Love gives light even in the darkest tunnel.

Anonymous

 
 
 
 
 
Tác giả: Madeleine L'engle
Thể loại: Tuổi Học Trò
Nguyên tác: A Wrinkle In Time
Dịch giả: Nguyễn Lan Hương
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 15
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 4527 / 194
Cập nhật: 2017-09-04 05:50:56 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 2 - Bà Ai Đấy
hi Meg tỉnh dậy bởi tiếng chuông inh tai của đồng hồ báo thức, gió vẫn chưa ngừng thổi nhưng mặt trời đã lên cao; thời điểm tồi tệ nhất của cơn bão đã đi qua. Nó ngồi trên giường, lắc lắc đầu cho tỉnh táo.
Đó hẳn là một giấc mơ. Cơn bão đã làm nó sợ chết khiếp, rồi cả những lo lắng về kẻ lang thang nữa, thế nên chắc nó đã chỉ mơ về chuyện đi xuống phòng bếp và trông thấy Bà Gì Đó, chứng kiến mẹ nó khiếp sợ và lo lắng đến thế nào bởi một từ... cái gì ấy nhỉ? Khối... khối gì đó.
Nó vội vàng mặc quần áo, nhấc con mèo con vẫn đang cuộn tròn trên giường lên rồi ném phịch xuống sàn nhà chẳng nể nang gì. Con mèo con ngáp dài, vươn mình kêu meo meo vẻ thảm thương rồi lót tót chạy khỏi căn gác mái, xuống cầu thang. Meg thu dọn giường rồi vội xuống theo. Trong bếp, mẹ đang chuẩn bị món bánh mì nướng kiểu Pháp, và cặp sinh đôi đã ngồi đợi sẵn ở bàn ăn. Con mèo con đang liếm sữa trong một cái đĩa.
“Charles đâu rồi ạ?” Meg hỏi.
“Em vẫn đang ngủ. Chúng ta đã có một đêm khá rầy rà, con còn nhớ chứ”.
“Con đã mong đó chỉ là một giấc mơ”, Meg đáp.
Mẹ nó cẩn thận lật bốn lát bánh mì kiểu Pháp lên, rồi nói bằng một giọng đều đều, “Không, Meg ạ. Đừng mong đó chỉ là một giấc mơ. Mẹ cũng chẳng hiểu gì nhiều hơn con, nhưng có một điều mẹ đã học được, ấy là không phải chỉ những điều ta lý giải được thì mới tồn tại. Mẹ xin lỗi đã để con thấy mẹ lo lắng. Bố con và mẹ đã nhiều lần nói đùa với nhau về khối lập phương bốn chiều”.
“Khối lập phương bốn chiều là gì ạ?” Meg hỏi.
“Đó là một khái niệm”. Bà Murry đưa cho cặp sinh đôi chai xi-rô. “Mẹ sẽ thử giải thích cho con sau. Bây giờ thì chẳng kịp thời gian đến trường mất”.
“Con chẳng hiểu sao mẹ không gọi bọn con dậy”, Dennys phàn nàn. “Thật tệ khi bọn con bỏ lỡ tất cả những chuyện thú vị đó”.
“Nhưng hôm nay, ở trường, bọn em sẽ tỉnh táo hơn chị bao nhiêu”, Meg để miếng bánh kiểu Pháp của nó lên bàn.
“Ai thèm quan tâm chứ”, Sandy nói. “Nếu mẹ cứ cho những kẻ lang thang già nua vào nhà mình lúc nửa đêm, thì phải để Den và con ở bên cạnh để bảo vệ mẹ”.
“Vả lại hẳn bố cũng sẽ mong bọn con làm vậy”, Dennys chêm vào.
“Chúng con biết mẹ có một trí tuệ tuyệt vời và mọi thứ, mẹ ạ”, Sandy nói, “Nhưng mẹ không có khả năng phán đoán mấy đâu. Và tất nhiên Meg với Charles cũng không nốt”.
“Chị biết. Bọn chị là những kẻ đần độn”, Meg cay đắng.
“Em ước gì chị đừng có như đồ ngốc thế, Meg ạ. Lấy hộ ít xi-rô nào”, Sandy nhoài người qua bàn ăn. “Chị không phải vơ hết vào mình như vậy. Cứ theo cách dung hòa đi, vì Chúa. Ở trường, chị chỉ toàn cư xử ngờ nghệch, cứ nhìn ra ngoài cửa sổ chẳng để tâm gì cả”.
