I like intellectual reading. It's to my mind what fiber is to my body.

Grey Livingston

 
 
 
 
 
Tác giả: S.e. Hinton
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: The Outsiders
Dịch giả: Thiên Nga
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Quoc Tuan Tran
Số chương: 13
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 3423 / 82
Cập nhật: 2016-06-18 07:56:52 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
ôi tỉnh dậy khi chiều muộn. Thoạt tiên tôi không biết mình đang ở đâu. Bạn cũng biết mà, khi ta tỉnh dậy ở một nơi xa lạ, tự hỏi mình đang ở nơi nào, cho đến khi ký ức tràn qua ta như một cơn sóng. Tôi gần như tự thuyết phục mình rằng, hết thảy những gì xảy ra tối qua đều chỉ là một cơn mơ. Thực ra mình đang nằm trên giường ở nhà, tôi nghĩ. Đã gần trưa rồi, cả hai anh Darry và Sodapop đều đã dậy. Darry đang chuẩn bị bữa sáng, và lát nữa thôi hai người sẽ vào lôi tôi khỏi giường, vật tôi xuống thọc lét tôi cho đến khi tôi không thể chịu nổi nữa. Lần này đến lượt tôi và Soda rửa chén bát khi bọn tôi ăn xong, và rồi cả ba anh em sẽ ra ngoài chơi bóng. Johnny, Ba Láp và tôi sẽ đòi Darry về đội, vì Johnny và tôi quá nhỏ con trong khi Darry là cầu thủ giỏi nhất. Mọi chuyện sẽ diễn ra như một buổi sáng cuối tuần vốn thế. Tôi cố tự nhủ điều đó khi đang nằm trên sàn đá cứng, quấn mình trong áo khoác của Dally và nghe gió lùa qua lá cây khô bên ngoài.
Cuối cùng tôi thôi không vờ vịt nữa và gượng mình dậy. Tôi cứng đờ và ê ẩm vì ngủ trên sàn đá cứng đó, nhưng quả thực tôi chưa bao giờ ngủ say đến vậy. Tôi vẫn còn uể oải. Tôi gạt áo khoác jean của thằng Johnny ra, thứ chẳng hiểu sao lại quăng ngang người tôi, rồi chớp mắt gãi đầu. Im lặng khiếp quá, chỉ có tiếng gió lùa trong cây. Đột nhiên, tôi nhận ra Johnny không có ở đó.
“Johnny?” tôi gọi to, ngôi nhà thờ cũ bằng gỗ liền nhại vọng lại tiếng tôi, onny onny... Tôi cuống cuồng nhìn quanh, gần như kinh hoảng, nhưng rồi thoáng thấy mấy chữ viết nghiêng trên lớp bụi dưới nền nhà. Đi mua đồ. Về ngay. J.C.
Tôi thở hắt, rồi tới cái máy bơm uống nước. Nước từ máy bơm giống như băng lỏng, nó có vị là lạ, nhưng dù sao cũng là nước. Tôi táp chút nước lên mặt và cảm thấy tỉnh ra khá nhanh. Tôi lau mặt vào cái áo khoác jean của Johnny rồi ngồi xuống bậc thềm đằng sau. Từ phía cửa hậu, ngọn đồi đột ngột dốc xuống chừng sáu thước, và ta có thể nhìn xa tít tắp. Giống như ngồi trên đỉnh thế giới.
Khi chẳng có gì để làm, người ta thường nhớ lại mọi chuyện dù chẳng muốn. Tôi có thể nhớ lại từng tình tiết của đêm qua, có điều nó cứ mờ ảo như một giấc mơ. Dường như đã lâu hơn hai mươi bốn giờ, từ khi Johnny và tôi gặp Dally ở góc giao đường Pickett và Sutton. Có khi thế thật. Có khi Johnny đã đi cả tuần rồi còn tôi chỉ ngủ thôi. Có khi nó đang bị cảnh sát đánh đập và chờ ngày lên ghế điện vì không chịu khai ra tôi ở đâu. Có khi Dally đã thiệt mạng trong một tai nạn xe hay gì đó và sẽ không ai biết được tôi đang ở đâu, tôi sẽ đơn giản là chết dần chết mòn tại đây, một mình, cho tới khi thành một bộ xương. Trí tưởng tượng quá tích cực lại lấn át tôi. Mồ hôi chảy ròng ròng xuống mặt rồi lưng, và tôi run cầm cập. Đầu tôi quay mòng mòng, tôi ngả người và nhắm mắt lại. Tôi nghĩ mình bị như thế phần vì cú sốc đến chậm. Cuối cùng bụng tôi cũng dễ chịu lại, tôi bớt căng thẳng đi một chút và mong là Johnny sẽ nhớ mua thuốc lá. Tôi sợ hãi, ngồi đó một mình.
