I would never read a book if it were possible for me to talk half an hour with the man who wrote it.

Woodrow Wilson

 
 
 
 
 
Tác giả: Nevil Shute
Thể loại: Tiểu Thuyết
Số chương: 11
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 801 / 5
Cập nhật: 0001-01-01 07:06:40 +0706
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5 -
ột tuần sau chuyến bay của Nữ hoàng cất cánh từ White Waltham đi Edmonton trên một phi vụ huấn luyện đã được sắp đặt. Tất cả đều đi trên chiếc Ceres do phi công Dewar và phi hành đoàn Canada kiểm soát, có không đoàn trưởng Cox chịu trách nhiệm. David cùng phi hành đoàn Úc được xem như là hành khách đặc biệt. Họ cất cánh đúng mười giờ quốc tế, ngay giờ đầu tiên đã bay cách mặt đất năm mươi ngàn bộ, bỏ lại dưới xa mưa và những đám mây. Bây giờ họ đã lấy thăng bằng ở độ cao đều đều khi qua khỏi Bắc Ailen. Một giờ rưởi sau Reykjavik thuộc Băng đảo đã ló dạng và cách chừng hai trăm dặm về hướng Bắc. Họ bay qua Greenland từ bờ biển phía đông gần với Angmagsalik và tiếp tục bay qua mỏm Davis đến đảo Baffin. Khi qua cực Bắc của vịnh Hudson, họ dùng bữa; giờ này không có mây nên nhìn khung cảnh trôi qua trên hoang mạc rất thích. Tuy điều khiển tay lái và tìm phương hướng bằng vô tuyến, nhưng họ cũng cần vài mốc địa hình và khi đã xác định được vùng cực đông của hồ Athabasca, họ bắt đầu giảm độ cao. Một giờ sau họ bay vòng quanh phi trường, đã quá quen thuộc với Dewar, và đặt bánh trên phi đạo lúc mười giờ kém mười lăm, giờ địa phương, sớm hơn giờ cất cánh ở phi trường White Waltham mười lăm phút.
Đây là chiếc Ceres đầu tiên đến thăm Edmonton và một nhóm nhỏ sĩ quan hoa tiêu và sĩ quan trong không lực Hoàng gia Canada tụ tập trên đường băng. David quay về với những nhân viên phi hành Uùc cùng quan sát và làm việc với phi hành đoàn Canada về chiếc máy bay, bỏ lại các sĩ quan Canada đang trình bày với bạn bè của họ về chiếc máy bay. Chuyến bay không được thông báo với báo chí nên khi tiếp nhiên liệu họ không bị phóng viên và nhiếp ảnh viên quấy rầy, kể cả lúc ăn trưa trong câu lạc bộ sĩ quan không quân. Báo chí chỉ đến kịp mười phút trước khi máy bay cất cánh đi Vancouver và đại tá Cox chỉ nói đôi lời và đứng chụp ảnh với phi hành đoàn Canada trước máy bay.
Rồi máy bay lại bay lên độ cao bốn mươi ngàn bộ để tránh dãy Thạch Sơn. Một giờ rưỡi sau họ hạ xuống sân bay của không lực Hoàng gia Canada ở Vancouver và ở lại đêm tại căn cứ không quân ấy.
Khi ở độ cao, nhiệt độ trong đầu máy phản lựa hơi bị nóng nên cần ít thời gian sáng hôm sau để điều chỉnh bơm dầu và làm cho máy chạy đều. Họ cất cánh bay đi Ottaawa sau khi đã ăn trưa sớm hơn một chút và bốn giờ sau, họ cất cánh trong đêm tối. Ngày tiếp theo là ngày thứ Bảy, họ trình diện máy bay cho một số đông Thượng nghị sĩ và Dân biểu Hạ viện của Canada được tận mắt thấy chiếc máy bay họ đã dâng tặng Nữ hoàng lần đầu tiên Điều làm David thất vọng là vị Toàn quyền không đến thăm chiếc máy bay. Ngài Thomas Forrest là một hình ảnh huyền thoại vào thời ấy đối với cuộc chiến tranh thần thánh của Liên Xô, vị Đại nguyên soái đi từ binh nhì cho đến Thiếu tướng trong thế chiến thứ nhất và từ Trung tướng cho đến Đại nguyên soái trong thế chiến thứ hai. Vào lúc ấy ông đã làm Toàn quyền Canada được hai năm. David chưa bao giờ được gặp ông ta và mong muốn được diện kiến nhưng Tom Forest lại bận đi Winnipeg.
Ông Delamain, vị thủ tướng lại đãi các sĩ quan cơm trưa tại nhà riêng. Ông là người Canada lai Pháp ở Quebec, người thấp bé nhưng hoạt bát, đã nhờ lao động mà tiến thân, từ cấp dưới tiến lên chỉ huy trong công nghiệp gỗ lúc mới bốn lăm tuổi rồi đổi sang hoạt động chính trị. Auguste Delamain có bà vợ mập ú tên là Marie và mười một người con, chỉ có hai người xuất hiện ở bàn ăn trưa và ông ta có vô số giai thoại khôi hài cho các sĩ quan Ông Iorwerth Jones có khoẻ không? :
Ông ta hỏi :
- Vừa rồi tôi ghé lại Anh quốc, trông anh ta có vẻ thiểu não lắm, tôi nghĩ là ông ấy bệnh. Nhưng sau đấy tôi nghe ông ta cố quốc hữu hoá các cửa hàng may mặc bán lẻ và tổng liên đoàn lao động của Quốc hội chưa chấp thuận và ông ta chưa được phép làm. Tôi nghĩ ông ta không phải bị bệnh mà vì giận Tổng Liên đoàn lao động ở quốc hội đứng ngoài chuyện ấy :
Đại tá Cox trả lời :
- Tôi hy vọng họ rất sợ những gì mà các nội tướng của họ nói ra.
Tôi cũng hỏi ông ta thế :
Ông Delamain nói :
- Tôi có hỏi là làm thế nào mà đàn bà Anh tất cả đều thích mặc áo quần tiêu chuẩn, từ một đến sáu hay tám kiểu mà thôi, và ông ta nói với tôi đó là điều cần thiết đối với tình hình kinh tế, phải thực hiện như thế.
Bà Marie đứng bên cạnh tôi, và muốn nổi xùng với ông Thủ tướng nhưng vì bà nói tiếng Pháp nên ông ta cũng chẳng hiểu gì và cũng may không có ai ở đó tự nguyện thông dịch những điều bà ta nói, nên chúng tôi vẫn còn là bạn tốt với nhau. Trong ý nghĩa của hành động, David nghĩ vậy.
Một chốc sau ông Thủ tướng nói:
- Ông Mckinnon đã báo cho tôi biết là Nữ hoàng đang bị cảm cúm nặng nên trông có vẻ mệt mỏi tuần vừa rồi. Tôi hy vọng khi Nữ hoàng đến, Nữ hoàng sẽ được nghỉ ngơi lâu dài. Tôi đã thảo luận với ngài Toàn quyền và tôi ngăn cản tất cả những đề nghị diện kiến Nữ hoàng. Ngài phải khánh thành chương trình thuỷ điện trên sông Clearwater và Bệnh viện mới xây ở Vancouver, chỉ hai cái ấy thôi, còn tất cả đều huỷ bỏ và tôi hy vọng ngài sẽ được nghỉ ngơi lâu dài ở Gatineau. Cuối thu ở Gatineau đẹp lắm và màu lá cây thích tuyệt vời trong năm, vì đấy là lúc trời có ít băng giá :
Ông ta dừng lại rồi nói tiếp :
- Nhưng ngài là người tràn đầy sinh lực. Tự thân ngài cũng thích những cuộc diện kiến. Nhưng lần này thì ngài phải nghỉ ngơi thôi Tôi mong là ngài cũng muốn nghỉ ngơi, thưa Thủ tướng :
Ông Cox nói
- Gần đây ngài gặp khó khăn rất nhiều.
Người Canada gốc Pháp liếc xéo Đại tá Cox nói:
- Có lẽ một ngày nào đây, sẽ xin nghênh đón ngài đến đây ở lại thậât lâu với chúng tôi.
Vào giữa buổi chiều, phi hành đoàn Ceres đã thoát ra khỏi sự hiếu khách để trở về phi trường sửa soạn cho chuyến bay hồi hương của chiếc Sugar. Tiếp liệu xăng và kiểm tra một tiếng rưởi, họ khóa máy bay và đến căn cứ của không lực Hoàng gia Canada để ăn sớm hơn và đi ngủ. Sáng hôm sau trở dậy và cất cánh vào lúc bốn giờ sáng trong lúc trời còn tối đen và bay lên cao độ ấn định. Một giờ rưỡi sau mặt trời mới ló dạng khi bay qua các mũi của đảo Belle ở giữa Newfoundland và Labrador và bắt đầu vượt Đại tây dương. Bay ngược với hướng mặt trời, họ phải mất năm giờ cho chuyến bay từ Ottawa đến White Waltham và hạ cánh ở phi trường quê nhà vào lúc hai giờ chiều.
David đem theo về từ Ottawa hai mươi cân thịt bi tết và hơn chục chai rượu vang đỏ, thật ra vào thời ấy, khó mà kiếm được ở Anh. Chàng lái xe về căn hộ nhỏ ở Maidenhead và ngần ngại một lúc không biết có nên gọi điện thoại cho Rosemary đề nghị nàng đi bằng tàu điện đến Maidenhead để chia phần hay không. Lưỡng lự vì sự cám dỗ, cuối cùng anh ta nấu thịt với rượu vang một mình, và bỏ lại cả buổi chiều để ngồi ôn lại những điều sẽ kể cho nàng nghe khi hai người gặp nhau lần tới ở Itchenor Một vài ngày sau đó, cuộc giám định đối với chiếc máy bay ấy xảy ra ở White Waltham. Đại tá Cox ra lệnh cho hai máy bay đậu song hành ngoài nhà chứa máy bay và phi hành đoàn phải sắp hàng ngnhiêm chỉnh trước mỗi chiếc. Đó là một buổi chiều nắng ráo. Phái đoàn Hoàng gia đến trong chiếc xe hơi Daimler lớn, có Nữ hoàng và Quận công cùng Hoàng tử xứ Oen. Đại tá Cox đi bên cạnh Nữ hoàng khi ngài chào toán dàn chào. Sau khi duyệt binh xong ngài nói:
- Đại tá cho họ tan hàng và đưa các sĩ quan đến trình diện tôi. Rồi cho phi hành đoàn của mỗi nước về máy của họ và bắt đầu thao tác trước mắt tôi.
David được trình diện sau Dewar và được Nữ hoàng bắt tay. Nữ hoàng người tầm thước, khá mập, nhưng còn đẹp, rất lưu tâm đến các chiếc máy bay mới, nếu không nói là thích thú. Nữ hoàng hỏi David có thích đời sống ở Anh không và anh trả lời là rất thích và Nữ hoàng cười bảo là trông đợi vào anh ấy rất nhiều. Sau đấy Nữ hoàng đi qua và nói chuyện với một sĩ quan khác còn David lại gặp Quận công, một người tóc hoa râm, đẹp trai, có tính hài hước, ông đã hỏi David nhận được huy chương không lực vì cái gì. David đã trả lời:
- Về bay thử nghiệm ở Laverton, thưa ngài.
Huy chương chung chung hay có gì đặc biệt?
David lưỡng lự:
- Tôi đã hạ cánh được, sau khi máy bay đã bị hư một bộ phận nhỏ :
Anh ta nói Hoàng tử xứ Oen đi bên cạnh Quận công nói lớn. Ông ta vào trạc ba mươi lăm, tóc vàng, đồng phục Thiếu tướng không quân Cái kia có phải là bum mê răng không?
David trả lời:
- Dạ phải.
Con nhớ ra rồi, thưa cha :
Hoàng tử nói :
- Trong lúc nhào lộn, đuôi lái đã rớt ra. Anh ấy đáp được chẳng cần đuôi lái Vị Quận công nói:
- Lúc ấy ắt hẳn cũng muốn nhảy dù ra lắm!
