If you truly get in touch with a piece of carrot, you get in touch with the soil, the rain, the sunshine. You get in touch with Mother Earth and eating in such a way, you feel in touch with true life, your roots, and that is meditation. If we chew every morsel of our food in that way we become grateful and when you are grateful, you are happy.

Thích Nhất Hạnh

 
 
 
 
 
Tác giả: Madeleine L'engle
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: A Wrinkle In Time
Dịch giả: Nguyễn Lan Hương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4527 / 194
Cập nhật: 2017-09-04 05:50:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 7 - Người Đàn Ông Mắt Đỏ
húng ta biết chúng ta sẽ gặp nguy hiểm”, Charles Wallace nói. “Bà Gì Đó đã nói vậy với chúng ta”.
“Đúng, và bà ấy nói mọi việc sẽ tồi tệ cho em hơn là cho Meg và anh, và em phải cẩn thận. Em ở yên đây với Meg, kẻ biến dị ạ, và để anh vào đó, thăm dò kỹ lưỡng rồi sẽ báo lại cho em”.
“Không được”, Charles Wallace cương quyết nói. “Bà ấy đã dặn chúng ta phải ở bên nhau. Bà ấy dặn không được bỏ đi riêng lẻ”.
“Bà ấy dặn em không được bỏ đi riêng lẻ. Anh lớn nhất và anh nên vào trong đó trước”.
“Không”, Giọng Meg thẳng thừng. “Charles nói đúng, anh Cal ạ. Chúng ta phải ở bên nhau. Nhỡ anh không ra và chúng em sẽ phải vào sau anh thì sao? Chậc, không được. Thôi đi nào. Nhưng mình hãy nắm tay nhau, nếu như anh không ngại”.
Nắm tay nhau, chúng băng qua quảng trường. Tòa nhà Tình báo Tập trung TRUNG ƯƠNG đồ sộ chỉ có duy nhất một cửa ra vào, nhưng là một cánh cửa khổng lồ, ít nhất cũng cao hai tầng và rộng hơn cả một căn phòng, được làm từ một thứ vật liệu xám xịt như đồng thiếc.
“Mình chỉ gõ cửa thôi nhỉ?” Meg cười khúc khích.
Calvin xem xét cánh cửa. “Chẳng hề có tay cầm hay quả đấm hay then cửa hay bất cứ cái gì. Có lẽ còn đường khác để vào trong”.
“Dù gì thì cũng cứ thử gõ cửa xem sao”, Charles nói. Nó giơ tay, nhưng chưa kịp chạm vào thì cánh cửa đã trượt lên trên và sang hai bên, tách ra thành ba phần mà một khắc trước đó vẫn hoàn toàn vô hình. Ba đứa trẻ giật mình nhìn vào bên trong đại sảnh bằng cẩm thạch màu lục xỉn. Những băng ghế cẩm thạch xếp dọc theo ba bức tường. Những người ngồi ở đó giống như những pho tượng. Màu xanh của cẩm thạch phản chiếu lên gương mặt khiến họ trông thật cáu bẳn. Họ quay đầu lại khi cánh cửa mở ra, trông thấy bọn trẻ, rồi lại ngoảnh mặt đi.
“Vào thôi”, Charles nói, và vẫn nắm tay nhau, chúng bước vào phòng. Chúng vừa bước qua ngưỡng cửa, cánh cửa liền im lìm khép lại sau lưng chúng. Meg nhìn sang Calvin và Charles, cũng giống những người đang ngồi đợi kia, chúng thật xanh xao yếu ớt.
Bọn trẻ tới gần bức tường thứ tư còn trống. Nó dường như không có thật, như thể ai đó có thể bước xuyên qua vậy. Charles chìa tay ra. “Rắn và lạnh như đá ấy”.
Calvin cũng chạm tay vào đó. “Úi”.
Tay trái của Meg có Charles nắm chặt, tay phải có Calvin, và Meg chẳng hề muốn buông tay ai ra để chạm vào bức tường.
“Hỏi ai đó gì đấy đi”, Charles Wallace dẫn hai đứa tới một băng ghế. “Ừm, ngài có thể cho chúng cháu biết thủ tục ở đây là gì không?” nó hỏi một người đàn ông. Tất cả mọi người đều mặc trang phục công sở không có gì đặc biệt, và dù nét mặt của họ cũng có khác nhau như những người trên trái đất, vẫn có điểm gì đó tương đồng giữa họ.
Như sự giống nhau của những người lái xe trong một đường ngầm, Meg nghĩ. Chỉ có điều, trong đường ngầm, thỉnh thoảng vẫn có ai đó khác biệt, còn ở đây thì không hề.
Người đàn ông cảnh giác nhìn bọn trẻ. “Thủ tục cho cái gì?”
“Làm sao để chúng cháu gặp được ai đó có thẩm quyền ạ?” Charles hỏi.
“Cậu trình giấy tờ của cậu cho máy A. Cậu phải biết điều đó chứ”, người đàn ông gay gắt nói.
