Love is a puzzle posed by the emotions and not likely to be solved by reason.

Anon

 
 
 
 
 
Tác giả: Nicholas Sparks
Thể loại: Tiểu Thuyết
Dịch giả: Petal Lê
Biên tập: Yen
Upload bìa: Nhật Trường
Số chương: 14
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 8937 / 417
Cập nhật: 2015-09-12 19:43:45 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Những Bóng Ma
ó là đầu tháng Mười năm 1946, Noah Calhoun đang ngắm mặt trời chìm dần từ hàng hiên bao quanh ngôi nhà kiểu trang trại của anh. Anh thích ngồi đây vào buổi tối, nhất là sau khi đã làm việc vất vả cả ngày, và để cho những ý nghĩ của mình lang thang vô hướng. Đó là cách anh nghỉ ngơi, một thông lệ anh đã học từ cha mình.
Anh đặc biệt thích nhìn hàng cây và bóng chúng phản chiếu dưới dòng sông. Vào giữa thu cây cối vùng Bắc Carolina tuyệt đẹp: màu xanh lá, màu vàng, màu đỏ, màu cam, đủ mọi sắc độ. Những sắc màu rực rỡ bừng lên dưới ánh mặt trời, và chắc phải đến lần thứ một trăm, Noah Calhoun tự hỏi liệu những người chủ đầu tiên của ngôi nhà có dành hết các buổi tối để nghĩ những điều như thế không.
Ngôi nhà được xây năm 1772 và là một trong những ngôi nhà cổ nhất, cũng như lớn nhất ở New Bern. Ban đầu đó là nhà chính trên một khu đồn điền, và anh đã mua nó ngay sau chiến tranh rồi dành mười một tháng cùng một khoản kha khá để sửa sang lại. Vài tuần trước phóng viên tờ Raleigh đã viết một bài về nó, nói rằng đó là một trong những công trình trùng tu tốt nhất mà anh ta được biết. Ít nhất thì ngôi nhà chính đúng là thế. Phần còn ại cơ ngơi đó thì là chuyện khác, và đó mới là nơi anh dành phần lớn thời gian trong ngày.
Khu nhà tọa lạc trên mười hai mẫu đất gần lạch Brices. Anh đã sửa sang hàng rào gỗ bao quanh ba phía khu nhà, kiểm tra kỹ xem có mục nát hay mối mọt gì không, thay mấy cây cọc ở những chỗ càn thay. Anh vẫn còn nhiều việc khác phải làm với nó, nhất là ở mạn Tây, và trước đó khi nghỉ tay anh đã thầm nhắc mình nhớ phải gọi điện đặt mang đến ít gỗ xẻ. Rồi anh vào nhà, uống một cốc trà ngọt, sau đó đi tắm. Lúc nào anh cũng tắm vòi hoa sen vào cuối ngày, dòng nước sẽ gột trôi đi cả bụi bặm và mệt nhọc.
Sau đó anh chải lại tóc, mặc quần jean bạc phếch và sơ mi xanh lơ dài tay, tự rót cho một cốc trà ngọt nữa và ra hiên, chỗ anh giờ đây đang ngồi, nơi ngày nào giờ này anh cũng ngồi. Khi hoàn tất chu trình hàng ngày đó, anh duỗi hai cánh tay qua đầu rồi dang rộng tay ra hai bên, vươn vai. Giờ anh đã cảm thấy dễ chịu, sạch sẽ và tươi tỉnh. Cơ bắp của anh đã mệt và anh biết ngày mai chúng sẽ hơi đau, nhưng anh vui lòng thấy rằng mình đã làm xong phần lớn những gì muốn làm.
Noah với tay lấy cây ghi ta, động tác này khiến anh nhớ tới cha và thấy mình nhớ ông biết bao. Anh bập bùng gảy thử một lần, chỉnh lại độ căng của hai dây rồi lại gảy thử. Lần này âm thanh nghe đã ổn, và anh bắt đầu chơi. Thứ nhạc nhẹ nhàng, thứ nhạc êm ả. Lúc đầu anh ngân nga một chút, rồi khi bóng tối buông xuống quanh mình thì bắt đầu hát lên. Anh chơi đàn và hát cho đến khi mặt trời lặn hẳn và bầu trời trở màu đen.
Hơn bảy giờ một chút anh ngừng hát, lại an vị vào chiếc ghế đu và bắt đầu đung đưa. Theo thói quen, anh nhìn lên và thấy chòm Thiên Lang, Đại Hùng, Song Tử và Bắc Đẩu sáng lấp lánh trên bầu trời thu.
Anh bắt đầu điểm lại các con số trong đầu, rồi khựng lại. Anh biết mình đã tiêu gần hết các khoản tiết kiệm vào ngôi nhà và sẽ sớm phải đi tìm việc làm, nhưng anh xua ý nghĩ ấy đi và quyết định thưởng thức các tháng trùng tu còn lại mà không lo lắng điều ấy nữa. Anh biết, mọi sự của anh sẽ ổn; luôn là thế. Ngoài ra việc nghĩ về tiền bạc thường làm anh ngán. Trước đây anh đã học cách hưởng thụ những thứ đơn giản, những thứ không thể mua được, và anh khó lòng hiểu được những ai không cảm thấy thế. Đó cũng là một điểm anh được thừa kế từ cha anh.
Lúc đó chú chó săn Clem của anh đi tới chỗ anh, hít hít bàn tay rồi nằm xuống chân anh. "Này, cô nàng, cô thế nào rồi?" anh vừa hỏi vừa vỗ vỗ đầu nó, và nó gừ gừ nhè nhẹ, đôi mắt tròn hiền lành nhìn chăm chú lên phía trên. Một tai nạn ô tô đã lấy mất một chân của nó, nhưng nó vẫn di chuyển tốt, vẫn tiếp tục làm bạn với anh vào những đêm yên tĩnh như thế này.
Bây giờ anh đã ba mươi mốt tuổi, không quá già nhưng cũng đủ đứng tuổi để thấy cô đơn. Từ ngày về lại đây anh vẫn chưa hẹn hò gì, chưa gặp được bất kỳ ai có chút quan tâm tới anh. Đó là lỗi của anh, anh biết. Có gì đó khiến luôn tồn tại một khoảng cách giữa anh và bất kỳ người phụ nữ nào bắt đầu gần gũi, điều gì đó mà anh không chắc mình có thể thay đổi được dù có cố gắng đi nữa. Và đôi khi trong những khoảnh khắc trước khi chìm vào giấc ngủ, anh tự hỏi liệu có phải số phận đã định rằng anh phải cô đơn mãi mãi không.
Buổi tối trôi qua, vẫn ấm áp, dễ chịu. Noah lắng nghe tiếng lũ dế và tiếng lá xào xạc, nghĩ rằng âm thanh của thiên nhiên còn thật và khơi gợi nhiều cảm xúc hơn những thứ như ô tô và máy bay. Những thứ tự nhiên tặng luôn nhiều hơn những gì chúng lấy đi, âm thanh của chúng luôn đưa anh trở lại với cái được cho là bản tính thực của con người. Có những lúc, trong chiến tranh, nhất là sau một trận chiến lớn, anh thường nghĩ về những âm thanh giản đơn này. "Việc đó sẽ khiến con khỏi phát điên", cha anh đã bảo thế khi anh lên tàu ra đi. "Đó là âm thanh của Chúa Trời, nó sẽ đưa con trở về nhà."
