Biển lặng không làm nên những thủy thủ tài giỏi.

Tục ngữ châu Phi

 
 
 
 
 
Tác giả: Madeleine L'engle
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: A Wrinkle In Time
Dịch giả: Nguyễn Lan Hương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4527 / 194
Cập nhật: 2017-09-04 05:50:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 9 - Nó
eg chạy ào về phía người đàn ông bị giam trong cột trụ, nhưng khi chạm vào cái có vẻ như là một cánh cửa mở, thì nó bị bật ngửa về phía sau như thể vừa đâm sầm vào một bức tường gạch.
Calvin giữ lấy Meg. “Nó chỉ trong suốt như kính lần này thôi”, cậu bảo con bé. “Mình không thể đi qua được”.
Meg rất buồn nôn và choáng váng sau cú va đập, vì vậy nó không thể trả lời. Trong giây lát, nó sợ mình có thể bị nôn hoặc ngất đi. Charles Wallace lại cười, không phải tiếng cười của em, và chính điều này đã cứu Meg, vì một lần nữa cơn giận dữ lại vượt lên trên nỗi đau đớn và sợ hãi. Charles Wallace, Charles Wallace yêu quý thật sự của nó, không bao giờ cười nó khi nó tự làm mình đau. Thay vì làm thế, đôi tay thằng bé sẽ nhanh chóng vòng qua cổ chị nó và thằng bé sẽ áp má mình vào má chị nó để dỗ dành yêu thương. Vậy nhưng con quỷ Charles Wallace thì đang cười khúc khích. Meg quay mặt đi chỗ khác và lại nhìn vào người đàn ông trong cột trụ.
“Ôi, Bố...” nó thì thầm tha thiết, nhưng người đàn ông trong cột trụ không hề động đậy nhìn nó. Đôi kính gọng sừng, vẫn luôn có vẻ như một phần con người ông, giờ đã không còn, và ánh mắt ông đang hướng vào nội tâm, như thể ông đang đắm chìm trong suy nghĩ. Ông đã để râu dài, và màu nâu mượt giờ đã lốm đốm bạc. Mái tóc ông cũng vậy, chưa được cắt. Đó không chỉ là bộ tóc quá dài của người đàn ông trong tấm ảnh tại Mũi Canaveral; bộ tóc đó còn được hất ra phía sau từ trên vầng trán cao và xõa nhẹ gần chấm vai, vì vậy trông ông giống ai đó ở thế kỷ nào khác, hoặc một thủy thủ đắm tàu. Nhưng không có chuyện ấy, bất kể thay đổi đến thế nơi ông, vì ông vẫn là bố của nó, người bố đáng kính của mình nó.
“Ôi chao, trông ông ta thật nhếch nhác, phải vậy không?” Charles Wallace nói và cười khẩy.
Meg quay ngoắt lại thằng bé với cơn thịnh nộ ghê tởm. “Charles, đấy là Bố! Bố!”
“Thì sao?”
Meg quay đi và chìa hai cánh tay về phía người đàn ông trong cột trụ.
“Ông ấy không nhìn thấy chúng ta đâu, Meg ạ”, Calvin nhẹ nhàng nói.
“Tại sao? Tại sao chứ?”
“Anh nghĩ nó kiểu như những lỗ nhỏ để nhìn qua mà người ta thường có trong các căn hộ, ở cửa trước ấy”, Calvin giải thích. “Em biết đấy. Từ bên trong, em có thể nhìn xuyên qua và trông thấy mọi thứ. Nhưng từ bên ngoài, em không thể nhìn thấy gì cả. Chúng ta có thể nhìn thấy ông ấy, nhưng ông ấy không thể nhìn thấy chúng ta”.
“Charles!” Meg nài nỉ. “Cho chị vào với Bố!”
“Tại sao?” Charles thản nhiên hỏi.
Meg nhớ lúc chúng ở trong căn phòng với người đàn ông mắt đỏ, nó đã tông cho Charles Wallace trở lại là chính mình khi lao vào thằng bé và đầu thằng bé đập xuống sàn; vậy nên, nó lao thẳng vào Charles. Nhưng nó chưa kịp chạm vào người Charles, thì quả đấm của thằng bé đã giơ ra và thụi nó thật mạnh vào bụng. Meg thở hổn hển. Ghê tởm, nó lảng đi khỏi thằng em, trở lại bức tường trong suốt. Có cái xà lim, có cái cột trụ với bố nó ở bên trong. Mặc dù nó có thể nhìn thấy ông, mặc dù nó hầu như đủ gần để chạm vào ông, ông dường như còn xa xôi hơn trước kia lúc nó chỉ cho Calvin thấy ông trong tấm ảnh trên chiếc dương cầm. Ông đứng đó im lìm như thể bị đông cứng trong cột trụ bằng băng, vẻ đau đớn và chịu đựng trên khuôn mặt ông xuyên vào tim nó như một mũi tên.
“Ngươi nói ngươi muốn giúp Bố?” giọng Charles Wallace vang lên phía sau nó, không một xúc cảm bất kể dạng nào.