“Máy A ở đâu ạ?” Calvin hỏi.
Người đàn ông chỉ vào bức tường trống.
“Nhưng không có cửa hay cái gì cả”, Calvin nói tiếp. “Làm sao chúng cháu vào trong được ạ?”
“Cậu phải đút giấy tờ S của cậu vào khe B”, người đàn ông đáp. “Tại sao các cậu lại hỏi tôi những câu hỏi ngu xuẩn này? Các cậu nghĩ tôi không biết câu trả lời hay sao? Tốt hơn hết là các cậu đừng có bỡn cợt ở đây không là các cậu sẽ phải đi qua máy Xử lý một lần nữa và các cậu sẽ không muốn làm vậy đâu”.
“Chúng cháu là những người lạ ở đây”, Calvin nói. “Vậy nên, chúng cháu không biết những thứ ấy. Ngài làm ơn nói cho chúng cháu biết, ngài là ai và ngài làm việc gì ạ?”
“Ta điều hành chiếc máy đánh vần số một ở lớp hai”.
“Nhưng giờ ngài đang làm gì ở đây ạ?” Charles Wallace hỏi.
“Ta ở đây để báo cáo một chữ cái của ta đang bị tắc, và cho đến khi nó được một đơn vị thay dầu F tra dầu tử tế, có nguy cơ những khối óc sẽ bị rối tung lên như mứt”.
“Mứt dâu hay mứt mâm xôi vậy?” Charles Wallace lẩm bẩm. Calvin nhìn xuống Charles và lắc đầu ra ý cảnh cáo. Meg ghì nhẹ tay thằng bé, vẻ cảm thông. Nó hoàn toàn chắc chắn, Charles Wallace không cố tình tỏ ra thô lỗ hay khôi hài; đó chỉ là cách thằng bé trấn an mình khỏi sợ mà thôi.
Người đàn ông quắc mắt nhìn Charles. “Ta nghĩ ta sẽ phải trình báo chúng mày. Ta rất yêu trẻ con, do tính chất công việc của ta, và ta không muốn đẩy chúng vào rắc rối, nhưng thà vậy còn hơn nguy cơ chính ta bị Tái xử lý, ta phải báo cáo chúng mày”.
“Có lẽ đó là một ý kiến hay đấy ạ”, Charles Wallace nói. “Ngài sẽ báo cáo chúng cháu với ai?”
“Ta sẽ báo cáo chúng mày với người nào chứ”.
“Ồ, vậy là với người nào nhỉ. Cháu vẫn chưa lên lớp hai đâu”.
Ước gì nó đừng hành động quá tự tin như thế, Meg nghĩ, lo lắng nhìn Charles và ghì tay em mỗi lúc một chặt thêm cho đến khi thằng bé vặn vẹo những ngón tay phản kháng. Tự đắc, chính là điều Bà Gì Đó đã dặn thằng bé phải thận trọng. Đừng, làm ơn đừng mà, nó cố sức nghĩ đến Charles. Nó tự hỏi liệu Calvin có nhận ra rằng đa phần kiêu ngạo chính là làm ra vẻ can cảm.
Người đàn ông đứng dậy, bước những bước giật cục như thể ông ta đã ngồi quá lâu. “Ta hy vọng ông ấy sẽ không quá khắc nghiệt với chúng mày”, ông ta lẩm bẩm khi dẫn bọn trẻ về phía bức tường trống thứ tư. “Nhưng ta đã bị tái xử lý một lần rồi và như vậy là quá đủ. Và ta không muốn bị nộp lên NÓ. Ta chưa bao giờ bị nộp lên NÓ và ta không thể mạo hiểm để điều đó xảy ra được”.
Lại là NÓ. NÓ là cái gì nhỉ?
Người đàn ông lấy trong túi ra một cặp tài liệu đầy những tờ giấy đủ màu. Ông ta sắp xếp chúng lại một cách cẩn thận, cuối cùng rút ra một tờ. “Gần đây, ta còn vài báo cáo phải làm. Ta sẽ phải xin một lệnh trưng dụng thêm thẻ A-21”. Ông ta cầm lấy chiếc thẻ và áp nó lên tường. Nó trượt xuyên qua lớp cẩm thạch như thể bị hút vào trong, và biến mất. “Có lẽ chúng mày sẽ bị bắt giam vài ngày”, người đàn ông nói, “nhưng ta chắc rằng họ sẽ không quá hà khắc với chúng mày đâu, vì chúng mày chỉ là trẻ con. Cứ thư giãn đi, đừng chống đối và mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều”.
Ông ta quay lại ghế ngồi của mình, để mặc cho bọn trẻ đứng đó nhìn chằm chằm vào bức tường trống không.