Anh uống nốt chỗ trà, đi vào nhà, tìm một cuốn sách và bật đèn cổng trên lối quay trở ra. Sau khi lại ngồi xuống, anh nhìn cuốn sách. Đó là một cuốn sách đã cũ, lớp bìa đã sờn, các trang sách ố bùn và nước. Đó là tập Lá cỏ của Walt Whitman, và anh đã mang nó theo bên mình suốt cuộc chiến. Nó còn đã từng một lần đỡ đạn cho anh.
Anh chà lớp bìa sách, lau một chút cho bớt bụi. Thế rồi anh mở một ra một trang bất kỳ và đọc những dòng chữ trước mắt mình:
 
Giờ khắc của ngươi đây, hơi linh hồn,
Bay tự do vào phi ngôn thế giới,
Sách vở, nghệ thuật rời xa,
Bài học đã xong, ngày tháng xóa nhòa,
Hoàn toàn tiến lên phía trước,
Lặng câm, chăm chú, trầm ngâm,
Về chủ đề ngươi yêu thích nhất,
Về đêm, về cái chết,
Về giấc ngủ, và về những vì sao.
 
Anh mỉm cười với mình. Vì lý do nào đó, Whitman luôn làm anh nhớ về New Bern, và anh vui vì mình đã trở lại. Dù anh đã đi xa mười bốn năm, đây vẫn là quê nhà và anh biết nhiều người ở đây, hầu hết biết từ thời niên thiếu. Không có gì đáng ngạc nhiên. Cũng như nhiều thị trấn miền Nam khác, những người sống ở đây chẳng bao giờ thay đổi, họ chỉ già đi một chút mà thôi.
Những ngày này bạn thân nhất của anh là Gus, một ông già da đen bảy mươi tuổi sống ngay đầu đường. Họ gặp nhau vài tuần sau khi Noah mua ngôi nhà, khi Gus xuất hiện với một ít rượu mùi nhà làm và món hầm Brunswick, và hai người đã dành buổi tối đầu tiên cùng nhau để uống say và kể chuyện.
Bây giờ cứ vài tối một tuần Gus lại xuất hiện, thường vào khoảng tám giờ. Với bốn đứa con và mười một đứa cháu trong nhà, thỉnh thoảng ông cần ra ngoài, và Noah cũng chẳng trách ông được. Thường thì Gus sẽ mang cây kèn harmonica của mình đến, và sau khi nói chuyện một lúc họ sẽ chơi vài bài với nhau. Thỉnh thoảng họ chơi hàng giờ.
Anh coi Gus như người nhà. Thật sự thì cũng chẳng có ai khác, ít nhất là kể từ khi cha qua đời năm ngoái. Anh là con một; mẹ anh đã qua đời vì bệnh cúm từ hồi anh mới lên hai, và mặc dù một lần từng muốn cưới vợ, cho đến giờ anh vẫn chưa kết hôn.
Nhưng anh đã từng yêu, anh biết thế. Đã từng, chỉ một lần, mà cũng lâu lắm rồi. Và điều ấy làm anh thay đổi mãi mãi. Tình yêu hoàn hảo luôn làm người ta như thế, mà mối tình này thì hoàn hảo.
Những đám mây ven bờ biển bắt đầu chậm chạp trôi ngang bầu trời đêm, biến thành màu bạc khi phản chiếu ánh trăng. Khi chúng dày đặc lại, anh ngả đầu ra sau tựa lên chiếc ghế bành bập bênh. Chân anh nhún tự giác, duy trì một nhịp đều đặn và, như hầu hết mọi tối, anh cảm thấy tâm trí mình trôi dạt về một buổi tối ấm áp như thế này mười bốn năm trước.
Đó là khoảng thời gian ngay sau lễ tốt nghiệp năm 1932, đêm mở màn của Lễ hội Sông Neuse. Cả thị trấn đổ ra đường thưởng thức tiệc nướng ngoài trời và các trò chơi may rủi. Đêm đó trời ẩm ướt - vì lý do nào đó anh nhớ rất rõ điều này. Anh đến một mình, và trong khi đi xuyên qua đám đông để tìm bạn, anh nhìn thấy Fin và Sarah, hai người đã lớn lên cùng anh, đang nói chuyện với một cô gái anh chưa bao giờ gặp. Cô ấy thật xinh đẹp, anh nhớ mình đã nghĩ thế, và khi cuối cùng anh nhập bọn, cô nhìn về phía anh bằng đôi mắt mơ màng quyến rũ rồi chìa tay ra bắt, giản dị nói, “Chào, Finley kể cho tôi nghe rất nhiều về anh.”
Một khởi đầu bình thường, một thứ gì đó hẳn sẽ bị lãng quên nếu đấy là ai đó không phải cô. Nhưng khi anh bắt tay cô và bắt gặp đôi mắt màu ngọc lục bảo ấn tượng ấy, trước khi thở hơi tiếp theo, anh đã biết cô là người anh có dành cả phần đời còn lại để kiếm tìm cũng không bao giờ thấy nữa. Cô dường như thật tuyệt vời, thật hoàn hảo giữa một cơn gió hè thổi xuyên rặng cây.
Từ đó, mọi sự quay cuồng hệt như lốc xoáy. Fin bảo anh hè này cô sẽ ở New Bern với gia đình vì cha cô làm việc cho R. J. Reynolds, và mặc dù anh chỉ gật đầu, cái lối cô nhìn anh khiến cho sự yên lặng của anh có vẻ ổn. Fin lúc đó cười vì anh chàng biết điều gì đang diễn ra, rồi Sarah gợi ý họ uống ít Coke hương đào, và cả bốn người ở lại lễ hội cho đến khi đám đông vãn dần và mọi chỗ đều đóng cửa nghỉ tối.
Ngày hôm sau họ lại gặp nhau, hôm sau nữa cũng thế, và chẳng bao lâu thì họ đã chẳng thể xa rời. Trừ Chủ nhật khi anh phải đến nhà thờ, sáng nào anh cũng cố làm việc của mình càng nhanh càng tốt rồi đi thẳng đến Công viên FortTotten, nơi cô đang chờ anh. Vì cô là người mới đến và chưa từng sống ở một thị trấn nhỏ, họ dành cả ngày làm những việc đối với cô còn hoàn toàn mới lạ. Anh dạy cô cách mắc mồi câu, câu cá vược miệng rộng ở những vùng nước nông và dẫn cô thám hiểm vùng xa xôi của rừng Croatan. Họ cùng đi thuyền và ngắm giông tố mùa hè, và anh cảm thấy cứ như thể họ đã luôn biết nhau từ trước.
Và anh cũng học được nhiều điều. Ở buổi khiêu vũ của thị trấn trong kho thuốc lá, chính cô đã dạy anh nhảy điệu Van và điệu Charleston, và dù họ có vấp trong mấy bài đầu, sự kiên nhẫn của cô với anh cuối cùng đã được đền đáp, họ nhảy với nhau cho đến khi hết nhạc. anh đưa cô về nhà, và khi họ dừng lại trước hàng hiên sau khi nói lời tạm biệt, anh dã hôn cô lần đầu tiên, tự hỏi tại sao mình lại chờ đợi lâu đến thế. Sau đó trong mùa hè ấy anh đưa cô đến ngôi nhà này, nhìn qua chỗ đổ nát mà bảo cô rằng một ngày nào đó anh sẽ là chủ của nó và sẽ trùng tu nó. Họ dành hàng giờ đồng hồ nói chuyện với nhau về những mơ ước của mình – anh thì mơ thấy thế giới, cô thì mơ trở thành nghệ sĩ – và vào một đêm ẩm ướt tháng Tám, cả hai người đều đã có lần đầu tiên. Ba tuần sau đó cô ra đi, mang theo cả một phần của anh và phần còn lại của mùa hè ấy. Anh nhìn cô rời khỏi thị trấn vào một buổi sáng sớm mưa gió, qua đôi mắt suốt đêm hôm trước không ngủ, rồi về nhà và đóng gói một túi hành lý. Suốt tuần sau đó anh ở một mình trên đảo Harkers.