“Đúng. Em không muốn sao?” Meg hỏi, quay ngoắt lại và trừng trừng nhìn thằng em.
“Đương nhiên chứ. Đó là lý do chúng ta ở đây”.
“Vậy chúng ta làm gì đây?” Meg cố gắng giữ cho giọng nó khỏi cuồng lên, cố sao cho nghe cũng vô cảm như Charles, nhưng rồi lại kết thúc bằng một tiếng rít.
“Ngươi phải làm như ta đã làm, vào bên trong NÓ”, Charles Wallace nói.
“Không”.
“Ta có thể thấy ngươi không thực sự muốn cứu Bố”.
“Làm sao một kẻ sống dở chết dở cứu được Bố đây?”
“Ngươi chỉ việc nghe theo lời ta thôi, Margaret ạ”, giọng nói lạnh lẽo, hời hợt của Charles Wallace vang lên. “NÓ muốn ngươi và NÓ sẽ có ngươi. Đừng quên rằng ta giờ cũng là một phần của NÓ. Ngươi cũng biết ta sẽ không làm NÓ nếu như NÓ không phải là điều đúng đắn để làm”.
“Calvin”, Meg hỏi trong nỗi đau đớn cực độ, “Cách đó thực sự sẽ cứu được Bố chứ?”
Nhưng Calvin không để ý đến con bé. Dường như cậu đang tập trung hết năng lực của mình vào Charles Wallace. Cậu nhìn chằm chằm vào cái màu xanh xám là tất cả những gì còn lại của đôi mắt Charles Wallace. “Và, bởi mi là một tinh linh quá đỗi thanh cao / Để thực hiện những mệnh lệnh của mụ ta phàm tục và ghê tởm... / mụ ta đã giam cầm mi... vào trong một cây thông chẻ...” cậu thì thầm, và Meg nhận ra đó là những lời Bà Ai Đấy đã nói với Calvin.
Trong một thoáng, Charles Wallace có vẻ như đang lắng nghe. Rồi nó nhún vai và ngoảnh mặt đi. Calvin đi theo thằng bé, cố gắng giữ cho đôi mắt của mình tập trung vào mắt nó. “Charles, nếu em muốn một mụ phù thủy”, cậu nói, “NÓ chính là mụ phù thủy. Không phải các quý bà của chúng ta. Thật may là năm nay, anh đã học Cơn bão ở trường, phải không Charles? Chính mụ phù thủy đã ném Ariel vào cây thông chẻ, phải không?”
Giọng Charles Wallace dường như vang lên từ một khoảng cách rất xa. “Đừng có nhìn chằm chằm vào ta”.
Thở gấp gáp vì kích động, Calvin tiếp tục ghim chặt Charles Wallace bằng ánh nhìn chằm chằm của mình. “Em cũng giống như Ariel trong cây thông chẻ, Charles ạ. Và anh có thể giải thoát cho em. Nhìn anh đây, Charles. Quay trở về với anh chị đi”.
Một lần nữa cơn rùng mình lại chạy suốt người Charles Wallace.
Giọng nói mãnh liệt của Calvin cứ như bổ vào nó. “Quay về đi, Charles. Quay trở về với anh chị”.
Một lần nữa, Charles lại rùng mình. Và rồi như thể có một bàn tay vô hình đã đập mạnh vào ngực nó và đẩy nó ngã xuống đất, cái nhìn chòng chọc của Calvin nãy giờ vẫn giữ lấy nó bị gián đoạn. Charles ngồi đó trên sàn hành lang khóc thút thít, không phải tiếng khóc của một thằng bé, mà là âm thanh khủng khiếp của thú vật.
“Calvin”, Meg quay sang Calvin, đan chặt hai bàn tay vào nhau. “Hãy cố đến chỗ Bố”.
Calvin lắc lắc đầu. “Charles đã gần thoát ra. Anh suýt nữa làm được. Nó đã gần như quay về với chúng ta”.
“Thử với Bố xem”, Meg nói lần nữa.
“Bằng cách nào?”
“Cây thông chẻ của anh. Chẳng phải Bố còn đang bị cầm tù trong cây thông chẻ còn hơn cả Charles sao? Nhìn ông đi, trong cây cột kia kìa. Giải thoát cho ông ấy, Calvin”.
Calvin nói với giọng mệt lử. “Meg. Anh không biết phải làm gì. Anh không biết làm sao để vào được bên trong. Meg ạ, họ đang đòi hỏi quá nhiều ở chúng ta”.
“Cặp kính của Bà Ai Đấy!” Meg chợt nói. Bà Ai Đấy đã nói chỉ được sử dụng chúng như phương sách cuối cùng, và chắc chắn chính là lúc này đây. Nó thò tay vào túi, cặp kính vẫn còn đó, lạnh, sáng và nguôi dịu. Nó lấy cặp kính ra bằng những ngón tay run rẩy.
“Đưa cho ta cặp kính đó!” giọng nói của Charles Wallace vang lên gay gắt như một mệnh lệnh, và nó lồm cồm bò dậy khỏi sàn nhà rồi chạy đến chỗ Meg.
