mình đi. Mọi người mới cúi xuống nhìn, thì ra anh thủy thủ nói đúng: như đã nói ở trên, cả hòn đảo chẳng là gì khác ngoài phô ma. Cư dân ở đây cũng chủ yếu sống bằng phô ma, ban ngày họ ăn đi bao nhiêu thì đêm đến phô ma lại mọc bù lại bấy nhiêu. Chúng tôi còn thấy rất nhiều cây nho với những chùm nho nặng trĩu, bóp ra toàn sữa.
Cư dân trên đảo là những sinh vật xinh đẹp, đi thẳng lưng, thường cao khoảng hai thước, có ba chân và một tay. Và khi đã trưởng thành thì họ có một sừng trên trán và biết sử dụng nó vô cùng khéo léo. Họ chạy thi trên bề mặt sữa hoặc đi lại mà không bị chìm, chẳng khác gì chúng ta chạy nhảy trên đồng cỏ. Trên đảo, hay đúng hơn là trên nền phô ma, có trồng cả lúa với bông lúa hình nấm, trong đó là bánh mì đã nướng chín có thể ăn ngay được. Trong khi đi tới đi lui trên đảo, chúng tôi phát hiện ra bảy con sông sữa và hai con sông rượu nho. Chúng tôi đi mất mười sáu hôm thì đến bờ biển phía đối diện. Cả một dãy bờ biển dài là phô ma xanh, vốn là đặc sản hạng nhất trong các loại phô ma. Trên nền ấy mọc vô vàn các cây ăn quả quý hiếm, nào là đào, là mơ, và hàng ngàn loại khác nữa mà chúng tôi không biết tên. Trên những cây cao vút đó có rất nhiều tổ chim. Chúng tôi đặc biệt chú ý đến một tổ chim bói cá có chu vi lớn gấp năm lần mái vòm của nhà thờ Thánh Paul ở London. Nó được đan bằng những thân cây nhiều người ôm không xuể, và trong tổ có – quý vị đợi tôi một lát, tôi đã quen nói gì cũng phải chính xác – tối thiểu năm trăm quả trứng, quả nào cũng to bằng cái thủ lợn. Không chỉ nhìn thấy đám chim non, chúng tôi còn nghe chúng hót líu lo.
Vất vả lắm chúng tôi mới bửa được một quả trứng ra. Một con chim non trần trụi chui ra, to bằng hai chục con diều hâu trưởng thành. Chúng tôi vừa thả nó ra thì con chim mẹ hạ xuống, quắp lấy vị thuyền trưởng của chúng tôi rồi bay vút lên cao đến một dặm. Nó đập cánh phần phật lên người ông ta rồi thả ông ta rơi xuống biển.
Người Hà Lan ai cũng bơi giỏi như cá, nên chẳng mấy chốc ông ta bơi vào đến bờ và chúng tôi trở lại tàu. Nhưng chúng tôi không đi lối cũ, do đó còn phát hiện thêm nhiều thứ kỳ diệu hơn nữa. Chẳng hạn như chúng tôi bắn hạ hai con bò rừng chỉ có một sừng mọc giữa hai mắt. Sau đó chúng tôi cũng thấy ân hận vì đã sát hại chúng, khi biết cư dân ở đây đã thuần hóa chúng để cưỡi và chuyên chở, giống như chúng ta nuôi ngựa vậy. Người ta kể rằng thịt của chúng cực ngon, tuy chẳng ai ăn vì dân ở đây toàn sống bằng sữa và phô mai. Khi đi xa tàu chừng hai ngày đường, chúng tôi bắt gặp ba người bị buộc cẳng treo lên cây cao. Tôi hỏi họ có tội gì mà phải chịu hình phạt khắc nghiệt như vậy, thì được biết đó là những người từng đi xa, lúc quay về nhà họ đã lừa dối bạn bè, miêu tả những địa điểm mà họ chưa bao giờ nhìn thấy, kể những điều chẳng hề xảy ra. Tôi thấy hình phạt đó rất công bằng, vì nghĩa vụ cao cả nhất của người từng đi chu du là tôn trọng sự thật. Về đến tàu, chúng tôi nhổ neo và rời khỏi xứ sở diệu kỳ này. Tất