Noah lùa đôi tay vào tóc và xem đồng hồ. 8 giờ 12. Anh đứng lên đi ra phía trước nhà nhìn ra đường lớn. Gus vẫn chưa thấy đâu, và Noah đoán rằng ông sẽ không đến. Anh quay về chiếc ghế đu đưa của mình và lại ngồi xuống.
Anh nhớ đã kể cho Gus nghe về cô. Lần đầu tiên anh nhắc đến cô, Gus đã lắc đầu cười. “Vậy ra đó là bóng ma mà cậu đang trốn chạy.” Khi anh hỏi ý ông là sao, Gus bảo, “Cậu biết đấy, cái bóng ma, ký ức ấy mà. Tôi đã nhìn cậu làm ngày làm đêm, làm việc cật lực đến mức gần như không có lúc nào mà thở nữa. Người ta làm thế chỉ vì ba lý do. Hoặc là họ điên, hoặc ngu ngốc, hoặc đang cố quên. Và với cậu thì tôi biết cậu đang cố quên. Tôi chỉ không biết cậu đang cố quên cái gì thôi.”
Anh nghĩ về điều Gus nói. Dĩ nhiên Gus nói đúng. New Bern bây giờ đã bị ám. Ám bởi bóng ma của ký ức về cô. Mỗi khi ngang qua Công viên FortTotten nơi họ thường lui tới, anh đều nhìn thấy cô. Hoặc cô đang ngồi trên chiếc ghế dài, hoặc đang đứng cạnh cổng, luôn mỉm cười, mái tóc vàng nhẹ nhàng chạm vai, đôi mắt có màu ngọc lục bảo. Đêm đêm khi ngồi dưới hàng hiên cùng cây ghi ta, anh nhìn thấy cô bên cạnh, lặng lẽ lắng nghe khi anh chơi những bản nhạc thời thơ ấu.
Anh cũng cảm thấy tương tự thế khi đến hiệu thuốc Gaston, hay đến nhà hát Masonic, hay kể cả khi chỉ tha thẩn đi xuống phố. Nhìn đâu anh cũng thấy hình ảnh cô, thấy những gợi nhớ đến cô.
Anh biết như thế là kỳ quặc. Anh đã lớn lên ở New Bern. Đã sống mười bảy năm đầu đời ở đây. Nhưng khi nghĩ về New Bern, có vẻ như anh chỉ nhớ mỗi mùa hè cuối cùng ấy, mùa hè họ đã ở bên nhau. Những ký ức khác chỉ đơn giản là mảnh vụn rải rác đây đó về việc trưởng thành, và rất ít mảnh, nếu không muốn nói là không hề có mảnh nào, gợi lên cảm xúc.
Một đêm nọ anh cũng kể cho Gus nghe điều đó, và không những Gus hiểu, mà ông còn là người đầu tiên lý giải cho anh biết tại sao. Ông giản dị nói, “Cha tôi từng bảo tôi rằng lần đầu tiên ta yêu sẽ làm thay đổi đời ta mãi mãi, và dù có cố gắng đến đâu, cảm giác ấy cũng không bao giờ biến mất. Cô gái mà cậu đã kê cho tôi nghe là mối tình đầu của cậu. Và dù cậu làm gì đi nữa thì cô ấy sẽ mãi mãi ở trong tâm trí cậu.”
Noah lắc lắc đầu, và khi hình ảnh cô dần mờ đi, anh trở về với Whitman. Anh đọc sách khoảng một tiếng, thỉnh thoảng lại ngẩng lên nhìn lũ gấu mèo và chồn ô pốt nhốn nháo gần nhánh sông. Đến chín rưỡi anh gập sách lại, đi lên gác vào phòng ngủ, viết vào nhật ký cả những quan sát cá nhân và công việc mà anh đã hoàn toàn với ngôi nhà. Bốn mươi phút sau, anh đã ngủ. Clem đi lên cầu thang, hít hít anh khi anh ngủ, lòng vòng một lúc rồi cuối cùng cuộn tròn lại ở chân giường anh.
Cũng tối đó, ở cách xa một trăm dặm, cô đang ngồi một mình trên chiếc ghế xích đu trên hiên nhà cha mẹ cô, chân bắt tréo. Chỗ ngồi này hơi ẩm; trước đấy có mưa to và buốt lạnh, nhưng giờ mây đen đã tản đi và cô nhìn xuyên qua mây về phía những ngôi sao, tự hỏi liệu có phải mình đã quyết định đúng. Đã nhiều ngày nay cô khổ sở với câu hỏi này – và tối nay còn khổ sở hơn – nhưng cuối cùng, cô biết mình sẽ không bao giờ tha thứ cho bản thân nếu để cơ hội này tuột khỏi tay.
Lon không lý do thực sự khiến sáng hôm sau cô ra đi. Tuần trước đó cô đã tỏ ý cho anh biết có thể cô sẽ muốn đến một số cửa hàng bán đồ cổ gần bờ biển. “Chỉ vài ngày thôi,” cô nói, “với lại em cần một khoảng nghỉ ngơi để lên kế hoạch cho đám cưới.” Cô cảm thấy mình nói dối thế là hơi tệ, nhưng biết mình không thể nào kể cho anh nghe sự thật. Việc cô đi chẳng có gì liên quan tới anh, và sẽ không công bằng khi đòi hỏi anh phải hiểu.
Chặng đường đi từ Raleigh khá dễ dàng, chỉ mất hơn hai tiếng một chút, chưa tới mười một giờ cô đã đến nơi. Cô làm thủ tục nhận phòng ở một nhà trọ nhỏ trên phố, về phòng dỡ va li ra, treo váy áo vào tủ quần áo và cho tất cả những thứ còn lại vào ngăn kéo. Cô ăn trưa nhanh và hỏi người hầu bàn đường đến cửa hàng đồ cổ gần nhất, rồi dành vài giờ sau đó đi mua sắm. Đến bốn rưỡi cô đã về phòng.
Cô ngồi lên mép giường, nhấc điện thoại lên gọi cho Lon. Anh không thể nói dài được, đến giờ làm việc của anh tại tòa nhà, nhưng trước khi họ gác máy cô cho anh số điện thoại chỗ cô đang nghỉ và hứa hôm sau sẽ gọi. Tốt, cô nghĩ khi gác máy. Cuộc nói chuyện thường lệ, không có gì khác thường. Không có gì khiến anh có thể nghi ngờ.