Con bé chỉ vừa kịp giật cặp kính của mình ra và đeo cặp kính của Bà Ai Đấy vào, thì, có thể nói là như vậy, một bên gọng rơi xuống má và vắt vẻo trên mũi nó. Khi Charles Wallace nhào đến bên con bé, nó lao mình vào cánh cửa trong suốt và xuyên qua đó. Nó đã ở bên trong xà lim có cột trụ đang giam hãm bố nó. Nó chỉnh lại cặp kính của Bà Ai Đấy cho thẳng bằng những ngón tay run rẩy, rồi cất cặp kính của mình vào trong túi.
“Đưa nó cho ta”, giọng Charles Wallace vang lên hăm dọa, và nó đang ở bên trong xà lim cùng con bé, Calvin thì đứng ngoài điên cuồng đấm thình thịch hòng vào được bên trong.
Meg đá Charles Wallace và lao vào cột trụ. Nó cảm thấy như thể nó đang đi xuyên qua cái gì đó tối tăm và buốt lạnh. Nhưng nó đã đi qua. “Bố!” nó gào lên. Và nó đang ở trong vòng tay của ông.
Đây chính là giờ khắc nó đã chờ đợi bấy lâu nay, không chỉ từ lúc Bà Cái Nào mang chúng theo trong chuyến đi của họ, mà từ biết bao năm tháng đằng đẵng trước đó, kể từ lúc những lá thư thôi không đến nữa, khi mọi người cứ bình phẩm về Charles Wallace, khi bà Murry biểu lộ ra những giây phút cô đơn hay đau khổ hiếm hoi. Đây chính là giờ khắc mang ý nghĩa rằng kể từ giờ đến mãi mãi về sau mọi chuyện đều sẽ tốt đẹp.
Khi Meg áp vào người bố, mọi thứ đều thành quên lãng ngoại trừ niềm hân hoan. Chỉ có cảm giác bình yên và thoải mái được dựa vào người bố, sự diệu kỳ của vòng tay bảo vệ, cảm giác hoàn toàn tin cậy và an toàn mà hiện diện của ông luôn mang đến cho nó.
Giọng nó vỡ òa trong hạnh phúc. “Ôi, Bố! Ôi, Bố!”
“Meg!” ông kêu lên kinh ngạc vui sướng. “Meg, con đang làm gì ở đây vậy? Mẹ con đâu? Các em đâu?”
Meg nhìn ra ngoài cột trụ, có Charles Wallace đang ở trong xà lim, một vẻ căm ghét xa lạ làm méo mó gương mặt nó. Meg quay lại nhìn bố. Không còn thời gian để chào hỏi, để vui sướng, để giải thích nữa. “Bố con mình phải ra với Charles Wallace”, nó nói, giọng căng thẳng. “Nhanh lên Bố”.
Bàn tay bố lần lần trên khuôn mặt nó, và lúc nó cảm nhận được những ngón tay rắn rỏi, dịu dàng của bố, thì nó chợt nhận ra với nỗi kinh hãi tột độ rằng nó có thể nhìn thấy ông, rằng nó có thể nhìn thấy Charles trong xà lim và Calvin ngoài hành lang, nhưng bố nó không thể nhìn thấy chúng, không thể nhìn thấy nó. Nó nhìn bố trong cơn hoảng loạn, nhưng đôi mắt của ông vẫn là cái màu xanh không thay đổi mà nó còn nhớ. Nó giơ bàn tay ra ngang trước tầm nhìn của ông một cách lỗ mãng, nhưng ông không hề chớp mắt.
“Bố!” nó gào lên. “Bố! Bố không nhìn thấy con sao?”
Đôi tay của ông lại quàng quanh người nó thành một cử chỉ dỗ dành, an ủi. “Không, Meg ạ”.
“Nhưng, Bố ơi, con có thể nhìn thấy Bố...” nó lắp bắp. Bỗng nó đẩy cặp kính của Bà Ai Đấy xuống sống mũi và hướng ánh nhìn ra ngoài qua phía bên trên, và ngay lập tức nó chìm vào trong bóng tối như bưng. Nó giật cặp kính ra khỏi mặt và nhét chúng vào tay bố nó. “Đây bố ạ”.
Những ngón tay của ông khép lại quanh cặp kính. “Con yêu,,” ông nói, “Bố e rằng cặp kính của con sẽ không có tác dụng gì đâu”.
“Nhưng chúng là của Bà Ai Đấy, chúng không phải của con”, nó giải thích, không nhận ra rằng lời nói của nó bố nghe sẽ chỉ như lắp bắp. “Đeo thử chúng đi, Bố. Đi mà Bố!” Nó chờ đợi trong khi cảm thấy bố đang dò dẫm trong bóng tối. “Giờ Bố nhìn được chưa?” nó hỏi. “Giờ Bố nhìn được chưa hả Bố?”