Tôi nghe có ai đó bước qua lớp lá úa tiến về phía sau nhà thờ, nên tôi nấp vào bên trong cửa. Đoạn tôi nghe một tiếng huýt sáo, dài và khẽ, ngưng đột ngột bằng một nốt cao. Tôi biết khá rõ tiếng huýt sáo đó. Nó được bọn tôi và băng thằng Shepard dùng để chỉ “Ai đó?” Tôi thận trọng đáp lại, rồi lao ra khỏi cửa nhanh đến nỗi tôi lăn khỏi mấy bậc thềm và ngã sóng soài ngay dưới chân Johnny.
Tôi chống tay lên và cười toe toét với nó. “Ê, Johnny. Ngạc nhiên khi gặp mày ở đây đó.”
Nó nhìn xuống tôi qua một gói đồ to tướng. “Tao thề đó, Ponyboy, mày làm bộ cư xử càng lúc càng giống thằng Ba Láp.”
Tôi cố nhướng một bên mày lên mà không được. “Ai làm bộ?” Tôi lăn người qua và bật dậy, vui vì chỗ này đã có thêm hơi người. “Mày mua những gì rồi?”
“Vào trong đi. Dally dặn tụi mình phải ở trong đó.”
Bọn tôi vào trong. Johnny dùng áo khoác phủi sạch bụi trên một cái bàn rồi bắt đầu soạn đồ trong túi ra, xếp thành hàng ngay ngắn. “Dự trữ cho một tuần gồm xúc xích, hai ổ bánh mì, một hộp diêm...” Johnny tiếp tục.
Chán nhìn nó làm tất cả rồi, vậy nên tôi bắt đầu tự tay vọc vào túi. “Chu choa!” Tôi ngồi xuống một cái ghế bụi bặm và ngó trân trân. “Cuốn theo chiều gió! Sao mày biết tao vẫn luôn muốn có quyển này?”
Johnny đỏ mặt. “Tao nhớ có lần mày đã nói gì đó về nó mà. Với lại tao và mày đã đi xem phim đó, nhớ không? Tao nghĩ biết đâu mày sẽ đọc to lên để giết thì giờ hay gì ấy.”
“Trời, cám ơn nghen.” Tôi miễn cưỡng để cuốn sách xuống. Tôi muốn bắt đầu đọc ngay lúc này. “Ôxy già? Một bộ bài...” Bỗng tôi nhận ra cái gì đó. “Johnny, mày tính...”
Johnny ngồi xuống lôi con dao ra. “Bọn mình sẽ cắt tóc, và sẽ tẩy tóc cho mày.” Nó vụng về nhìn xuống đất. “Người ta sẽ đưa mô tả về bọn mình lên báo. Bọn mình không thể giống mấy hình đó được.”
“Ôi, không!” Tay tôi lướt nhanh trên tóc. “Không, Johnny, không phải với tóc tao!”
Nó là niềm kiêu hãnh của tôi. Nó dài và mượt, y như tóc Soda, chỉ hoe đỏ hơn một chút. Tóc của anh em tôi đẹp lắm - bọn tôi không phải dùng nhiều dầu. Tóc bọn tôi còn xác định bọn tôi là dân Mỡ - đó là nhãn hiệu của bọn tôi. Là thứ duy nhất bọn tôi tự hào. Có thể bọn tôi không có xe Corvair hay sơ mi kẻ ô, nhưng bọn tôi có mái tóc.
“Đằng nào thì bọn mình cũng phải vậy thôi nếu bị tóm. Mày biết điều đầu tiên thẩm phán làm là bắt ta cắt tóc mà.”
“Sao phải thế chứ,” tôi cay đắng. “Dally tóc ngắn vậy mà cũng trấn lột người ta dễ không đó thôi.”
“Tao cũng chẳng biết - đại loại là cách để cố đập tan bọn mình. Mấy lão đó quả thực chẳng làm gì được tụi Curly Shepard hay Tim; cái gì làm được thì họ cũng đã làm rồi. Và họ chẳng lấy đi được bất cứ gì của chúng vì ngay từ đầu tụi nó đã chẳng có gì ráo. Nên họ cắt tóc tụi nó.”
Tôi nhìn Johnny van nài. Johnny thở dài. “Tao cũng sẽ cắt tóc tao nữa, rồi gội sạch dầu đi, nhưng tao không tẩy tóc được. Da tao ngăm quá chẳng trông như thằng tóc vàng cho nổi. Ồ, thôi nào, Ponyboy,” nó van nài. “Rồi nó sẽ lại dài ra mà.”
“Thôi được,” tôi nói, mắt mở to. “Làm phứt đi.”
Johnny bật lưỡi cạo từ con dao bấm của nó ra, nắm tóc tôi, bắt đầu cứa. Tôi giật bắn mình. “Đừng ngắn quá nghe,” tôi van nài. “Johnny, làm ơn đi...”