Tới thời điểm này cô đã quen anh được gần bốn năm; họ gặp nhau lần đầu năm 1942 khi thế giới đang có chiến tranh và nước Mỹ đã tham chiến một năm. Tất cả mọi người đều làm phần việc của mình, và cô xung phong làm ở bệnh viện dưới phố. Ở đó người ta vừa cần cô vừa đánh giá cô rất cao, nhưng công việc khó khăn hơn cô tưởng. Khi những làn sóng các quân nhân trẻ bị thương đầu tiên đang tràn về quê nhà, cô đã phải dành cả ngày bên những người đàn ông bị thương và những cơ thể nát nhừ. Khi Lon, với tất cả vẻ quyến rũ thanh thoát của anh, đến làm quen với cô ở một buổi tiệc Giáng sinh, cô thấy ở anh chính xác điều mình cần: một người có niềm tin về tương lai và một sự hóm hỉnh xua tan mọi sợ hãi của cô.
Anh đẹp trai, thông minh và quyết đoán, một luật sư thành đạt lớn hơn cô tám tuổi, anh theo đuổi công việc của mình với niềm say mê, và không chỉ thắng các vụ án mà còn tự tạo được cho mình tên tuổi. Cô hiểu sự sôi nổi khi theo đuổi thành công của anh, vì cha cô và hầu hết những người đàn ông cô gặp trong cái vòng tròn giao tiếp xã hội của cô cũng đều như thế. Cũng như họ, anh đã được nuôi dạy như thế, và trong hệ thống địa vị xã hội của miền Nam, tên gia đình và các thành tựu thường là điều đáng quan tâm nhất trong hôn nhân. Trong một số trường hợp, đó là những thứ duy nhất được xét đến.
Mặc dù đã lặng lẽ nổi loạn chống lại ý tưởng này từ khi còn nhỏ và từng hẹn hò với vài người chỉ có thể dùng từ liều lĩnh mới miêu tả được, cô vẫn thấy chính mình bị lôi cuốn bởi cái kiểu thoải mái của Lon và đã dần dần yêu anh. Mặc dù phải làm việc suốt nhiều giờ dài dằng dặc, anh rất tốt với cô. Anh là một quý ông, vừa chín chắn vừa có trách nhiệm, và trong những giai đoạn khủng khiếp của chiến tranh khi cô cần ai đó ôm mình, anh không bao giờ quay lưng lại với cô. Ở bên anh cô thấy an toàn và biết rằng anh cũng yêu cô, và đó là lý do tại sao cô đã chấp nhận lời cầu hôn của anh.
Nghĩ về những điều này, cô cảm thấy hơi có lỗi vì đã có mặt ở đây, cô biết mình nên thu xếp hành lý và ra đi trước khi đổi ý. Cô từng làm thế một lần trước đây, rất lâu rồi, và nếu bây giờ cô ra đi, cô chắc mình sẽ không bao giờ có đủ sức mạnh để quay trở lại nữa. Cô cầm ví lên, chần chừ và gần như đã bước ra cửa. Nhưng sự tình cờ đã đẩy cô đến đây, và cô lại đặt ví xuống, lại nhận ra rằng nếu bây giờ từ bỏ, cô sẽ luôn luôn phải thầm hỏi điều gì lẽ ra đã có thể xảy ra. Và cô không nghĩ mình có thể sống với điều đó.
Cô vào buồng tắm và bắt đầu tắm. Sau khi kiểm tra nhiệt độ nước, cô tới chỗ bàn trang điểm, vừa đi vừa tháo đôi hoa tai vàng. Cô tìm túi đồ trang điểm của mình, mở và lấy ra một chiếc dao cạo và một bánh xà phòng, sau đó cởi quần áo trước chiếc tủ gương.
Từ nhỏ cô đã được khen là xinh đẹp, và khi cởi hết đồ, cô ngắm mình trong gương. Cơ thể cô rắn chắc và có tỷ lệ hoàn hảo, bộ ngực tròn mềm mại, bụng phẳng, chân thon. Cô đã được thừa hưởng đôi gò má cao, làn da mịn màng và mái tóc vàng của mẹ, nhưng những nét đẹp nhất thì là của cô. Cô có đôi mắt như “những làn sóng đại dương”, như Lon hay nói.
Lấy dao cạo và xà phòng, cô lại vào phòng tắm, tắt vòi nước, đặt khăn tắm ở một chỗ có thể với tới và thận trọng bước vào bồn.
Cô thích cảm giác thư giãn khi tắm bồn, và cô trườn sâu hơn xuống lớp nước. Ngày hôm đó khá dài, lưng cô đau nhức, nhưng cô vui vì đã kết thúc việc đi mua sắm nhanh chóng. Cô phải quay lại Raleigh với cái gì đó hữu hình, và những gì cô đã chọn sẽ rất thích hợp. Cô ghi nhớ trong đầu phải tìm những tên gọi của một số cửa hàng ở vùng Beaufort, rồi lại không biết liệu có cần không. Lon không phải kiểu người sẽ kiểm tra cô.
Cô với lấy bánh xà phòng, xát cho sủi bọt và bắt đầu cạo lông chân. Vừa cạo cô vừa nghĩ tới bố mẹ mình và những gì họ có thể nghĩ về hành động của cô. Đương nhiên họ sẽ không đồng tình, nhất là mẹ cô. Mẹ cô chưa bao giờ chấp nhận sự thật chuyện đã xảy ra vào mùa hè họ ở đây và giờ cũng sẽ không chấp nhận, dù lý do cô đưa ra là gì đi nữa.
Cô ngâm nước thêm một lúc lâu trong bồn trước khi đi ra và lau khô người. Cô đến bên tủ quần áo và tìm một cái váy, cuối cùng chọn một chiếc dài màu vàng xẻ cổ hơi sâu, kiểu váy phổ biến ở miền Nam. Cô chui vào chiếc váy và nhìn vào gương, quay từ bên này sang bên kia. Chiếc váy vừa như in khiến cô trông đầy nữ tính, nhưng cuối cùng cô đã quyết định không chọn nó và treo lại lên mắc.
Cô tìm một chiếc váy ít hở hơn, trông thoải mái hơn rồi mặc vào. Màu xanh nhạt với một chút đăng ten, cài cúc đằng trước và mặc dù trông không đẹp như chiếc kia, nó mang lại một cái nhìn mà cô nghĩ sẽ thích hợp hơn.
Cô trang điểm nhẹ, chỉ một chút bóng mắt và mascara để làm điểm nhấn cho đôi mắt. Tiếp theo là nước hoa, thoang thoảng thôi. Cô tìm thấy một đôi hoa tai nhỏ hình vòng, đeo vào và đi đôi xăng đan đế thấp màu da đã đi từ trước. Cô chải mớ tóc vàng, buộc lên rồi soi gương. Không, thế này cầu kỳ quá, cô nghĩ, và thả tóc xuống. Được hơn.
Xong xuôi, cô bước lùi lại và tự đánh giá bản thân. Trông cô rất ổn: không quá điệu đàng, không quá tuềnh toàng. Cô không muốn làm quá. Cuối cùng, cô không biết nên trông đợi điều gì nữa. Đã lâu lắm rồi – có lẽ là quá lâu – và có nhiều việc khác nhau đã có thể xảy ra, kể cả những việc mà cô không muốn nghĩ đến.
Cô nhìn xuống và thấy tay mình đang run lên, rồi cô bật cười với bản thân. Thật lạ: bình thường cô không căng thẳng thế này. Như Lon, cô lúc nào cũng tự tin, kể cả lúc còn nhỏ. Cô biết rằng sự tự tin ấy đôi khi cũng là vấn đề, nhất là khi hẹn hò, vì nó khiến hầu hết các cậu trai cùng tuổi phát hoảng.