“Chị chỉ tự làm cho mọi thứ khó thêm thôi”, Dennys nói. “Và sang năm, khi Charles Wallace bắt đầu đi học, nó cũng sẽ có một quãng thời gian khủng khiếp. Chị em mình biết nó thông minh, nhưng nó thật nực cười khi có người lạ xung quanh, và người ta đã quá quen với ý nghĩ nó là một thằng khờ, em chẳng biết rồi điều gì sẽ xảy ra cho nó nữa. Sandy và em sẽ tẩn bất kỳ đứa nào dè bỉu nó, nhưng đó là tất cả những gì bọn em có thể làm”.
“Không nên lo lắng chuyện năm sau khi mà chúng ta còn chưa qua hết năm nay”, bà Murry nói. “Thêm bánh mì Pháp nữa không, các con trai?”
Ở trường, Meg cảm thấy thật mệt mỏi, hai mí mắt nó cứ sụp xuống, còn tâm trí thì cứ lơ đễnh đâu đâu. Trong giờ khoa học xã hội, nó bị gọi lên để kể tên những mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu chính của Ni-ca-ra-goa, và mặc dù nó đã tra cứu đầy tinh thần trách nhiệm vào đêm hôm trước, bây giờ nó chẳng nhớ nổi mặt hàng gì. Cô giáo mỉa mai, bọn bạn trong lớp thì cười nghiêng ngả, còn nó ngồi phịch xuống ghế trong cơn giận dữ. “Dù gì đi nữa, ai thèm quan tâm đến hàng xuất khẩu và nhập khẩu của Ni-ca-ra-goa chứ?” nó lẩm bẩm.
“Nếu em còn hỗn xược như vậy, Margaret ạ, em có thể ra ngoài”, cô giáo nói.
“Vâng, thưa cô”, Meg vùng vằng đi ra.
Trong thời gian lên lớp, thầy hiệu trưởng cho gọi nó. “Bây giờ, vấn đề là gì hả Meg?” Ông hỏi, giọng dịu dàng vừa đủ.
Meg sưng sỉa nhìn xuống sàn nhà. “Chẳng có gì cả, thưa thầy Jenkins”.
“Cô Porter nói với thầy em xấc xược đến mức không thể tha thứ”.
Meg nhún vai.
“Em không nhận thấy rằng chính thái độ của em làm cho mọi việc trở nên khó khăn hơn sao?” Thầy hiệu trưởng hỏi. “Meg ạ, bây giờ, thầy tin chắc rằng em có khả năng học và đuổi kịp các bạn nếu em cố gắng, nhưng vài giáo viên khác thì không tin vậy. Em sẽ phải làm gì đó để chứng tỏ bản thân mình chứ. Chẳng ai có thể làm điều đó hộ em được”, Meg vẫn làm thinh. “Nào? Em thấy thế nào hả, Meg?”
“Em chẳng biết phải làm gì”, Meg nói.
“Em có thể làm bài tập về nhà, đó là một. Mẹ em không giúp em sao?”
“Nếu như em yêu cầu ạ”.
“Meg, có chuyện gì làm em lo lắng à? Hay ở nhà em không vui?” Thầy Jenkins hỏi.
Cuối cùng, Meg cũng nhìn thẳng vào mặt ông, vừa chỉnh lại cái gọng kính bằng động tác quen thuộc. “Ở nhà mọi việc đều ổn cả”.
“Thầy rất vui khi nghe điều đó. Nhưng thầy biết thật khó khăn cho em khi bố em lại đi xa”.
Meg trừng trừng nhìn thầy hiệu trưởng vẻ đề phòng, vừa lùa lưỡi lên cái nẹp hàm gai góc.
“Dạo này em có nghe tin tức gì về ông ấy không?”
Meg tin chắc không phải trí tưởng tượng khiến nó cảm thấy rằng đằng sau sự quan tâm bề ngoài của thầy Jenkins là một thoáng tò mò đầy thèm muốn. Chẳng nhẽ ông ta không muốn biết sao! Nó nghĩ. Và nếu như mình có biết được điều gì thì ông ta cũng là người cuối cùng mình sẽ kể. Thế đấy, một trong những người cuối cùng.