Cuối cùng thì cũng đã xong. Tóc tôi trông là lạ, vương vãi từng nhúm khắp nền nhà. “Nó sáng màu hơn tao tưởng,” tôi nói, săm soi tóc mình. “Giờ tao ngó xem tao ra sao được chưa?”
“Chưa đâu,” Johnny nói chậm rãi, nhìn tôi chằm chằm. “Tụi mình phải tẩy tóc đã.”
Sau khi đã ngồi dưới nắng mười lăm phút để hong khô ôxy già rồi thì Johnny mới cho tôi nhìn vào mảnh gương cũ mà hai đứa tìm thấy trong một căn buồng nhỏ. Tôi nhìn lại lần nữa. Tóc tôi giờ còn vàng hơn cả tóc Sodapop. Tôi chưa bao giờ chải nó qua một bên như thế này. Đơn giản là trông không giống tôi. Nó khiến tôi trông trẻ con hơn, và yếu đuối hơn. Mẹ kiếp, tôi nghĩ, cái này quả khiến mình trông bảnh chọe đây. Tôi trông như một thằng ẻo lả trời đánh thánh đâm. Tôi thật thảm hại.
Johnny đưa tôi con dao. Cả nó cũng sợ. “Cắt đằng trước và tỉa mỏng những chỗ còn lại. Gội xong tao sẽ chải ngược ra sau.”
“Johnny,” tôi chán nản, “mày không gội đầu với nước đá trong thời tiết này được đâu. Mày sẽ bị cảm lạnh đó.”
Nó chỉ nhún vai. “Cứ cắt đi.”
Tôi cố hết sức mình. Nó chịu trận tới khi xong việc rồi gội đầu, dùng thanh xà phòng nó mua. Tôi mừng là mình đã chạy trốn cùng nó thay vì Ba Láp, Steve hay Dally. Xà phòng - đó là một thứ tụi nó sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến. Tôi đưa Johnny cái áo khoác của Dally để quấn tóc vào, rồi nó ngồi ở mấy bậc thang cửa sau, run lẩy bẩy dưới nắng, tựa người vào cửa rồi chải tóc ra sau. Đó là lần đầu tiên tôi thấy nó có lông mày. Trông không giống Johnny. Trán nó, chỗ trước đây là tóc mái, trắng trẻo hơn; chuyện đó sẽ tếu phết nếu bọn tôi hiện giờ không sợ hãi như vậy. Nó vẫn còn đang run cầm cập vì lạnh. “Tao nghĩ,” nó nói yếu ớt, “tao nghĩ bọn mình đã cải trang rồi đó.”
Tôi ủ rũ dựa kế bên nó. “Tao nghĩ vậy.”
“Ôi, chết tiệt,” Johnny nói với vẻ vui tươi giả tạo, “chỉ là tóc thôi mà.”
“Chết tiệt quái gì,” tôi gắt. “Phải rất lâu tao mới để được mái tóc đó đúng như tao muốn. Với lại, đây đâu phải là mình. Chẳng khác nào mặc đồ hóa trang Halloween mà lại chẳng cởi ra được.”
“Thôi nào, bọn mình phải quen với ý tưởng đó,” Johnny nói dứt khoát. “Bọn mình đang gặp rắc rối to và cần phải chọn hoặc là vẻ ngoài của mình hoặc là mình.”
Tôi bắt đầu nhá một thanh kẹo. “Tao vẫn còn mệt,” tôi nói. Thật đáng ngạc nhiên, khi mặt đất nhòa đi và tôi cảm thấy nước mắt tràn xuống má. Tôi vội vàng lau nước mắt. Johnny trông cũng khổ sở như tôi đang cảm thấy.
“Tao xin lỗi vì đã cắt tóc mày, Ponyboy à.”
“Ồ, không phải vậy,” tôi vừa nói vừa ăn sô cô la. “Ý tao là, không phải tất cả ấy. Tao hơi hoảng sợ. Tao thực tình không biết có chuyện gì nữa. Chỉ là tao thấy cứ rối tinh rối mù cả lên.”
“Tao biết,” Johnny nói qua hàm răng đánh lập cập khi chúng tôi vào trong. “Mọi chuyện xảy ra nhanh quá...” Tôi quàng tay quanh vai sưởi ấm cho nó.
“Thằng Ba Láp đáng ra phải tới cái tiệm bé tẹo đó mới được. Trời hỡi, bọn mình đang ở một nơi khỉ ho cò gáy; căn nhà gần nhất cũng cách đây những hai dặm. Mọi thứ cứ nằm chờ hơ ra đó, chỉ đợi có ai láu cá như thằng Ba Láp tới mà lượm thôi. Nó rinh cả nửa cửa hàng ra cũng được ấy chứ.” Johnny ngả người cạnh tôi, và tôi cảm thấy nó đang run cầm cập. “Ông bạn Ba Láp tốt bụng,” nó nói giọng run run. Nó chắc cũng đang nhớ nhà như tôi.