Và đột nhiên bức tường không còn đó nữa, ba đứa đang nhìn vào một căn phòng khổng lồ xếp đầy máy móc. Chúng không phải không giống những cỗ máy tính khổng lồ Meg từng thấy trong những quyển sách khoa học của nó, và nó biết bố thỉnh thoảng vẫn làm việc với chúng. Một số có vẻ như không còn hoạt động; còn những cỗ khác đèn lập lòe bật tắt liên tục. Trong một cỗ máy, một dải băng dài đang bị nuốt vào; trong cỗ khác, một chuỗi những dấu tạch-tè đang được dập. Vài người trợ giúp mặc áo choàng trắng đang đi lại, trông coi những cỗ máy. Nếu họ có nhìn thấy bọn trẻ, họ cũng chẳng tỏ dấu hiệu gì.
Calvin lẩm bẩm gì đó.
“Gì thế?” Meg hỏi nó.
“Chẳng có gì phải sợ ngoại trừ chính sự sợ hãi”, Calvin nói. “Anh đang trích dẫn. Giống như Bà Ai Đấy. Meg, anh đang sợ cứng cả người đây này”.
“Em cũng vậy”, Meg nắm chặt tay anh hơn. “Đi thôi”.
Chúng bước vào căn phòng có những cỗ máy. Bất kể chiều rộng khủng khiếp, thậm chí chiều dài căn phòng còn hơn cả chiều rộng. Cảnh trông xa khiến những hàng dài máy móc như chạm vào nhau. Bọn trẻ bước xuống phía trung tâm căn phòng, cố tránh xa những cỗ máy chừng nào hay chừng nấy.
“Tuy vậy, em không nghĩ chúng là phóng xạ hay gì đâu”, Charles Wallace nói, “hay là chúng sắp sửa vươn ra, tóm lấy chúng ta và nhai nát”.
Sau khi đã rảo bước có vẻ như được vài dặm, chúng có thể thấy là căn phòng khổng lồ này cũng có điểm tận cùng, và ở điểm tận cùng ấy là một cái gì đó.
Đột nhiên Charles Wallace lên tiếng, giọng nó hoảng loạn. “Đừng buông tay em ra! Giữ em chặt vào! Hắn đang cố với tới em đấy!”
“Ai?” Meg rít lên.
“Em không biết. Nhưng hắn đang cố nhằm vào em! Em có thể cảm thấy hắn!”
“Mình quay lại đi”, Calvin bắt đầu lùi lại.
“Không”, Charles Wallace nói. “Em phải đi tiếp. Chúng ta phải đưa ra các quyết định, và chúng ta không thể đưa ra các quyết định ấy nếu chúng là do sợ hãi mà nên”. Giọng nó nghe già dặn, lạ lùng và xa xăm. Siết chặt bàn tay nhỏ nhắn của em, Meg có thể cảm thấy bàn tay em đang đẫm mồ hôi trong tay mình.
Khi chúng đi tới cuối căn phòng, bước chân của chúng chậm lại. Phía trước chúng là một cái bục. Trên cái bục là một chiếc ghế, và trên chiếc ghế là một người đàn ông.
Có điều gì ở người đàn ông này mà dường như chứa đựng mọi lạnh lẽo và tăm tối chúng từng cảm thấy khi chúng băng qua Bóng Đen trên con đường đến hành tinh này?
“Ta đang chờ các ngươi đây, các bé cưng của ta”, người đàn ông nói. Giọng ông ta tử tế và nhẹ nhàng, hoàn toàn không phải giọng nói lạnh lẽo và đáng sợ Meg chờ đợi. Phải mất một giây Meg mới nhận ra rằng, mặc dù giọng nói phát ra từ người đàn ông, ông ta không mở miệng hay mấp máy môi chút nào, thực sự không một lời nào được nói ra để rồi lọt vào tai nó, mà là bằng cách nào đó, ông ta đã liên lạc thẳng vào não bộ bọn chúng.
“Nhưng làm thế nào mà lại có ba đứa các ngươi thế này?” người đàn ông hỏi.
Charles Wallace nói với giọng táo bạo tới mức cục cằn, nhưng Meg vẫn cảm thấy thằng bé đang run bắn. “Ồ, Calvin chỉ theo để chơi ké thôi”.
“Ồ, cậu ta vậy đấy, phải không?” Trong giây lát nghe có âm sắc đanh lạnh trong giọng nói đang nói trong óc chúng. Rồi giọng nói thoải mái và ngọt ngào trở lại. “Ta hy vọng rằng cho đến giờ thì đó là một cuộc chơi thú vị”.
“Rất có tính giáo dục”, Charles Wallace nói.
“Để Calvin tự nói”, người đàn ông ra lệnh.
Calvin làu bàu, lưỡi nó thít lại, người nó cứng đờ. “Tôi chẳng có gì để nói cả”.
Meg nhìn chằm chằm người đàn ông như bị thôi miên kinh hoảng. Đôi mắt ông ta sáng và đỏ rực. Trên đầu ông ta là một vầng ánh sáng, và nó rực sáng cùng kiểu như đôi mắt, rung rung, rộn ràng, theo một nhịp đều đều.
Charles Wallace nhắm mắt lại thật chặt. “Nhắm mắt vào đi”, nó nói với Meg và Calvin. “Đừng nhìn vào ánh sáng đó. Đừng nhìn vào mắt lão ta. Lão ta sẽ thôi miên anh chị”.