Bà giám đốc bưu điện hẳn phải biết đã gần một năm nay rồi, kể từ lá thư cuối cùng, và chỉ có Chúa mới biết được bà ta đã kể cho bao nhiêu người, hay cả những suy đoán chẳng tốt đẹp gì mà bà ta có thể đã đưa ra về lý do cho sự im lặng lâu đến như vậy.
Thầy Jenkins chờ đợi một câu trả lời, nhưng Meg chỉ nhún vai.
“Vậy công việc chuyên môn của bố em là gì?” Thầy Jenkins lại hỏi. “Đại loại là một nhà khoa học chăng?”
“Ông là nhà vật lý”, Meg nhe răng để lộ cặp nẹp hàm dễ sợ.
“Meg, sao em không nghĩ em có thể thu xếp được cuộc sống này tốt hơn nếu em đối diện với sự thật?”
“Em luôn đối diện sự thật”, Meg nói. “Em có thể khẳng định với thầy, nó còn dễ dàng hơn nhiều đối diện với con người”.
“Vậy tại sao em không đối diện với sự thật về bố của em?”
“Thầy hãy để cho bố em được yên!” Meg gào lên.
“Đừng có rống lên như vậy”, thầy Jenkins nói một cách gay gắt. “Em muốn cả trường nghe thấy hay sao?”
“Thì sao ạ?” Meg khinh khỉnh. “Em chẳng xấu hổ vì bất cứ điều gì em nói. Còn thầy thì sao?”
Thầy Jenkins thở dài. “Em thích làm đứa trẻ ngổ ngáo và bất hợp tác nhất cái trường này quá nhỉ?”
Meg lờ đi. Nó nhoài người qua cái bàn về phía thầy hiệu trưởng. “Thưa thầy Jenkins, thầy đã gặp mẹ em rồi, phải không ạ? Thầy không thể kết tội bà không đối mặt với thực tế, phải không ạ? Bà là một nhà khoa học. Bà có bằng tiến sĩ trong cả lĩnh vực Sinh học lẫn Vi khuẩn học. Công việc của bà chính là thực tế. Khi nào bà bảo với em rằng bố em không về nữa, em sẽ tin. Còn chừng nào bà vẫn nói Bốsắp quay trở về, thì em vẫn cứ tin vào điều ấy”.
Thầy Jenkins lại thở dài lần nữa. “Tất nhiên mẹ em vẫn cứ muốn tin rằng bố em sắp quay trở về, Meg ạ. Tốt thôi, thầy chẳng thể làm gì khác với em nữa. Quay trở lại lớp học đi. Và hãy cố gắng bớt bớt cái thói ương ngạnh. Có thể việc học của em sẽ được cải thiện, nếu như em tỏ ra dễ bảo hơn”.
***
Khi Meg từ trường trở về nhà, mẹ nó đang ở trong phòng thí nghiệm, hai đứa em sinh đôi đang ở chỗ chơi bóng chày, còn Charles Wallace, mèo con và Fortinbras thì đang đợi nó. Fortinbras nhảy chồm chồm, để hai chân trước lên vai Meg rồi thơm nó một cái, con mèo con thì lao vội tới đĩa thức ăn rỗng không của mình và meo meo ầm ĩ.
“Nào”, Charles Wallace nói. “Mình đi thôi”.
“Đi đâu?” Meg hỏi. “Chị đang đói meo, Charles ạ. Chị chẳng muốn đi đâu cả chừng nào chị chưa có cái gì vào bụng”. Nó vẫn còn đau lòng sau cuộc cật vấn của thầy Jenkins, nên giọng nói nghe cấm cảu. Charles Wallace đăm chiêu nhìn chị lúc con bé đến bên tủ lạnh và lấy cho con mèo con một chút sữa, rồi cũng tự mình uống một cốc đầy.
Thằng bé đưa cho chị nó một cái túi giấy. “Trong này là chiếc sandwich, mấy cái bánh quy với một quả táo. Em nghĩ chúng mình nên đến thăm Bà Gì Đó”.
“Ôi, trời ơi”, Meg kêu lên. “Tại sao chứ, Charles?”
“Chị vẫn còn băn khoăn về bà ấy, đúng không?” Charles hỏi.
“Ừ, đúng”.
“Đừng vậy. Bà ấy lành mà. Em cam đoan với chị đấy. Bà ấy bên phe của mình”.
“Làm sao em biết?”
“Meg”, nó nói đầy sốt ruột. “Em biết”.
“Nhưng tại sao chúng mình lại đi thăm bà ấy lúc này?”