“Có nhớ tối qua bọn mình bông lơn sao không?” tôi nói. “Tối qua... chỉ mới tối qua đây thôi bọn mình còn đưa Cherry và Marcia tới nhà thằng Ba Láp. Chỉ mới tối qua thôi bọn mình còn nằm ngoài lô đất, ngước nhìn sao trời và mơ mộng...”
“Thôi đi!” Johnny thở dồn dập giữa hàm răng nghiến chặt. “Câm miệng chuyện tối qua đi! Tối qua tao đã giết chết một thằng nhóc. Nó chẳng thể quá mười bảy hay mười tám, vậy mà tao đã giết nó. Mày thích sống với chuyện này lắm chắc?” Nó khóc. Tôi ôm Johnny giống Soda đã làm vào cái hôm bọn tôi tìm thấy nó nằm ngoài lô đất.
“Tao không cố ý,” cuối cùng nó thốt lên, “nhưng tụi nó đang trấn nước mày, và tao sợ quá...” Nó im lặng giây lát. “Bên trong con người có nhiều máu thiệt.”
Nó đột ngột đứng lên và bắt đầu đi tới đi lui, vỗ vỗ các túi.
“Bọn mình sẽ làm gì bây giờ?” Đến lúc đó thì tôi cũng khóc. Trời đang tối dần, tôi lạnh và cô đơn. Tôi nhắm mắt và ngửa cổ ra sau, ấy vậy mà nước mắt vẫn cứ trào ra.
“Chuyện này là tại tao,” Johnny khổ sở. Nó đã nín khi tôi bắt đầu. “Vì đã lôi một thằng nhóc mười ba tuổi theo. Ắt mày phải về nhà thôi. Mày không thể dính vào bất kỳ rắc rối nào. Mày đâu có giết nó.”
“Không!” tôi thét lên. “Tao mười bốn tuổi! Tao mười bốn được một tháng rồi! Và tao cũng dính vào chuyện đó như mày vậy. Tao sẽ nín ngay đây... Tao không nhịn được.”
Nó ngồi sụp xuống bên tôi. “Tao không có ý nói kiểu đó, Ponyboy. Đừng có khóc, Pony, bọn mình sẽ không sao đâu. Đừng khóc...” Tôi dựa vào nó và khóc thành tiếng cho đến khi ngủ thiếp đi.
Tôi tỉnh dậy lúc đêm khuya. Johnny đang dựa vào tường còn tôi thì ngủ bên vai nó. “Johnny?” tôi ngáp. “Mày thức à?” Tôi thấy ấm áp và buồn ngủ.
“Ừ,” nó nói khẽ.
“Bọn mình sẽ không khóc nữa, đúng không?”
“Ừ. Giờ cả hai đứa mình đều đã khóc hết cả nước mắt rồi. Bọn mình sẽ quen với ý nghĩ đó. Giờ bọn mình sẽ ổn thôi.”
“Tao cũng nghĩ thế,” tôi thẫn thờ. Lần đầu tiên từ khi Dally và tôi ngồi sau lưng mấy đứa con gái ở Nightly Double, tôi thấy thoải mái. Giờ bọn tôi đã có thể đón nhận bất cứ điều gì sắp xảy đến.
Bốn năm ngày sau đó là những ngày dài nhất đời tôi. Bọn tôi giết thời gian bằng cách đọc Cuốn theo chiều gió và chơi xì phé. Johnny rõ là mê tít cuốn đó, dù nó chẳng hiểu mô tê gì về Nội chiến còn kiến thức về đồn điền thì còn tệ hơn, và tôi phải giải thích rất nhiều cho nó. Tôi thấy ngạc nhiên là Johnny rút ra được nhiều ý nghĩa từ một số điều trong sách hơn cả tôi - thế mà tôi vốn được xem là một đứa sâu sắc. Ở trường Johnny đã bị lưu ban một năm và chưa bao giờ được điểm cao - nó không thể hiểu thứ gì nhồi nhét vào nó quá nhanh, chắc hẳn thầy cô nghĩ nó đơn giản là ngu. Nhưng nó không ngu. Nó chỉ hơi chậm hiểu, và một khi hiểu rồi thì nó thích tìm hiểu thêm cặn kẽ mọi thứ. Nó mê các quý ông miền Nam nước Mỹ lắm - Johnny thấy ấn tượng vì cung cách và sự quyến rũ của họ.
“Tao cá họ là những anh chàng tuyệt vời,” nó nói, mắt long lanh khi tôi đọc xong đoạn họ lao vào cái chết mười mươi bởi tính cách cao thượng. “Họ làm tao nghĩ đến thằng Dally.”