“Thông minh đấy, nhỉ? Tập trung đôi mắt của các ngươi, dĩ nhiên rồi, sẽ giúp ích đấy”, giọng nói dịu dàng tiếp tục, “nhưng còn những cách khác, chàng trai nhỏ của ta ạ. Ồ, đúng thế đấy, còn những cách khác nữa”.
“Nếu ông thử cách đó lên tôi, tôi sẽ đá ông đấy!” Charles Wallace nói. Đó là lần đầu tiên Meg nghe thấy Charles Wallace ám chỉ đến bạo lực.
“Ồ, thực vậy sao, chàng trai nhỏ của ta?” Ý nghĩ có vẻ khoan dung và vui tính, nhưng bốn người đàn ông trong những chiếc áo bờ-lu sẫm màu đã xuất hiện và áp sát sườn bọn trẻ.
“Giờ, các bé cưng”, lời nói tiếp tục, “ta dĩ nhiên sẽ không cần cầu viện đến bạo lực, nhưng ta nghĩ có lẽ sẽ cứu các ngươi khỏi đau đớn nếu ngay bây giờ ta chỉ cho các ngươi thấy là cứ cố chống lại ta thì sẽ chẳng tốt đẹp gì cho các ngươi. Các ngươi thấy đấy, điều các ngươi sẽ sớm nhận ra ấy là không cần phải chiến đấu với ta. Không chỉ là không cần, mà các ngươi cũng sẽ không có chút ao ước nào dù là nhỏ nhất để làm điều đó. Can cớ gì mà các ngươi lại muốn chiến đấu với một người đang ở đây chỉ để cứu các ngươi khỏi đau đớn và rắc rối? Vì các ngươi, cũng như vì những con người may mắn, hữu dụng trên hành tinh này, Ta, với sức mạnh của mình, sẵn sàng nhận lấy mọi đau đớn, mọi trách nhiệm, mọi gánh nặng của những suy nghĩ và quyết định”.
“Chúng tôi sẽ tự đưa ra quyết định của mình, cảm ơn ông”, Charles Wallace nói.
“Thì dĩ nhiên rồi. Và những quyết định của chúng ta sẽ là một, của các ngươi và của ta. Các ngươi không thấy như thế tốt hơn nhiều, dễ dàng hơn nhiều cho các ngươi sao? Để ta chỉ cho các ngươi thấy. Hãy cùng đọc bảng tính nhân nào”.
“Không”, Charles Wallace nói.
“Một lần một là một. Một lần hai là hai. Một lần ba là ba”.
“Mary có một con cừu nhỏ!” Charles Wallace gào lên. “Bộ lông của nó trắng như tuyết!”
“Một lần bốn là bốn. Một lần năm là năm. Một lần sáu là sáu”.
“Và Mary đến đâu, con cừu chắc chắn sẽ theo tới đó!”
“Một lần bảy là bảy. Một lần tám là tám. Một lần chín là chín”.
“Peter, Peter, kẻ ăn bí ngô, có một cô vợ và không thể giữ nổi cô...”
“Một lần mười là mười. Một lần mười một là mười một. Một lần mười hai là mười hai”.
Những con số cứ giã liên tục vào não Meg. Chúng dường như đang khoan vào hộp sọ nó.
“Hai lần một là hai. Hai lần hai là bốn. Hai lần ba là sáu”.
Giọng Calvin vuột ra giận dữ. “Tám mươi bảy năm trước, cha ông chúng ta đã gây dựng trên lục địa này một quốc gia mới, thai nghén trong tự do, và tận tụy với tuyên ngôn rằng tất cả mọi người sinh ra đều được quyền bình đẳng”.
“Hai lần bốn là tám. Hai lần năm là mười. Hai lần sáu là mười hai”.
“Bố ơi!” Meg thét lên. “Bố ơi!” Tiếng thét đó, nửa vô tình, giật tâm trí nó ra khỏi bóng tối.
Lời nói về bảng tính nhân dường như vỡ òa thành tràng cười ngặt nghẽo. “Tuyệt vời! Xuất sắc! Các ngươi đã trải qua các bài kiểm tra mở màn của mình thật mỹ mãn”.
“Ông không nghĩ là chúng tôi dễ dàng gục ngã vì cái trò cũ rích đó như thế đấy chứ?” Charles Wallace hỏi gặng.
“À, ta hy vọng không phải vậy. Ta hết sức chân thành hy vọng sẽ không phải như vậy. Mà cuối cùng thì các ngươi rất trẻ và rất ấn tượng đấy, và càng trẻ càng tốt, chàng trai trẻ của ta ạ. Càng trẻ càng tốt”.
Meg ngước nhìn vào đôi mắt rực lửa, vào ánh sáng đang lung linh phía trên chúng, rồi lảng đi chỗ khác. Nó cố nhìn vào cái miệng, vào đôi môi mỏng dính gần như không màu, và điều này dễ dàng hơn, mặc dù nó đã phải nhìn chếch đi, nên không chắc lắm khuôn mặt đó thực sự trông thế nào, trẻ hay già, dữ tợn hay hiền lành, giống con người hay người ngoài hành tinh.