“Em muốn tìm hiểu thêm về cái vật lập phương bốn chiều kia. Chẳng nhẽ chị không thấy nó làm mẹ lo lắng đến thế nào sao? Chị thừa biết khi mẹ không thể kiểm soát nổi cảm xúc của mình, khi mẹ để chúng mình thấy mẹ đang lo lắng, thì đó là chuyện lớn còn gì”.
Meg nghĩ ngợi một lát. “Được, đi thôi. Nhưng phải cho Fortinbras đi cùng chúng mình”.
“Ồ, hẳn đi rồi. Nó cũng cần vận động mà”.
Chúng lên đường, Fortinbras chạy tót lên đầu, rồi lại đột ngột tụt lại phía sau hai đứa trẻ, rồi lại phóng vọt lên. Gia đình Murry sống cách làng bốn dặm. Đằng sau ngôi nhà là một rừng thông, và giờ Charles Wallace đang dẫn chị nó đi qua đó.
“Charles, em biết là bà ấy sẽ dính vào những rắc rối khủng khiếp... ý chị là Bà Gì Đó ấy, nếu như họ phát hiện ra bà ấy đã đột nhập vào căn nhà ma ám. Rồi còn ăn cắp những tấm ga giường của bà Buncombe, và mọi chuyện khác nữa. Họ sẽ tống bà ấy vào tù”.
“Một trong những lý do em muốn sang đó chiều nay là để cảnh báo cho bọn họ”.
“Bọn họ ư?”
“Em đã nói với chị, bà ấy sống ở đấy cùng với hai bà bạn. Thậm chí, em không dám chắc tự Bà Gì Đó đã lấy cắp những tấm ga giường, mặc dù em sẽ không bỏ qua bà ấy”.
“Nhưng bà ấy muốn tất cả những tấm ga giường đó làm gì cơ chứ?”
“Em cũng định hỏi bà ấy như vậy”, Charles Wallace trả lời, “và để nói bọn họ tốt hơn hết là nên cẩn thận. Em không hẳn nghĩ bọn họ sẽ để cho ai đó tìm được ra mình, em chỉ nghĩ chúng mình phải đề cập đến mọi khả năng. Thỉnh thoảng trong những kỳ nghỉ, mấy thằng con trai hay ra đó tìm cảm giác ly kỳ, nhưng em cũng không nghĩ có ai lại đến vào ngay lúc này, với quả bóng rổ hay bất cứ cái gì”.
Chúng bước đi trong yên lặng chừng một lúc xuyên qua cánh rừng thơm ngát, lá thông bạc màu êm nhẹ dưới chân chúng. Cao bên trên chúng gió đánh nhạc trên những nhành cây. Charles Wallace luồn tay vào bàn tay chị đầy tin tưởng và cử chỉ ngọt ngào, rất nhóc con ấy làm Meg thấy ấm lòng đến độ nó cảm thấy những mệt mỏi căng thẳng bên trong cũng dần dần tan biến. Charles sẽ luôn yêu mình dù có thế nào đi nữa, nó nghĩ.
“Hôm nay lại tồi tệ ở trường ạ?” một lúc sau thằng bé chợt hỏi.
“Ừ. Chị bị gọi lên chỗ thầy Jenkins. Ông ấy bình phẩm ác ý về Bố”.
Charles Wallace gật gù vẻ già dặn. “Em biết”.
“Làm sao em biết được?”
Charles Wallace lắc đầu. “Em hoàn toàn không giải thích nổi. Chị nói với em, thế thôi”.
“Nhưng chị chẳng nói gì bao giờ. Mà hình như em cứ biết”.
“Tất cả những gì về chị sẽ nói cho em biết”, Charles nói.
“Thế còn hai anh sinh đôi?” Meg hỏi. “Em cũng biết rõ về hai anh theo cách đó à?”
“Em cho là có thể, nếu em muốn. Nếu hai anh ấy cần em. Nhưng thế thì mệt lắm, vì vậy em chỉ tập trung vào chị và Mẹ”.
“Ý em là em có thể đọc được suy nghĩ của người khác?”
