A good book should leave you... slightly exhausted at the end. You live several lives while reading it.

William Styron, interview, Writers at Work, 1958

 
 
 
 
 
Tác giả: Jasmine Oliver
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: Prada Princess
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 16
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1107 / 3
Cập nhật: 2017-08-25 12:50:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4
ob đâu rồi?” vào sáng thứ Sáu, trước khi đi Paris, Frankie đâm bổ vào phòng kỹ thuật của trường và va sầm vào Lee Wright. “Ôi thôi chết, em quên mất... Rob nghỉ rồi mà!”
Lee không kịp tránh cú va chạm tốc độ cao của Frankie. Anh chàng cười tít khi giỏ xách của Frankie rơi ụp xuống và đồ đạc bên trong văng tóe ra sàn. Hai người cùng nhau cứu vớt đám lược chải tóc, điện thoại di động, hộ chiếu và tiền xu.
“Cảm ơn anh!” Frankie lí nhí, bò lồm cồm trên sàn. “Em cần một cái kẹp nhỏ xíu. Rob cất nó trong ngăn kéo thì phải.”
Lee thảy những đồng xu cuối cùng vào giỏ xách của Frankie rồi lục tìm, “Phải cái này không?”
“Cảm ơn. Mà anh cười cái gì vậy?” cô cật vấn.
“Anh có cười gì đâu. Tạm biệt em, Frankie!” Lee thủng thỉnh đi khỏi và tạt qua đầu kia phân xưởng, tán gẫu với Suzy Atkins, nữ sinh viên thời trang lắm chuyện năm hai.
Có gì mà cười chứ? Frankie tự hỏi. Cô dùng kìm để siết chặt mấu nối của mẫu vòng đeo cánh tay mà cô đang thiết kế trong dự án làm chung với Sinead.
“Đây mới chỉ là ý tưởng sơ bộ thôi,” Frankie giải thích, đưa cái vòng đeo cánh tay cho Sinead ở thư viện lầu trên cùng. “Em để nó ở đây cho chị nhé?”
“Ừ!” Sinead đã vào trường từ sớm và đang mày mò tìm thêm những mẫu vẽ trên cơ thể. Cô ngước lên nhìn Frankie, “Em không nên đi Paris thì hơn.”
“Cho em một cơ hội đi mà! Em sẽ bay tới sân bay Charles de Gaulle lúc ba giờ chiều nay,” Frankie khoái những âm thanh này quá chừng: Em bay... tới sân bay Charles de Gaulle! Cô uốn cho câu nói ấy cuộn quanh đầu lưỡi.
“Thế thì biến đi!” Sinead thở dài. “Nhớ chụp hình đấy. Chị mê Paris điên lên được!”
“Đương nhiên rồi, ai chẳng mê! Tháp Eiffel. Nhà thờ Đức Bà. Những chàng trai vạm vỡ dưới lớp áo thun sọc trắng xanh và mũ nồi. Đúng vậy không?”
“Úi trời!” Sinead giễu cợt. “Chơi cho đã đời vào đi!”
“Chắc rồi!” Frankie đáp, phóng ù đi.
Một giờ sau đó, khi đã tiếp thu xong những phần việc chi tiết phải làm từ cô tiếp tân khinh khỉnh tại trụ sở Bed-Head, tranh thủ uống một chút cà phê sữa ở quán Costa, Frankie tới làm thủ tục tại sân bay.
Thành thực mà nói, cô nghĩ khi ngồi ở phòng chờ, mình quá vui sướng vì được tếch đi trong vòng hai mươi bốn tiếng.
Một chàng trai ngồi ở ghế đối diện - da sậm nâu, cơ bắp cuồn cuộn, tóc dài cháy nắng - sỗ sàng dán mắt vào chiếc quần soóc hippi hơi trễ lưng, sơ mi trắng ngắn cũn và đôi giày đế xuồng bọc vải to sụ của Frankie.
Cô lờ tịt anh ta. Áp lực, áp lực quá! cô mải suy nghĩ. Tại ngôi nhà nơi quảng trường Walgrave, Sinead chắc đang lo sốt vó về cuộc triển lãm cuối năm, về mối tình với Travis, về trọng lượng cơ thể - nói chung là đang rối như tơ vò.