Cô tìm thấy ví và chìa khóa ô tô, rồi cầm chìa khóa phòng lên. Cô xoay xoay nó trong gương, nghĩ bụng Mình đã đi xa đến thế, bây giờ đừng có bỏ cuộc chứ rồi gần như đã đi luôn. Nhưng cô lại ngồi xuống giường như cũ. Cô nhìn đồng hồ. Gần sáu giờ. Cô biết vài phút nữa là phải đi – cô không muốn đến đấy sau khi trời tối, nhưng cô cần thêm chút thời gian nữa.
“Khỉ thật,” cô lầm bầm, “mình đang làm gì ở đây thế này? Mình không nên ở đây. Chẳng có lý do gì cả,” nhưng khi đã nói ra cô biết điều ấy không đúng. Có gì đó ở đây. Dù không có gì khác thì cô cũng sẽ có câu trả lời.
Cô mở ví và nhìn lướt qua cho đến khi thấy một mảnh báo gập lại. Sau khi nhấc lên từ từ, gần như sùng kính, cẩn thận để khỏi làm rách nó, cô mở ra và nhìn chằm chằm vào nó một lúc. “Đây là lý do,” cuối cùng cô cũng tự nhủ, “đây là lý do.”
Noah tỉnh dậy lúc năm giờ và như thường lệ chèo thuyền đôc mộc khoảng một tiếng ngược lạch Brices. Khi chèo xong, anh thay một bộ đồ làm việc, nướng lại mấy chiếc bánh quy từ hôm trước, vớ lấy ít táo và xử lý sạch bữa sáng với hai tách cà phê. Anh lại tiếp tục sửa hàng rào, chỉnh lại hầu hết những cột cần sửa. Lúc ấy đang là thu muộn, nhưng nhiệt độ lên đến hơn 26 độ C, và đến giờ ăn trưa anh đã nóng, mệt và rất mừng được nghỉ giải lao.
Anh ăn trưa ở con lạch vì muốn ngắm lũ cá đối nhảy lên. Anh thích nhìn chúng nhảy lên ba hay bốn lần xuyên qua không khí trước khi lại biến mất vào dòng nước lợ. Vì lý do nào đó, lúc nào anh cũng vui với thực tế là bản năng của chúng đã không thay đổi suốt hàng nghìn, có khi hàng chục nghìn năm.
Đôi khi anh cũng tự hỏi không biết trong một thời gian dài đến thế thì bản năng của loài người có thay đổi không, và luôn kết luận rằng không. Ít ra là những gì cơ bản, chủ yếu nhất thì không. Theo như anh thấy, con người lúc nào cũng hung hăng, luôn cố gắng để thống trị, cố gắng kiểm soát thế giới cùng tất cả mọi thứ trong đó. Chiến tranh ở châu u và Nhật Bản đã chứng tỏ điều đó.
Sau ba giờ anh ngừng làm việc và đi bộ đến một căn nhà kho nhỏ gần vụng thuyền của mình. Anh đi vào, tìm chiến cần câu, cầm theo một ít mồi và một ít con dế còn sống trong tay rồi đi ra vụng thuyền, mắc mồi vào rồi quăng cần.
Việc câu cá luôn khiến anh suy ngẫm về đời mình, lần này cũng vậy. Sau khi mẹ qua đời, anh còn nhớ mình đã sống trong nhiều gia đình khác nhau suốt một thời gian dài, và chẳng hiểu sao, khi còn nhỏ anh rất hay nói lắp nên thường bị trêu chọc. Anh ngày càng ít nói, lên năm tuổi thì anh chẳng nói gì nữa. Khi bắt đầu đi học, các thầy cô giáo lại nghĩ anh hơi chậm hiểu và gợi ý rằng nên cho anh nghỉ học ở trường.
Tuy nhiên cha anh đã xử lý vấn đề theo cách riêng của ông. Ông vẫn để anh đi học và sau đó dẫn anh đến kho chứa gỗ nơi ông làm việc, để kéo và xếp gỗ. “Thật hay vì chúng ta có thời gian bên nhau,” ông nói khi họ cùng làm việc, “giống như ông nội và bố hồi trước.”
Trong khoảng thời gian bên anh, cha anh thường kể chuyện về chim muông hoặc kể những câu chuyện và truyền thuyết phổ biến ở vùng Bắc Carolina. Chỉ trong vài tháng Noah bắt đầu nói trở lại, mặc dù không lưu loát lắm, và cha anh đã quyết định dạy anh đọc qua mấy cuốn thơ của ông. “Con cứ học cách đọc to cái này lên, rồi con sẽ có thể nói được bất kỳ cái gì con muốn.” Cha anh đã lại đúng: đến năm sau đó, Noah hết nói lắp. Nhưng ngày nào anh cũng đi đến kho gỗ đơn giản vì cha anh ở đó, và vào các buổi chiều anh sẽ đọc to các tác phẩm của Whitman và Tennyson trong khi cha anh đu đưa ghế ở bên. Kể từ đó anh thường xuyên đọc thơ.
Khi anh lớn hơn một chút, phần lớn các kỳ nghỉ cuối tuần và nghỉ lễ anh đều ở một mình. Anh khám phá rừng Croatan trong chiếc thuyền đầu tiên của mình, đi theo lạch Brices suốt hai mươi dặm cho đến khi không thể đi xa hơn rồi đi bộ những dặm còn lại để đến bờ biển. Việc cắm trại và thám hiểm đã trở thành niềm ham mê của anh, và anh dành hàng tiếng đồng hồ trong rừng, ngồi dưới những cây sồi già đen bóng, lặng lẽ huýt sáo rồi chơi ghi ta cho bọn hải ly, ngỗng trời và diệc hoang xanh nghe. Các nhà thơ đều biết rằng việc sống cách biệt trong thiên nhiên, xa con người và những gì con người tạo ra là tốt cho tâm hồn, và anh lúc nào cũng rất giống các nhà thơ.
Mặc dù ít nói, những năm tháng khiêng gỗ ở kho gỗ đã khiến anh chơi thể thao rất giỏi, và thành công trong thể thao giúp anh được nhiều người biết tới. Anh thích các trận bóng bầu dục và điền kinh, nhưng mặc dù hầu hết đồng đội của anh dành thời gian rảnh ở bên nhau, hiếm khi anh tham gia cùng họ. Một người ít gặp sẽ thấy anh kiêu ngạo; nhưng hầu hết chỉ đơn giản đoán rằng anh trưởng thành nhanh hơn những người khác một chút. Ở trường anh cũng có vài cô bạn gái, nhưng không ai để lại ấn tượng trong anh. Trừ một người. Và cô ấy đến sau lễ tốt nghiệp. Allie. Allie của anh.
Anh nhớ có nói chuyện với Fin về Allie sau khi họ rời đêm lễ hội đầu tiên đó và Fin đã cười lớn. Sau đó cậu ta đưa ra hai dự đoán: một là họ sẽ yêu nhau, và hai là mối quan hệ ấy sẽ chẳng đi đến đâu.
Đầu dây câu của anh giật nhẹ một cái, Noah hy vọng đó là một con cá vược to, nhưng rồi lại không giật nữa, và sau khi kéo dây lên kiểm tra mồi, anh lại buông cần xuống.