Charles Wallace có vẻ bối rối. “Em không nghĩ như vậy. Đó là khả năng hiểu được một loại ngôn ngữ, chẳng hạn như thỉnh thoảng nếu em tập trung cao độ, em có thể hiểu được tiếng gió đang nói chuyện với cây. Chị nói với em, chị biết mà, kiểu như không cố... không cố ý vậy. Đó là một từ hay, phải không chị? Sáng nay, em nhờ mẹ tra nó cho em trong từ điển. Đúng là em phải học đọc thôi, trừ việc em rất sợ điều đó sẽ dẫn đến hậu quả khủng khiếp ở trường vào năm sau, nếu em lại biết trước những thứ cần học. Em cho là cứ để mọi người tiếp tục nghĩ em không thông minh lắm thì sẽ tốt hơn. Như vậy họ sẽ không ghét em quá”.
Phía trước chúng, Fortinbras bắt đầu sủa ồn ào, tiếng sủa thường cảnh báo cho chúng biết một cái xe đang đến hay ai đó đang đứng trước cửa.
“Có ai đó ở đây”, Charles Wallace nói, giọng thằng bé đanh lại. “Có ai đó đang quanh quẩn cạnh ngôi nhà. Đi nào”. Nó bắt đầu chạy, đôi chân ngắn cũn của nó sải căng. Ở bìa rừng, Fortinbras đang đứng trước một thằng con trai và sủa dữ dội.
Chúng vừa hổn hển tới nơi thì thằng con trai liền nói: “Gì mà ầm ĩ thế, gọi con chó của mấy người ra chỗ khác đi”.
“Anh ta là ai vậy?” Charles Wallace hỏi Meg.
“Calvin O’Keefe. Anh ta ở trong Vùng, nhưng hơn tuổi chị. Anh ta là một con rệp lớn đấy”.
“Thôi nào, anh bạn. Tao không định làm mày đau đâu”, thằng con trai nói với Fortinbras.
“Ngồi xuống, Fort”, Charles Wallace ra lệnh, và Fortinbras ngồi thụp xuống trước mặt thằng con trai, tiếng gầm gừ vẫn rin rít trong cổ họng.
“Được rồi”, Charles Wallace chống hai tay lên hông. “Giờ hãy nói cho chúng tôi biết anh đang làm gì ở đây”.
“Tớ cũng đang định hỏi chú mày điều đấy”, thằng con trai nói với giọng bực tức. “Chẳng phải hai đứa là con nhà Murry sao? Đây đâu phải tài sản riêng nhà hai đứa, hả?” Anh ta bắt đầu dợm bước, nhưng tiếng gầm gừ của Fortinbras trở nên to hơn khiến anh ta dừng lại.
“Nói cho em biết về anh ta đi, chị Meg”, Charles Wallace gặng hỏi chị nó.
“Chị thì biết gì đây?” Meg vặc lại. “Anh ta hơn chị vài lớp và anh ta chơi trong đội bóng rổ”.
“Chỉ vì tớ cao thôi”, Calvin lên tiếng nghe có vẻ ngượng nghịu. Nó cao thì đã hẳn và còm nhom nữa. Xương cổ tay nó chồi lên qua lần ống tay áo len xanh. Chiếc quần nhung kẻ cộc đến bảy li rưỡi. Mái tóc màu cam bờm xờm đang cần được cắt, rất hợp với những nốt tàn nhang tương xứng trên mặt. Đôi mắt nó là một thứ màu xanh sáng ngời đến kỳ lạ.
“Nói cho chúng tôi biết anh đang làm gì ở đây”, Charles Wallace lặp lại.
“Cái gì đấy? Hỏi cung tớ cơ à? Chẳng phải chú mày là đứa bị cho là ngớ ngẩn hay sao?”
Meg đỏ bừng mặt vì tức giận, nhưng Charles Wallace lại trả lời từ tốn. “Đúng đấy. Nếu anh muốn tôi gọi con chó của tôi ra chỗ khác thì tốt hơn là nên trả lời”.
“Đứa ngớ ngẩn kỳ cục nhất mà mình từng gặp”, Calvin nói. “Tớ chỉ vừa mới chạy trốn khỏi gia đình tớ thôi”.
Charles Wallace gật đầu. “Gia đình kiểu gì?”
“Toàn đứa thò lò mũi xanh. Tớ là thứ ba từ trên xuống trong mười một đứa nhóc. Tớ đúng là một kẻ biến dị”.
Nghe đến đây, Charles Wallace bỗng toét miệng cười. “Em cũng vậy”.
“Ý tớ không phải như trong bóng chày đâu nhé”, Calvin nói.
“Em cũng không”.