“Quý khách chuyến bay BA đi Paris, sân bay Charles de Gaulle, vui lòng vào cổng số 21 để bắt đầu lên máy bay!”
Frankie túm lấy mớ đồ đạc của mình. Giờ thì lại đến lượt Marina tội nghiệp! cô miên man. Thật khó mà biết được lúc nào Marina gặp rắc rối - Marina thường không bộc lộ qua nét mặt, qua cử chỉ, hay qua ngôn ngữ như kiểu Sinead - tuy cô bạn đã tỉ tê cho Frankie nghe chuyện bố mình bị mất liên lạc, nhưng sau đó lại nhún vai bảo rằng đấy chỉ là tình trạng tạm thời, thế thôi.
“Tao dám cá là... mẹ chẳng muốn tao về nhà,” Marina đã thổ lộ như vậy khi ngồi bên mép giường Frankie đêm qua.
“Chắc tại bác ấy biết chị còn nhiều việc phải làm,” Frankie bảo.
Nhưng Marina lắc đầu, “Không phải thế. Quan điểm giải quyết khó khăn của mẹ tao là không cho con cái dính vào. Mẹ nghĩ hai chị em tao không thể xử trí được, như thể bọn tao là lũ trẻ lên năm.”
Sẵn đà, hai người nói xấu các bà mẹ một lúc.
“Mẹ Sinead luôn cư xử với nó như chị em - lôi nó vào tất tần tật những chuyện xảy ra trong cuộc sống của bà ấy,” Marina mở màn.
“Ờ, nhưng em chả thích thế,” Frankie nhận thấy bà Daniella Harcourt am hiểu thời trang và cực sành điệu, nhưng cách cư xử của bà lại không phải là điều mà những đứa con vẫn trông chờ ở mẹ mình. Với người phụ nữ ấy, tai ương hay khủng hoảng dường như luôn chực chờ.
Marina gật đầu, “Mẹ tao thì khác hẳn - phải moi móc mãi mẹ mới ‘nhả’ thông tin ra. Cứ như nặn máu từ tảng đá không bằng.”
“Mẹ em nằm đâu đó giữa hai cực ấy,” Frankie kết luận, sực nhớ ra mình thậm chí còn chưa có thời gian gọi điện kể cho mẹ nghe về chuyến đi chụp hình mẫu này.
Con đang đi Paris - cô gửi tin nhắn rồi tắt điện thoại, bước lên máy bay.
Anh chàng có nước da sậm đẩy ba lô vào khoang hành lý phía trên đầu rồi nhét khối cơ bắp vào chỗ ngồi bên cạnh Frankie.
Không có tin tức gì cả. Marina kiểm tra tin nhắn trong điện thoại trước khi vào phòng vẽ. Chiều nay không có giờ học chính thức nhưng cô muốn vẽ nốt bức tranh màu phấn đã khởi công hồi đầu tuần.
Không có tin gì nghĩa là mọi thứ vẫn bình thường, ngoại trừ trường hợp điện thoại của bố bị mất sóng tại một đất nước bất ổn, nhung nhúc bọn khủng bố và lũ cuồng tín, chưa kể dịch châu chấu như trong Kinh Thánh đã từng nói.
“Em có biết tác phẩm của Lucien Freud không?” thầy Jack Irvine chẳng biết từ đâu hiện ra, thình lình cất tiếng hỏi.
Marina đoán rằng thầy suốt đời chỉ diện toàn loại quần rộng thùng thình, vấy màu vẽ nhoe nhoét và cái áo thun cũ kỹ. Bộ râu quai nón màu xám của thầy được điểm xuyết thêm vài sọc màu hoàng thổ và xanh thẫm. “Dạ không,” cô đáp, nhặt một cây cọ chấm màu nâu đen của đất sét nung và chuẩn bị phác nền cho bức tranh mình sắp vẽ.
“Em nên xem tranh của ông ấy,” thầy Jack nói. “Ông ấy thường chăm chút đến từng chi tiết và điểm nhấn đậm đà mà thầy tin là em sẽ thích.”
“Lucien Freud... Có họ hàng gì với Sigmund [1] không thầy?” Marina hỏi, vẫn theo mạch chuyện phiếm. Thầy Jack suốt ngày chỉ biết làm việc và làm việc. Sao thầy không thể tếu táo hoặc xã giao về thời tiết này nọ lấy một lần cơ chứ?