Cuối cùng thì Fin đã đúng với cả hai dự đoán. Gần như cả mùa hè đó cô đã phải viện lý do nói dối bố mẹ mỗi khi họ muốn gặp nhau. Không phải vì bố mẹ cô không thích anh – chỉ là vì anh thuộc một tầng lớp khác, quá nghèo, họ sẽ không bao giờ đồng tình khi con gái họ có mối quan hệ nghiêm túc với ai đó như anh. “Em chẳng quan tâm bố mẹ em nghĩ gì đâu, em yêu anh và luôn yêu anh,” cô sẽ nói thế. “Mình sẽ tìm ra cách để ở bên nhau.”
Nhưng rốt cuộc họ đã không thể. Đến đầu tháng Chín, người ta thu hoạch xong thuốc lá và cô chẳng còn lựa chọn nào khác là quay về với gia đình ở Winston-Salem. “Chỉ có mùa hè này đã kết thúc thôi, Allie, chứ không phải chúng ta,” anh nói hôm buổi sáng cô đi. “Chúng ta không kết thúc.” Nhưng họ đã kết thúc. Vì một lý do anh không hoàn toàn hiểu, những bức thư anh viết đều không có hồi âm.
Cuối cùng anh quyết định rời New Bern để thoát khỏi hình bóng cô trong tâm trí, và cũng vì cuộc Đại Suy thoái đã khiến việc kiếm sống ở New Bern trở nên gần như bất khả. Đầu tiên anh đến Norforlk làm việc ở một xưởng tàu được sáu tháng thì bị giảm biên chế, sau đó chuyển đến New Jersey vì anh đã nghe nói kinh tế ở đó không đến nỗi quá tệ. Sau cùng anh tìm được công việc ở một bãi phế liệu: tách rác kim loại ra khỏi các loại rác khác. Chủ bãi phế liệu, một người Do Thái tên là Morris Goldman rất quan tâm đến việc thu nhặt càng nhiều rác kim loại càng tốt, tin chắc rằng chiến tranh sắp nổ ra ở châu u và rằng nước Mỹ sẽ lại bị lôi kéo vào. Noah chẳng quan tâm đến lý do đó. Anh chỉ mừng vì đã có việc làm.
Những năm tháng làm việc ở kho gỗ đã khiến anh dày dạn với kiểu lao động này, và rất chăm chỉ. Không chỉ vì như thế giúp tâm trí anh khỏi nhớ đến Allie suốt cả ngày mà còn vì đó là điều anh cảm thấy phải làm. Bố anh vẫn luôn dặn: “Hãy đổi một ngày làm việc lấy công sá của một ngày. Bất kỳ thứ gì ít hơn đều là ăn cắp. “Thái độ đó làm ông chủ của anh rất hài lòng. “Thật buồn là cậu không phải người Do Thái,” Goldman bảo, “cậu đúng là một anh cậu chàng rất được theo nhiều khía cạnh khác.” Đó là lời khen ngợi tuyệt vời nhất mà Goldman có thể nói.
Anh tiếp tục nghĩ về Allie, nhất là về đêm. Anh viết thư cho cô mỗi tháng một lần, nhưng không bao giờ nhận được hồi âm. Cuối cùng anh viết một lá thư sau cùng và tự buộc mình chấp nhận sự thật rằng mùa hè bên ấy là điều duy nhất họ cùng chia sẻ.
Ấy vậy mà cô vẫn ở lại trong anh. Ba năm sau lá thư cuối cùng, anh đến Winston-Salem với hy vọng tìm thấy cô. Anh đến nhà cô thì biết rằng cô đã chuyển đi. Sau khi nói chuyện với vài người hàng xóm, cuối cùng anh gọi cho công ty thuốc lá RJR. Cô gái trả lời điện thoại là người mới và không nhận ra cái tên anh hỏi, nhưng cô lục các tệp tài liệu nhân sự để tìm cho anh. Cô tìm được rằng cha của Allie đã rời khỏi công ty và không có địa chỉ chuyển tiếp thư nào được ghi lại. Chuyến đi đó là lần đầu tiên và cuối cùng anh đi tìm cô.
Anh làm việc cho Goldman suốt tám năm sau đó. Lúc đầu anh chỉ là một trong mười hai người làm, nhưng nhiều năm trôi qua, công ty lớn mạnh lên, và anh được thăng chức. Đến năm 1940 anh đã nắm bắt thành thạo việc kinh doanh và đã điều hành toàn bộ quy trình, đàm phán hợp đồng và quản lý một nhóm ba mươi người. Bãi phế thải đó đã trở thành nhà kinh doanh rác kim loại lớn nhất Bờ Đông.
Trong khoảng thời gian đó, anh hẹn hò với vài phụ nữ khác. Anh rất nghiêm túc với một cô, một cô hầu bàn ở nhà hàng địa phương với đôi mắt xanh sâu thẳm và mái tóc đen óng như lụa. Dù họ đã hẹn hò hai năm và có nhiều khoảng thời gian tuyệt vời bên nhau, anh không bao giờ cảm thấy tương tự như những gì anh cảm thấy về Allie.
Nhưng anh cũng không quên cô gái. Cô lớn hơn anh vài tuổi, chính cô là người đã dạy anh cách làm vui lòng một người đàn bà, những nơi nên chạm đến và hôn lên, nán lại ở nơi nào, cần thì thầm những gì. Đôi khi họ nằm cả ngày trên giường, ôm nhau và làm tình theo cách khiến cả hai đều hoàn toàn thỏa mãn.
Cô gái biết họ sẽ không ở bên nhau mãi mãi. Đến cuối mối quan hệ, một lần cô đã bảo anh, “Em ước gì mình có thể trao cho anh thứ anh đang đi tìm, nhưng em không biết đó là cái gì. Có một phần trong anh được anh giữ cho riêng mình, không chia sẻ với ai, kể cả em. Cứ như thể em không phải là người đang thật sự ở bên anh. Tâm trí anh đang ở bên ai đó khác.”
Anh cố tìm cách chối, nhưng cô không tin. “Em là đàn bà – em biết. Đôi khi anh nhìn em, em biết anh đang nhìn thấy ai đó khác. Như thể anh đang chờ cô ấy đột ngột hiện ra để đưa anh đi khỏi tất cả những thứ này…” Một tháng sau cô đến thăm anh ở chỗ làm bảo anh rằng cô sẽ gặp người khác. Anh hiểu. Họ chia tay nhau như những người bạn, và năm sau anh nhận được một tấm thiệp nói rằng cô đã lấy chồng. Kể từ đó anh không nghe nói gì về cô ấy nữa.
Trong lúc ở New Jersey, mỗi năm một lần vào dịp Giáng sinh anh lại đi thăm cha. Họ dành một khoảng thời gian đi câu và trò chuyện, và thảng hoặc họ làm một chuyến ra bờ biển để cắm trại trên Bãi Ngoài gần Ocracoke.
Vào tháng Mười hai năm 1941, khi anh hai mươi sáu tuổi, chiến tranh nổ ra, đúng như Goldman đã đoán trước. Tháng sau Noah bước vào văn phòng mà thông báo với Goldman là mình có ý định ghi danh vào quân đội, rồi quay lại New Bern để nói lời tạm biệt với cha. Năm tuần sau anh nhận được một bức thư từ Goldman gửi lời cảm ơn vì những gì anh đã làm, cùng một bản sao chứng nhận cho phép anh hưởng mấy phần trăm của bãi phế thải nếu nó được bán đi. “Tôi không thể làm được việc này nếu không có cậu,” bức thư viết, “cậu là thanh niên giỏi giang nhất từng làm việc cho tôi, mặc dù cậu không phải là người Do Thái.”