“Dally á?” tôi nói, giật mình. “Chết tiệt, nó thì hơn gì tao. Và mày đã thấy nó đối xử với mấy đứa con gái đó đêm trước ra sao rồi đó. Anh Soda mới giống họ, mấy gã miền Nam ấy.”
“Ừ... giống ở phong cách, và cả sự quyến rũ, tao nghĩ vậy,” Johnny thong thả nói, “nhưng một đêm tao thấy thằng Dally bị cảnh sát thộp cổ, vậy mà nó vẫn giữ được sự bình tĩnh điềm đạm suốt. Họ tóm nó vì tội phá cửa sổ tòa nhà trường học, nhưng chính thằng Ba Láp mới là đứa làm chuyện đó. Dally biết. Nhưng nó đón nhận hình phạt mà chẳng hề nao núng hay thậm chí là chối bỏ. Như vậy là cao thượng.”
Đó là lần đầu tiên tôi nhận thấy mức độ tôn thờ thần tượng mà Johnny dành cho Dally Winston. Trong cả bọn, Dally là đứa tôi ít ưa nhất. Nó không có sự cảm thông hay hăng hái của Soda, khiếu hài của thằng Ba Láp, hay cả những phẩm chất siêu nhân của Darry. Có điều, tôi nhận thấy ba người này làm tôi ấn tượng vì họ giống những người hùng trong mấy tiểu thuyết tôi đọc. Dally thì bằng xương bằng thịt. Tôi thích sách vở và hoàng hôn và mây trời. Còn Dally thực đến độ nó làm tôi sợ.
Johnny và tôi không hề bước chân ra trước nhà thờ. Từ ngoài đường ta có thể nhìn thấy phía trước, và bọn nhóc nông dân đôi lúc cưỡi ngựa ngang qua trên đường đến cửa hàng. Vậy là bọn tôi ở ngay đằng sau, thường ngồi nơi mấy bậc thềm nhìn về phía thung lũng. Bọn tôi có thể thấy xa tít tắp; thấy dải đường quốc lộ, những chấm nhỏ nhà và xe. Bọn tôi không thể thấy hoàng hôn, vì phía sau quay mặt về hướng Đông, nhưng tôi thích ngắm màu của những cánh đồng và những sắc thái dịu nhẹ ở đường chân trời.
Một buổi sáng tôi tỉnh dậy sớm hơn mọi khi. Johnny và tôi chụm vào nhau ngủ cho ấm - Dally nói đúng, nơi chúng tôi đến sẽ lạnh hơn. Cẩn thận để không làm Johnny thức giấc, tôi đến ngồi trên mấy bậc thềm hút thuốc. Bấy giờ bình minh đang lên. Phần thung lũng thấp bên dưới bị sương mù giăng kín, thi thoảng những dải sương nhỏ lại vỡ ra và trôi đi thành từng đám mây con. Bầu trời sáng hơn ở đằng Đông, chân trời là một nét vàng mỏng manh. Mây chuyển từ xám sang hồng, và sương mù nhuốm vàng rực rỡ. Trong khoảnh khắc, vạn vật như đều nín thở, và rồi mặt trời mọc. Thật đẹp.
“Trời ạ,” giọng Johnny bên cạnh làm tôi giật cả mình - “đẹp thiệt.”
“Phải.” Tôi thở dài, ước gì mình có ít màu để vẽ một bức tranh trong khi cảnh vật vẫn còn tươi mới trong trí tôi.
“Sương mù mới đẹp chứ,” Johnny nói. “Toàn một màu vàng và bạc.”
“Ừmmmmm,” tôi nói, cố thổi ra một vòng khói.
“Đáng buồn là nó không thể tồn tại mãi hoài như vậy.”
“Không gì huy hoàng mãi.” Tôi đang nhớ lại một bài thơ có lần tôi đã đọc.
“Hả?”
“Thiên nhiên tự thuở mở trời,
Rực sắc vàng phiêu vợi.
Lá thắm khác gì hoa;
Nhưng nửa khắc trôi qua.
Lá chỉ còn là lá.
Địa Đàng không người sưởi,
Bình minh tắt nụ cười.
Không gì huy hoàng mãi.”
Johnny đang nhìn tôi chằm chằm. “Mày học được cái đó ở đâu thế? Đó chính là cái tao muốn nói.”
“Robert Frost viết đấy. Nhưng ý ổng muốn nói ở đó nhiều hơn là tao hiểu được.” Tôi đang cố hiểu cho ra cái ý nghĩa mà nhà thơ muốn biểu đạt, nhưng nó vượt quá sức hiểu biết của tôi. “Tao nhớ mãi bài thơ đó vì tao chưa bao giờ hiểu trọn cái ổng muốn thể hiện qua bài thơ đó.”