“Ý tớ là trong sinh vật học ấy”, Calvin nói vẻ đầy ngờ vực.
“Một sự biến đổi về gen”, Charles Wallace trích dẫn, “cho kết quả là sự xuất hiện ở thế hệ con lai thứ nhất tính trạng không có ở thế hệ bố mẹ và vẫn tiềm tàng khả năng có thể chuyển giao được sang thế hệ con cái ho”.
“Chuyện gì xảy ra quanh đây vậy nhỉ?” Calvin hỏi. “Người ta bảo là chú mày không biết nói cơ mà”.
“Nghĩ em là một kẻ đần độn khiến mọi người có cái gì đó để cảm thấy tự mãn”, Charles Wallace đáp. “Sao em phải làm cho họ vỡ mộng cơ chứ? Anh bao nhiêu tuổi rồi, Cal?”
“Mười bốn”.
“Lớp mấy?”
“Trung học. Lớp mười một. Tớ học khá đấy. Nghe đây, có ai bảo hai đứa đến đây buổi chiều nay không?”
Charles Wallace, vừa giữ cái vòng cổ của Fort vừa nhìn Calvin ngờ vực. “Anh hỏi thế có ý gì?”
Calvin nhún vai. “Chú mày vẫn chưa tin anh, đúng không?”
“Em không phải không tin anh”, Charles Wallace trả lời.
“Thế sao chú mày vẫn không nói cho anh biết lý do hai đứa ở đây?”
“Fort và chị Meg và em định ra ngoài đi dạo thôi. Chúng em thường làm thế vào buổi chiều”.
Calvin đút hai tay vào túi quần. “Chú vẫn không cho tớ biết sự thật”.
“Anh cũng vậy”, Charles Wallace nói.
“Thôi được rồi, ông cụ non biến dị ạ”, Calvin nói. “Anh sẽ cho chú biết. Đôi khi anh có cảm giác về nhiều chuyện. Chú có thể gọi đó là cảm giác bị cưỡng bách cũng được. Mà chú có biết cưỡng bách nghĩa là gì không?”
“Sự ép buộc. Bổn phận. Bởi vì ai đó bị ép buộc phải làm điều gì. Không phải một định nghĩa hay lắm, nhưng đó là từ điển Oxford Giản lược”.
“Được rồi, được rồi”, Calvin thở dài. “Tớ phải ghi nhớ rằng mình đã hơi định kiến về trí lực của chú”.
Meg ngồi xuống bãi cỏ lởm chởm ở bìa rừng. Fort khẽ giằng cái vòng cổ ra khỏi tay cậu chủ rồi đi đến chỗ Meg, nằm xuống bên cạnh và gối đầu lên lòng con bé.
Calvin giờ đang cố gắng hướng câu chuyện vào Meg như đã hướng vào Charles Wallace, một cách thật lịch sự. “Khi anh có cảm giác này, sự cưỡng bách này, anh luôn làm theo những gì nó bảo. Anh không thể giải thích được nó từ đâu đến hay làm thế nào mà anh lại có nó, và nó cũng không thường xuyên xảy ra lắm. Nhưng anh vẫn tuân theo. Chiều nay, anh lại có cảm giác rằng anh phải đi đến ngôi nhà ma ám. Đó là tất cả những gì anh biết, nhóc ạ. Anh chẳng còn giấu giếm chuyện gì nữa đâu. Cũng có lẽ đấy là vì nhiệm vụ của anh là đến gặp chú. Chính chú đã nói với anh”.
Charles Wallace nhìn Calvin dò xét trong chốc lát; rồi một tia nhìn hầu như đờ đẫn đi vào mắt nó, dường như nó đang suy nghĩ về Calvin. Còn Calvin thì đứng yên, chờ đợi.
Cuối cùng, Charles Wallace lên tiếng, “Thôi được, em tin anh. Nhưng em không thể nói với anh được. Em chỉ nghĩ là nên tin anh thôi. Có lẽ tốt hơn hết là anh về nhà bọn em và ăn cơm tối với mọi người”.
“Ồ, hẳn là thế rồi, nhưng... liệu mẹ em có nói gì không?” Calvin hỏi.
“Mẹ sẽ thích thôi. Mẹ em tốt bụng mà. Mẹ không phải một trong chúng ta. Nhưng mẹ rất tốt bụng”.
“Thế còn Meg?”
“Meg thì khó đấy”, Charles Wallace nói. “Chị ấy không hẳn là cái này hay cái kia”.