Ba năm sau đó anh dành trọn cho Quân đoàn III của tướng Patton, hành quân qua sa mạc ở Bắc Phi và các khu rừng ở châu u với mười mấy ki lô gam trên lưng, đơn vị bộ binh của anh chẳng mấy khi không phải chiến đấu. Anh nhìn bạn bè mình chết xung quanh; nhìn khi một số người được chôn cất xa nhà hàng nghìn dặm. Một lần, trong khi đang ẩn mình trong một hầm cá nhân gần sông Rhine, anh tưởng như nhìn thấy Allie đang quan sát mình.
Anh nhớ rồi chiến tranh đã kết thúc ở châu u, rồi vài tháng sau là ở Nhật Bản. Ngay trước khi giải ngũ, anh nhận được một lá thư từ luật sư ở New Jersey đại diện cho Morris Goldman. Khi gặp luật sư này, anh mới biết rằng Goldman đã qua đời một năm trước và tài sản của ông ta được thanh lý. Công ty cũng đã được bán, và Noah nhận được một tờ séc gần bảy mươi nghìn đô la. Chẳng hiểu sao anh thờ ơ đến kỳ lạ trước tin này.
Tuần sau đó anh quay lại New Bern và mua ngôi nhà. Anh còn nhớ sau đó đã đưa cha về, chỉ cho ông thấy những gì anh sắp sửa làm, chỉ ra những thay đổi mà anh dự định thực hiện. Cha anh có vẻ yếu, khò khè thở và ho suốt mỗi lần dạo bước. Noah thấy lo, nhưng cha anh bảo đừng có lo, ông trấn an anh rằng ông chỉ bị cúm.
Gần một tháng sau cha anh qua đời vì bệnh viêm phổi và được chôn cất cạnh vợ tại nghĩa trang địa phương. Noah cố gắng thường xuyên ghé qua để lại ít hoa; thỉnh thoảng anh để lại một tờ giấy nhắn nhủ. Và đêm nào anh cũng dành một khoảnh khắc để nhớ về ông, rồi nói lời cầu nguyện cho người đàn ông đã dạy anh tất cả những điều quan trọng trong đời.
Sau khi thu dây, anh cất đồ đi câu và quay trở về ngôi nhà. Hàng xóm của anh, Martha Shaw, đã chờ sẵn để cảm ơn anh, đem theo ba ổ bánh mì tự làm và ít bánh bích quy. Chồng bà đã chết trong chiến tranh, để lại bà với ba đứa con cùng một ngôi nhà cũ nát tồi tàn. Mùa đông đang đến, tuần trước anh đã dành ít ngày ở chỗ bà để sửa mái nhà, thay mấy chỗ cửa sổ bị vỡ và gắn lại các cửa sổ khác, sửa cả lò sưởi củi cho bà. Hy vọng như vậy đủ để họ qua được mùa đông.
Khi bà ta đi khỏi, anh lên chiếc xe tải Dodge xập xệ của mình mà qua nhà Gus. Anh luôn tạt qua đó trên đường ra cửa hàng vì họ không có ô tô. Thường thì một trong các cô con gái của Gus sẽ nhảy lên đi cùng anh và họ sẽ đi mua sắm ở Cửa hàng Capers General. Khi về đến nhà, anh không dỡ hết đồ ra ngay. Anh sẽ đi tắm vòi sen cái đã, tìm một chai bia Budweiser và một cuốn sách của Dylan Thomas, cuối cùng đến ngồi dưới mái hiên.
Cô vẫn không thể tin được điều ấy, kể cả khi đã nắm bằng chứng trong tay.
Nó ở trong một tờ báo ở nhà cha mẹ cô vào Chủ nhật cách đây ba tuần. Cô ra bếp để lấy một tách cà phê, và khi trở lại bàn cha cô mỉm cười chỉ tay vào một bức ảnh nhỏ. “Còn nhớ cái này không?”
Ông đưa cô tờ báo, và sau một cái liếc nhìn thờ ơ đầu tiên, có gì đó trong tấm ảnh đã đập vào mắt khiến cô nhìn kỹ hơn. “Không thể nào,” cô thì thầm, và khi cha cô nhìn cô một cách tò mò, cô lờ ông đi, ngồi xuống, đọc bài báo mà không nói thêm lời nào. Cô lờ mờ nhớ khi ấy mẹ đã đi đến bàn và ngồi đối diện cô, và khi cuối cùng cô đặt tờ báo sang một bên, bà nhìn cô chăm chú với vẻ mặt y hệt vẻ mặt của cha cô ngay trước đó.
“Con ổn chứ?” mẹ hỏi cô qua tách cà phê. “Trông con hơi xanh.” Cô không trả lời ngay, cô không thể, và lúc đó cô nhận ra tay mình đang run lên. Đó chính là lúc mọi thứ bắt đầu.
“Vậy là nó sẽ kết thúc ở đây, theo cách này hay cách khác,” cô lại thì thầm. Cô gấp mảnh báo lại để chỗ cũ, nhớ lại rằng hôm đó cô đã mang theo tờ báo rời khỏi nhà cha mẹ để có thể cắt bài báo ấy ra. Đêm đó cô đọc lại trước khi đi ngủ, cố hiểu cho được sự tình cờ kỳ lạ này, và sáng hôm sau lại đọc lại cứ như để chắc chắn toàn bộ chuyện này không phải là một giấc mơ. Và bây giờ, sau ba tuần với bao nhiêu cuộc đi bộ dài một mình, sau ba tuần tâm trí rối bời, nó là lý do cô đến đây.
Khi được hỏi, cô đáp cách cư xử kỳ lạ của cô là do stress. Đó là một lời biện minh hoàn hảo; tất cả mọi người đều hiểu, kể cả Lon, đó cũng là lý do tại sao anh không tranh cãi khi cô muốn đi xa một vài ngày. Mọi kế hoạch đám cưới đều gây stress cho tất cả những người liên quan. Gần 500 người được mời, trong đó có thống đốc, một nghị sĩ, và đại sứ Peru. Theo cô như thế là quá nhiều, nhưng cuộc đính hôn của họ là tin nổi bật đã thống trị các trang báo mục xã hội kể từ khi họ công bố kế hoạch cưới sáu tháng trước. Đôi khi cô cảm thấy muốn chạy trốn với Lon để làm đám cưới mà không có những rầy rà ấy. Nhưng cô biết anh sẽ không nhất trí; một chính trị gia tham vọng như anh thích là trung tâm của sự chú ý.
Cô lại hít một hơi thật sâu và đứng lên. “Hoặc là bây giờ, hoặc là không bao giờ,” cô thì thầm, sau đó cầm đồ đạc lên đi ra cửa. Cô chỉ dừng lại một chút trước khi mở cửa và đi xuống cầu thang. Người quản lý mỉm cười khi cô đi ngang qua, và cô có thể cảm thấy ánh mắt ông ta dõi theo khi cô đi ra chỗ ô tô. Cô trườn vào sau vô lăng, nhìn vào mình trong gương lần cuối, sau đó nổ máy và rẽ phải vào phố Front.
Cô không ngạc nhiên khi mình vẫn nhớ đường đi ở thị trấn này rõ như thế. Mặc dù đã nhiều nhưng năm cô không ở đây, thị trấn này không lớn và cô có thể dò ra các phố dễ dàng. Sau khi đi qua sông Trent trên một chiếc cầu kéo cổ lỗ, cô rẽ vào một con đường rải sỏi và bắt đầu chặng cuối cuộc hành trình của mình.