Không thể làm như thế được :
- David trả lời :
- Một chiếc tính đến cả triệu bảng Anh Vị Quận công cười:
- Họ có cho anh xu nào đâu!
Không, thưa ngài. Ngay cả người nộp thuế cũng không một lời cám ơn cho phải phép À, nhưng anh có được huy chương về vụ đó Vị Quận công lại tiếp tục thăm hỏi các sĩ quan khác. Hoàng tử đứng lại nói chuyện gẫu với David. Hoàng tử nói:
- Trông anh có vẻ quen lắm, hình như chúng ta đã gặp nhau đâu đó trong thế chiến Ơû Lingeyen, thưa ngài. Tôi ở lữ đoàn 147 thuộc không lực Hoàng gia Úc ở đấy Thôi tôi nhớ ra rồi! :
Hai người nói chuyện với nhau về cuộc chiến. Sau đó Hoàng tử nói :
- Mọi việc ở đây đều thực hiện tốt chứ?
Rất tốt, thưa ngài Mua sắm và vật liệu cung cấp thế nào?
Cũng được ạ! Lúc đầu cũng có vài khó khăn nhỏ nhưng Thiếu tá Macmahon đã giải quyết xong. Mọi việc bây giờ đã chạy đều.
Hoàng tử nói:
- Khi Nữ hoàng đi Canada tháng tới với cha tôi, Đại tá Cox cũng tháp tùng. Có lẽ anh cũng nhận trách nhiệm ở đây.
Thưa vâng :
- David trả lời Nếu có điều gì xảy ra bất ngờ mà anh cảm thấy không thể đảm trách, trong lúc Đại tá không đoàn trưởng đi xa :
- Hoàng tử nói tiếp :
- Tốt hơn anh nên điện thoại cho tôi hay đến gặp tôi cũng được.
Viên phi công chớp mắt ngạc nhiên:
- Thưa ngài, vâng :
Anh ta nói :
- Xin cảm ơn.
Phái đoàn Hoàng gia đi qua thăm chiếc máy bay của Canada, David ra lệnh cho phi hành đoàn của mình trở về chỗ cũ trong chiếc Tare. Anh ta đứng ở cửa thân máy bay chờ đợi, cũng phải hơn nửa giờ mới thấy Nữ hoàng ra khỏi chiếc Sugar. Anh ta đứng nghiêm và chào khi Nữ hoàng đi qua chiếc máy bay của Úc. Anh ta nói:
- Thưa Nữ hoàng, tôi nghĩ chiếc này cũng giống hệt chiếc kia thôi.
Nữ hoàng cười:
- Không sao. Tôi muốn thăm phi hành đoàn của anh. Như vậy càng làm cho chuyến đi của tôi đến Tharwa dễ dàng hơn nhiều. Giờ thì máy bay đẹp thế này không vào cũng uổng! Phải mất bao lâu mới đến, chỉ huy trưởng phi đoàn?
Thưa ngài, độ mười chín giờ bay :
Anh ta nói :
- Colombo là đúng nửa đường. Chúng ta phải đáp xuống đấy để tiếp thêm xăng. Cũng phải mất một tiếng đồng hồ.
Nữ hoàng lại hỏi:
- Chúng ta có thể bay đêm không?
Đi về hướng Đông, thời giờ thay đổi, làm cho đêm ngắn lại :
Anh ta nói :
- Nếu giờ giấc tùy ngài chọn, sau khi dùng tối, khởi hành ngay là tốt nhất, có lẽ lúc ấy là chín giờ đêm. Ngài có thể yên giấc trong tám tiếng trước khi đến Colombo, vào khoản trưa, giờ địa phương. Ngài có thể dùng trưa ở dưới đất và nếu như ngài muốn, chúng ta sẽ bay thẳng đến Canberra sau chín giờ bay nhưng như thế sẽ là rạng sáng ngay hôm sau Nữ hoàng nói:
- Mới nghe, hầu như gần suốt cả chuyến đi ta phải nằm giường trong phòng nhỏ của ta Thưa ngài, tôi đã nói đó là cách tốt nhất để ngài có thể đi được :
Anh ta nói :
- Trong máy bay này, phòng lái là nơi yên tịnh nhất và ngài cảm thấy thoải mái nửa Ta chắc thế
- Nữ hoàng trả lời và quay về phía phu quân :
- Cứ nằm yên hai mươi bốn giờ trên giường, cuối cùng cũng đến Tharwa. Chuyện khó tin nhưng có thật!
Hai người đi vào trong máy bay, vừa đi vừa cười với nhau. David đi theo Hoàng tử Charles. Thật ra, chiếc máy bay này là bản sao chụp của chiếc máy bay kia, nhưng phái đoàn cũng mất hai mươi phút trong đó để nói chuyện với phi hành đoàn. Nữ hoàng ở lại trong cabin khá lâu, để nói chuyện với nữ tiếp viên, một cô gái có tên là Gillian Foster ở vùng Sheppaton. David nghe tiếng Nữ hoàng nói với cô gái:
- Qua được một đêm ở đây, chắc cũng khó khăn lắm bé nhỉ ?
Ngài cứ an tâm, chúng con sẽ làm cho Ngài thoải mái thôi! :
Cô gái trả lời Cuộc kiểm tra xong, đoàn tùy tùng rời máy bay, nhưng hình như họ chẳng vội vã gì trở lại Hoàng cung. Nữ hoàng đứng với Quận công một lúc trên sân bay, đang nói chuyện với các sĩ quan. Ngài nói với David:
- Kể ra chỉ tốn hai mươi giờ mà đến được căn nhà yêu quí của chúng ta ở Tharwa, thì thật tuyệt vời và chẳng còn xa nửa!
Anh ta cũng tò mò hỏi lại Nữ hoàng:
- Ngài yêu Tharwa đến thế cơ à! Chúng tôi chẳng có màu sắc mùa thu như ở Canada, chẳng có núi non gì cả!
Ta biết
- Nữ hoàng nói :
- Nơi ấy của Úc có vẻ đẹp riêng. Ta chỉ tiếc là khi phải chia tay với Tharwa.
Cuối cùng tất cả lên chiếc Daimler và lái đi mất, đến lúc ấy hình như các sĩ quan mới miễn cưỡng tan hàng. Dewar quay về Đại tá Cox nói:
- Thế là êm xuôi :
Ông ta nói tiếp :
- Phái đoàn trông ra cũng thích chiếc máy bay này Không đoàn trưởng gật đầu:
- Tôi nghĩ là có lúc họ sẽ yêu cầu được đi một trong hai chiếc này. Tôi nghĩ là họ chỉ có mặt ở đây chừng mười phút thôi!
Nếu họ muốn, họ đi lúc nào mà chả được! :
- David nói :
- Tare phục vụ Nữ hoàng hàng ngày. Chúng ta có thể bay Tare :
Chàng dừng một chút rồi nói tiếp :
- Tôi không nghĩ là họ nhiệt tình đến như vậy. Còn chán chi loại máy bay khác dành cho họ.
Đại tá Cox nói:
- Họ cũng chỉ là người. Có những việc ở Úc hay ở Canada lại không phức tạp đối với họ. Giờ đây họ muốn đến đấy lúc nào mà chẳng được, mà chẳng làm phiền đến Huân tước Coles David lái xe về căn hộ của chàng chiều hôm ấy, thấy vui với công việc hơn là lúc mới bắt đầu. Có điều chàng thấy hơi lạ là sao Nữ hoàng lại nói là ngài thích Tharwa. Chàng cũng biết khu vực Hoàng cung toa. lạc tại Biên thùy Liên bang khi lái xe hơi qua đấy hoặc nhìn thấy được tự trên đồi bên sườn phía Tây của dãy Murrumbidgee cách đấy hai dặm. Vì tò mò chàng cũng đã quan sát hoàng cung với ống nhòm hành quân. Đó là một ngôi biệt thự trắng dài, nằm giữa miền đồng quê, trong lòng chảo của những ngọn đồi có rừng cây mọc, có những thảm cỏ chạy mãi tận con sông Murrumbidgee. Với mặc cảm tự ti của một người Uùc, anh ta không hiểu tại sao lại có người muốn đến Tharwa. Anh ta thật sự cảm thấy cảm động bởi lời phát biểu của Nữ hoàng rằng Tharwa có vẻ đẹp riêng của nó và cũng vì đấy là xứ sở của anh ta, và chính bản thân anh ta cũng thích sống ở đấy hơn bất cứ một người nào khác mặc dầu anh ta không biết trả lời làm sao.
Chiều hôm ấy David đã gọi đến căn hộ của Rosemary. Nàng nói:
- Chào chỉ huy trưởng. Hôm nay nhóm của anh thi hành công tác như thế nào?
Thực hiện tốt :
Chàng nói :
- Anh nghĩ là phái đoàn rất vừa ý Phải thế thôi Họ thật chu đáo :
Chàng nói tiếp :
- Anh thật sự xúc động Thế trước đây anh chưa bao giờ gặp họ à?
Chưa :
Chàng trả lời :
- Anh chỉ đọc trong báo thôi. Nhưng em không thể tin vào những thứ ấy Nhưng bây giờ thì anh tin rồi chứ! :
Nàng nói Đúng vậy. Tuần này em có xuống Itchenor không?
Nàng trả lời:
- Có chứ. Đêm thứ Sáu em sẽ xuống và ở lại trong câu lạc bộ. Anh cũng xuống nửa chứ?
Anh sẽ xuống và có lẽ vào Wootton và nằm ở đấy cho qua đêm thứ Sáu, và tiếp tục đến cảng Chichester vào sáng sớm thứ Bảy. Đúng ngọ, thuỷ triều lên phải không em?
Có lẽ vậy. Em sẽ đua thuyền vào buổi chiều :
Nàng nói :
- Anh vào đội thuyền của em đi!
Được thôi :
Chàng trả lời Em sẽ đến tìm anh vào buổi sáng đấy! :
Nàng nói :
- Anh có thể đến đậu thuyền ở đấy được.
Thì anh sẽ đậu đâu đó thôi. Từ Ottawa về anh có đem theo một ít thịt bi tết và rượu vang đỏ. Đêm thứ Bảy em ăn tối với anh nhé?
Em cũng biết là anh sẽ làm một cái gì đó khi đến Canada. Dĩ nhiên là em rất hân hạnh được ăn tối với anh. Chuyến bay thế nào?
Tốt. Các anh chỉ bay một chiếc thôi. Anh có nhiều chuyện muốn nói với em.
Thì chúng mình sẽ nói với nhau vào chiều thứ Bảy :
Nàng trả lời Anh ta đến cảng Chichester vào lúc mười giờ sáng thứ Bảy, sau khi đã đi qua đảo Wight từ rạng sáng. Ngay lối vào đầm nước rộng lớn ấy, chàng đã hạ buồm xuống và lái thuyền đi theo con kênh dài đến Itchenor, cách lối vào ba dặm. Chàng thấy Rosemary đang đẩy thuyền nhỏ ra khỏi bờ khi chàng tiến đến gần ngôi làng thì nàng đã chèo ra giữa dòng. Chàng đưa thuyền đến gần và đưa tay cho nàng nắm và kéo nàng lên thuyền chàng, kéo theo thuyền nàng sau lái Cách đây vài trăm mét có chỗ đậu, anh có thể đến đấy :
Nàng nói Nàng mặc áo quần đi thuyền, áo sơ mi mỏng, quần sọt, giày bố màu xanh. Nàng lau tay cho chàng khi hai người cùng kéo dây xích neo thuyền lại với nhau và chàng cũng nhận ra rằng sự cận kề bên nàng cũng làm chàng rung động. Nàng giúp chàng thu xếp buồm chính vào sào căng buồm và đưa thuyền vào cảng theo hướng gió. Rồi nàng lại chèo thuyền nhỏ của nàng đưa chàng lên bờ để bắt đầu một ngày đầy hạnh phúc.