“Nếu ông vui lòng”, nó nói, cố gắng tỏ ra bình tĩnh và can đảm. “Lý do duy nhất chúng tôi ở đây, vì chúng tôi nghĩ bố của chúng tôi đang ở đây. Ông có thể cho chúng tôi biết phải tìm ông ấy ở đâu không?”
“À, bố các ngươi!” Dường như có tiếng cười giòn như nắc nẻ vì khoái trá! “Ờ, đúng, bố các ngươi! Không phải là ta có thể, ngươi biết đấy, cô gái trẻ ạ, mà là ta sẽ chứ?”
“Vậy ông sẽ cho biết chứ?”
“Cái đó còn tùy thuộc vào một số thứ. Tại sao các ngươi lại muốn bố của các ngươi?”
“Không lẽ bản thân ông chưa từng có một người bố sao?” Meg hỏi. “Ông không muốn ông ấy vì một lý do nào cả. Ông muốn ông ấy, bởi vì ông ấy là bố của ông”.
“À, nhưng gần đây hắn đã không hành động giống như một người bố lắm, phải không? Bỏ rơi vợ và bốn đứa con nhỏ để rong ruổi trong một chuyến phiêu lưu đầy bão táp”.
“Ông ấy làm việc cho chính phủ. Mặt khác, ông ấy chưa bao giờ bỏ chúng tôi. Và làm ơn đi, chúng tôi muốn gặp ông ấy. Ngay bây giờ”.
“Úi chà chà, nhưng cô bé đang mất kiên nhẫn đấy! Hãy kiên nhẫn nào, kiên nhẫn nào, quý cô trẻ tuổi”.
Meg không thèm nói với người đàn ông ngồi trên ghế, rằng kiên nhẫn không phải là đức tính của nó.
“Nhân tiện đây, những đứa trẻ của ta”, ông ta ôn tồn nói tiếp, “các ngươi không cần thiết phải phát âm thành lời với ta, các ngươi biết đấy. Ta hoàn toàn có thể hiểu được các ngươi như các ngươi có thể hiểu được ta vậy”.
Charles Wallace bướng bỉnh chống tay lên hông. “Lời nói ra là một trong những thành tựu của loài người”, nó tuyên bố, “và tôi có ý định tiếp tục sử dụng nó, đặc biệt với những người tôi không tin tưởng”. Nhưng giọng nó thì run bắn. Charles Wallace, đứa hiếm khi khóc nhè ngay cả hồi bé tí, giờ đang chực khóc.
“Và các ngươi không tin tưởng ta?”
“Ông đã cho chúng tôi lý do gì để tin tưởng ông nhỉ?”
“Thế ta đã cho các ngươi nguyên cớ gì để không tin tưởng nhỉ?” Cặp môi mỏng hơi nhúm lại.
Bất thình lình, Charles Wallace lao về phía trước và đấm người đàn ông mạnh hết sức có thể, cú đấm quả là khá mạnh, vì nó đã được hai người anh sinh đôi huấn luyện cho khá nhiều.
“Charles!” Meg hét lên.
Những người đàn ông mặc bờ-lu sẫm màu di chuyển nhẹ nhàng nhưng thoăn thoắt về phía Charles. Người đàn ông trên ghế thản nhiên giơ một ngón tay lên, và những gã này lùi lại.
“Giữ lấy thằng bé...” Calvin thì thầm, và cùng nhau nó và Meg lao về phía trước, túm lấy Charles Wallace, lôi thằng bé lùi khỏi cái bục.
Người đàn ông thoáng nhăn mặt, giọng nói bằng ý nghĩ của ông ta hơi hổn hển, như thể cú đấm của Charles Wallace đã thành công trong việc làm ông ta khó thở. “Ta có thể hỏi tại sao ngươi lại làm vậy không?”
“Bởi vì ông không phải là ông”, Charles Wallace nói. “Tôi không dám chắc ông là cái gì, nhưng ông”, nó chỉ vào người đàn ông trên ghế, “không phải là cái đang nói chuyện với chúng tôi đây. Tôi xin lỗi nếu tôi làm ông đau. Tôi lại không nghĩ ông là thật. Tôi nghĩ có lẽ ông là một người máy, vì tôi không cảm thấy bất kỳ điều gì trực tiếp xuất phát từ ông. Tôi không dám chắc nó đến từ đâu nữa, nhưng nó đi qua ông. Nó không phải ông”.
“Thông minh gớm nhỉ?” ý nghĩ kia cật vấn, và Meg có cái cảm giác khó chịu là vừa dò thấy một thoáng gằn giọng.
“Không phải là tôi thông minh”, Charles Wallace nói, và một lần nữa, Meg cảm thấy lòng bàn tay em đẫm mồ hôi trong tay nó.
“Vậy hãy cố tìm ra ta là ai đi”, ý nghĩ thăm dò.