“Rồi”, ông nói. “Rồi. Bức tường giờ trong suốt. Thật phi thường làm sao! Bố hầu như có thể nhìn thấy những nguyên tử đang sắp xếp lại!” Giọng ông đã lại mang âm sắc quen thuộc của phấn khích và khám phá. Đó là cách thỉnh thoảng ông vẫn nói khi trở về nhà từ phòng thí nghiệm sau một ngày làm việc hiệu quả và bắt đầu kể cho vợ nghe về công việc của mình. Và rồi ông hét lên, “Charles! Charles Wallace!” Và rồi, “Meg, chuyện gì xảy ra với em con vậy? Có chuyện gì vậy? Đó là Charles, phải không con?”
“NÓ đã có được em, Bố ạ”, nó căng thẳng giải thích, “em đã vào trong NÓ rồi. Bố ơi, chúng ta phải giúp em”.
Suốt một lúc lâu ông Murry im lặng. Cái im lặng chất chứa những điều ông đang suy nghĩ mà không nói ra được với con gái của mình. Rồi ông lên tiếng, “Meg ạ, bố đang bị cầm tù ở đây. Bố đã...”
“Bố, những bức tường này. Bố có thể đi xuyên qua chúng. Con đã đi xuyên qua cột trụ để vào được đây với Bố. Chính nhờ cặp kính của Bà Ai Đấy”.
Ông Murry không dừng lại để hỏi xem Bà Ai Đấy là ai. Ông đập tay vào chiếc cột trụ trong suốt. “Nó có vẻ khá rắn chắc đây”.
“Nhưng con đã vào được”, Meg lặp lại. “Con đang ở đây. Có khi cặp kính giúp những nguyên tử sắp xếp lại. Hãy thử đi, Bố”.
Nó chờ đợi, nín thở, và giây lát sau, nó nhận ra là mình đang trơ trọi ở bên trong cột trụ. Nó quờ quạng đôi tay trong bóng tối, cảm thấy bề mặt trơn nhẵn của cột trụ đang bao quanh người nó từ mọi phía. Dường như nó tuyệt đối cô độc, sự im lặng và bóng tối mãi mãi không thể nào xuyên thủng. Nó dằn nỗi kinh hoàng xuống cho tới khi nghe thấy giọng nói rất nhỏ của bố mình vọng đến.
“Bố đang trở lại với con đây, Meg”.
Gần như là một cảm giác hữu hình lúc những hạt nguyên tử của chất liệu kỳ lạ có vẻ đang rẽ ra cho bố đi qua để tới chỗ nó. Trong ngôi nhà của họ trên bãi biển ở Mũi Canaveral từng có một bức màn cửa giữa phòng ăn và phòng khách được làm từ những sợi lúa dài. Trông nó giống như một bức màn đặc, nhưng hoàn toàn có thể đi xuyên qua nó. Thoạt đầu Meg rất lưỡng lự mỗi khi đến bên bức màn; nhưng dần dần nó quen đi và thường xuyên chạy thẳng qua, để lại những sợi lúa dài đung đưa sau lưng. Có lẽ nguyên tử của những bức tường này cũng được sắp xếp phần nào kiểu như vậy.
“Ôm lấy cổ bố nào, Meg”, ông Murry nói. “Bám lấy bố thật chặt nhé. Nhắm mắt lại và đừng sợ”. Ông nhấc nó lên, nó quặp đôi chân dài quanh thắt lưng ông và bám chặt lấy cổ ông. Có cặp kính của Bà Ai Đấy, nó chỉ cảm thấy chút bóng tối và lạnh lẽo khi đi xuyên qua cột trụ. Giờ không có cặp kính, nó cảm thấy cái trạng thái sền sệt khủng khiếp từng cảm thấy lúc họ xuyên chiều qua bóng đen bên ngoài Camazotz. Bất kể Bóng Đen mà Camazotz đã chịu quy phục là cái gì đi nữa, nó cũng đang hiện hữu cả ở bên trong cũng như bên ngoài hành tinh này. Trong một chốc, dường như cái bóng tối lạnh lẽo đó đã giằng được nó ra khỏi vòng tay của bố. Nó cố hét lên, nhưng bên trong nỗi kinh hoàng băng giá ấy, không thể có âm thanh nào. Vòng tay của bố siết chặt quanh nó, và nó bám lấy cổ ông thật chặt, nó không còn hoảng loạn nữa. Nó biết nếu như bố không thể mang nó qua bức tường, ông thà ở lại với nó còn hơn là bỏ nó; nó biết rằng nó sẽ an toàn miễn là nó còn ở trong vòng tay của ông.
Rồi họ đã ở bên ngoài. Cột trụ đã dâng lên ở giữa căn phòng, trong suốt như pha lê và trống rỗng.
Meg chớp mắt trước hình dáng mờ mờ của Charles và bố nó, và tự hỏi tại sao họ lại không sáng rõ. Rồi nó chộp lấy cặp kính của nó ở trong túi và đeo chúng lên, đôi mắt cận thị của nó giờ đã có thể nhìn thẳng vào một điểm.
Charles Wallace nôn nóng giậm chân xuống sàn nhà. “NÓ không hài lòng”, nó nói. “NÓ không hài lòng chút nào”.
Ông Murry thả Meg xuống rồi quỳ trước cậu con trai bé nhỏ. “Charles”. Giọng ông âu yếm. “Charles Wallace”.