Nàng chỉ cho chàng thuyền của nàng ngoài bãi biển và cả hai phăng theo dây, lội lên thuyền và một giờ sau họ đã giong thuyền theo những con kênh ở Itchenor và Bosham. Nàng để cho chàng tự lái thuyền lấy và tạo cơ hội cho chàng cầm lái trong cuộc đua thuyền chiều hôm nay, nhưng chàng từ chối lấy cớ là chưa quen thuyền và để nàng cầm lái tốt hơn và chàng thì chỉ phụ vào thôi. Chàng rót cho nàng ly xêri và cho chàng một ly cốc teo cà chua.
Nàng gật đầu:
- Các ngài chắc là thích lắm. Em nghe Nữ hoàng quanh đi quẩn lại cũng nói về chuyện ấy Nữ hoàng nói gì nào?
Cô gái cười:
- Dĩ nhiên là em không có ở đó. Em chỉ nghe lại qua ba bốn người truyền miệng. Bàn ra tán vào thế thôi anh David ạ! :
Nàng đưa cao chiếc ly lên và nói :
- Chúc cho chiếc Tare may mắn!
Anh không mấy tin vào may mắn :
Chàng cụng ly với nàng :
- Thứ tư tuần sau, anh sẽ bay thử nghiệm Tare, các anh sẽ không bao giờ bay quá một giờ rưỡi đâu, và cũng không bao giờ bay một trong hai chiếc trong điều kiện nhiệt đới. Dĩ nhiên, những nhà chế tạo cũng đã thử nghiệm trong điều kiện nhiệt đới ở mẫu gốc rồi. Nhưng theo anh nghĩ các anh phải xem lại một trong hai chiếc về chức năng của nó ở vùng nhiệt đới trước khi đem hành khách đi đây đó trên thế giới Nàng lại hỏi:
- Anh đi có xa không?
Các anh chỉ đi khỏi một đêm thôi :
Chàng nói :
- Anh sẽ đi xuống Gambia, đến Bathurst trên bờ bể phía tây của Phi Châu và ở lại đấy một đêm. Ngày hôm sau các anh theo hướng Đông bắc vượt qua Phi châu đến đảo Síp, bay vòng qua đấy mà không đáp, rồi trở về White Waltham. Chuyến bay ấy cũng mất chín giờ, đó là mức vận hành an toàn tối đa Nàng tò mò hỏi:
- Anh có nghĩ rằng đó là một chuyến du lịch thật sự vĩ đại không nhỉ?
Chàng lắc đầu:
- Bạn chỉ việc bay thôi. Thường thường bạn không thể thấy dưới đất vì bị mây che, mà dầu cho thấy đi nửa, thì với độ cao như thế, còn thấy rõ cái gì đâu! Bầu trời thì đen kịt mà mặt trời thì sáng chói, không thể thấy rõ được Thế có lúc buồn chán không?
Chàng lại lắc đầu:
- Đó là điều mình thích làm. Chán làm sao được!
Hai người bước xuống buồng lái nhỏ và bắt đầu chiên thịt với cái lò dầu và một ít khoai tây. Chàng nói:
- Ngày nào đó em đến được Úc, anh sẽ chỉ cho em cách nướng thịt bi tết.
Nàng cười:
- Cách nào?
Nướng trên lửa, đốt bằng cây bạch đàn. Rất nhanh em ạ! :
Chàng nói tiếp :
- Đó là cách nướng thịt nhanh nhất trên đời này và điều này chỉ có thể làm được ở Úc mà thôi. Cũng giống như kho thịt ở Canada.
Là gì vậy anh?
Em dùng giày trượt tuyết, lướt đi trong tuyết vào trong rừng, tìm đến một lều tranh, em sẽ gặp một ông già đang ngồi nấu nước đường bằng nhựa của cây thích Chàng kể cho nàng nghe tất cả mọi chuyện khi hai người ngồi nấu ăn tối, tuyết sáng, mặt trời sáng, ngọn lửa đốt bằng củi dưới chiếc soon bốc hơi và mùi thơm đặc biệt toa? ra. Chàng nói với nàng :
- Tất cả các nước đều có một lối thưởng thức riêng biệt, một hương vị riêng biệt mà không nước nào giống nước nào. Thịt nướng vỉ là của Úc, thịt kho ngọt bằng nhựa cây thích là của Canada Giờ này hai người cầm hai cái đĩa, ngồi xuống cạnh chiếc bàn nhỏ, cùng ăn với nhau. Aên bánh mì quệt mật và uống mỗi người một ly cà phê. Rồi trong căn phòng nhỏ ấm cúng và thân mật dưới ngọn đèn vừa đủ sáng, hai người cùng ngồi hút thuốc Hoàng tử có nói một điều mà anh chưa hiểu :
Chàng nói với nàng :
- Khi vào thăm chiếc máy bay, Hoàng tử nói nếu ông Cox đi xa, nếu có điều gì xảy ra ở White Waltham mà không thể giải quyết nổi, anh phải đến gặp Hoàng tử ngay. Em nghĩ sao về câu nói đó?
Nàng nhìn David cười:
- Thì đúng như lời Hoàng tử nói, anh Nigger ạ!
Nhưng việc gì mới được chứ?
Nàng trố mắt nhìn chàng:
- Hoàng tử có nói cho em biết đâu!
Chàng cười:
- Thôi được. Anh thua. Coi như hai cộng hai là bốn vậy! Anh tự lo được rồi!
Nàng nói:
- Em tin như thế. Anh không thể thực hiện đường bay xa từ Gambia qua đảo Síp rồi về lại White Waltham trừ phi anh hiểu rất rõ Nàng ở lại đến chín giờ rưỡi và rồi xuống thuyền nhỏ bơi vào bờ. David đứng nhìn nàng bơi trong ánh trăng sáng, suy nghĩ đến việc đua thuyền của nàng và điều hành công việc thành thạo ở văn phòng. Chàng cũng lên bờ ăn sáng với nàng và giúp nàng xếp cất chiếc thuyền nhỏ qua mùa đông. Rồi hai người cùng đi trên chiếc Nicolette xuống sông Hamble, đi qua những con kênh dài xuống cảng bằng buồm, lần này do Rosemary điều khiển, qua được cửa sông và đi thẳng ra biển, xuôi theo chiều gió nhẹ về nam. Suốt ngày hai người thay nhau lái chiếc thuyền buồm, kề cận bên nhau và cảm thấy hạnh phúc Khi vào dòng sông Hamble trở lại thì đã năm giờ. Họ hạ buồm xuống và lấy bạt đậy lại và cho thuyền chạy từ từ vào chỗ đậu. Sáu giờ kém mười lăm, họ lên bờ và đưa hành lí lên xe hơi nhỏ. Sau khi ăn qua loa ở quán Bugle trước bãi biển, David nói:
- Chúng ta chưa xem phim Judy Marsh đóng trong “ San hô đỏ”. Trước khi đi Canada chúng ta có nên đi xem không em?
Nàng lưỡng lự:
- Chúng ta đi lúc nào nhỉ? Đêm mai hay đêm thứ Sáu, em chịu thôi. Cuối tuần này em về nha.ø Anh lại phải bay thử nghiệm, công tác Gambia :
Suy nghĩ một lúc chàng nói tiếp :
- Có lẽ anh phải đi ngủ sớm các ngày thứ Ba, thứ Tư và có lẽ hơi mệt vào ngày thứ Năm.
Em nghĩ có lẽ tuần tới mới đi được chăng, nhưng cũng phải đến thứ Tư :
Nàng nói Thế ngày thứ Hai thì sao?
Thứ Hai có lẽ được. Anh nhớ gọi điện cho em vào Hoàng cung vào giờ ăn trưa nhé! Nếu công việc quá nhiều, em phải thanh toán cho xong, anh David ạ! Anh thông cảm cho em nhé!
Chàng nói:
- Dĩ nhiên rồi! Anh lấy vé xong là điện cho em vào tối thứ Hai.
Chàng lái xe đưa nàng về Luân Đôn và đổ xe ở phố Dover cho nàng xuống, nàng còn mặc quần Jean xanh chấm trắng và áo sơ mi xanh. Nàng mời chàng vào nhưng chàng từ chối, vì ngại hôm sau nàng phải đi làm nên cần ngủ. Chàng lái xe về Maidenhead, suốt đêm không ngủ được vì mãi nghĩ về Rosemary.
Tuần ấy Đại tá Cox chỉ huy và mang theo cả phi hành đoàn Úc làm khách đặc biệt. David bay trên chiếc Tare từ Luân Đôn đến Bathurst trong năm giờ. Tất cả bọn họ như thường lệ, ở lại trong căn cứ của không lực Hoàng gia qua đêm để tiếp thêm xăng nhớt và chở khóm về dùng cho gia đình. Họ cất cánh lúc rạng đông ngày hôm sau và bay đến đảo Síp độ năm tiếng rưởi, bay vòng qua Nicosia và hạ cánh tại phi trường nhà ở Anh vào giờ uống trà và chẳng có vấn đề gì đặc biệt đối với chiếc máy bay ấy cả.
Cuối tuần ấy chàng đi một mình trên chiếc Solent và cảm thấy cô đơn và lạnh lẽo. Rồi tối thứ Hai chàng cũng đón được Rosemary và tặng nàng hai trái khóm, dầu nàng từ chối lấy cớ là không có thì giờ để ăn hết trước khi đi Canada. Chàng phải nói giọng hờn dỗi:
- Em ráng mà ăn. Khóm ấy là anh mua cốt cho em thôi từ Bathurst anh mang về, không lí nào anh phải mang qua trả lại?
Hai người ăn tối trong câu lạc bộ không quân và lần này chẳng có công tác nào kín để hai người phải bàn cãi, nên bữa ăn tối rất thành công. Aên xong hai người đi xinê phim “San hô đỏ” do Judy Marsh thủ vai chính, lần này hai người ngồi sát bên nhau suốt hai tiếng đồng hồ. Ra khỏi rạp, David hỏi:
- Em không phải trở về nhà chứ? Thế thì chúng ta đi Dorchester nhảy đi em!
Thế là hai người lần đầu nhảy với nhau ở Dorchester, thích thú và cười mãi cho tới khi ban nhạc cử quốc thiều, họ mới sực tỉnh là đã hai giờ sáng. Chàng đưa nàng về trong chiếc xe hơi nhỏ, đến con hẻm nhỏ dẫn vào căn hộ trên phố Dover, chàng cho xe dừng lại. Ngồi với nhau trong xe một lúc, nàng miễn cưỡng nói:
- Tối nay em rất vui, anh David ạ! Chưa bao giờ em thấy vui như thế! Anh đã đem đến cho em sự an ủi này.
Chỉ tiếc là chúng ta đến với nhau chỉ được đến thế! :
Chàng nói :
- Thế Nữ hoàng sẽ ở lại Canada bao lâu?
Độ một tháng, anh ạ! :
Nàng trả lời :
- Em không biết chắc ngày nào thì em trở về, nhưng có lẽ trước hai mươi tháng Chạp vì Nữ hoàng sẽ có cuộc bệ kiến vào thời gian ấy. Không lâu đâu anh ạ!
Có lẽ anh sẽ đến Singapore hay Nairobi :
Giọng chàng buồn buồn :
- Hoàng tử muốn đi săn voi hay thú gì khác.
Nàng cười:
- Ông ta phải ở nhà và giữ gìn cung điện. Ông ta không được phép đi xa.
Chàng hỏi:
- Khi trở về, anh muốn mời em dùng bữa tối với anh. Đêm rãnh rỗi đầu tiên khi trở về, chắc em sẽ kể nhiều chuyện cho anh nghe.
Nàng trả lời:
- Em sẽ đi ăn với anh, anh Nigger ạ! Nhưng em không dám hứa là em sẽ kể hết cho anh nghe, hỡi người biết quá nhiều!