Vùng đất trũng này thật đẹp, như mọi khi. Không như Piedmont nơi cô lớn lên, đất ở đây bằng phẳng, nhưng chất đất thì cũng màu mỡ phù sa và lý tưởng để trồng bông và thuốc lá như vậy. Hai vụ mùa và ngành gỗ xẻ khiến các thị trấn trong khu vực này của bang luôn nhộn nhịp, khi lái xe dọc con đường bên ngoài thị trấn, cô nhìn thấy vẻ đẹp đã thu hút người ta đến với khu vực này từ những ngày đầu tiên.
Đối với cô, nó chẳng hề thay đổi. Ánh dương vỡ vụn xuyên qua những cây sồi nước và cây mại châu cao mấy chục mét, làm ánh lên những sắc màu mùa thu. Ở bên trái cô, một dòng sông màu xanh ánh thép lượn về phía con đường rồi chợt rẽ sang lối khác trước khi dâng tặng cuộc sống của nó cho một dòng sông khác lớn hơn cách độ một dặm phía trước. Bản thân con đường rải sỏi cũng uốn lượn qua nhiều trang trại có từ thời tiền Nội chiến, cô cũng biết rằng đối với một số nông dân, kể từ trước khi ông bà họ sinh ra cuộc sống vẫn chẳng có gì thay đổi. Sự bất biến của nơi này khiến cả một cơn lũ ký ức đổ về, để rồi cô cảm thấy lòng mình thắt lại mỗi lần nhận ra từng mốc ranh giới mình đã quên lãng từ lâu.
Vầng dương treo ngay phía trên rặng cây bên trái cô, và khi vòng qua một khúc quanh, cô đi ngang qua một ngôi nhà thờ cổ bỏ hoang nhiều năm nhưng vẫn đứng đó. Mùa hè năm ấy cô đã thám hiểm nó, tìm những kỷ vật từ cuộc nội chiến giữa các bang, giờ đây khi xe cô đi qua, những ký ức của ngày nào lại trở nên mạnh mẽ, cứ như chỉ mới vừa xảy ra ngày hôm qua.
Một cây sồi uy nghi bên bờ sông đã xuất hiện trong tầm mắt, và những ký ức trở nên mãnh liệt hơn. Cây sồi trông vẫn thế, cành thấp và vạm vỡ, vươn rộng trên mặt đất với những nhánh rêu Tây Ban Nha rủ xuống từ cành như một tấm mạng. Cô nhớ lại mình từng ngồi dưới tán cây này vào một ngày tháng Bảy nồng nực cùng một người đã nhìn cô với một sự khao khát khiến tất cả mọi thứ khác biến mất hết. Và chính vào khoảnh khắc ấy, cô đã yêu lần đầu tiên.
Anh hơn cô hai tuổi, và khi cô lái xe dọc con đường này, hình ảnh anh trong cô lại từ từ trở nên rõ nét. Lúc nào trông anh cũng già hơn tuổi thật, cô nhớ mình đã nghĩ thế. Vẻ ngoài của anh là của một người hơi dầm mưa dãi nắng, gần giống một nông dân trở về nhà sau hàng giờ trên cánh đồng. Anh có đôi bàn tay chai sạn và đôi vai rộng của những người phải lao động vất vả để kiếm sống, và những nếp nhăn đầu tiên đã bắt đầu hình thành quanh đôi mắt sẫm màu có vẻ như đọc được hết mọi suy nghĩ của cô.
Anh cao và mạnh mẽ, tóc nhâu nhạt, đẹp trai theo kiểu rất riêng, nhưng chính giọng nói của anh mới là điều cô nhớ nhất. Hôm đó anh đã đọc sách cho cô nghe; đọc cho cô nghe khi họ nằm trên cỏ dưới cây sồi với một âm giọng mềm mại và lưu loát, du dương gần như nhạc. Đó là giọng nói như thuộc về đài phát thanh, và dường như nó ngân nga trong không trung khi anh đọc cho cô nghe. Cô nhớ mình đã nhắm mắt, lắng nghe thật gần và để cho những lời anh đọc chạm tới tâm hồn:
 
Cơn gió cuốn ngày dỗ dành tôi
về phía bóng chiều và hơi nước,
Như không khí tôi đi,
tôi lắc mái đầu bạc
nhìn vầng dương chạy trốn...
 
Anh giở qua những cuốn sách cũ trang sách đã quăn, những cuốn sách anh đã đọc hàng trăm lần. Anh đọc một lúc, rồi ngừng lại, và cả hai nói chuyện. Cô kể với anh những gì cô muốn trong đời - những hy vọng và ước mơ cho tương lai - còn anh lắng nghe chăm chú và sau đó hứa sẽ biến tất cả thành hiện thực. Và cái lối anh nói điều ấy khiến cô tin anh, và lúc đó cô biết anh có ý nghĩa với cô đến chừng nào. Đôi khi, khi cô hỏi, anh sẽ kể về bản thân hay giải thích tại sao anh lại chọn một đoạn thơ nào đó và anh nghĩ gì về nó, còn đôi khi anh chỉ nhìn cô chăm chú một cách say mê theo kiểu mà chỉ anh mới có được.
Họ ngắm mặt trời lặn và cùng nhau ăn tối dưới các vì sao. Lúc đó trời đã muộn, và cô biết bố mẹ cô sẽ nổi giận nếu biết cô ở đâu. Tuy nhiên vào lúc đó điều ấy chẳng có gì quan trọng. Tất cả những gì cô có thể nghĩ tới là ngày hôm đó mới đặc biệt làm sao, anh mới đặc biệt làm sao, và vài phút sau đó khi họ bắt đầu đi về hướng nhà cô, anh đã nắm tay cô và cô cảm thấy cái nắm tay ấy đã sưởi ấm cô suốt chặng đường còn lại.
Lại một khúc ngoặt trên đường, và cuối cùng cô thấy nó hiện ra xa xa. Ngôi nhà đã thay đổi đáng kể so với cô còn nhớ. Cô lái chậm lại khi đến gần, rẽ vào con đường đất rợp bóng cây dẫn đến cột mốc đã triệu cô từ Raleigh về đây.
Cô lái chậm, nhìn về phía ngôi nhà, và hít một hơi sâu khi nhìn thấy anh đang ở trên hiên, đang nhìn chiếc xe cô. Anh ăn mặc thoải mái. Từ xa trông anh vẫn giống như xưa. Trong mọi lúc, khi ánh mặt trời đã ở phía sau anh, anh gần như tan biến vào khung cảnh.
Xe cô tiếp tục đến gần, lăn bánh chậm chạp, cuối cùng cũng dừng lại trước một cây sồi phủ bóng phía trước ngôi nhà. Cô xoay chìa khóa, không rời mắt khỏi anh, động cơ kêu khục khục rồi dừng lại.
Anh bước xuống hiên và bắt đầu lại gần cô, bước đi thoải mái, sau đó bỗng dưng dừng lại lặng ngắt khi cô xuất hiện từ chiếc xe. Suốt một lúc lâu họ không thể làm gì khác ngoài nhìn nhau chăm chăm không động đậy.
Allison Nelson, hai mươi chín tuổi và đã đính hôn, một con người quảng giao, đang đi tìm những câu trả lời cô cần biết, và Noah Calhoun, kẻ mơ mộng, ba mươi mốt tuổi, đã được bóng ma thống trị cuộc đời anh đến thăm.
Nhật ký Nhật ký - Nicholas Sparks Nhật ký