Nên coi những thất bại trong quá khứ là động cơ để hành động, chứ không phải lấy đó làm lý do để bỏ cuộc.

Charles J. Given

 
 
 
 
 
Tác giả: José Saramago
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ddoan Le
Upload bìa: Ddoan Le
Số chương: 12
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 35
Cập nhật: 2021-08-28 15:45:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 5
ác sĩ nói, Chúng ta phải xem có cái mai hay xẻng hay bất kỳ cái gì quanh đây không, một cái gì dùng để đào được. Buổi sáng, họ đã cố lắm mới mang được xác vào sân trong, để xác nằm trên mặt đất giữa rác và lá cây rụng. Bây giờ họ phải chôn. Chỉ có vợ bác sĩ biết tình trạng khủng khiếp của xác chết, mặt và sọ vỡ vụn vì mấy phát súng, ba lỗ đạn xuyên qua cổ và vùng xương ngực. Bà cũng biết trong cả tòa nhà không có gì dùng để đào huyệt được. Bà đã tìm bên phía họ bị nhốt trong nhà thương điên và chẳng thấy gì ngoài một thanh sắt. Tạm dùng được nhưng không đủ. Và qua các cửa sổ đóng ở hành lang chạy hết chiều dài bên cánh dành riêng cho người bị ngờ lây nhiễm, lom khom bên này bức tường, bà đã thấy các bộ mặt khiếp sợ của những người đang đợi tới lượt họ, giây phút không thể tránh khỏi khi họ phải nói với kẻ khác, Tôi mù, hay nếu họ cố giấu việc đã xảy ra, một vài cử chỉ lóng ngóng có thể tố cáo họ, một cái xoay đầu tìm bóng râm, một cái vấp vô lý vào người ngay trước mắt. Bác sĩ cũng biết tất cả điều này, câu ông vừa nói là một phần mưu mẹo mà cả hai đã dựng lên, để bây giờ vợ ông có thể nói, Chắc mình phải xin mấy người lính ném cho một cái xẻng qua tường. Ý hay đấy, mình thử xem sao, và mọi người đồng ý, riêng cô gái đeo kính đen không tỏ ý gì về vấn đề tìm một cái mai hay cái xẻng, chỉ nghe tiếng cô vừa than thở vừa chảy nước mắt, Lỗi tại tôi, cô thổn thức, và đúng vậy, không ai có thể chối nếu khóc than mang lại cho cô chút an ủi, nhưng cũng đúng nếu trước khi hành động, chúng ta cân nhắc hậu quả, suy nghĩ nghiêm chỉnh, trước hết nghĩ tới hậu quả tức khắc, rồi tới hệ quả ắt hẳn, rồi tới kết quả dám có, rồi tới hậu quả có thể tưởng tượng, chúng ta sẽ không bao giờ đi quá điểm mà sự đắn đo đầu tiên bảo chúng ta ngừng lại. Cái tốt và cái xấu từ lời nói và việc làm của chúng ta cứ tự chia thành tùng phần, giá thử chia ra đồng đều và cân bằng một cách hợp lý, cho tất cả những ngày sắp tới, kể cả những ngày dài vô tận, khi chúng ta không còn ở đây để biết, để tự hào hay xin tha thứ, thật vậy, có nhiều kẻ quả quyết rằng đây là sự bất diệt hay được nói tới, Có thể, nhưng ông này chết và phải chôn. Vì thế bác sĩ và vợ ông đi thương lượng, cô gái đeo kính đen buồn khôn nguôi nói cô đi với họ. Lương tâm cô cắn rứt. Ngay khi họ xuất hiện ở lối vào chính, một tên lính quát, Đứng lại, và như sợ khẩu lệnh này không được để ý, dù rất hùng hồn, gã bắn chỉ thiên. Hoảng sợ, họ lùi vào bóng tối của tiền sảnh, phía sau tấm ván dày của cánh cửa mở. Rồi vợ bác sĩ tiến tới một mình, từ chỗ đang đứng bà có thể thấy cử động của tên lính và nấp kịp lúc nếu cần. Chúng tôi