Chàng nói:
- Anh đâu bắt em phải kể những chuyện Nữ hoàng đã làm. Anh không thích tò mò như thế. Anh chỉ muốn biết em đã làm gì?
Nàng nói:
- Em có thể cho anh nghe bây giờ cũng được. Em ngồi ở văn phòng, đem thư xuống cho Thiếu tá Macmahon, đánh thư xong, để lên bàn trình kí. Mỗi ngày tám tiếng, nếu không nói là mười tiếng.
Thế ông ấy đã từng cho em nghỉ chưa?
Mỗi năm, em nghỉ được ba tuần :
Nàng trả lời :
- Thỉnh thoảng Thiếu tá Macmahon bị đau mật và như thế thường không có gì để làm. Đấy là ngoại lệ. Họ không tính vào ba tuần nghỉ của em.
Có lẽ ông ta sẽ bị tái phát khi đến Canada. Thức ăn của Canada đầy dầu mỡ và calori Em nghĩ là không đâu.
Ngồi gần nhau quá trong xe hơi nhỏ, chàng cảnh giác hỏi:
- Em dùng nước hoa loại gì vậy?
Bonne Nuit :
Nàng nói :
- Đó là tiếng Pháp có nghĩa là chúc ngủ ngon Hấp dẫn nhỉ :
Chàng nói. Nàng nhích ra gần cửa xe:
- Em không định ngồi đây để tán gẫu về mùi hương cho đến ba giờ sáng, mà sáng mai em phải đi xa rồi! :
Nàng nói :
- Nếu anh muốn, hãy chờ em về, chúng ta lại bàn chuyện ấy nửa Chàng bước ra, đi bao trên đầu xe, mở cửa đưa nàng ra, đứng trên lề đường. Hai người đứng với nhau trên con phố vắng dưới ánh trăng nhợt nhạt. Chàng nói:
- Anh hứa không bao giờ quên những gì xảy ra hôm nay.
Nàng nói:
- Em mong là anh sẽ kể cho em nghe nhiều hơn là em kể khi em trở về sau chuyến đi. Chàng nói:
- Sao em nỡ trả giá với anh như thế!
Nàng cười, nụ cười hơi ngượng ngập, bàn tay lóng ngóng tìm chìa khoá trong xách tay. Khi đã mở được cửa rồi, nàng còn đứng tần ngần ở lối vào. Nàng nói:
- Bảo trọng nghe anh Nigger. Và em cám ơn anh rất nhiều về buổi tối anh đã mang lại cho em.
Chàng cũng bình tĩnh nói:
- Anh còn phải cám ơn em nhiều nửa.
Nàng dừng lại một chút ở ngưỡng cửa rồi mới từ tốn đi vào nhà khép cửa lại Ngày thứ Tư Nữ hoàng đi Canada. Báo chí và phóng viên thời sự đã có mặt ở White Waltham từ sớm, chụp ảnh máy bay và phi hành đoàn Canada. Trong đám gia nhân nhỏ bé của Hoàng cung đến bằng nhiều xe hơi, có Rosemary khi đi qua máy bay nàng giơ tay vẫy David. Cuối cùng, lúc mười giờ chiếc xe hơi chở Nữ hoàng và Quận công đến, có hai xe hơi theo sau, một chở Hoàng tử và công nương xứ Oen và người con trai, chiếc khác chở công chúa đương triều với phu quân của nàng là Quận công Havant, với cháu nhỏ Anlexandra. Để vài phút cho hoàng gia chia tay, sau đấy Nữ hoàng bước lên ba bậc vào thân máy ba, theo sau có quận công được đại tá Cox hộ tống.
Dewar chờ ở cửa máy bay để chào đón phái đoàn. Trong buồng lái Johnie Clare, phi công phụ bậc nút cho xuất hiện lá cờ vương triều trên cần ăngten đúng lúc Nữ hoàng bước vào máy bay trong lúc máy quay phim và máy ảnh hoạt động bên ngoài. Cửa máy bay vừa đóng, máy bay đã di chuyển về phía trước theo đường băng chạy về cuối phi đạo. Chiếc Ceres đứng trên phi đạo, ăngten và cờ hạ xuống trong khoan máy bay, động cơ bắt đầu hoạt động và êm ái chạy nhanh, phun ra đàng sau những làn khói trắng dày đặc. Máy bay cất cánh thật nhanh, mũi của nó càng ngày càng lên cao và biến mất sau những đám mây về hướng bắc.
David ở lại chịu trách nhiệm trên phi trường. Anh ta hộ tống Hoàng tử và Công nương trở về xe hơi của họ và trả lời vài câu hỏi cho những quí tử. Sau đó họ lái xe về, bỏ lại chàng đối phó với các phóng viên, vì một số đã bị làm khó dễ vì nội qui đã nghiêm cấm. Mãi một giờ sau, chàng mới bỏ rơi được họ để trở về với tập quán ổn định của Phi đội Nữ hoàng, chờ đợi để nhận một công tác nào đó.
Tổng liên đoàn lao động ở quốc hội họp khoáng đại hội nghị thường niên tại Black pool vào cuối tuần tới đã làm anh suy nghĩ nhiều. Trong những năm qua, chuyện cũng bình thường, đối với những phần tử quá khích, trong tổng Liên đoàn Lao động ở Quốc hội, phản kháng quyết liệt đối với hiệu năng của Đạo luật Dân sự và Tổng chi tiêu của vương triều so với đất nước, một phương thức “xì hơi”, chẳng làm tổn thương cảm tình của ai trừ những nhân vật trong hoàng cung, vì họ chẳng có phiếu bầu để bị dồn vào thế thụ động nguy hiểm, nhưng rồi cũng chẳng tới đâu. Không nghi ngờ gì nửa về trường hợp ấy trong quá khứ. Sự gia tăng các cung điện vương triều ở Anh là một điển hình vì đó là một sự phung phí không đáng kể so với một đất nước không mấy giàu có. Nhưng do Bộ luật dân sự, từng cung điện một, từ cái ít quan trọng, đã bị loại ra, không được yểm trợ như trước nửa mà phải tự túc, như trường hợp lâu đài Sandringham, đầu não thường trực của Hội đồng điều phối liên hiệp Anh. Còn những cơ sở khác còn được lưu giữ vì được sử dụng làm văn phòng cho ngoại giao đoàn, không thể giảm thiểu được, và sự thật, những nơi này được đài thọ, không qua Bộ luật dân sự, là một vấn đề lịch sử, chứ không còn là chứng tích của sự phung phí của vương triều nửa.
Tuy nhiên, gậy nào mà chẳng để đánh chó, trong bao nhiêu năm qua có một tiểu ban của Tổng Liên đoàn Lao động ở Quốc hội đã nhai đi nhai lại vấn đề này. Năm nay một nốt nhạc mới lại được thêm vào giai điệu ấy. David Anderson mở tờ báo sáng hôm nay để đọc mục khôi hài và khám phá ra rằng một ông Andrew Duncan nào đấy thuộc lực lượng thợ thuyền đã viết một bài châm biếm về phi trường White Waltham. Phi trường này, theo lời tuyên bố của ông Duncan, gồm một ngàn hai trăm mẫu đất Anh, đó là tài sản của nhân dân Anh. Hiện tại đất này dành cho vương triều sử dụng, một năm không quá một hay hai lần, những phi trường khổng lồ như thế được duy trì ở đây một cách phí phạm với một mức chi tiêu quá lớn. Ông ta không biết đó là chi tiêu của ai. Vương triều đang sở hữu đất này với tham vọng ích kỷ, nhưng nếu đất này được giải thoát khỏi bàn tay độc tài và trả về cho nhân dân, dân chúng sẽ trồng trọt, sản xuất thực phẩm nuôi sống bốn trăm gia đình lao động. Bốn trăm gia đình, theo lời ông Duncan, sẽ chết đói. Tám trăm trẻ thiếu ăn, xanh xao, đang khóc than tội nghiệp, xin ruột bánh mì mà cũng không có, chỉ để cho những nhà quí tộc hư đốn này, cho những tàn dư của chế độ phong kiến lỗi thời, bạc nhược, còn in dấu trên những khuôn mặt của họ. Điều đó làm cho ông ta sôi máu, ông Duncan nói.
Và điều ấy cũng làm cho David giận sôi gan khi nghĩ đến hai ngàn con cừu bôi bẩn phi đạo và người ta phải kiên nhẫn lùa chúng về một phía trước khi máy bay của hoàng gia cất cánh hay đáp xuống phi đạo. White Waltham trong thế chiến thứ hai là một phi trường huấn luyện và đã được mở rộng cho mục đích hành quân và được Bộ không lực điều hành như là một phi trường dã chiến cho Bộ chỉ huy oanh tạc. David hiểu rằng Đại tá Cox đã nhận những chỉ thị đặc biệt từ Quận công về việc cho thú vật ăn cỏ trong phi trường; đàn cừu đã có quyền ưu tiên trên phi trường ấy và máy bay đến phải chạy cách xa chúng ở đàng sau.
Thật ra, máu đã sôi sục trên phi trường White Waltham, trước ngày phi trường trở thành đề tài tranh cãi chính trị trầm trọng. Không dưới bốn người đã đưa đề tài này ra tranh luận, càng quyết liệt càng có hiệu quả, gây đau buồn như thế họ nghĩ rằng vương triều sẽ mất mặt với nhân dân. Thủ tướng và Quốc vụ Khanh đặc trách hàng không, cả hai đều có mặt nhưng im hơi lặng tiếng không nói rõ vị trí thật sự của phi trường cho Quốc hội biết, có lẽ Quốc hội cũng chẳng biết gì về phi trường đó. Cuối cùng Huân tước Coles đứng dậy bảo đảm với Quốc hội rằng vấn đề ấy sẽ được xem xét và sau đấy sẽ có hành động thích hợp. Ông Thủ tướng thì chẳng nói gì!.
David ra khỏi nhà trọ, đi đến phi trường White Waltham, trên đường đi chàng mua tất cả những tờ báo chàng nhìn thấy. Tờ “Bưu điện” hằng ngày ở mục xã luận đầu tiên nói vòng vo rằng toàn bộ sự việc là do âm mưu của đảng Xã hội làm mất uy tín Hoàng gia, và tiết lộ sự thật rằng 744 con cừu mập ú đã được bán đi khỏi phi trường White Waltham năm vừa rồi, mỗi con cho mỗi trẻ em đói khổ của ông Duncan. Tờ “Thời báo” lấy làm tiếc về sự sử dụng của Vương triều cho những mục đích chính trị, và chẳng làm điều gì khác nửa. Tờ “Người đưa tin” hằng ngày nói rằng, bất cứ công trạng hay lỗi lầm nào của sân bay White Waltham, vẫn chưa hết thắc mắc là người dân lao động không thể trang trải những chi phí hằng năm của vương triều. Người viết nói tiếp, chỉ riêng cung St.James, là một di tích lịch sử, cũng cũng quá đủ cho việc tá túc của hoàng gia. Tất cả đền đài, miếu vũ, cung điện trong nước phải được đặt trong sự sử dụng có thù lao hay được bàn giao cho bộ công chánh để làm nhà ở vì cư xá của chính phủ đã quá tải.
Trong văn phòng David nghiền ngẫm những bài báo ấy với Dick Ryder, phi công phụ của chàng. Cuối cùng chàng nói:
- Họ chẳng ưa gì chúng ta đâu!.
Người thanh niên trẻ lắc đầu:
- Có vẻ họ muốn lôi chúng ta ra khỏi nơi này.
Anh ta nói tiếp:
- Thế anh nghĩ chúng ta sẽ đi đâu?.
Có trời mà biết. Đến một trong những sân bay của không lực Hoàng gia cũng nên.
Thế từ nay mọi chuyến bay phải xin phép không lực Hoàng gia, phải không anh?.
David nhìn anh ta Trên nguyên tắc, chúng ta phải thôi. Tuy họ cũng không thể chen lấn vào nội bộ của ta.