“Mày biết không,” Johnny thong thả nói, “tao chưa hề để ý đến màu sắc, mây trời và các thứ đại loại thế cho đến khi mày cứ nhắc mãi về chúng. Cứ như thể trước đây chúng chưa từng có ấy.” Nó ngẫm nghĩ một lát. “Nhà mày ngộ ghê.”
“Ngộ là ngộ làm sao?” tôi hỏi cứng.
Johnny nhìn nhanh tôi. “Tao không có ý gì đâu. Ý tao là, đấy, Soda trông khá giống mẹ mày, nhưng cư xử thì lại hệt như bố mày. Còn Darry là từ một khuôn ông già mày đúc ra, nhưng nó lại không phóng túng và lúc nào cũng tươi cười như ông. Nó lại cư xử như mẹ mày. Còn mày thì cư xử chẳng giống ai cả.”
“Tao biết,” tôi nói. “Ờ,” tôi trầm ngâm, “mày không giống bất kỳ đứa nào trong băng. Ý tao là, tao không thể nói với thằng Ba Láp hay Steve hay ngay cả Darry về hoàng hôn mây trời các thứ. Tao thậm chí còn không thể nhớ lại được bài thơ đó khi ở bên họ. Ý tao là, bọn họ đơn giản là không chịu hiểu. Chỉ có mày và Sodapop. Và có lẽ cả Cherry Valance.”
Johnny nhún vai. “Ừ,” nó thở dài. “Tao nghĩ bọn mình khác.”
“Chết tiệt,” tôi nói, thổi ra một vòng khói thật tròn, “có thể bọn họ khác.”
Đến ngày thứ năm thì tôi đã ngấy xúc xích đến độ muốn nôn mỗi khi nhìn thấy. Bọn tôi đã ăn hết sạch mấy thanh kẹo trong hai ngày đầu. Tôi thèm một chai Pepsi chết được. Tôi là loại mà người ta có thể gọi là con nghiện Pepsi. Tôi uống Pepsi như nghiện, và năm ngày trời mà không có một chai nào khiến tôi như chết đến nơi. Johnny hứa sẽ mua một ít nếu bọn tôi hết đồ dự trữ và cần mua thêm, nhưng chuyện đó chẳng giúp gì được tôi ngay lúc này. Ở đây tôi hút nhiều hơn bình thường - chắc tại tôi nghĩ cần có chuyện để làm - dù Johnny đã báo trước là tôi sẽ bệnh nếu hút tợn như vậy. Bọn tôi phải cẩn thận khi hút thuốc - ngôi nhà thờ cũ đó mà bắt lửa thì sẽ không ngăn được.
Đến ngày thứ năm thì tôi đã đọc Cuốn theo chiều gió đến chỗ tướng Sherman bao vây Atlanta, nợ Johnny một trăm năm mươi đô la chơi xì phé, hút hai gói Camel, và đúng như Johnny đã báo trước, ngã bệnh. Cả ngày tôi đã chẳng được ăn gì; và hút thuốc với một cái bao tử lép kẹp chẳng làm ta cảm thấy dễ chịu lắm đâu. Tôi nằm cuộn tròn một góc ngủ cho giã thuốc. Chỉ vừa mới thiu thiu thì tôi nghe thấy, như thể từ đâu xa lắm, một tiếng huýt sáo dài và dứt bằng một nốt cao đột ngột. Tôi buồn ngủ quá chẳng để ý, dù thằng Johnny chẳng có lý nào lại huýt sáo như thế. Nó đang ngồi nơi mấy bậc thềm sau cố đọc Cuốn theo chiều gió. Tôi gần như đã cho là mình đang mơ thấy thế giới bên ngoài, một thế giới chẳng có gì thực cả ngoài bánh sandwich xúc xích, cuộc Nội chiến, ngôi nhà thờ cũ và sương mù dưới thung lũng. Tôi thấy hình như mình đã sống trong nhà thờ này tự bao giờ rồi, hoặc giả đã từng sống vào thời Nội chiến rồi vì một lý do nào đó mà chuyển tới chỗ khác. Chuyện đó cho bạn thấy tôi có trí tưởng tượng phóng túng thế nào.
Một ngón chân chọc bên sườn tôi. “Trời đất,” một giọng thô lỗ nhưng quen thuộc nói, “để tóc đó nó trông khác ghê.”
Tôi xoay người qua và ngồi dậy, dụi mắt cho tỉnh ngủ và ngáp. Bỗng tôi chớp mắt.
“Ê, Dally!”
“Ê, Ponyboy!” Nó nhìn xuống tôi cười nhăn răng. “Hay tao phải gọi là Người Đẹp Ngủ Trong Rừng?”
Tôi chưa hề nghĩ mình sống để thấy cái ngày tôi mừng quýnh lên khi thấy Dally Winston, nhưng ngay lúc này chuyện đó có nghĩa là: tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Và điều đó bỗng dưng trở nên thực hữu và sống động.