không có gì để chôn người chết, bà nói, chúng tôi cần một cái xẻng. Ở cổng chính, phía bên kia chỗ người mù ngã xuống, một tên lính khác xuất hiện. Hắn là trung sĩ, nhưng không phải viên trung sĩ lúc trước, hắn quát, Bà muốn cái gì, Chúng tôi cần một cái xẻng hay cái mai. Ở đây không có, đi đi. Chúng tôi phải chôn xác chết, Khỏi bận tâm chôn cất làm gì, cứ để đó cho nó rữa, Nếu chúng tôi cứ để xác nằm đó thì không khí sẽ bị ô nhiễm, Thì cứ để nó ô nhiễm, tốt cho bà, Không khí luân chuyển ở đây cũng như ở đó. Lý lẽ của bà thích đáng buộc tên lính suy nghĩ. Hắn đã tới thay viên trung sĩ kia, ông ta đã hóa mù và lập tức bị đưa tới khu doanh trại nhốt bệnh nhân trong quân đội. Khỏi cần nói, không quân và hải quân cũng có căn cứ riêng, nhưng ít rộng lớn và ít quan trọng hơn, quân số của hai lực lượng này ít hơn. Bà ta nói đúng, viên trung sĩ nghĩ, trong tình hình như thế này chắc chắn cẩn thận bao nhiêu cũng không đủ. Như một biện pháp an toàn, hai tên lính trang bị mặt nạ phòng hơi độc đã đổ hai chai amoniac lớn lên vũng máu, hơi xông lên phảng phất vẫn làm bọn lính chảy nước mắt và có cảm giác cay sè nơi cổ họng và mũi chúng. Cuối cùng trung sĩ tuyên bố, Tôi sẽ xem làm được gì, Còn thức ăn của chúng tôi thì sao, vợ bác sĩ hỏi, lợi dụng dịp này để nhắc hắn, Thức ăn vẫn chưa tới, Riêng trong khu chúng tôi có hơn năm mươi người, chúng tôi đói, các ông đưa chúng tôi không đủ, Cung cấp thực phẩm không phải là trách nhiệm của quân đội, Phải có người lo vấn đề này vì Chính phủ cam kết nuôi chúng tôi, Đi vào trong, tôi không muốn thấy ai ở cửa này, Còn cái xẻng thì sao, vợ bác sĩ khư khư, nhưng viên trung sĩ đã bỏ đi. Giữa buổi sáng một giọng vang lên trên loa phóng thanh trong phòng, “Chú ý, chú ý,” những người bị nhốt hớn hở, họ nghĩ đây là thông báo về thực phẩm của họ, nhưng không, đó là về cái xẻng, Ai đó nên đi lấy nó, nhưng đừng đi một nhóm, chỉ một người ra thôi, Tôi đi, vì tôi đã nói chuyện với họ, vợ bác sĩ nói. Lúc bà đi qua cánh cửa ở lối vào chính, bà thấy cái xẻng. Xét từ vị trí và khoảng cách chỗ nó rơi xuống, gần cổng hơn các bậc thang, chắc nó đã được ném qua hàng rào, Mình đừng quên là mình đang bị cho là mù, vợ bác sĩ nghĩ, Ở đâu, bà hỏi, Đi xuống thang tôi sẽ hướng dẫn bà, trung sĩ đáp, tốt lắm, bây giờ cứ đi theo hướng đó, như vậy, như vậy, ngừng lại, qua bên phải một chút, không, qua bên trái, ít thôi, ít thôi, bây giờ thẳng tới, cứ đi tới, bà sẽ đụng nó, đồ cứt, tôi đã bảo bà đừng đổi hướng, yên, yên, bà lại sắp tới, sắp rồi, đúng, bây giờ quay nửa vòng rồi từ đó tôi sẽ chỉ cho bà, tôi không muốn bà đi vòng vòng rồi ra tới cổng, Anh lo phải không, bà nghĩ, từ đây tôi sẽ đi thẳng về cửa, vả lại có sao đâu, ngay cả nếu anh nghĩ là tôi không mù, tôi cần gì, anh đâu có vào đây bắt tôi. Bà vác xẻng lên vai như phu đào huyệt trên đường đi làm, rồi tiến về phía cửa mà không chút ngập ngừng, Ông thấy không, trung sĩ, một tên lính thốt lên, ông đâu có nghĩ bà ta mù. Người mù học cách tìm đường nhanh, viên trung sĩ tự tin giải thích.