cả các hàng cây bên bờ biển, trong đó có một số rất cao, đồng loạt nghiêng mình hai lần chào chúng tôi rồi lại quay về tư thế cũ. Tàu đi loanh quanh được ba hôm – vì thiếu la bàn nên có trời mới biết chúng tôi đang ở đâu – thì vào một vùng biển đen kịt. Chúng tôi nếm thử một ngụm nước, té ra đó là rượu vang hạng nhất. Ngay lập tức chúng tôi đề nghị các thủy thủ phải giữ mình, cấm được say sưa. Niềm vui cũng chẳng được lâu, mấy giờ sau chúng tôi sa vào giữa một bầy cá voi và các loài vật khổng lồ khác, trong đó có một con mà chúng tôi dùng mọi loại ống nhòm cũng không thấy hết được đến đuôi nó. Thật không may, chúng tôi phát hiện ra quái vật đó khi đã tiến đến quá gần, thế rồi đột nhiên cả con tàu bị hút tụt vào mõm nó, giữa hai hàm răng to đến mức cột buồm của chiếc tàu chiến lớn nhất chẳng khác cái tăm. Con tàu nằm gọn trong mõm nó một lát thì quái vật ngoác họng hút vào một lượng nước khủng khiếp, khiến tàu bị cuốn trôi vào dạ dày như một miếng mồi bé xíu, chắc quý vị dễ dàng hình dung ra cảnh đó. Ở đây thì tàu nằm im ắng như đã thả neo trong vùng nước kín gió.
Không thể không nhận thấy rằng không khí ở đây khá ấm và khó thở. Chúng tôi nhìn quanh, phát hiện ra vô số thứ bị quái vật này nuốt vào bụng: mỏ neo, thừng chão, thuyền to thuyền nhỏ chở đầy hàng hoặc trống không… Hây dà, nhất cử nhất động thế là đều diễn ra trong ánh đuốc; đối với chúng tôi chẳng còn tồn tại mặt trời, mặt trăng và các hành tinh khác nữa. Khi quái vật uống nước thì chúng tôi chịu lụt, nó phun nước ra thì tàu mắc cạn. Theo tính toán không chính xác lắm thì nó uống một lượng nước nhiều hơn hồ Genève với chu vi ba mươi dặm.
Bị cầm tù tới ngày thứ hai trong vương quốc bóng đêm, tôi lợi dụng thủy triều xuống – theo cách gọi của chúng tôi lúc tàu chạm đáy – để liều mạng cùng thuyền trưởng và vài sĩ quan đi thám thính, tất nhiên ai cũng phải trang bị đuốc. Chúng tôi đã bắt gặp hàng chục ngàn người từ đủ mọi quốc gia cũng đang bàn bạc phương cách tìm lại tự do. Không ít người trong số họ đã sống trong dạ dày cá mấy năm rồi. Đúng lúc người chủ trì định thông báo cho chúng tôi lý do hội nghị thì con cá khốn kiếp khát nước và bắt đầu uống. Nước ào ạt tuôn vào, khiến ai nấy ba chân bốn cẳng chạy ngay về tàu, nếu không muốn bị chết đuối. Một số người thoát nạn trong gang tấc nhờ biết bơi. Mấy tiếng sau chúng tôi mới hoàn hồn, đợi quái vật phun nước ra để họp mặt trở lại. Tôi được bầu làm chủ tịch và đưa ra đề nghị buộc nối hai cột buồm lớn nhất làm một, đợi quái vật há mõm ra là chống lên, không cho nó ngậm mõm lại. Mọi người tán thưởng đề nghị đó và lựa ra một trăm đàn ông lực lưỡng nhất để thực thi nhiệm vụ này. Chúng tôi vừa buộc xong hai cột buồm thì cũng có ngay cơ hội sử dụng. Quái vật ngáp, thế là chúng tôi dựng ngay cây gỗ lên, khiến một đầu xuyên qua lưỡi nó, chống xuống hàm dưới còn đầu kia đẩy lên hàm trên, quả thực nó không thể nào ngậm mõm lại được, ngay cả khi cây cột của chúng tôi yếu hơn chăng nữa.