“Ờ, chắc là có.”
Bực mình quá đi mất, Marina nghĩ. Thầy đừng có ngó qua vai em như chú lùn cáu kỉnh trong truyện Bạch Tuyết và bảy Chú Lùn chứ. Hê-hô, hê-hô, chúng ta đi làm nào!
Thầy Jack săm soi những nét Marina vừa vẽ xong. “Thầy nghĩ em nên chuyển qua Mỹ thuật,” thầy thì thào. “Nhưng trước tiên em cần thu thập hồ sơ để hợp thức hóa cái đã.”
Marina trố mắt nhìn thầy, “Em sẽ suy nghĩ về ý kiến này!” cô nói.
“Bọn mình nói chuyện được không?” Travis hỏi Sinead.
Anh chàng lăng xăng tới nhà cô sau giờ tan học để xem cô thế nào sau cú bất tỉnh nhân sự hồi tối qua.
“Anh có mang theo cái máy quay không?”
“Không.”
“Thế thì nói.”
Sinead ngủ nướng mãi cho đến khi Marina và Frankie đã đi học cả. Vừa bước ra khỏi giường, việc đầu tiên cô làm là nhảy ngay lên cái cân. Tuyệt - cô đã ngót thêm gần nửa ký lô.
Travis dọn dẹp xấp giấy phác thảo của Sinead rồi tót lên ngồi sát cô trên xô-pha. “Tí nữa bọn mình vào phố nhé?”
Sinead hít một hơi thật sâu, “Em không biết. Em không còn tâm trí đi đâu vào lúc này. Đang tối mắt tối mũi đây.”
Bỗng cô nhớ ra hôm nay là thứ Sáu, thế mà cô lại lạnh lùng trước đề nghị của người yêu. “OK, thế anh muốn đi đâu?” cô nói.
Travis đáp ngay, “Mình tới một quán ăn Thái, sau đó nhập bọn với Rob và Marina.” Nhưng vừa buông từ “ăn” ra khỏi miệng, anh chàng bất thần nhận ra từ này có thể đẩy Sinead tới một trận tuyết lở những lý do từ chối - Không có thời gian. Em không thích món Thái. Em ăn rồi, cảm ơn anh. - mà trong số những lý do đó, chẳng có lý do nào đúng sự thật.
Nhưng “Em không đói!”, Sinead chỉ nói gọn lỏn thế.
Ngay tức khắc Travis đổi đề tài, “Thế em và Frankie định khi nào chụp hình để triển lãm?”
Sinead hôn một cái lên má Travis vì đã buông cô khỏi cái móc câu ăn uống, “Có lẽ thứ Tư hay thứ Năm tuần sau.” Tới lúc đó cô nhắm mình sẽ ngót thêm được nửa ký hay một ký, vậy thì camera sẽ chẳng có cơ hội mà bập trúng những chỗ phì nộn khó coi. Và đường nét cơ thể cô sẽ rất ăn đèn cho mà xem.
“Để anh chọn phim và chuẩn bị ánh sáng phòng chụp,” Travis hứa, xán vào mong nhận một nụ hôn “chất lượng” hơn.
Khi hai người áp sát hơn, đôi mắt nâu nhạt của Sinead nhòa đi, miệng cô mềm mại và làn da êm như nhung. Trời ơi, Travis không thể cưỡng lại được, anh đã yêu cô thật rồi.
Tại sân bay Charles de Gaulle, vừa xuống khỏi máy bay, Frankie bước qua con đường trải nhựa và tiến vào mạng lưới băng chuyền thập niên sáu mươi, cố đi thật nhanh để kịp về khách sạn trước khi trời tối. Cô nhảy lên một chuyến tàu vào nội ô Paris, để rồi chợt nhận ra anh chàng tóc vàng vạm vỡ với cái ba lô căng phồng vẫn tò tò bám sát gót mình.
Anh ta đứng ngay cạnh Frankie trong toa tàu lắc lư. “Anh đi theo tôi đấy à?” cô nói bằng giọng công tố viên buộc tội.
“Giá như em muốn vậy,” giọng dân gốc Úc, mà cũng có thể là dân xứ Kiwi, trầm đục, có nụ cười ấm áp đi kèm.
“Anh làm gì ở Paris?’ Frankie hỏi, ngất ngây trong nụ cười ấy.