“Ý em là gì, một trong chúng ta?” Meg gặng hỏi. “Ý em là gì khi nói chị không hẳn là cái này hay cái kia?”
“Chưa phải bây giờ đâu chị Meg”, Charles Wallace nói. “Từ từ. Rồi em sẽ kể cho chị sau”. Nó nhìn Calvin, rồi có vẻ để đưa ra một quyết định chóng vánh. “Được rồi, hãy đưa anh ấy đến gặp Bà Gì Đó. Nếu anh ấy không ổn thì bà ấy sẽ biết ngay”. Đôi chân ngắn cũn của nó hướng về phía căn nhà cũ xiêu vẹo.
Một nửa ngôi nhà ma ám nằm ẩn dưới bóng những bụi cây đu. Những cây đu giờ đã trụi gần hết lá, nền đất xung quanh căn nhà vàng rực những chiếc lá còn đương sũng nước. Ánh sáng của buổi chiều muộn mang màu lục nhạt, phản chiếu qua mấy cái cửa sổ trống không nom thật ma quái. Một cánh cửa chớp tuột bản lề đập mạnh. Có cái gì đó khác kêu cọt kẹt. Meg không hề ngạc nhiên ngôi nhà này chịu tiếng là bị ma ám.
Một tấm ván đóng đinh vắt ngang cửa trước, nhưng Charles Wallace dẫn mọi người đi vòng ra đằng sau. Cánh cửa ở đây trông cũng như bị đóng đinh, nhưng khi Charles Wallace gõ thì cửa bỗng từ từ mở ra ngoài, vừa cọt kẹt trên mấy cái bản lề hoen gỉ. Trên một cây đu, một con quạ già đen tuyền gào lên một tiếng khàn khàn ai oán, và một con chim gõ kiến bắt đầu những tiếng lộc cộc dữ dội. Ở góc nhà, một con chuột xám lớn loanh quanh tìm đường chạy trốn, khiến Meg phải thét lên một tiếng kinh hãi.
“Họ có được vô khối trò vui nhờ sử dụng mấy dụng cụ sân khấu đặc thù đó”, Charles Wallace nói, giọng trấn an. “Đi nào. Theo em”.
Calvin ngoắc bàn tay rắn rỏi vào khuỷu tay Meg, còn Fort thì cứ dũi dũi vào chân con bé. Niềm hạnh phúc trước thái độ quan tâm này tràn trề đến độ cơn hốt hoảng của Meg bay đâu mất, con bé bước theo Charles Wallace đi vào những hốc tường tối đen của căn nhà mà không hề cảm thấy sợ hãi.
Chúng đi vào một chỗ như là phòng bếp. Ở đó có một lò sưởi rất to với một cái nồi to tướng đen xì lủng lẳng bên trên một ngọn lửa nom vui mắt. Tại sao chẳng thấy có khói trên ống khói nhỉ? Có cái gì đó trong nồi đang sủi tăm, và nó tỏa mùi giống như mùi hóa chất tạp nham của bà Murry hơn là cái gì đó có thể ăn được. Trên chiếc ghế xích đu cũ nát kiểu Boston, một người phụ nữ nhỏ thó múp míp đang ngồi. Bà ta không phải Bà Gì Đó, Meg đoán già đoán non, vậy hẳn là một trong hai bà bạn của Bà Gì Đó. Bà ta đeo một cặp kính to tướng, dày gấp đôi và to cũng gấp đôi của Meg, và bà ta đang cặm cụi khâu, những mũi khâu thoăn thoắt thật lực, trên một tấm ga giường. Vài tấm ga giường khác nằm lay lắt trên sàn nhà bẩn thỉu.
Charles Wallace lại gần bà ta. “Cháu thật sự không nghĩ bà lại phải lấy trộm mấy tấm ga giường của bà Buncombe, mà không hề hỏi ý kiến cháu”, nó nói, cáu kỉnh và hống hách như chỉ có ở một cậu bé con. “Bà cần chúng làm cái gì cơ chứ?”
Người phụ nữ nhỏ thó múp míp tươi cười với nó. “Tại sao à, Charles, bé cưng của ta! Le coeur a ses raisons que la raison ne connat point. Tiếng Pháp. Pascal. Trái tim có những lý lẽ mà lý lẽ chẳng tài nào hiểu được”.
“Nhưng thế không đáng tí nào”, Charles gắt gỏng.