“Tôi vẫn đang cố đây”, Charles Wallace nói, cao giọng và bối rối.
“Hãy nhìn vào mắt ta đây. Nhìn sâu vào trong đó và ta sẽ nói cho ngươi biết”.
Charles Wallace liếc nhanh sang Meg và Calvin, rồi lên tiếng, như thể độc thoại, “Mình phải vậy thôi”, đoạn tập trung đôi mắt xanh biếc trong veo của nó vào đôi mắt đỏ ngầu của người đàn ông trên ghế. Meg không nhìn ông ta, mà nhìn em trai. Sau một thoáng có vẻ như là đôi mắt thằng bé không còn tập trung nữa. Dần dần, hai con ngươi càng lúc càng nhỏ lại, như thể nó đang nhìn vào một nguồn ánh sáng chói lòa, cho đến khi hai con ngươi dường như co hẳn vào, cho đến khi đôi mắt nó chẳng còn gì ngoài một màu xanh đục. Nó chuội tay ra khỏi tay của Meg và Calvin và bắt đầu chầm chậm tiến về phía người đàn ông trên ghế.
“Không!” Meg gào lên. “Không!”
Nhưng Charles Wallace vẫn tiếp tục những bước chậm rãi về phía trước, và Meg biết em không hề nghe thấy tiếng mình.
“Không!” con bé lại gào lên, và chạy theo em trai. Với cú chặn ngang thiếu chuẩn xác, nó giáng cả người lên thằng bé. Vì nó to hơn em rất nhiều nên khiến thằng bé ngã sõng soài, đầu đập đánh cốp xuống sàn nhà cẩm thạch. Meg quỳ xuống cạnh em, khóc nức nở. Sau một chốc nằm đó như thể vừa bị một cú đấm hạ cho đo ván, thằng bé mở mắt, lắc lắc cái đầu, rồi ngồi dậy. Hai con ngươi trong mắt nó từ từ giãn ra cho đến khi chúng trở lại bình thường, và máu lưu thông trở lại trên đôi má trắng bệch của nó.
Người đàn ông trên ghế nói thẳng vào não bộ của Meg, và lúc này trong lời nói có một vẻ đe dọa rõ rệt. “Ta không hài lòng”, ông ta nói với nó. “Ta rất dễ mất kiên nhẫn với ngươi, và hơn nữa, nói cho ngươi biết, quý cô trẻ tuổi ạ, sẽ không có lợi cho bố ngươi đâu. Nếu ngươi còn chút mong muốn dù nhỏ nhất là được gặp lại bố mình, tốt hơn hết ngươi nên hợp tác”.
Meg phản ứng lại như nó đôi khi vẫn vậy với thầy Jenkins ở trường. Nó cau có nhìn xuống sàn nhà, giận dữ, sưng sỉa. “Nếu ông cho chúng tôi cái gì đó để ăn có khi còn có ích hơn”, nó kêu ca. “Tất cả chúng tôi đang chết đói đây. Nếu ông định hù dọa gì chúng tôi, thì ông cũng phải để chúng tôi được đầy bụng trước đã chứ”.
Một lần nữa, ý nghĩ đến với nó lại phá ra cười. “Thế đấy, chẳng phải con bé cũng là một cô gái hài hước đó sao! May cho ngươi là đã làm ta thấy buồn cười, nhóc ạ, không thì ta sẽ chẳng dễ dãi với ngươi đâu. Hai chàng trai kia ta thấy hầu như không vui nhộn được như vậy. Chà, thôi được. Giờ hãy nói cho ta biết, quý cô trẻ tuổi, nếu ta cho các ngươi ăn, ngươi sẽ thôi quấy rầy ta chứ?”
“Không”, Meg nói.
“Dĩ nhiên, bỏ đói sẽ có hiệu quả đáng kinh ngạc”, người đàn ông nói với nó. “Ta ghét phải sử dụng những biện pháp cổ lỗ sĩ như vậy với các ngươi, nhưng tất nhiên các ngươi biết chính các ngươi ép ta làm vậy”.
“Dù thế nào, tôi cũng sẽ không ăn đồ ăn cũ của ông đâu”, Meg vẫn hoàn toàn bị kích động và giận dữ, như thể nó đang ở trong văn phòng của thầy Jenkins. “Tôi không tin tưởng mấy đồ ăn đó đâu”.
“Tất nhiên, là đồ ăn nhân tạo, đồ ăn của chúng ta không thể hơn những món xúp với đậu và thịt xông khói, vân vân, của các ngươi, nhưng ta cam đoan với ngươi, nó giàu dinh dưỡng hơn nhiều, và mặc dù tự nó không có mùi vị thực, một chút chế biến là tất cả những gì cần thiết, nó sẽ khiến các ngươi có ảo giác là mình đang được thưởng thức một bữa tối với gà tây quay”.
“Nếu tôi có ăn bây giờ, thì tôi cũng sẽ nhổ ra thôi, thế nào đi nữa”, Meg nói.