“Chỉ quá cảnh thôi. Anh đang trên đường tới Rome để thăm em trai. Còn em?”
Đoàn tàu xình xịch đi qua vùng ngoại ô thành phố - xám xịt và lụp xụp, bao phủ đầy graffiti như bất kỳ thành phố nào khác. “Làm việc,” Frankie đáp. Khách sạn của cô nằm ở Montmartre. Buổi chụp hình bắt đầu lúc sáu rưỡi sáng hôm sau trên những bậc thang nhà thờ Sacré Coeur.
“Nhưng mà trông em như chưa đến tuổi làm việc ấy. Chắc em là sinh viên tự do, không thuộc lực lượng lao động vĩ đại toàn cầu.”
“Em làm bán thời gian,” cô giải thích khi xe lửa lịch xịch dừng lại ở Gare du Nord.
“Em làm gì?” anh chàng đeo ba lô vai u thịt bắp lại hỏi.
Frankie tóm lấy cái giỏ xách đang nằm dưới sàn và lẳng qua vai. Cửa xe lửa trượt mở. “Anh sẽ chẳng tin đâu!” cô cười tươi rói, nghĩ bụng rằng uống một tách cà phê Espresso với anh ta, bằng những cái tách hạt mít màu xanh lá cây viền vàng, trước khi làm thủ tục ở khách sạn cũng đâu phải là ý tồi.
Rob gõ cửa phòng hình họa, “Anh vào được không?” anh nói to với Marina qua khung kính nhỏ.
Marina gật đầu. “Tiếc quá... chả có người mẫu nuy cho anh lé con mắt chơi,” cô bảo anh.
“Vớ vẩn!” anh bước tới đằng sau cô và chiêm ngưỡng tác phẩm cô đang vẽ, “ Woa,... Hết ý!”
Cô lùi khỏi giá vẽ, “Anh rõ khéo nịnh.”
“Không, anh nói thật mà. Lồng nó vào khung mà đem bán đi. Rồi thì lấy tiền ấy mà sắm sửa cho anh, cho anh mặc kiểu...”
“... kiểu mà anh vẫn hay mặc chứ gì!” cô cười. “Nhìn anh kìa! Chả có tẹo nào gọi là phong cách hết!” Đặt mớ cọ vẽ xuống, Marina dọa sẽ ịn những ngón tay lem luốc vào mặt Rob.
Rob nhìn xuống chiếc áo jacket da sờn vẹt của mình, “Ý em là sao? Anh sẽ theo đuổi Boho-chic [2] đến cùng đấy nhé!”
“Quái xế địch thủ đáng gờm thì có.”
“Hay James Dean nổi-loạn-vô-duyên-cớ.”
“Hoặc Bố già Marlon Brando trên đất cảng,” cả hai liệt kê một loạt những bộ phim họ ưa thích của thập niên năm mươi.
“Bọn mình đi thôi!” Rob nắm tay Marina và lôi tuột cô ra khỏi phòng vẽ. Anh ngoái ra sau nhìn người yêu đang đầu bù tóc rối, quần áo xuề xòa, lem nhem màu vẽ.
“Em khác nhiều so với hồi bọn mình mới quen nhau,” Rob bảo cô.
“Tốt hơn hay xấu đi?” Marina đã biết tỏng câu trả lời, nhưng dù sao cũng hả lòng hả dạ khi được nghe chính miệng Rob nói ra.
“Lại đây nào,” Rob nói khẽ, quay hẳn người lại và ôm chặt lấy cô. “Tốt nhất. Anh đã kể với em là anh đi gặp một ông ở đài phát thanh địa phương chưa nhỉ?”
“Cái ông có liên quan đến con chó ấy hả?” cô nhớ lại, đắm đuối trong cảm xúc và mùi áo jacket của Rob.
“Về một chương trình đêm khuya trước khi diễn ra chương trình giới thiệu những ban nhạc mới. Ông ấy là nhà sản xuất.”
Marina lùi lại, dò xét gương mặt Rob xem anh có nghiêm túc không, “Nghĩa là...?”
“Anh lọt vào danh sách sơ tuyển rồi. Em yêu ơi, bọn mình ăn mừng đi!”
Đang ở Paris với một chàng Kiwi vạm vỡ - Frankie nhắn tin cho Marina trước, xong rồi nhắn cho Sinead.