Đào huyệt là việc nặng nhọc. Đất cứng, bị giậm chặt, ngay bên dưới có rễ cây. Gã lái tắc xi, hai viên cảnh sát và người đàn ông mù đầu tiên thay phiên nhau đào. Đối phó với cái chết, tự nhiên lòng thù oán mất tác dụng và hết độc hại, thiên hạ nói đúng là các mối thù cũ khó phai, và bằng chứng về chuyện này có rất nhiều trong văn chương và cuộc sống, nhưng cảm giác ở đây tận trong thâm tâm là không thù ghét và cũng chẳng cũ, vì làm sao so sánh việc ăn cắp xe với đời một kẻ ăn cắp nó, và nhất là với tình trạng khốn khổ của xác hắn, vì ta không cần mắt cũng biết khuôn mặt này không có mũi và miệng. Họ không thể đào sâu chín tấc. Nếu người chết mập, bụng hắn ta sẽ lồi lên mặt đất, nhưng gã trộm gầy ốm, đúng là da bọc xương, còn gầy hơn sau mấy ngày nhịn đói vừa qua, huyệt đủ lớn cho hai cái xác to bằng gã. Không có lời cầu nguyện cho người chết. Mình có thể đặt cây thánh giá ở đó, cô gái đeo kính đen nhắc họ, cô nói vì lòng ăn năn, nhưng mọi người ở đó đều biết khi còn sống kẻ quá cố chưa bao giờ nghĩ tới Thượng đế hay tôn giáo, tốt nhất là đừng nói gì, vả lại, nếu có một thái độ hợp lý nào khác trước sự chết thì hãy nhớ rằng làm một cây thánh giá khó hơn ta nghĩ rất nhiều, chưa kể nó sẽ chẳng đứng lâu trước đám người mù này, họ đâu có thấy họ đang giẫm lên chỗ nào. Họ quay lại phòng. Tại những nơi nhộn nhịp hơn, miễn là đừng ở ngoài trời hoàn toàn, như ngoài sân, người mù không còn bị mất hướng, một tay đưa ra phía trước và mấy ngón tay cử động như râu côn trùng, họ có thể tìm thấy đường khắp nơi, thậm chí một người mù có năng khiếu hơn sẽ sớm phát triển cái gọi là thị lực trước mặt. Như vợ bác sĩ chẳng hạn, bà ta rất tài xoay xở đi loanh quanh và tự định hướng qua mê hồn trận đúng nghĩa của các phòng ốc, ngóc ngách và hành lang, bà ta biết chính xác khi nào quẹo, bà có thế ngừng lại trước một cánh cửa và mở nó không chút do dự, bà không cần đếm giường trước khi tới giường mình. Lúc này bà ngồi trên giường của chồng, bà đang nói chuyện với ông, thấp giọng như mọi lần, ta có thể thấy họ là người có học, và họ luôn luôn có chuyện để nói với nhau, họ không như cặp vợ chồng kia, người đàn ông mù đầu tiên và vợ ông ta, sau giây phút xúc động được đoàn tụ lúc đầu, họ hiếm khi nói, rất có thể, nỗi bất hạnh hiện giờ nặng hơn tình yêu trong quá khứ của họ, thời gian trôi qua họ sẽ quen với hoàn cảnh này. Kẻ duy nhất luôn luôn than đói là đứa bé mắt lác, mặt dù cô gái đeo kính đen hầu như đã lấy thức ăn của cô cho nó. Nhiều giờ đã trôi qua từ khi nó hỏi về mẹ nó lần cuối, nhưng chắc chắn nó sẽ lại bắt đầu nhớ bà sau khi ăn, khi cơ thể nó thấy không bị lòng ích kỷ tàn nhẫn xuất phát từ nhu cầu tự cứu đơn giản nhưng thúc bách đòi hỏi nữa. Vì chuyện xảy ra hồi sáng sớm, hay vì