Ryder nói:
- Họ ghét chúng ta như hủi. Tôi tin là họ làm.
Nhưng không lực Hoàng gia không ganh tị chúng ta Huân tước Coles và Thủ tướng thì có. Không lực phải thi hành khi họ bị ra lệnh, nếu chúng ta đang ở trên phi trường của họ.
David ngồi trầm ngâm một lúc rồi nói:
- Tôi chẳng nghĩ về điều ấy. Thế sau cái ấy là gì nhỉ?.
Có thể có lắm chứ! Cho dẫu là cái gì đi nửa thì họ vẫn không thích chúng ta ở đây hoặc họ cố làm cho công việc phức tạp hơn.
David quay trở lại với những tờ báo và nói:
- Lạy chúa! Ở quê nhà, nếu ai đụng đến vương triều, đó là một việc làm thối tha!.
Dĩ nhiên là như vậy rồi!
Vị sĩ quan phụ tá nói:
- Nhưng họ không nghĩ như thế. Họ coi đó là vấn đề của Anh Quốc, chẳng phải là công việc của Uùc. Tôi không nghĩ rằng họ nghĩ đến chúng ta đâu khi họ quyết định những điều này.
David gật đầu:
- Chẳng hiểu sao họ lại làm như thế. Một nửa trong số họ chẳng biết nước Uùc ở đâu.
Anh ta mất cả buổi sáng để làm những công việc lặt vặt, vào khoảng trưa anh ta đi Luân Đôn, ghé lại văn phòng Đại tá Cox trong cung St.James để coi sóc công việc như của chính anh ta. Anh ta ăn trưa trong câu lạc bộ không quân, rồi đi bộ qua Pall Pall sau khi ăn trưa để đến hoàng cung và vào hai căn phòng nhỏ mở ra trên sân pháp đình Engine, anh ta bắt tay vào công việc văn thư với cô thư ký. Vào lúc ba giờ rưỡi, điện thoại reo, cô gái trả lời và trao máy cho David, đó là cô Porson từ trong cung.
Cô ta nói:
- Chào chỉ huy trưởng, tôi rất mừng là ông có mặt ở Luân Đôn, Hoàng tử xứ Oen muốn gặp ông chiều hôm nay.
Thưa cô mấy giờ ạ!.
Ông làm ơn đến văn phòng của tôi vào lúc bốn giờ năm. Tôi sẽ đưa ông vào gặp.
David đặt điện thoại xuống, ngạc nhiên sao chỉ có thế và tiếp tục công việc văn thư. Vào lúc bốn giờ năm phút, David đã có mặt ở hoàng cung, sạch sẽ tươm tất, đi theo cô Porson xuống hành lang. Cô ta đưa David vào nội sảnh và giới thiệu David với một cô gái đã ngồi đợi sẵn ở đấy.
Chắc ngài không giữ ông lâu đâu!.
David ngồi xuống trên một ghế dựa mạ vàng trong một căn phòng yên lặng, chờ đợi mười phút. Hai cánh cửa đôi trắng mở vào phòng làm việc của hoàng tử, từ đó David nghe có tiếng thì thào vẳng ra. Cuối cùng tay nắm hai cánh cửa động đậy, cửa mở hé rồi đóng lại liền. Rõ ràng cuộc nói chuyện đang còn tiếp tục, khi người khách sắp sửa trình diện.
Cuối cùng cửa mở hẳn, David nghe tiếng nói của Hoàng tử:
- Thôi xong rồi! Tôi đã nói rõ cho ông rồi, ông Jones. Nếu ông còn tiếp tục câu chuyện này, tôi sẽ thưa lại với mẹ tôi xây một đường băng mới trên đất tư của chúng tôi, đại công viên Windsor. Còn gì nửa không, tôi sẽ mời một nhà thầu Canađa đến đây để xây dựng.
David ngồi bất động, đăm đăm nhìn tấm thảm ở dưới chân khi Thủ tướng đi qua cách anh ta một mét. Cửa lại đóng, sau một phút, cô gái đứng lên và đi qua lớp cửa đôi vào phòng. Cô ta bước ra Ngài đang đợi. Ngài nhắc tôi đến hai lần, mời ông vào.
Cửa mở ngay và Hoàng tử xứ Oen xuất hiện. Ông ta nói:
- Anderson mời anh vào. Xin lỗi làm anh đợi.
David bước vào phòng, Hoàng tử đóng cửa. Ông ta mặc comlê xám, David nghĩ ông ta có vẻ mệt mỏi.
Hoàng tử quay về phía viên phi công:
- Tôi đã đến Ottawa, chỉ huy trưởng. Máy bay của anh cũng đi công tác được chứ?.
David hơi tự ái:
- Dĩ nhiên, thưa ngài. Ngài muốn đi lúc nào?.
Đêm nay được chăng?.
Ngài có thể đi trong khoảng một tiếng thì được. Vì chúng tôi không có thức ăn, nước uống trên phi cơ, nhưng lúc khác thì chúng tôi sẵn sàng.
Xăng đầy đủ chứ?
Thưa vâng.
Kiểm tra hằng ngày sao?.
Thưa vâng.
Tốt.
- Ông ta nhìn đồng hồ tay
- Nếu cất cánh sau khi ăn tối, tôi sẽ có mặt ở White Waltham chừng tám giờ rưỡi?.
Thưa ngài được
- Ông ta lưỡng lự và rồi nói
- Theo anh nghĩ phi hành đoàn có thể đi xa được bao lâu? Chỉ ngại về quân trang của họ mang theo.
Lâu lâu họ cũng có đi xa, thưa ngài.
Năm thì mười họa họ mới cần quân trang nhiệt đới.
Hoàng tử suy nghĩ một chốc rồi nói :
- Tôi cũng không biết nửa. Cứ cho họ đem theo đủ.
David đi ra ngoài và điện thoại cho phi công phụ của Ryder từ văn phòng của cô Porson và mọi cái đã được chuẩn bị. Cô Porson chịu trách nhiệm đồ ăn thức uống gửi xuống từ nhà bếp hoàng gia. David đi trở về văn phòng ở cung St. James và ở đấy gần một giờ đồng hồ, sau đấy lái xe về căn hộ Maidenhead, đỗ lại chớp nhoáng trong mười phút và có mặt ở phi trường White Waltham trước bảy giờ.
Anh ta có nhiều việc để làm, tuy đang là một người rất hạnh phúc. Từ Luân Đôn về phi trường, trên tay lái, anh như người đang mơ, lạ lùng vì cơ may hi hữu! Không phải vì công việc lần đầu tiên sắp thực hiện từ ngày gia nhập phi đội Nữ hoàng mà vì anh ta đang được đến gần Rosemary. Anh ta cảm thấy, anh ta là người may mắn và hiểu rằng đang giữ một phần nhỏ nhoi, không nghĩa lý trong vô vàn biến cố đang xoay vần trên thế gian. Một ngày nào đó, chuyến đi này của Hoàng tử xứ Oen thực hiện vội vã để tham khảo ý kiến của cha mẹ Ông ta sẽ chiếm một câu trong sử ký nước Anh và sau câu ấy, một nhân vật vô danh, chẳng ai thèm nhớ tới, đó là David Anderson. Thế cũng đủ cho anh ta rồi, nó làm cho công việc đáng làm hơn và kiểm chứng cho những tuần, những tháng chờ đợi trên sân bay, làm gián đoạn sự nghiệp của anh ta. Anh ta không chỉ đóng một vai trò khiêm nhường trong những vụ việc của thế giới mà còn tiến gần đến Rosemary, cô nàng mới ra đi chỉ được một tuần lễ. Rosemary mà chàng ít có hy vọng gặp lại sau ít nhất là một tháng.
Chàng vui sướng vì vận may của chàng.
Ơû sân bay chàng gặp Ryder. Chiếc Ceres đã sẵn sàng trên sân, đang nổ máy đều. Chàng cùng phi công phụ bước vào máy bay ngay và đứng ở buồng lái vài phút nhìn các kỹ sư cơ khí chếch lại lần chót, nhìn các hình vẽ bằng bút chì trên tấm giấy Can. Họ đang kiểm tra xăng trong bình, hệ thống thủy lực, họ đang kiểm tra rađiô và rađa, chuyên viên xem thử máy móc còn khả thi hay không? Rồi hai phi công rời máy bay trở về văn phòng, để xem xét về phi hành và chuẩn bị cho dự án bay.
Dick Ryder hỏi :
- Quân trang nhiệt đới là gì thế anh? Sau Ottawa chúng ta sẽ đi đâu?.
David trả lời :
- Tôi cũng không rõ. Tôi không nghĩ rằng họ lại biết rõ.
Chúng ta phải đem theo bản đồ nào?.
Đem nhiều hơn một chút đi!.
Chắc chúng ta không cần Nam Mỹ?
- Phi công phụ dừng lại một chút
- Nếu chúng ta mang đi hết, có lẽ cũng lên đến hai trăm ký đấy!.
David lưỡng lự:
- Đem toàn bô.
Anh ta nói
- Đem tất cả, kể cả rađiô và rađa nửa. Để lại đây cũng vô ích thôi. Không lẽ Dewar cần mà chúng ta không cần.
Thế chiếc Sugar giờ này đang ở Ottawa?.
David trả lời:
- Có lẽ thế. Trừ phi anh ta được cử đi chỗ khác cho một công tác mới.
Hai người bắt tay vào việc để chuẩn bị cho chuyến bay. Sau đó David lên máy điện thoại để kiểm tra khu vực và thông tin cho họ những chi tiết về chuyến bay. Anh ta cũng thông báo về cá nhân mình:
- Tôi là chỉ huy trưởng phi đội Anderson, thay thế cho không đoàn trưởng của Phi đội Nữ hoàng. Tôi không được biết việc đi của các bạn có công khai hay không nhưng theo tôi chúng ta nên tránh sự chú ý đối với chuyến bay này cho đến khi chúng ta đã ra đi. Chúng ta không muốn có các phóng viên tụ tập đông đảo ở sân bay đêm nay.
Sĩ quan kiểm soát nói:
- Chẳng có gì phổ biến đêm nay, thưa chỉ huy trưởng nên chuyên viên truyền tin đã về nhà lúc năm giờ. Nếu có ai cần điện đàm, tôi sẽ trì hoãn cho đến khi máy bay cất cánh.
Tốt
- David nói
- Khi lên phi đạo, tôi sẽ nói. Chuẩn bị cất cánh.
Đồ tiếp tế đến vào lúc tám giờ cùng với nam và nữ tiếp viên, họ đã bắt tay vào việc bằng cách chuyển các thùng đồ ăn và các bình giữ lạnh và rồi sửa soạn giường ngủ. Cuối cùng, đúng tám rưỡi, xe hơi chở Hoàng tử đến, một người hầu ngồi bên cạnh tài xế. David đi đến đón ông ta và đưa tay lên chào khi ông ta bước ra khỏi xe.
Thưa ngài, đã sẵn sàng, David nói Hoàng tử hỏi:
- Thời tiết thế nào?.
Tốt và hơi lạnh phía bên kia, thưa ngài. Lên cao độ hai mươi lăm ngàn bộ, sẽ không còn thấy lạnh nửa. Có lẽ có gió mạnh, năm mươi hoặc sáu mươi gút ở cao độ phi hành.
Cô gái phụ trách điện thoại đến gần, đứng cách mấy bước.
Hoàng tử hỏi:
- Giờ đến Ottawa theo dự kiến là nhiêu?.
Ba giờ mười lăm
Cơ trưởng trả lời
- Chừng mười giờ mười lăm giờ địa phương. Chúng ta sẽ mất vào khoản sáu giờ rưỡi.
Hoàng tử gật đầu:
- Khi nào anh liên lạc vô tuyến với Ottawa, nhớ cho tôi biết. Tôi muốn gửi đi một ít tin.
- Ông ta quay về phía cô gái
- Nữ hoàng cần gì?.