“Ông muốn gì?”
“Bố là bố của con, Charles. Nhìn bố nào”.
Đôi mắt xanh xám dường như đang tập trung vào khuôn mặt ông Murry. “Xin chào, Bố”, giọng nó thật xấc xược.
“Đó không phải là Charles!” Meg gào lên. “Ôi, Bố ơi, Charles không giống thế đâu. NÓ đã bắt em rồi”.
“Ừ”. Giọng ông Murry nghe thật mệt mỏi. “Bố thấy rồi”. Ông giang vòng tay ra. “Charles. Lại đây”.
Bố sẽ thu xếp mọi chuyện ổn thỏa, Meg nghĩ. Mọi chuyện giờ sẽ ổn thôi.
Charles không hề nhúc nhích về phía vòng tay đang giang rộng. Nó đứng cách bố nó vài bước chân và nó không hề nhìn ông.
“Nhìn bố đây”, ông Murry ra lệnh.
“Không”.
Giọng ông Murry trở nên gay gắt. “Khi con nói chuyện với bố con sẽ phải nói, ‘Không, thưa Bố’, hoặc là ‘Không ạ’ “.
“Đừng có giở cái giọng ấy ra đi, Bố”, giọng Charles Wallace lạnh lùng... Charles Wallace ở thế giới bên ngoài Camazotz có kỳ lạ, có khác biệt thật, nhưng không bao giờ láo xược. “Ông không phải Ông chủ ở đây”.
Meg có thể thấy Calvin lại đang đấm vào bức tường kính. “Calvin!” nó gọi.
“Hắn ta không nghe thấy ngươi đâu”, Charles nói. Nó làm bộ mặt thật ghê rợn với Calvin, rồi hẩy mũi.
“Calvin là ai?” Ông Murry hỏi.
“Anh ấy...” Meg bắt đầu nói, thì Charles Wallace chen ngang.
“Ngươi phải hoãn lời giải thích lại thôi. Đi nào”.
“Đi đâu?”
“Đến chỗ NÓ”.
“Không”, ông Murry nói. “Con không thể đưa Meg đến đó”.
“Ồ, ta không thể sao?”
“Không, con không thể. Con là con trai của ta, Charles ạ, và bố e rằng con sẽ phải làm theo những gì bố nói”.
“Nhưng nó không phải là Charles!” Meg gào lên đau đớn. Tại sao bố nó không hiểu nhỉ? “Charles không hề như vậy, Bố ạ! Bố cũng biết em không hề như vậy mà!”
“Nó chỉ là một đứa bé lúc bố ra đi”, ông Murry nặng nhọc nói.
“Bố, chính NÓ đã nói thông qua Charles. NÓ không phải Charles. Em... em đã bị bỏ bùa”.
“Lại chuyện cổ tích nữa”, Charles nói.
“Bố biết NÓ, phải không Bố?” Meg hỏi.
“Đúng”.
“Bố đã gặp NÓ chưa ạ?”
“Rồi, Meg ạ”. Một lần nữa, giọng ông nghe kiệt sức. “Rồi, bố đã gặp”. Ông quay sang Charles. “Con biết là chị con không thể chịu đựng được phải không?”
“Chính xác”, Charles nói.
“Bố, Bố không thể nói chuyện như thể nó là Charles được! Bố hỏi anh Calvin đi! Anh Calvin sẽ kể cho bố”.
“Đi theo ta nào”, Charles Wallace nói. “Chúng ta phải đi thôi”. Nó vung tay lên một cách bất cẩn và bước ra khỏi xà lim, Meg và ông Murry chẳng còn biết làm gì ngoài đi theo.
Khi họ bước vào hành lang, Meg níu lấy tay áo bố. “Calvin, đây là Bố em!”
Calvin băn khoăn quay sang phía hai bố con. Những nốt tàn nhang và mái tóc của cậu nổi bật rực rỡ trên khuôn mặt tái mét.
“Giới thiệu sau đi”, Charles Wallace nói. “NÓ không thích phải chờ đợi đâu”. Nó đi xuống hành lang, dáng đi của nó có vẻ càng giật hơn theo từng bước chân. Những người khác theo sau, cố rảo bước để theo cho kịp.
“Bố em có biết Bà Gì Ấy không?” Calvin hỏi Meg.
“Làm gì đã có thời gian cho việc gì ạ. Mọi chuyện thật khủng khiếp”. Nỗi thất vọng lắng xuống như viên đá trong dạ dày của Meg. Nó đã tin chắc rằng giây phút nó tìm ra bố, mọi chuyện đều sẽ ổn thỏa. Mọi chuyện sẽ được giải quyết. Nó sẽ trút được hết mọi gánh nặng. Nó sẽ không còn phải chịu trách nhiệm về bất kỳ chuyện gì nữa.
Và thay vì kết quả đáng vui mừng, đáng mong đợi này, dường như họ lại chạm trán với mọi loại rắc rối mới.
“Bố không hiểu về Charles”, nó thì thầm với Calvin, buồn bã nhìn theo lưng bố nó lúc ông bước đi sau thằng bé.