“Mẹ cháu chắc cũng nghĩ vậy”. Một nụ cười như tỏa ra qua đường nét tròn vạnh của cặp kính.
“Cháu không nói về tình cảm mẹ cháu dành cho bố cháu”, Charles điên tiết. “Cháu đang nói về mấy cái ga giường của bà Buncombe cơ”.
Người phụ nữ nhỏ thó thở dài. Cặp kính to tướng lại bắt sáng và lóe lên như mắt cú. “Trong trường hợp chúng ta cần những hồn ma, tất nhiên rồi”, bà ta nói. “Đáng lẽ ta nên nghĩ rằng cháu sẽ đoán ra. Nếu chúng ta cần phải dọa dẫm ai đó, Bà Gì Đó nghĩ là chúng ta nên làm cho ra trò. Thế nên ẩn trú trong một ngôi nhà bị ma ám mới thú thế. Nhưng chúng ta thực sự không định để cháu biết về những tấm ga giường. Auf frischer Tat ertappt. Tiếng Đức. In flagrante delicto. Tiếng La-tinh. Bị bắt quả tang. Tiếng Anh. Như ta vẫn nói...”
Nhưng Charles Wallace đã giơ tay lên làm một cử chỉ dứt khoát. “Bà Ai Đấy, bà có biết anh này không?”
Calvin cúi đầu. “Xin chào, thưa bà. Cháu không nghe kịp tên của bà lắm”.
“Bà Ai Đấy là được”, người phụ nữ đáp. “Anh bạn này không phải ý tưởng của ta, Charlsie ạ, nhưng ta nghĩ anh ta được đấy”.
“Bà Gì Đó đâu rồi ạ?” Charles hỏi.
“Bà ấy đang bận. Sắp đến lúc rồi, Charlsie, sắp rồi. Ab honesto virum bonum nihil deterret. Seneca. Không gì có thể cản trở một người tốt làm những điều đáng trọng. Và ông ấy là một người rất tốt, Charlsie, cháu yêu, nhưng bây giờ ông ấy cần sự giúp đỡ của chúng ta”.
“Ai cơ ạ?” Meg gặng hỏi.
“Ồ, Megsie bé bỏng! Rất vui được gặp cháu, cưng ạ. Là bố của cháu, dĩ nhiên rồi. Bây giờ thì về nhà đi, các cháu yêu. Thời gian vẫn chưa chín muồi đâu. Đừng lo, chúng ta sẽ không bao giờ khởi hành mà không có các cháu. Hãy ăn uống và nghỉ ngơi thoải mái đi nhé. Ép Calvin ăn nhiều vào. Còn giờ thì tạm biệt các cháu. Justitiae soror fides. Lại tiếng La-tinh, hẳn đi rồi. Niềm tin là chị em với công lý.Hãy tin bọn ta. Giờ thì xuỵt xuỵt!” Rồi bà nhảy vọt khỏi chiếc ghế và đẩy bọn nhóc ra ngoài cửa với sức mạnh đáng kinh ngạc.
“Charles”, Meg nói. “Chị chẳng hiểu gì cả”.
Charles nắm lấy tay chị nó và kéo ra xa khỏi ngôi nhà. Fortinbras chạy đằng trước, còn Calvin thì ngay đằng sau bọn nó. “Ừ”, Charles nói, “em cũng chưa. Không hiểu nhiều lắm. Em sẽ nói cho chị những gì em biết ngay khi có thể. Nhưng chị thấy Fort rồi đấy, phải không? Không gầm gừ tiếng nào. Không run bắn lần nào. Y như là chẳng có gì lạ lẫm với nó hết. Vậy chị có thể biết rằng mọi chuyện đều ổn. Thế này nhé, cả hai anh chị, giúp em một việc. Đừng nói đến chuyện này nữa cho đến khi chúng ta có cái gì vào bụng đã. Em cần nạp năng lượng để có thể sắp xếp mọi chuyện và tiêu hóa chúng cho đúng cách”.
“Dẫn đường nào, chú khờ”, Calvin hét to hoan hỉ. “Anh chưa bao giờ nhìn thấy nhà các em, và anh có cảm giác thật buồn cười vô cùng, như thể đây là lần đầu tiên anh được về nhà vậy!”
Nếp Gấp Thời Gian Nếp Gấp Thời Gian - Madeleine L'engle Nếp Gấp Thời Gian