Cô gái phụ trách điện thoại tiến về phí David và nói:
- Tờ tin nhanh Bưu điện đang cần nói chuyện với ông trên máy, thưa chỉ huy trưởng.
Thế anh đã nói với họ những gì?
- Hoàng tử hỏi Chưa nói gì cả, thưa ngài. Tôi bảo với họ là chỉ huy trưởng Anderson đang bận một chút, yêu cầu ông ấy chốc nửa gọi lại.
Hoàng tử hơi nhăn mặt:
- Trước khi chúng ta lên máy bay bao lâu?.
Chúng ta đã sẵn sàng xuất phát, thưa ngài
- David lưỡng lư.
- Nếu ngài lên máy bay, tôi sẽ nói với họ vài điều :
Hoãn binh chi kế.
Được. Tốt hơn đừng nói là anh đưa tôi sang Ottawa nếu tránh được.
Ông ta quay lại và đi lên máy bay và David đi đến máy điện thoại. Có giọng nói đàn ông vang lên trong máy :
- Chào chỉ huy trưởng. Tôi biết ông sẽ thực hiện một chuyến bay đêm nay. Đi đâu vậy ông?.
David trả lời:
- À, tôi là sĩ quan thuộc hạ, ông cần gặp sĩ quan ngoại giao phải không? .
Tôi hy vọng là ông có thể bật mí cho tôi biết.
Không được đâu. Tuần rồi tôi đã bị cấp trên quở trách nặng nề vì cái tội nói ngoài nhiệm vụ. Ông nên liên lạc với vị sĩ quan truyền tin đặc trách.
Ông ấy ở đâu ạ?.
Tòa đại sứ Uùc, số máy phụ 643
- David còn bịa thêm
- Xin nói chuyện với ông Mollison. Có ông ta ở đấy, vì tôi mới nói chuyện với ông ấy xong. Ông ta sẽ nói cho ông rõ mọi việc.
Anh ta đặt ống nghe xuống. Cô gái trực điện thoại lại nói:
- Em phải nói gì khi anh ta lại hỏi nửa?.
Trả lời là tôi đang ở trên không, cô không thể trả lời câu hỏi nào hết. Cô tắt máy, đi về nhà, ngay khi chúng tôi đi rồi!.
Anh ta rời khỏi văn phòng, nói chuyện vài phút với đốc công của bộ phận mặt đất và rồi lên máy bay. Tiếp viên nam đóng cửa máy bay, khi David tiến vào buồng lái. Hoàng tử đang đứng ở cửa phòng của ông ta hỏi:
- Mọi chuyện êm xuôi rồi chứ?.
Tôi đã loại được hắn rồi, thưa ngài. Xin phép cất cánh nhé!.
Cơ trưởng cứ tự nhiện.
Cám ơn, ngài.
David bước tới, trượt vào ghế ngồi, điều chỉnh cho thích hợp và thắt dây an toàn. Anh ta gật đầu ra hiệu cho Ryder, và sĩ quan cơ khí bắt đầu cho nổ máy, họ từ từ tiến lên phi đạo, Ryder đang nói vô tuyến với đài kiểm soát khu vực.
Nửa giờ sau, họ bay xuyên qua mây vào trong ánh sáng trăng trong trẻo ở hai mươi ba ngàn bộ. Trước mắt họ đêm màu xanh thẳm và tĩnh lặng. David ngồi bất động khi máy bay đang theo đường bay lên, anh ta chợt tỉnh vì có ai sờ ở vai mình, đó là bàn tay của Hoàng tử.
Tôi ngồi xuống đây một chút có được không cơ trưởng?.
Ngài cứ tự nhiên Ryder ra khỏi ghế ngồi. David hỏi:
- Ngài có thích đến đây không?.
Thôi. Thế này được rồi!. Ông ta trượt vào chỗ ngồi của Ryder. Phi công phụ rút lui ngồi vào bàn của sĩ quan bản đồ và chuyên viên vô tuyến bắt đầu tìm kiếm một số phương hướng và vị trí trước mặt.
David mời thuốc Hoàng tử nhưng ông ta từ chối. Trong phòng lái của chiếc Ceres, im lặng hoàn toàn. Những đường nét mảnh mai và cấu trúc nặng nề của tấm kính chắn gió để chống cự lại với áp lực không khí luôn tìm khe hở để lọt vào, và bộ máy nằm xa ở phía sau. Họ ngồi trong ánh sáng mờ của dụng cụ, nhìn màn đêm xanh đầy sao trước mặt họ, không nói gì, và cây kim chỉ độ cao chạy vòng vòng trên mặt đồng hồ. Hoàng tử ngồi nhìn đăm đăm vào bóng đêm trước mặt, mải mê suy nghĩ. David để tay lái tự động cho máy bay tự điều khiển, ngồi thư giãn, nhìn những cây kim di động trên mặt đồng hồ bay ở trước mặt.
Ngay lúc ấy, David quay người ra sau nói với Ryder ở bàn sĩ quan bản đồ, vị sĩ quan cơ phó đến đứng ở giữa sĩ quan cơ khí và anh ta. Hai người không cho máy bay lên cao nửa, đứng ở đấy vài phút để chỉnh núm tốc độ tăng dần, cho đến khi tiếng máy đều đều phát ra mới thôi. Hoàng tử nhìn công việc xảy ra và hỏi một vài câu, sau đó Ryder và sĩ quan cơ khí rút lui và trong buồng lái lại im lặng trở lại.
Lúc ấy Hoàng tử mới hỏi David:
- Đây là chuyến công tác đầu tiên ở Anh phải không, Anderson?.
Thưa phải
- Anh ta trả lời
- Tôi chưa bao giờ đóng quân ở Anh trước đây.
Anh đã phục vụ trong không lực hoàng gia Uùc cho đến bây giờ, phải không?.
Thưa vâng. Tôi vào tập sự khi còn mới mười lăm tuổi. Phục vụ được sáu năm, tôi mới nhận được quân hàm.
Và cũng từ đấy anh chỉ việc bay mà thôi?.
Đúng vậy, thưa ngài.
Cũng giỏi đấy!.
Rồi Hoàng tử nói tiếp:
- Nếu tôi được may mắn, tôi đã làm như anh rồi! Vào không lực hoàng gia và cố gắng thành công trong binh nghiệp anh có được nhẫn vì anh đã làm lụng khó nhọc, chứ không phải vì anh là kẻ thừa kế của ngai vàng
- Quay về phía David ông ta nói
- Cũng có người sinh ra may mắn.
Chàng phi công cười:
- Tôi sinh ra đâu có may mắn. Tôi sinh ra ở dưới rảnh, vì mẹ tôi là cô gái lai. Họ đã kể cho ngài nghe rồi!.
Họ có kể cho tôi nghe. Nhưng tôi vẫn nói là anh may mắn. Anh có thể chọn lựa cho cuộc đời anh. Anh muốn nó như thế nào là tùy ở anh.
Thưa ngài, vâng.
Họ tiếp tục bay trong yên lặng độ mười lăm phút, mắt đăm đăm nhìn vào bầu trời xanh đầy sao. Giờ này thì Hoàng tử đã rời khỏi ghế ngồi của phi công phụ, cám ơn David và đi trở về phòng riêng của mình.
Ba giờ sau khi cất cánh, họ đã ở về phía nam của mỏm Farewell và một giờ sau đã cách đảo Belle và cực bắc của đảo Newfoundland. Vô tuyến từ Ottawa bắt đầu hiện rõ và trong trẻo. David nhờ Ryder trình với Hoàng tử là đã nhận được tín hiệu để Hoàng tử sẵn sàng truyền đi. Nữ tiếp viên đem đến cho David một khay đồ ăn tối trong buồng lái và chàng dùng bữa ngay trên tay lái trong lúc chiếc Ceres tiếp tục bay qua đêm tối đến Canađa. Khi qua khỏi đảo Belle, cô tiếp viên đến nhận lại khay đồ ăn và chàng trao tay lái cho Ryder và đi lại một chút trong phi cơ. Bốn mươi phút sau, chàng bắt đầu cho máy bay chậm lại khi qua miền Anticosti. Họ bay qua Quebec ở độ cao hai mươi lăm ngàn bộ dưới bầu trời trong và nhìn thấy thành phố như một đám dây đèn nhỏ xíu trên mặt đất đen bằng nhung. Và đến lượt Ottawa, đang nói quan vô tuyến để kiểm soát, họ bay một nửa vòng trên phi trường và bắt đầu hạ cánh trên phi đạo có hai dãy đèn, sáu giờ bốn mươi phút sau khi rời khỏi phi trường White Waltham.
Họ cho Tare chạy trên đường băng vào sân và cúp máy. David rời ghế, đi liền sau Hoàng tử, ông ta quay lại cám ơn chàng về chuyến bay trước khi rời máy bay. David nói :
- Xin lỗi ngài, chúng ta đến hơi trễ. Chúng ta hơi mất thời gian sau khi bay qua đảo Belle. Không khí lạnh ở miền Bắc tràn về nhưng chúng tôi không được thông báo trước.
Tốt rồi, chỉ huy trưởng. Một chuyến bay tuyệt vời!.
David theo chân ông ta đến phi trường. Frank Cox và Dewar đều có mặt ở đó, xe hơi đang đợi Hoàng tử và người hầu cận. Khi họ đi khỏi, Frank Cox nói:
- Chuyến đi bình an chứ?.
Rất bình an. Sắp đến, sao đây?.
Hãy đợi ở đây một hai ngày sẽ có lệnh. Tôi đã lo chỗ ở cho anh với không lực Hoàng gia Canađa nửa.
Họ chuẩn bị đưa chiếc máy bay đến chỗ đậu và qua đêm dưới sự bảo vệ của Trung đoàn không lực hoàng gia Canađa. Một giờ sau, David đi ngủ, có Dewar tán gẩu với chàng ở cửa buồng, trong khi chàng cởi giày.
Chàng Uùc nói:
- Vào đi và đóng cửa lại một chút.
Chàng Canađa làm theo :
- Tất cả những điều này để yểm trợ cho cái gì, anh biết không?.
Tôi không biết gì cả. Nghe đâu Đại hội Công đoàn và White Waltham :
Được phời bày trắng trợn trên tất cả các báo ở đây
- Anh ta dừng một chút rồi nói tiếp
- Người dân ở đây đã đụng đến mái nhà. Chuyện xảy ra chỉ một ngày sau khi chúng tôi đến đây, và họ đã có những trang báo đầy hình ảnh của Nữ hoàng, chiếc máy bay, tôi và Johnny. Máy bay riêng của Canađa dành cho Phi đội Nữ hoàng và Nữ hoàng đã đến trong phi cơ ấy. Anh biết tại sao không?
Vị sĩ quan Uùc gật đầu:
- Và rồi, một ngày rất gần đây, sự mắng nhiếc độc địa về cái phi trường của chúng ta chỉ làm cho nước Anh thối tha thêm. Tôi đang giữ một vài tờ báo ấy và sẽ đưa cho anh xem. Tôi để trong phòng của tôi.
David nói:
- Tôi cho đó là điều dĩ nhiên :
- Tôi hiểu vì sao báo của chúng ta lại cứ tiếp tục phát hành. Một điều tôi muốn nói về chính quyền Pommies. Họ kiểm soát được báo chí, dù nhiều dù ít.
- Thế vị trí thật sự của chúng ta là gì?
- Người sĩ quan Canada hỏi
- Họ muốn đá chúng ta đi sao?.
David trả lời:
- Tôi chẳng biết nói sao. Tôi chưa nghe một điều gì cả, trừ những điều trên báo!.
Thật ra để thử Dewar hay gặng hỏi một ít tin tức thì cũng đúng thôi, nhưng anh ta không dự định trước, để phải thiếu cân nhắc trong lời nói.
Chỉ huy trưởng Dewar gật đầu:
- Anh phải để ý từng bước đi một với bọn phóng viên
- Ông ta nói
- Sáng hôm nay họ ùa tới tôi xem thử tôi có biết điều gì mới mẻ chăng. Nghĩ lại tôi thấy còn ghê cả người!