“Chúng ta đang đi đâu thế này?” Calvin hỏi.
“Tới chỗ NÓ. Calvin ạ, em không muốn đi! Em không thể!” Con bé dừng lại, nhưng Charles vẫn tiếp tục những bước đi giật cục của mình.
“Chúng ta không thể bỏ Charles”, Calvin nói. “Họ không muốn vậy đâu”.
“Ai không muốn?”
“Bà Gì Đó và Sở chỉ huy”.
“Nhưng họ đã phản bội chúng ta! Họ mang chúng ta đến cái nơi khủng khiếp này rồi bỏ rơi chúng ta!”
Calvin nhìn nó đầy vẻ ngạc nhiên. “Em cứ ngồi xuống và từ bỏ nếu em muốn”, nó nói. “Còn anh sẽ ở bên Charles”. Nó chạy lên để bắt kịp Charles Wallace và ông Murry.
“Em không có ý...” Meg bắt đầu rầm rầm chạy theo.
Nó vừa bắt kịp họ thì Charles Wallace dừng lại, giơ tay ra hiệu, và lại một chiếc thang máy khác với ánh sáng màu vàng quái gở. Meg cảm thấy dạ dày nó xóc xóc khi chiếc thang máy bắt đầu lao nhanh xuống. Họ im lặng cho đến khi chuyển động ngừng hẳn, im lặng đi theo Charles Wallace qua những dãy hành lang dài rồi ra ngoài phố. Tòa nhà Tình báo Tập trung TRUNG ƯƠNG lờ mờ hiện ra, ảm đạm và góc cạnh, đằng sau họ.
Làm gì đó đi ạ, Meg thầm khẩn nài bố. Làm gì đó đi mà. Cứu với. Cứu chúng tôi với.
Họ rẽ vào một góc phố, ở cuối con phố là một tòa nhà kỳ lạ hình vòm. Những bức tường của nó rực sáng ánh lửa bập bùng màu tím. Mái nhà phủ bạc rung động thứ ánh sáng đáng nghi ngại. Ánh sáng đó không ấm áp cũng không lạnh lẽo, mà dường như đang với ra ngoài và chạm vào người họ. Meg chắc chắn, đây chính là nơi NÓ đang đợi họ.
Họ đi dọc theo con phố, bước chân giờ đã chậm lại, và khi họ tới gần tòa nhà hình vòm, ánh sáng bập bùng màu tím có vẻ như với ra, cuốn lấy họ, hút họ vào trong; họ đã ở bên trong.
Meg cảm thấy sự rung động nhịp nhàng. Rung động đó không chỉ xung quanh nó mà còn cả ở bên trong nó, như thể nhịp đập của trái tim và hai lá phổi giờ không còn là của riêng nó nữa, mà đang bị tác động bởi lực lượng nào đó bên ngoài. Lần gần đây nhất nó có cảm giác này là khi nó thực hành hô hấp nhân tạo với Nhóm Nữ sinh Hướng đạo, và người chỉ huy, một phụ nữ cực kỳ vâm váp, đang thực hành mẫu cùng với Meg, phát âm từ RA khí xấu, VÀO khí lành! Trong khi đôi bàn tay như gọng kềm của bà cứ ấn xuống, thả ra, ấn xuống, thả ra.
Meg thở hổn hển, cố gắng thở theo nhịp bình thường của riêng mình, nhưng nhịp đập không thể cưỡng được ở bên trong và bên ngoài vẫn tiếp tục. Trong chốc lát, nó không thể cử động hoặc nhìn quanh xem điều gì đang xảy ra với những người còn lại. Nó chỉ việc đứng đó, cố gắng cân bằng bản thân vào nhịp đập giả tạo của quả tim và lá phổi. Đôi mắt nó dường như đang bơi trong một biển đỏ.
Rồi mọi thứ bắt đầu rõ dần, và nó đã có thể thở mà không phải há mồm ra như những con cá bị vứt lên trên cạn, giờ nó có thể nhìn quanh tòa nhà vòm to lớn hình tròn này. Tòa nhà hoàn toàn trống rỗng, ngoại trừ nhịp đập tưởng chừng như một thứ hữu hình, và một chiếc bệ tròn ở chính giữa. Trên chiếc bệ để... cái gì thế kia? Meg không thể diễn đạt nổi, và lúc này nó biết rằng, chính từ đây những nhịp đập đã được phát ra. Nó ngập ngừng tiến về phía trước. Nó cảm thấy giờ đây nó đã vượt qua nỗi sợ hãi. Charles Wallace đã không còn là Charles Wallace. Bố thì đã tìm thấy rồi, nhưng ông không làm cho mọi chuyện trở nên tốt đẹp. Thay vào đó, mọi chuyện dường như còn tồi tệ hơn bao giờ hết, và cuối cùng, người bố đáng kính của nó giờ râu ria xồm xoàm, gầy nhom, trắng bệch và chẳng có chút quyền năng gì. Bất kể chuyện gì xảy ra sau đây, cơ sự cũng không thể nào kinh khủng hay đáng sợ hơn lúc này được nữa.
Ồ, không thể ư?