Vẫn nắm tay Meg và Calvin, Charles Wallace bước về phía trước. “Được rồi, tiếp theo là gì đây?” nó hỏi người đàn ông trên ghế. “Chúng tôi đã thấy đủ với những trò mở màn này rồi. Hãy tiếp tục đi.”
“Chính xác đó là những gì chúng ta đang tính làm”, người đàn ông nói, “cho đến khi chị ngươi ngáng trở bằng một cú chấn động thực sự vào não ngươi. Giờ chúng ta thử lại chứ?”
“Không!” Meg gào lên. “Không, Charles. Xin em. Hãy để tôi làm điều đó. Hoặc là Calvin”.
“Nhưng chỉ bé trai này là hệ thần kinh đủ phức tạp. Còn nếu ngươi cứ cố kiểm soát những nơ-ron thần kinh thiết yếu, não của ngươi sẽ nổ tung đấy”.
“Còn não của Charles thì không à?”
“Ta nghĩ là không”.
“Nhưng vẫn có khả năng xảy ra chứ?”
“Bao giờ chả có khả năng”.
“Vậy thì nó không việc gì phải làm vậy”.
“Ta nghĩ ngươi sẽ phải cho nó quyền tự quyết định”.
Nhưng Meg, với bản tính lì lợm cố hữu thường xuyên gây rắc rối cho mình, vẫn khăng khăng. “Ý ông là tôi và Calvin không thể biết được ông thực sự là ai à?”
“Ồ, không, ta không nói vậy. Ngươi không thể biết điều đó theo cùng một cách, và ngươi biết hay không cũng chẳng quan trọng gì với ta. À, đây rồi!” Từ đâu đó trong bóng tối xuất hiện bốn người đàn ông vận áo bờ-lu sẫm màu mang đến một cái bàn. Trên bàn phủ một chiếc khăn trắng tinh, giống những chiếc bàn mà Phục vụ Phòng sử dụng trong các khách sạn, và trên đó là một chiếc hộp nóng bằng kim loại, bên trong đựng thứ gì đó dậy mùi hấp dẫn, thứ gì đó dậy mùi giống một bữa tối gà tây quay.
Có gì đó giả tạo trong toàn bộ cách bài trí ở đây, Meg nghĩ. Dứt khoát có gì đó thối rữa trong cái cộng đồng Camazotz này.
Một lần nữa ý nghĩ có vẻ lại cười rộ lên. “Dĩ nhiên, nó không thực sự có mùi, nhưng chẳng phải cũng tuyệt y như thật sao?”
“Tôi chẳng ngửi thấy mùi gì cả”, Charles Wallace nói.
“Ta biết, chàng trai trẻ, và còn cho là ngươi nhớ mùi vị lắm đây. Tất cả những thứ này đối với ngươi sẽ có mùi vị giống như ngươi đang ăn cát vậy. Nhưng ta khuyên ngươi nên cố mà nuốt trôi. Ta không muốn những quyết định của các ngươi xuất phát từ tình trạng yếu ớt của cái dạ dày trống rỗng”.
Chiếc bàn được bày ra đằng trước chúng, những người đàn ông mặc áo bờ-lu sẫm màu chất đầy lên đĩa thịt gà tây, sốt cà chua, khoai tây nghiền và nước thịt trộn cùng đậu Hà Lan non với viên bơ vàng to tướng chảy bên trong cùng nam việt quất, trên cùng là khoai lang ngọt rưới nước sốt cẩm quỳ nâu và dầu ô-liu và cần tây và củ cải và...
Meg cảm thấy dạ dày nó đang sôi ùng ục. Nước bọt ứa lên khoang miệng.
“Ôi, Chúa ơi...” Calvin lẩm bẩm.
Những chiếc ghế hiện ra và bốn người đàn ông vừa bày tiệc rút vào bóng tối.
Charles Wallace đã giải phóng được đôi tay khỏi tay Meg và Calvin, liền ngồi phịch xuống một chiếc ghế.
“Thôi nào”, nó nói. “Nếu có bị bỏ độc thì cũng bị bỏ độc rồi, nhưng em không nghĩ vậy đâu”.
Calvin ngồi xuống. Meg vẫn tiếp tục đứng lưỡng lự.
Calvin cắn một miếng. Nó nhai. Nó nuốt. Nó nhìn Meg. “Nếu đây không phải đồ ăn thật, thì cũng là sự bắt chước tài tình nhất mà em sẽ được biết đấy”.
Charles Wallace cắn một miếng, nhăn mặt, rồi khạc thức ăn trong mồm ra. “Thật không công bằng!” nó hét vào mặt người đàn ông.
Lại cười. “Tiếp tục đi, anh bạn nhỏ. Ăn đi”.
Meg thở dài và ngồi xuống. “Chị không nghĩ chúng ta nên ăn cái thứ này, nhưng nếu hai người làm vậy, tốt hơn hết chị cũng nên làm theo thôi”. Nó ăn một miếng to. “Mùi vị được lắm. Thử một ít của chị xem này, Charles”. Nó chìa ra một dĩa gà tây.