David gật đầu:
- Tôi sẽ thông báo cho phi hành đoàn
- Anh ta dừng lại một chút
- Giá mà có một loại chính trị gia khá hơn ở quê nhà, thì điều này sẽ không bao giờ xảy đến.
Dewar nói:
- Đúng ra họ phải có những quan niệm hiện tại đối với nền dân chủ pháp trị. Họ đang còn sống trong thế kỷ thứ mười tám!.
David để đôi giày ở ngoài cửa cho người làm tạp dịch Canađa gốc Pháp và vắt cái áo choàng trên ghế:
- Tôi sẽ phản đối cho đến chết tất cả các chuyện chính trị. Ông Macmahon làm việc ở đâu? Ơû Gatineau chăng?.
Chàng Canada lắc đầu:
- Ông ta đang sống ở lâu đài Laurier, có hai đứa con gái ở đó nửa. Tuy vậy, phần lớn thời gian ông đều ở Gatineau. Ông ta có văn phòng làm việc ở chi nhánh Rideau Hall. Anh có thể điện thoại đến đấy, tư gia của Toàn quyền đấy!.
Tôi nghĩ là anh ta vẫn ở đấy trong lúc sự việc chẳng ra gì đang xảy ra.
Vị sĩ quan Canađa bỏ đi, David vào giường ngủ, sau khi đã nắm chắc một số tin tức mà chàng cần thiết. Tuy mệt mỏi vì trách nhiệm lo cho chuyến bay, chàng ngủ liền, tuy không quên để đồng hồ báo thức vào bảy giờ rưỡi để nói chuyện qua điện thoại với Rosemary trong khách sạn.
- Xin lỗi vì gọi hơi sớm
Chàng nói
- Anh nghĩ nên thong thả gặp em thôi. Sao Canađa có đáng yêu không?.
Nàng trả lời:
- Tuyệt vời. Em chưa thăm Edmonton được nhiều nhưng Vancouver thì đáng yêu lắm. Anh Dewar có tổ chức dạ vũ, có đi xuyên qua đảo một ngày, lái xe lên núi và cắm trại cạnh hồ.
Anh chưa đến đảo
- David nói
- Anh chỉ bay qua hai ba lần gì đó. Trông cũng đẹp.
Anh ta nói tiếp:
- Bọn anh mới đến đây đêm qua. Em dùng tối với anh tối nay được chăng?.
Nàng nói:
- Còn gì bằng, anh Nigger. Em không biết chúng mình có thực hiện được không. Ngày hôm qua em bận suốt ngày, mãi đến chín giờ tối em mới về được. Sợ một ngày hôm nay nửa bận thì khổ! Còn anh, đêm nay có đến được đây chăng?.
- Anh chưa dám chắc!
- Chàng trả lời
- Các anh đang đợi lệnh. Việc trước tiên sáng hôm nay là tiếp liệu xăng nhớt và kiểm tra máy bay, sau đó chờ lệnh.
Nàng nói :
- Em ngại anh sẽ không ở lại được mà phải trở về Luân đôn. Em cũng chưa biết chắc điều gì cả. Cũng phải đợi đến sáu, bảy giờ sáng hôm nay.
- Nếu anh bị bắt buộc phải trở về Anh, chúng ta đành hủy cuộc hẹn
- Chàng nói
- Còn nếu không, chúng ta sẽ ăn tối ở đâu, lúc mấy giờ?.
Nàng hỏi:
- Nếu ăn ở đây khá muộn có trở ngại gì không? Chừng tám giờ có được không anh? Nếu một ngày giống như hôm qua, em không nghĩ là em có thể đi đâu được cả để tìm một nơi mà thay áo quần. Anh có buồn lòng không?.
Dĩ nhiên là không! Rosemary, nếu em bị một ngày như thế, nhớ điện thoại cho anh vào lúc sáu giờ, chúng ta hủy đi thôi, để cho em có thì giờ về mà ngủ nhé!.
Không được đâu anh ạ! Thì em chỉ việc bắt chước ông già Jorrocks, vừa ăn vừa ngủ. Em thích gặp anh và nghe những lời anh nói.
David trả lời:
- Không nhiều đâu! Anh sẽ có mặt ở khách sạn lúc tám giờ. Bảo trọng em nhé!
Chào anh. Hẹn gặp anh đêm nay trừ phi anh có lệnh trở về!.
Chàng cúp máy và vào phòng ăn sĩ quan để ăn sáng. Vào lúc mười giờ rưỡi, việc tiếp tế xăng và kiểm tra máy bay đã xong, David cho đoàn phi hành giải tán và thông báo với họ rằng không được rời trại cho đến khi có lệnh mới. Frank Cox, trước khi dùng trưa, có đến gặp và David đã báo cáo với ông ta:
- Chúng tôi đã sẵn sàng. Có lệnh gì thêm không, Đại tá?.
Cứ chuẩn bi.
- Chỉ huy trưởng không đoàn nói
- Sau ăn trưa, tôi sẽ đi Gatineau một lần nửa. Họ đang họp cấp cao ở đấy. Không người này thì người khác sẽ trở về đêm nay thôi.
Sĩ quan phi công nói :
- Nếu ở lại đây chờ lệnh đêm nay, tôi có hẹn ăn tối với một người ở Chateau Laurier. Có được không, nếu tôi thường xuyên liên lạc bằng điện thoại ở đấy?.
Tạm thời là vậy. Ryder nên ở lại đây trong phòng ăn sĩ quan, nếu anh đi vắng.
Họ ăn trưa với nhau trong phòng ăn sĩ quan, sau đó Frank Cox lên xe hơi đi và David chẳng biết làm gì buổi chiều, nằm lăn ra giường. Anh ta mườn tượng một chuyến bay trở về Anh quốc tối nay, mặc dầu anh chưa nhận được lệnh nào hết. Hình như Hoàng tử xứ Oen không được vắng mặt Anh quốc quá một ngày trong lúc Nữ hoàng đi vắng. David cảm thấy rằng, nếu hành động có lương tâm, là phải nhận chỉ thị rất nhanh để đưa Hoàng tử trở về ngay đêm ấy, và vì tiên liệu như vậy nên chàng phải ngủ bù. Cởi áo choàng và giày ra, chàng để đồng hồ báo thức vào lúc sáu giờ, trùm chăn kín và mười phút sau là chàng ngủ.
Chàng thức dậy lúc năm giờ vì Dewar vào phòng rất gấp và nói với chàng điều gì đó nên chàng ngồi dậy nói:
- Được thôi. Anh đã nói cho Ryder biết chưa? Chúng tôi cất cánh lúc mấy giờ?.
- Chúng tôi đâu phải các anh
- Dewar phản đối
- Tôi sẽ chở ông ta trên chiếc Sugar.
Ai vậy?.
Tỉnh chưa, ông bạn tếu! Tôi chở Hoàng tử trở về Anh quốc trên chiếc Sugar. Chúng tôi sẽ cất cánh lúc sáu giờ rưỡi.
Thế à, còn tôi thì sao?.
Tôi đâu biết. Cứ theo ý bề trên mà làm. Ngày mai ba má của Mollie từ Toronto lên đây mới khổ chứ!.
David nói:
- Tôi có thể đi thế cho anh chuyến này. Tôi có thể bay đêm nay.
Không có gì đâu, anh bạn. Tôi đã nói với Đại tá Cox rồi, nhưng có nhiều chuyện khác nửa, không phải như thế đâu. Họ đã sắp đặt mọi chuyện cho anh rồi. Tôi đã gửi một cái điện cho gia đình Mollie báo là đừng lên nửa.
Tôi chẳng biết họ đã sắp xếp cho tôi như thế nào!.
Không rõ nửa.
Anh ta đi ra khỏi phòng, hấp tấp và bận rộn sửa soạn cho chuyến bay của anh ta. Còn David thức dậy, ăn mặc cẩn thận, anh ta chờ đợi một cơ may là sẽ được cho phép giữ cuộc hẹn ăn tối với Rosemary, mặc dầu viễn ảnh có vẻ mờ nhạt. Chiều thu trời hơi lạnh, anh ta choàng chiếc áo ấm vào và bước ra đường băng ở đó chiếc Sugar đang nổ máy trong bóng tối.
Hầu hết đoàn phi hành của Tare đã có mặt ở đấy để giúp cho chiếc Sugar sẵn sàng bay. Trong nhiều tháng qua phi hành đoàn hai nước đã làm việc bên nhau trong nhà chứa máy bay ở White Waltham và mặc dầu mỗi nước đều lo cho chiếc máy bay của nước mình nhưng lòng trung thành với phi đội Nữ hoàng không bao giờ thay đổi. Frank Cox đến sau David một chút và David đưa ra vấn đề bản đồ với ông ta và Dewar.
Tôi đã đem sẵn một đống bản đồ trên máy bay Tare. Chúng tôi mang tất cả phòng khi dùng ở khắp nơi :
Bản đồ, vô tuyến, rađa. Anh cần chúng tôi chia cho?.
Chỉ huy trưởng không đoàn quay về phía sĩ quan Canađa Anh đã sắp đặt thế nào cho chuyến hồi hương?.
- Tôi đã có mọi thứ tôi cần cho chuyến bay Vancouver và White Waltham
- Vị sĩ quan Canađa nói
- Tôi chẳng cần gì khác.
Frank Cox suy nghĩ một lúc rồi nói :
- Anh hãy để lô bản đồ ấy lại cho Tare. Nếu có nhận công tác nào ngoài Canađa, anh sẽ thu gom ở không lực hoàng gia ở Luân đôn.
- Thưa vâng
- Dewar nói
- Đại tá không về với chúng tôi sao?.
- Không. Tôi sẽ ở lại đây, hay có thể đi với Tare.
Dewar bỏ đi ra máy bay, còn lại David hỏi Đã biết ai sẽ đi với chúng mình chưa.
- Chưa
- Không đoàn trưởng trả lời
- Họ đang còn bàn cãi ở Gatineau. Có lẽ sẽ có quyết định trong đêm nay.
Sĩ quan Uùc nói :
- Tôi ở lại đây cho đến khi nào Dewar bay. Sau đấy cuộc hẹn ăn tối của tôi ở Chateau Laurier có suông sẻ không? Tôi luôn luôn chờ điện thoại ở đấy.
Được thôi mà
Ông Cox trả lời
- Rồi tôi cũng có mặt ở đấy với anh Macmahon.
Trong đêm tối, chiếc Sugar được chiếc máy kéo kéo ra đường băng để khởi hành. Các sĩ quan đứng tụm thành nhóm nhỏ chờ quan khách lên máy bay. Đúng sáu giờ rưỡi, Hoàng tử và người hầu đến, sĩ quan nghiêm chào, ông có nói và lời, rồi bước lên máy bay, theo sau là Dewar. Cửa đóng, máy chuyển động và máy bay chạy thẳng ra phi đạo. Cox và David đứng nhìn máy bay cất cánh, lượng vòng và trực chỉ phương đông.
Tám giờ kém năm David thuê xe đến khách sạn. Chàng xuống xe tắcxi và đến bàn tiếp tân hỏi thăm Cô Long. Người tiếp tân nói:
- Cô ấy bảo mời ông lên phòng 23 lầu hai.
David lên thang máy và tìm thấy cửa phòng. Rosemary mở cửa cho chàng và đưa chàng vào phòng khách. Má nàng hơi ửng hồng, rõ ràng là nàng có vẻ mệt mỏi nhưng vẫn đẹp, David thầm nghĩ.
Chàng nói:
- Trời, em có phòng riêng ngon lành quá!.
Nàng cười:
- Đâu phải của em, của Thiếu tá Macmahon đấy, nhưng đêm nay Thiếu tá đi dùng tối với Nữ hoàng ở Gatineau.