“Frankie đang ở Paris với một thằng Kiwi!” Sinead thông báo cho Marina khi hai người tình cờ gặp nhau ở Escape. Đã mười rưỡi rồi. Sinead và Travis đã tóm được Marina với Rob khi hai người đang ăn mừng trong quán mà Marina làm thêm.
“Biết rồi. Nó cũng nhắn tin cho tao.”
Sinead ngồi xuống bên quầy, “Đây đã gọi cho nó. Thằng đó tên là Ian. Chơi bóng bầu dục. Ở nhà đã có tin tức gì về bố mày chưa?”
Marina lắc đầu. Dù không muốn đả động tới chuyện ấy nhưng đầu óc cô cứ liên tưởng tới tình huống xấu nhất. Nhớ lại tất cả những mẩu tin thời sự về cảnh con tin bị bịt mắt, hai tay trói giật cánh khuỷu, sang đến nạn đói, động đất, dịch bệnh, không thiếu thứ gì... Marina đâm ra lo sợ rụng rời tay chân.
“Mày gọi cho mẹ đi,” Sinead thúc giục.
“Không được. Phải chờ mẹ gọi thôi.”
Sinead gật đầu, “Ừ, sẽ ổn thôi. Các ông bố bà mẹ vẫn thường làm thế với con cái - họ xoắn óc bọn mình, khiến bọn mình phải lo thót cả tim. Thế rồi họ gọi và bất thình lình mọi chuyện lại đâu vào đấy!” Mẹ Daniella vẫn hay đối xử với cô kiểu ấy, cứ hai ngày một lần.
“Mày nói chí phải,” Marina tán đồng. Bố cô thể nào mà chả biết tự lo cho mình. Lúc nào đi công tác châu Phi bố chẳng có một người dẫn đường địa phương đi cùng, người này biết tiếng bản địa, với lại bố còn có cả một công ty cấp nước đa quốc gia khổng lồ hậu thuẫn phía sau cơ mà. Thế là cô đổi đề tài, “Nghe này, Rob có cơ hội được ‘hạ cánh’ xuống chương trình của Jon Savage [3] già đấy. Anh ấy đã nói chuyện với nhà sản xuất rồi. Họ thích lắm. Thứ Hai này sẽ phỏng vấn chính thức.”
“Tuyệt cú mèo! Bảo với lão là khôn hồn thì đừng có quên bạn cũ khi trở thành một DJ nổi tiếng thế giới đấy nhé!”
Sáng sớm hôm sau, Frankie không ăn bánh sừng bò mà đi thẳng lên đồi, tới ngôi nhà thờ màu trắng có mái vòm. Những con đường rải sỏi và những quảng trường vắng hoe, trừ một chiếc xe tải bánh thấp đang tưới nước rột roạt xuống mặt đường, xịt cho đường phố sạch sẽ.
Điện thoại của cô rung lên. Một tin nhắn mới. Mở ra. Xem.
Cảm ơn về buổi tối hôm qua. Ian xx
Frankie nhắn lại. Cảm ơn anh xx
Ian là một anh chàng dễ mến - không phức tạp, nhìn thấy sao thì người làm vậy. Và Frankie đã nhanh chóng bị hớp hồn trước anh chàng lịch thiệp chết người này.
Hết một tách cà phê, rồi tới hai ly rượu trong một quán bar mờ mờ bên tả ngạn sông Seine, Ian kể cho Frankie nghe cặn kẽ về mình - chơi bóng bầu dục trong giải hạng hai ở New Zealand ra sao, sau đó bị chấn thương ở chân nên đành giã từ sự nghiệp thi đấu nhà nghề thế nào. Chàng hai mươi ba tuổi và sống nay đây mai đó, từng ở Viễn Đông và giờ thì đang chu du dưới gầm trời châu Âu.
Frankie cũng kể với chàng rằng mình đến với nghiệp người mẫu rất tình cờ, và đam mê tim óc của cô là chế tác kim hoàn, nhưng giờ cô đang phải chịu áp lực từ các giáo viên hướng dẫn, buộc phải giao nộp sản phẩm để triển lãm cuối năm trong khi cô không chắc là mình sẽ đạt tiêu chuẩn.
“Người ta đã đặt chỗ cho em ở gần Moulin Rouge [4],” Frankie trả lời khi Ian hỏi cô hiện đang tá túc ở đâu. Liệu cô có nên mời anh ta đến đó không?