Charles Wallace ăn, lại nhăn mặt, nhưng cố nuốt. “Vẫn có vị như cát”, nó nói. Nó nhìn người đàn ông. “Tại sao vậy?”
“Ngươi hoàn toàn hiểu tại sao. Ngươi đã đóng hẳn trí não của ngươi với ta. Hai đứa kia thì không thể. Ta có thể len lỏi vào những kẽ hở trong trí não chúng. Không vào được hoàn toàn, nhưng cũng đủ để mang đến cho chúng một bữa tối gà tây. Ngươi thấy đấy, ta thực sự chỉ là một ông già thân thiện, tốt tính thôi”.
“Há”, Charles Wallace nói.
Người đàn ông nhếch mép cười, và nụ cười của ông ta là hình ảnh kinh khủng nhất mà Meg từng thấy. “Tại sao ngươi không tin tưởng ta, hả Charles? Tại sao ngươi không tin tưởng ta rồi vào trong và khám phá xem ta là ai? Ta thân thiện và hoàn toàn thanh thản. Ta được miễn mọi trách nhiện. Thâm nhập vào bên trong ta là quyết định khó khăn cuối cùng mà ngươi phải thực hiện”.
“Nếu tôi vào, tôi có quay ra được nữa không?” Charles Wallace hỏi.
“Dĩ nhiên rồi, nếu ngươi muốn. Nhưng ta không nghĩ ngươi sẽ muốn vậy đâu”.
“Nếu tôi vào... mà không phải để ở lại, ông hiểu chứ... chỉ để tìm hiểu về ông, thì ông sẽ nói cho chúng tôi biết Bố ở đâu chứ?”
“Phải. Đó là một lời hứa. Và ta không xem nhẹ những lời hứa bao giờ”.
“Tôi có thể nói chuyện riêng với Meg và Calvin mà không bị ông nghe trộm không?”
“Không”.
Charles nhún vai. “Anh chị nghe này”, nó nói với Meg và Calvin. “Em phải tìm ra hắn thực sự là cái gì. Anh chị biết rồi đấy. Em sẽ cố gắng giữ cho bí mật. Em sẽ cố gắng để một phần bản thân em ở lại bên ngoài. Lần này chị không được cản em đâu, Meg”.
“Nhưng em sẽ không thể làm được đâu, Charles! Hắn mạnh hơn em rất nhiều! Em biết thế mà!”
“Em phải thử”.
“Nhưng Bà Gì Đó đã cảnh báo em!”
“Em phải thử. Vì Bố, chị Meg ạ. Làm ơn đi. Em muốn... em muốn biết Bố chúng ta...” Trong một thoáng, đôi môi nó run run. Rồi nó trấn tĩnh lại được. “Nhưng không phải chỉ Bố đâu, Meg ạ. Giờ chị đã biết rồi đấy. Chính là Bóng Đen. Chúng ta phải thực hiện những gì Bà Cái Nào đã giao phó cho chúng ta”.
“Calvin...” Meg van nài.
Nhưng Calvin lắc đầu. “Charles nói đúng đấy, Meg ạ. Và chúng ta phải ở bên em ấy, dù có chuyện gì xảy ra chăng nữa”.
“Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra đây?” Meg gào lên.
Charles Wallace ngước nhìn người đàn ông. “Xong rồi”, nó nói. “Đi thôi”.
Lúc này, đôi mắt đỏ và ánh sáng ở bên trên dường như đang xói vào Charles; và một lần nữa, hai con ngươi trong đôi mắt thằng bé co lại. Khi cái chấm màu đen cuối cùng biến mất khỏi nền mắt xanh, thằng bé rời mắt khỏi đôi mắt đỏ, quay nhìn Meg, và mỉm cười thật ngọt ngào, nhưng đó không phải là nụ cười của Charles Wallace.
“Nào, chị Meg, hãy ăn những đồ ăn ngon lành đã được chuẩn bị cho chúng ta nhé”, nó nói.
Meg vồ lấy đĩa thức ăn của Charles Wallace và ném xuống sàn nhà, đến nỗi đồ ăn bắn tung tóe ra xung quanh và cái đĩa vỡ tan thành nhiều mảnh nhỏ. “Không!” con bé gào lên, giọng the thé. “Không! Không! Không!”
Từ trong bóng tối, một trong những người đàn ông mặc áo bờ lu sẫm màu xuất hiện và đặt một chiếc đĩa khác trước mặt Charles Wallace, nó bắt đầu hăm hở ăn. “Chuyện gì vậy, chị Meg?” Charles Wallace hỏi. “Sao chị cứ hiếu chiến và thiếu hợp tác vậy nhỉ?” Đó là giọng của Charles Wallace, song cũng rất khác, không hiểu sao nghe bèn bẹt, gần giống như một giọng nói phát ra trên hành tinh hai chiều.
Meg cuống cuồng túm lấy Calvin và hét lên, “Đó không phải là Charles! Charles đi mất rồi!”
Nếp Gấp Thời Gian Nếp Gấp Thời Gian - Madeleine L'engle Nếp Gấp Thời Gian