Tiếp tục bước chầm chậm về phía trước, cuối cùng thì nó nhận ra Vật Đó trên chiếc bệ là gì.
NÓ là một bộ não.
Một bộ não không thân xác. Một bộ não quá khổ, to hơn nhiều mức bình thường đủ khiến người ta hoàn toàn kinh tởm và ghê sợ. Một bộ não sống. Một bộ não có mạch đập và có thể rung động, nắm bắt và điều khiển người ta. Dĩ nhiên, bộ não được gọi là NÓ. NÓ là thứ kinh khủng nhất, ghê tởm nhất con bé từng thấy, buồn nôn hơn rất nhiều bất kỳ thứ gì nó từng mường tượng ra bằng nhận thức của mình, hay những gì đã từng giày vò nó trong những cơn ác mộng khủng khiếp nhất.
Nhưng vì đã có cảm giác vượt qua nỗi sợ hãi, vậy nên lúc này, nó cũng không hét lên nữa.
Meg nhìn Charles Wallace, còn thằng bé đứng đó, quay về phía NÓ, quai hàm hơi bạnh ra; đôi mắt xanh trống rỗng chầm chậm xoay tròn.
Ồ, phải rồi, mọi chuyện luôn có thể tệ hơn. Đôi mắt đang xoay tròn trên khuôn mặt non nớt của Charles Wallace khiến Meg ớn lạnh cả trong lẫn ngoài.
Nó thôi không nhìn Charles Wallace nữa mà quay sang nhìn bố. Bố nó đứng đó với cặp kính của Bà Ai Đấy vẫn còn trên sống mũi... Ông có nhớ ông còn đang đeo kính không nhỉ? Và ông hét lên với Calvin, “Đừng đầu hàng!”
“Cháu không đầu hàng đâu! Bác giúp Meg ấy!” Calvin hét đáp lại. Hoàn toàn yên lặng bên trong mái vòm, và giờ Meg nhận ra, cách duy nhất để lên tiếng là hét to lên với tất cả sức lực có thể có. Mọi nơi nó nhìn, mọi nơi nó quay sang, đều là nhịp đập đó, và khi nhịp đập tiếp tục kiểm soát nhịp phồng lên xẹp xuống của trái tim Meg, thì khí độc màu đỏ bắt đầu len lỏi trước mắt nó, và nó sợ là mình sắp sửa mất tỉnh táo, mà nếu như vậy, nó sẽ hoàn toàn nằm trong tay NÓ.
Bà Gì Đó đã nói, “Meg, ta trao cho cháu những khiếm khuyết của cháu”.
Những khiếm khuyết lớn nhất của nó là gì nhỉ? Nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, ương ngạnh. Phải rồi, đó chính là những khiếm khuyết nó sẽ viện đến để cứu sống bản thân mình.
Bằng một nỗ lực tột cùng, nó cố thở, chống lại nhịp đập của NÓ. Nhưng nội lực của NÓ quá mạnh. Mỗi lần con bé loay hoay dứt khỏi nhịp đập đó để nghỉ lấy hơi, dường như có một bàn tay bằng sắt bóp nghẹt cả trái tim lẫn lá phổi của nó.
Rồi nó nhớ ra là khi chúng đứng trước người đàn ông mắt đỏ, và người đàn ông mắt đỏ thì đang ngâm nga bảng tính nhân với chúng, Charles Wallace đã chống lại quyền năng của ông ta bằng cách hét lên những bài hát mẫu giáo, còn Calvin thì dùng bài Gettysburg Address[9].
[9] Gettysburg Address: một bài diễn thuyết mười câu rất nổi tiếng của Abraham Lincoln, vị Tổng thống thứ mười sáu của nước Mỹ.
“Georgie, porgie, bánh pút đinh và bánh nướng”, nó hét lên. “Thơm bọn con gái làm chúng khóc rống lên”.
Chẳng ích gì. Những bài hát mẫu giáo quá đơn giản không thể hòa vào nhịp đập của NÓ.
Meg không biết bài Gettysburg Address. Tuyên ngôn Độc lập bắt đầu thế nào nhỉ? Nó thuộc bài Tuyên ngôn đúng có mùa đông năm ấy, không phải vì ở trường yêu cầu, mà đơn giản chỉ vì nó thích.
“Chúng ta coi những sự thật này là hiển nhiên!” nó hét lên, “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Khi gào lên những câu này, nó cảm thấy một khối óc đang cựa quậy bên trong mình, cảm thấy NÓ đang chiếm đoạt, vắt kiệt bộ não của mình. Rồi nó nhận ra Charles Wallace đang nói, hay đang bị NÓ mượn lời.
“Nhưng đó chính xác là cái mà chúng ta có ở Camazotz. Hoàn toàn bình đẳng. Mọi người giống hệt nhau”.
Trong chốc lát, trí não nó quay cuồng bấn loạn vì bối rối. Rồi đến thời khắc loan báo sự thật. “Không!” nó gào lên đắc thắng. “Giống nhau và bình đẳng không phải là một!”
“Giỏi lắm, Meg!” bố nó hét lên với nó.