“Anh thả bộ về đó cùng em nhé,” Ian đề nghị.
Trên đường phố Paris buổi tối mùa xuân, vịn tay một anh chàng đẹp trai, bập bẹ thứ tiếng Pháp đã được học trong trường khi cả hai cùng hỏi đường tới Montmartre.
Quang cảnh sông Seine cùng với ánh đèn lấp lánh tỏa ra từ những chiếc thuyền đáy bằng đang trôi lững lờ dưới những nhịp cầu trông mới lãng mạn làm sao. Trụ ốp tường trang trí theo hình ảnh của nhà thờ Đức Bà.
“Em có thật không đấy?” Ian hỏi, cánh tay ôm choàng qua vai Frankie, đăm đăm nhìn xuống dòng nước đen thẫm từ một cây cầu. “Hay là anh đang mơ?”
Frankie cười phá lên. “Em là một cô gái mà anh đã gặp ở sân bay,” cô nhắc Ian. Và cô quyết định sẽ không mời chàng về phòng, bởi nếu thế, sáng hôm sau thể nào cô cũng sẽ hối hận, và vì cô đã gặp đủ những gã si tình quá cảnh, như Wim, kẻ đã lừa cô hai lần và cười nhạo cô là một cô bé ngờ nghệch. Frankie và Ian hôn nhau trên ngưỡng cửa khách sạn tù túng. Một nụ hôn ấm nóng để nhớ về nhau.
Và giờ là những tin nhắn.
Thật tuyệt! Chúc em một cuộc sống tốt đẹp, Ian.
“Phải em là Frankie McLerran không?” một phụ nữ mặc áo chống thấm nước tới bên Frankie ở chân những bậc thang rộng dẫn lên Sacré Coeur. “Tôi là Nina, stylist. Chúng tôi cần trang điểm cho em ngay bây giờ.”
Frankie nhìn chằm chằm vào gương.
Họ đã phết lên cô một chiếc mặt nạ - mắt thẫm, lông mày đậm, môi nhợt. Mái tóc đen dài của cô được vén kỹ dưới chiếc mũ Philip Treacy lạ lùng có điểm mấy cái lông đà điểu châu Phi màu trắng. Họ kéo phẹc-mơ-tuya chiếc áo khoác Armani không đệm vai đính khoen, viền đăng-ten rủ và kết đá pha lê, với váy xa-tanh dài màu xám ngọc trai, rồi nhét bàn chân cô vào đôi xăng-đan cao gót D&G sáng lóng lánh. Sô Con Gái bắt đầu lúc bảy giờ sáng.
“Đã sẵn sàng khuấy đảo chưa?” Nina hỏi thăm, có vẻ mệt mỏi, bẳn gắt cực độ và phơi bày đầy đủ vẻ kiểu cách rập khuôn. Chị ta mở cửa chiếc xe tải nhỏ.
Ánh mặt trời buổi sáng hãy còn yếu ớt, những bậc cấp đá hoa cương dẫn lên nhà thờ ẩn hiện và hiu hắt. Frankie bắt đầu tạo dáng. Nhiếp ảnh gia chỉnh máy chụp hình.
Mình đang ở Paris! Frankie tự nói với chính mình. Mình sẽ lên Harpers & Queen [5]. Đời còn mong gì hơn thế!
[1] Sigmund Freud (1856 - 1939): bác sĩ thần kinh và tâm lý người Áo, được coi là cha đẻ của ngành phân tâm học - ND.
[2] Boho-chic là phong cách thời trang cực thịnh năm 2004-2005, ảnh hưởng từ phục trang của dân Bohemian và hippie (không chịu theo những khuôn phép xã hội) - ND.
[3] Jon Savage (1953-) là nhà văn, nhà báo, phát thanh viên... nổi đình nổi đám của Anh quốc - ND.
[4] Quán Cối Xay Gió Đỏ, một quán ăn cổ, nổi tiếng thế giới trên đại lộ de Clichy, Paris, do Joseph Oller sáng lập từ năm 1889 - ND.
[5] Harpers & Queen: một trong những tạp chí có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới trong lĩnh vực thời trang - ND.
Những Công Chúa Prada Những Công Chúa Prada - Jasmine Oliver Những Công Chúa Prada