“Anh Sodapop sao rồi? Cảnh sát có đuổi theo tụi tao không? Anh Darry có ổn không? Mấy thằng có biết bọn tao ở đâu không? Cái...”
“Gượm đã, nhóc,” Dally ngắt lời. “Tao đâu thể một lúc mà trả lời hết được. Hai bay có muốn kiếm cái gì bỏ miệng không đã? Tao bỏ bữa sáng và sắp chết đói rồi đây.”
“Mày mà chết đói?” Johnny phẫn nộ đến độ nó gần như rít lên. Tôi nhớ lại món xúc xích.
“An toàn ra ngoài được rồi hả?” tôi hăm hở.
“Ờ.” Dally nói sau khi mò trong túi áo sơ mi tìm điếu thuốc nhưng không thấy. “Có điếu ung thư không, Johnnycake?”
Johnny ném cho nó cả gói.
“Cảnh sát sẽ chẳng lùng tụi bay quanh đây đâu,” Dally nói, quẹt lửa. “Bọn họ tưởng tụi bay bỏ chạy về hướng Texas rồi. Tao đỗ con T-bird của thằng Buck hơi xa dưới đường một chút. Ôi lạy Chúa tôi, mấy anh bạn, tụi bay chẳng ăn gì cả sao?”
Johnny trông giật mình. “Phải đấy. Cái quái gì khiến mày nghĩ bọn tao không ăn?”
Thằng Dally lắc đầu. “Cả hai bay đều xanh xao và sụt cân. Sau vụ này, phải ra nắng nhiều hơn. Tụi bây trông như vừa trải qua gian khó ấy.”
Tôi định bảo nó “Dòm lại mình đã rồi hẵng nói người khác” nhưng lại nghĩ sẽ an toàn hơn nếu không nói. Thằng Dally cần phải cạo râu mới được - một đám râu lún phún xanh rì phủ kín hàm nó - và trông như nó mới là người đã mặc quần áo bẩn cả tuần mà đi ngủ chứ không phải bọn tôi; tôi biết cả tháng rồi nó chẳng ghé thợ cắt tóc. Nhưng sẽ an toàn hơn nếu không lắm lời với Dally Winston.
“Nè, Ponyboy” - nó mò trong túi sau lấy ra một mẩu giấy - “tao có thư cho mày đây.”
“Một lá thư à? Của ai?”
“Tổng thống, dĩ nhiên rồi, ngu à. Của Soda đó.”
“Sodapop?” tôi nói, ngơ ngác. “Nhưng làm sao ảnh biết...?”
“Mấy bữa trước nó lại chỗ thằng Buck có chút chuyện và thấy cái áo lạnh đó. Tao đã nói nó tao không biết tụi bay ở đâu, nhưng nó đâu có tin. Nó đưa tao lá thơ này và nửa lương của nó để đưa mày. Nhóc, mày phải thấy Darry mới được. Nó đang chịu...”
Tôi không nghe nó. Tôi dựa ra vách nhà thờ và đọc:
Ponyboy,
Nào, tao đoán mày gặp chút dắc dối, hả? Anh Darry và tao muốn điên lên khi mày chạy ra như vậy. Anh Darry hết sức hối hận vì đã đánh mày. Mày biết ảnh không cố ý mà. Tiếp đó mày và Johnny lại biệt tích rồi nào là thằng nhóc chết ở công viên đó, nào là Dally bị lôi cổ về đồn, mấy chuyện đó làm tụi tao sợ thất đảm. Cảnh sát đã đến khảo tụi tao và tụi tao đã kể cho họ những gì tụi tao biết. Tao chẳng thể nào tin Johnny bé bỏng lại giết chết ai đó. Tao biết Dally biết tụi bay ở đâu, nhưng mày biết nó rồi đó. Nó ngậm câm và sẽ chẳng cho tao hay gì đâu. Anh Darry chẳng biết tí gì về chuyện mày đang ở đâu và chuyện đó gần như giết chết ảnh. Tao ước gì mày trở về và đầu thú nhưng tao cho là mày không thể vì Johnny có thể bị nguy. Tụi bay nổi tiếng thiệt rồi đó. Tụi bay lại còn được một đoạn chên báo nữa chớ. Bảo chọng và chào Johnny giùm bọn tao.
Sodapop Curtis
Anh nên xem lại chính tả thôi, tôi nghĩ sau khi đọc kỹ ba, bốn lần. “Thế nào mà mày lại bị bắt?” tôi hỏi Dally.
“Chết tiệt, nhóc” - nó cười nhe răng như chó sói - “mấy thằng tụi nó ở đồn giờ đã biết tiếng tao quá rồi. Chỉ cần có chuyện xảy ra trên đất mình là tao bị sờ gáy. Lúc ở đó tao gần như bắn tin là bọn mày đang chạy về hướng Texas. Vậy nên đó là nơi tụi nó đang lùng.”