Nhưng Charles Wallace vẫn tiếp tục như không hề bị gián đoạn. “Ở Camazotz, tất cả đều bình đẳng. Ở Camazotz, mọi người giống hệt mọi người khác”, dù vậy giờ nó không phản bác lại Meg, không đưa ra được một câu trả lời, và Meg bám chặt vào giây phút khám phá của mình.
Giống nhau và bình đẳng là hai điều hoàn toàn khác biệt.
Trong chốc lát, Meg thoát được ra khỏi quyền năng của NÓ.
Nhưng bằng cách nào vậy nhỉ?
Meg nhận ra rằng bộ não nhỏ bé yếu đuối của mình chẳng hề ăn nhập với cái đống to lớn, không thể xác, đang co bóp và quằn quại trên cái bục tròn kia. Con bé rùng mình khi nhìn NÓ. Trong phòng thí nghiệm ở trường cũng có một bộ não người ngâm foóc-môn, và học sinh lớp lớn chuẩn bị lên đại học phải mang nó ra, xem xét và nghiên cứu nó. Meg luôn cảm thấy khi cái ngày đó đến, nó sẽ không đời nào có thể chịu đựng nổi. Nhưng ngay lúc này, nó lại nghĩ, giá như nó có một con dao ở đây, nó sẽ chém vào NÓ, cắt không thương xót qua đại não, tiểu não.
Những lời nói vang lên trong nó, lần này thì trực tiếp chứ không thông qua Charles nữa. “Ngươi không nhận ra rằng nếu như ngươi hủy hoại ta, ngươi cũng sẽ hủy hoại luôn đứa em trai bé bỏng của mình sao?”
Nếu bộ não to tướng đó bị cắt, bị nghiền nát, thì mọi bộ óc dưới quyền kiểm soát của NÓ ở Camazotz này cũng chết ư? Charles Wallace và người đàn ông mắt đỏ và người điều hành máy đánh vần số một ở lớp hai và tất cả những đứa trẻ chơi bóng và nhảy dây và tất cả những bà mẹ và tất cả những người đàn ông và phụ nữ ra vào các tòa nhà? Lẽ nào cuộc sống của họ hoàn toàn phụ thuộc vào NÓ? Lẽ nào tất cả bọn họ đều nằm ngoài mọi cơ may cứu rỗi?
Con bé cảm thấy bộ não lại đang với được tới nó lần nữa khi nó để mất kiểm soát tính ương ngạnh của mình. Màn sương màu đỏ lại buông mờ mắt nó.
Nó uể oải nghe giọng nói của bố, mặc dù biết ông đang hét đến vỡ cả phổi. “Bảng tuần hoàn nguyên tố, Meg! Đọc đi!”
Một hình ảnh vụt vào trong óc nó về những buổi tối mùa đông ngồi học cùng bố trước lò sưởi. “Hyđrô. Heli”, nó ngoan ngoãn vâng lời. Giữ chúng theo đúng trật tự nguyên tử của chúng. Gì tiếp đây. Nó biết mà. Phải rồi. “Liti. Berili. Bo. Cacbon. Nitơ. Ôxy. Flo”. Nó hét lên với bố, quay mặt khỏi NÓ. “Neon. Natri. Magie. Nhôm. Silic. Phốt-pho”.
“Nhịp nhàng quá”, bố nó hét lên. “Căn bậc hai của năm là mấy?”
Trong chốc lát nó đã có thể tập trung được. Tự vắt óc mày đi, Meg. Đừng để cho NÓ bóp nát mất. “Căn bậc hai của năm là 2,236”, nó gào lên đắc thắng, “vì 2,236 nhân với 2,236 là 5!”
“Còn căn bậc hai của bảy?”
“Căn bậc hai của bảy là...” nó sững lại. Nó không thể chống đỡ được. NÓ lại chiếm được rồi, và Meg không thể tập trung được, thậm chí không tập trung được vào môn toán, và chẳng bao lâu nữa, cũng sẽ bị hút vào trong NÓ, và sẽ là một NÓ.
“Xuyên chiều đi, bác!” nó nghe thấy giọng Calvin qua bức màn tối màu đỏ. “Xuyên chiều!”
Meg cảm thấy bố đang chộp lấy cổ tay mình, và cơn co giật khủng khiếp dường như phá nát từng khúc xương trong cơ thể nó, và rồi lại là hư vô trống rỗng của xuyên chiều.
Nếu như xuyên chiều với Bà Gì Đó, Bà Ai Đấy và Bà Cái Nào là một trải nghiệm kinh hoàng và kỳ lạ, thì xuyên chiều với bố lại hoàn toàn khác. Rốt cục thì Bà Cái Nào đã có kinh nghiệm rồi, còn ông Murry... làm sao ông biết tí gì về chuyện này chứ? Meg cảm thấy nó đang bị một cơn gió lốc xé toạc ra. Nó lạc đi trong cơn đau đớn tột độ để rồi cuối cùng tan biến trong tăm tối hoàn toàn vô thức.
Nếp Gấp Thời Gian Nếp Gấp Thời Gian - Madeleine L'engle Nếp Gấp Thời Gian