Nàng lưỡng lự một chút rồi nói tiếp:
- Có rất nhiều phóng viên ở đây và họ sẽ làm khổ chúng ta đấy, nếu chúng ta ăn tối ở nơi công cộng như thế này, nên em đã xin phép ông ta được ăn tối trong phòng này. Anh nghĩ sao?.
- Còn nghĩ sao nửa
- Chàng trả lời, vừa cởi áo choàng ra
- Anh không ở lại đây lâu đâu. Anh biết em còn mệt nhiều!.
Nàng cười:
- Em có sao đâu. Bị nhốt trong văn phòng mãi em cũng xuống tinh thần lắm. Chiều qua em phải ra ngoài đi bộ cả nửa tiếng đồng hồ, nhưng có một nữ phóng viên cứ lẻo đẽo theo em hoài, có lẽ làm cho tờ Daily Sun. Em phải bỏ rơi chị ta và trở về. Chắc họ cũng đoán chừng có cái gì đó, nhưng không biết là gì?.
Chàng lại hỏi:
- Hôm nay em không đi ra ngoài, phải không?
Nàng lắc đầu:
- Em chưa đi.
- Chẳng cần nửa. Em gọi cái gì uống rồi nói chuyện thuyền bè với nhau
Chàng nói.
Nàng nhìn chàng cười và nhấn chuông, tức thì nước xêri và cốcteo cà chua mang đến và sau đó là bữa ăn tối. Hai người cố tình nói chuyện về thuyền bè nhưng áp lực của những sự kiện lớn đang xảy ra, thôi thúc họ.
Nàng bắt đầu nói:
- Anh đã nghe điều gì về sự chỉ trích ở Anh chưa, anh David?.
Chàng cười:
- Chẳng có gì ngoài những lời trong báo. Chúng ta không được ngồi lê đôi mách trong một căn phòng của kẻ thuộc cấp như thế này.
Nàng cười:
- Anh này quỷ thật! Anh muốn nhạo em đó sao!
- Sao không?
Chàng cười nói
- Anh được thầy dạy kỹ mục này rồi! Nhưng anh đâu thấy báo chí ở đây nói gì! Em có thể kể cho anh nghe điều gì đã xảy ra tuần này mà không cần cà kê dê ngỗng!.
- Chiều hôm nay em đã đánh máy, một thông cáo :
Ba bản dự thảo và cuối cùng là bản chính cô nàng nói cái này được phân phối cho báo chí ngay từ giờ. Em sẽ nói cho anh biết những gì trong đó.
Những gì?.
Nàng nói:
- Nữ hoàng muốn nhân cơ hội đang cư trú tại Canađa để bàn định công chuyện về Liên hiệp Anh với ngài Toàn quyền, Thủ tướng, Lãnh đạo phe đối lập, và các nhà ngoại giao lão thành khác của Liên bang và của chính quyền tỉnh. Cuộc bàn thảo này sẽ được tiếp tục như là một dịp may trình diện với các nước khác trong Liên hiệp Anh.
Như vậy có ý nghĩa gì?
- David hỏi Em không hiểu, anh Nigger ạ!
- Nàng trả lời
- Giá mà em hiểu được!
Anh có thể nói cho em biết qua sự đoán mò vậy thôi Thế anh đoán gì nào?
Họ thảo luận họ sẽ làm cái quái gì với nước Anh đây Nàng ngồi trầm ngâm một phút, nhìn chăm chăm vào chiếc khăn trải bàn, sau đó ngẩng đầu lên nói:
- Có lẽ anh nói đúng, Nigger. Nhưng em là một phụ nữ Anh, và Nữ hoàng cũng vậy. Em không muốn nghe những sự việc như thế biến thành lời. Và em nghĩ Nữ hoàng cũng không muốn vậy.
- Anh xin lỗi em, Rosemary. Anh chỉ là một tên thuộc địa dở hơi. Hãy quên điều đó đi.
- Em không thể quên được
Giọng nàng không mấy vui
- Em không thể quên được vì đó là sự thật. Chỉ có điều, em không muốn nghe điều đó được nói ra.
Hai người ăn xong và ra khỏi bàn. Nàng bấm chuông, người bồi bàn Canađa gốc Pháp đến dọn sạch. Khi sắp sửa đi, David nói :
- Anh cứ ngỡ là đang còn sớm, Rosemary. Anh về rồi, em có đi ngủ liền chăng?.
Nàng nói:
- Ở lại với em đến mười giờ đi anh! Em chưa đi ngủ trước khi thiếu tá Macmahon trở về vì em đã hứa ở lại canh chừng điện thoại. Ông ta nói sẽ trở về vào lúc mười giờ.
Hai người ngồi xuống trong ghế bành trong hơi ấm của lò sưởi điện trước lò sưởi chỉ để trang trí. :
- Chơi một trò chơi gì đi anh. Tránh đừng suy nghĩ đến điều đáng ghét ấy. Anh biết chơi gì nào?.
Em không có bài, không có cờ vua, cơ đam gì cả sao?
Nàng lắc đầu. Chàng cười, sau một lúc suy nghĩ, chàng nói:
- Giả sử em nhuốm bệnh, không nặng lắm, nhưng đủ để người ta cho em thôi việc ở Hoàng cung. Mà em cũng không thể kiếm một công việc thực sự khác nửa, vì sức khỏe kém. Và khi ấy, giả sử có người để lại cho em năm ngàn bảng một năm. Lúc ấy em sẽ làm gì? Em hãy nói trước rồi anh sẽ nói cho em nghe anh sẽ làm gì?.
Nàng cười:
- Ý anh muốn nói, em chỉ khỏe vừa đủ để làm một cái gì em muốn nhưng bệnh quá nên không làm được gì cả.
Đúng rồi!
Những cơn bệnh dễ thương nào mà mình thường nghĩ đến.
Phải
Chàng trả lời
- Em sẽ làm gì nào?
Nàng suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Em tin là em sẽ mua một chiếc thuyền như chiếc của anh. Chiếc năm tấn, đủ lớn để cho một người sống thoải mái hay lúc cần thiết cho hai người cũng được. Em có một mái nhà tranh, có hai phòng ngủ, một phòng khách và một nhà bếp nhìn ra biển cả. Đâu đó gần Yarmouth trên đảo Wight.
Và chỉ sống ở đấy và đi thuyền thôi sao?.
Có lẽ vậy Thế em không chán phải làm đi làm lại một công việc sao?
Em cũng không rõ nửa. Thế em không thể làm một công việc gì sao?
Dĩ nhiên là không. Em bệnh mà, em biết không?
Nàng cười:
- Em nghĩ là người ta có thể chán nản khi không có việc gì để làm. Em nghĩ là em thích làm một công việc nào đó bán thời gian cho dù công việc ấy có làm em chết!.
Thế là dại rồi!
Chàng nói
- Nếu làm cố vấn y khoa cho em, anh không thể giới thiệu một việc như thế!
Cũng may, anh không phải là cố vấn y khoa của em.
Nàng trả lời:
- Giờ thì anh nói cho em biết anh sẽ làm gì :
- Nhớ là không phải là phi công nhé! Anh bệnh quá không thể làm gì được.
Anh nghĩ là anh sẽ mua một chiếc thuyền cá mập và trang bị đầy đủ như một thuyền buồm. Chàng nói:
- Thuyền cá mập giống như thế nào?
Đó là một loại thuyền lớn, dài hơn hai mươi mét. Thường có máy dầu cặn. Anh thích mua hai chiếc nhỏ hơn thế. Thuyền này mũi cao, đuôi thấp, khá giống thuyền đánh cá của Anh, có buồng lái nhỏ ở sau. Thuyền này đi biển cũng đẹp lắm, bạn có thể đi vòng quanh địa cầu với thuyền cá mập.
Nàng cười:
- Anh muốn đi vòng quanh quả đất, hả anh David? Aét hẳn anh đã đi vòng quanh trái đất hai mươi lần rồi!.
Chàng cười với nàng:
- A, nhưng đó là bay máy bay. Bạn không bao giờ thấy được gì khi bạn lái máy bay
- Chàng suy nghĩ một chút rồi nói
- Anh không nghĩ rằng anh thích đi quanh trái bằng thuyền cá mập, mà chỉ thích đi ở Úc thôi, Tasmania dẫy đầy những con lạch và cảng đáng yêu. Đi lên phía bắc, nếu cho thuyền đi qua các đảo Celebes, Sunda, Moluccas hoặc thẳng đường tới Borneo, thì không còn gì thú bằng! Đấy cũng là vùng rộng lớn mà chưa ai đặt chân tới.
Dừng một chút, David nói tiếp:
- Cách đây cũng khá lâu, lúc còn chiến tranh, anh bay từ phi trường Hatfield mới đến đảo Lữ Tống ở Phi luật tân. Anh đã đáp xuống Darwin để lấy xăng, và sau đó các anh đã có đủ xăng để bay la đà nên anh luôn luôn bay ở cao độ một ngàn bộ để cho vui. Anh chưa bao giờ thấy được cảnh vật nào đẹp đến thế! Sau Timor, có hàng trăm, hàng ngàn hòn đảo nào là quần đảo Celebes, quần đảo Moluccas và ngay cả đảo Phi Luật Tân và tất cả quần đảo san hô, hình như chẳng có ai sống trên đấy cả. Anh tự nhủ lòng một ngày nào đó, anh sẽ đến đó bằng thuyền.
- Em không chắc là anh không nói dối. Chẳng có gì khác biệt giữa du thuyền và đi máy bay cả. Nếu anh bệnh quá không thể lái máy bay được sao lại đủ sức đi thuyền cá mập?.
Dĩ nhiên. Chỉ có công việc nó làm cho anh kỳ lạ mà thôi!.
Thế anh chẳng có chỗ trú chân nào trên bờ cả sao?.
Không phải thế. Bạn có thể sống trên thuyền cá mập Và bạn chẳng muốn làm một công việc nào khác nửa.
Chàng cười:
- Đưa được một chiếc thuyền buồm nhỏ từ A cho đến B qua bao nhiêu rặng đá ngầm san hô chưa ai thám hiểm đối với anh cũng là việc khó rồi!.
Em cảm thấy không vui vẻ gì khi không có công việc gì để làm
Nàng nói với vẻ tư lư.
- Tuy nhiên, cuối cùng rồi cái gì cũng hấp dẫn thôi!.
Chàng nhìn nàng trước khi nói :
- Thế tốt hơn em nên đến nấu cho anh ăn trên thuyền cá mập.
Anh đâu muốn một người nấu ăn bệnh tật, có thể chết ở nơi anh bất cứ lúc nào, nàng cười.
Anh đâu biết
Chàng nói
- Cứ ví chúng mình là ông bà già Crock sống cả ngàn năm.
Nàng trả lời ngay Anh có đủ chuyện vui để kể cả ngàn năm không?
Chàng trả lời, Chúng ta có thể kể cho nhau nghe nhiều chuyện vui còn hay hơn thế nhiều.
Nàng hơi đỏ mặt và không nói gì cả, chăm chăm nhìn ngọn lửa. Chàng lại chú ý đến lọn tóc sau tai nàng, những đường nét mềm mại của cái cổ, ngạc nhiên sao nàng ít nói thế. Cuối cùng, nàng đứng dậy nhìn vào đồng hồ tay và buồn bã nói:
- Mười giờ mười lăm. Em phải đi pha một ly cà phê trước khi đi ngủ. Anh cũng uống một ly nhé, anh David?.
David cũng đứng dậy và nói:
- Thôi anh về đã nhé. Rán đi ngủ đi em! Ngày mai, có thể anh lại phải làm việc, và chắc em cũng vậy Cửa phòng khách mở, cả hai người hướng mắt về phía ấy. Ông Macmahon đi vào cùng Không đoàn trưởng Cox.
Đại tá quay về phía David:
- Nữ hoàng thay đổi chương trình
- Ông ta nói
- Nữ hoàng muốn bay từ đây đến Canberra với chiếc Tare.
Mùa Mưa Mùa Mưa - Nevil Shute