Mọi việc diễn ra nhanh chóng trong dạ dày cá, chúng tôi leo lên mấy chiếc thuyền và chèo ra ngoài. Ánh sáng ngoài trời khiến chúng tôi hạnh phúc tột bậc sau thời gian bị cầm tù phải đến mười bốn ngày chứ không ít. Sau khi tất cả mọi người thoát khỏi cái dạ dày to tướng, chúng tôi tập hợp một hạm đội gồm ba mươi lăm tàu thủy từ mọi quốc gia. Chúng tôi cứ để lại cột buồm mắc trong mõm quái vật nhằm tránh cho những người khác không bị rơi vào vực thẳm tăm tối tanh ngòm ấy nữa.
Nguyện vọng đầu tiên của mọi người là biết mình đang ở đâu trên thế giới này, và thoạt tiên ai nấy đều ngơ ngác không tìm ra giải đáp. Rốt cuộc, tôi dựa vào quan sát để xác định là chúng tôi hiện đang ở biển Caspi. Do biển này nằm gọn trong đất liền và không có đường nối với các biển khác nên không ai hiểu nổi tại sao mình bị đưa đẩy tới chốn này. Chỉ có một cư dân từ đảo phô ma mà tôi đem theo có thể đưa ra lời giải thích khá lọt tai. Theo ý anh ta, con quái vật từng giam chúng tôi trong dạ dày đã đến đây theo một đường hầm nào đó dưới đất. Đằng nào thì chúng tôi cũng đã ở đây, vậy thì hãy vui mừng vì đã ở đây, trước khi nhanh chóng mà đi vào đất liền. Tôi là người đầu tiên đặt chân lên bờ.
Tôi vừa tiếp đất thì một con gấu to tướng nhảy xổ đến. Được đấy, tôi nghĩ bụng, mày đến rất vừa vặn! Mỗi tay tôi tóm một bàn tay gấu và bắt tay chào đón thật chặt, khiến nó rú lên thảm thiết. Không chút thương hại, tôi giữ nó trong tư thế ấy cho đến khi nó chết đói. Từ đó trở đi toàn bộ loài gấu kính sợ tôi một phép, không con nào dám quấy rầy tôi nữa. Tôi đi từ đó về
Saint Peterburg và nhận từ tay một ông bạn cũ món quà mà tôi vô cùng trân quý: một con chó săn, hậu duệ của con chó mẹ nổi tiếng như tôi đã kể cho quý vị nghe, đúng rồi, chính con chó đã đẻ một lứa trong khi săn thỏ ấy.
Thật đáng tiếc là sau đó ít lâu nó bị một gã thợ săn hậu đậu bắn chết khi nó đang chặn một đàn gà rừng. Để tưởng nhớ nó, tôi sai lấy bộ da của nó để may chiếc gi lê này, và mỗi khi tôi đi săn, chiếc áo luôn dẫn tôi đến đúng chỗ có thú rừng. Khi tôi đã ở khoảng cách đủ gần để nổ súng thì một chiếc khuy áo bắn tung ra và rơi đúng chỗ con thú. Và vì súng tôi khi nào cũng lên đạn sẵn sàng nên chẳng thú rằng nào thoát khỏi tay tôi được. Các vị thấy đấy, giờ tôi chỉ còn lại ba cái khuy áo, nhưng khi mùa săn bắn bắt đầu thì kiểu gì mà chẳng phải đính đủ lên áo hai hàng khuy mới.
Mời quý vị quay lại nhà khi có dịp, nhất định chúng ta không bao giờ thiếu chuyện để hàn huyên. Bây giờ thì đã khuya rồi chúc quý vị một đêm ngon giấc.
Những Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Thú Của Nam Tước Munchausen Những Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Thú Của Nam Tước Munchausen - Gottfried August Bürger Những Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Thú Của Nam Tước Munchausen