Nó rít một hơi thuốc và văng tục hểu hảo vì không phải thuốc lá Kool. Johnny lắng nghe thán phục. “Mày chửi thề ngon ơ thiệt đó, Dally.”
“Còn phải nói,” Dally đồng ý cái rụp, hãnh diện về vốn từ của mình. “Nhưng bọn nhóc bay đừng có mà học theo thói xấu của tao đó.”
Nó vò mạnh đầu tôi. “Nhóc, tao thề là tóc mày bị vặt trụi rồi thì chẳng giống mày gì cả. Trước đây tóc mày từng trông bảnh lắm. Mày và thằng Soda có mái tóc trông bảnh nhất vùng đó chứ.”
“Tao biết,” tôi chua chát. “Tao trông tệ quá, nhưng đừng có nói mãi chuyện đó.”
“Tụi bay có muốn ăn gì không?”
Johnny và tôi bật dậy. “Mày cứ tin chắc là có đi.”
“Trời,” Johnny bâng khuâng, “được trèo lên xe lại hẳn là hết sảy lắm đây.”
“Được rồi,” Dally dài giọng, “tao sẽ đưa mày đi một vòng thật đáng đồng tiền bát gạo.”
Thằng Dally luôn khoái chạy nhanh, như thể chẳng cần biết nó có đến được đích hay không, rồi bọn tôi rời núi Jay xuống con đường đất đỏ mà chạy tám mươi lăm dặm một giờ. Tôi thích ngồi xe chạy nhanh còn thằng Johnny thì mê đua xe, nhưng cả hai đứa tôi có hơi xanh mặt khi thằng Dally ôm cua ở góc đường trên hai bánh với tiếng két rẹt của thắng xe. Có lẽ vì đã lâu rồi bọn tôi không ngồi xe.
Bọn tôi dừng ở Dairy Queen và thứ đầu tiên tôi mua là một chai Pepsi. Johnny và tôi ngốn sandwich thịt heo và kem banana split.
“Trời đất,” Dallas nói, ngạc nhiên nhìn bọn tôi nuốt trộng thức ăn. “Tụi bay không phải làm như mỗi miếng là miếng cuối cùng đâu. Tao còn bộn xu đây. Từ từ thôi, tao không muốn tụi bay ọe lên tao đâu. Vậy mà tao nghĩ tao đang đói!”
Johnny lại càng ăn nhanh hơn thôi. Tôi thì chẳng ăn chậm lại cho đến khi váng cả đầu.
“Tao chưa nói tụi bay nghe một chuyện,” Dally nói, ăn xong cái hamburger thứ ba. “Tụi Soc và bọn mình đang có một cuộc chiến tranh toàn diện khắp thành phố. Thằng nhóc tụi bay thịt đó có khối bạn bè khắp thị trấn vậy nên đó sẽ là Soc đấu Mỡ. Bọn mình tuyệt đối không thể đi một mình. Tao đã phải bắt đầu giắt theo súng...”
“Dally!” tôi thất kinh. “Mày sẽ giết người mất!”
“Không phải tụi bay cũng đã giết chết tụi nó bằng dao bấm đó sao, nhóc?” Dally nói bằng giọng chai sạn. Johnny nuốt nước bọt. “Đừng lo,” Dally nói tiếp, “súng không nạp đạn mà. Tao đâu có định để bị tóm vì tội giết người. Nhưng nó chắc chắn sẽ đủ để lòe bịp. Tối mai băng thằng Tim Shepard và băng bọn mình sẽ thanh toán sòng phẳng vụ đó với bọn Soc đằng lô đất trống. Bọn mình đã tóm được chủ nhiệm một câu lạc bộ thân hữu của tụi nó và đã có một hội đồng chiến tranh. Ừ phải,” - Dally thở dài, và tôi biết nó đang nhớ về New York - “hệt như những ngày oanh liệt xưa kia. Nếu tụi nó thắng, mọi sự sẽ lại tiếp tục như cũ. Nếu bọn mình thắng, tụi nó sẽ phải cút xéo khỏi lãnh địa của bọn mình mãi mãi. Mấy hôm trước thằng Ba Láp bị chặn đánh. Suýt nữa thì Darry và tao đến trễ, nhưng nó không bị rắc rối gì lắm. Ba Láp là một tay đấm đá cừ. Mà nè, tao vẫn chưa nói tụi bay là bọn mình đã kiếm được một gián điệp đó.”
“Một gián điệp?” Johnny nhìn lên khỏi ly kem banana split của mình. “Ai?”
“Cô em xinh xinh mà tao đã cố làm quen cái tối tụi bay giết thằng Soc đó. Con tóc hoe đỏ, Cherry bá vơ nào đó.”
Ngựa Chứng Đầu Xanh Ngựa Chứng Đầu Xanh - S.e. Hinton Ngựa Chứng Đầu Xanh