các lý do ngoài phạm vi hiểu biết của chúng ta, sự thật đáng buồn là không có thùng thức ăn nào được giao vào giờ ăn sáng. Gần tới bữa ăn trưa, sắp một giờ theo đồng hồ vợ bác sĩ vừa mới lén xem, vì thế chả có gì đáng ngạc nhiên khi dịch vị cồn cào của họ đã khiến cho một số người mù bị nhốt, bên cánh này cũng như cánh kia, đi ra tiền sảnh chờ thức ăn đến, với hai lý do chính đáng, lý do chung là vì đối với một số người, bằng cách này họ sẽ rút ngắn thời gian đói, lý do riêng, như mọi người đều biết, là vì đối với một số khác thì ai tới trước ăn trước. Nói chung, có khoảng mười người mù bị nhốt lắng nghe tiếng mở cổng ngoài, đợi nghe bước chân của bọn lính giao các thùng thực phẩm trời ban đó. Về phần người bị lây nhốt bên cánh trái, vì sợ bị mù cấp tính nếu tiếp xúc gần với người mù đang đợi trong tiền sảnh, họ không dám ra, nhưng vài kẻ trong bọn họ hé nhìn qua khe cửa, nôn nóng đợi tới lượt họ. Thời gian trôi qua. Mệt mỏi vì chờ đợi, một số người mù ngồi xuống sàn, lát sau hai, ba người quay về phòng. Không lâu sau, ngoài công có tiếng kim khí kẽo kẹt không thể nhầm. Người mù phấn khởi xô đầy nhau, bắt đầu đi về hướng họ nghĩ là cánh cửa, xét theo tiếng động bên ngoài, nhưng bỗng mất tự chủ vì cảm giác bất an mơ hồ mà họ không kịp giải thích hay hiểu rõ, họ dừng lại rồi hỗn loạn rút lui, trong khi đó bước chân của bọn lính mang thức ăn và đám hộ tống trang bị vũ khí đã nghe khá rõ.
Vẫn còn bàng hoàng vì thảm kịch của đêm trước, bọn lính giao các thùng thực phẩm đã thỏa thuận là sẽ không để thùng gần cửa dẫn tới các cánh nhà như trước, chúng chỉ vứt thùng vào tiền sảnh rồi rút lui. Để họ tự lo liệu. Ánh sáng chói chang bên ngoài đột ngột chuyển sang bóng tối trong tiền sảnh thoạt đầu làm chúng không thấy nhóm người mù bị nhốt. Nhưng rồi chúng nhận ngay ra họ. Rú lên vì kinh hoảng, chúng buông thùng xuống đất rồi bỏ chạy thẳng ra cửa như lũ điên. Hai tên lính hộ tống đang đợi bên ngoài đã phản ứng một cách đáng nể trước hiểm nguy. Không chế nỗi sợ hãi chính đáng của chúng, chỉ trời biết và hiểu tại sao, chúng tiến tới ngưỡng cửa và xả đạn. Những người mù bị nhốt ngã đè lên nhau, và khi ngã, thân thể họ vẫn tiếp tục bị bắn thủng lỗ chỗ thật phí phạm đạn dược, tất cả xảy ra chậm một cách khó tin, một thân người, rồi một người nữa, dường như họ không ngừng ngã xuống, như đôi khi ta thấy trên phim hay trên truyền hình. Nếu chúng ta còn ở vào thời một người lính phải giải thích số đạn bắn ra, họ sẽ thề trên lá cờ rằng họ đã tự vệ chính đáng, cũng như để bảo vệ các chiến hữu không mang vũ khí trong một sứ mệnh nhân đạo và bất chợt thấy mình bị một nhóm người mù đe dọa và áp đảo. Điên cuồng bỏ chạy, họ rút ra cổng, được bọn lính tuần tra loạng quạng chĩa súng giữa các chấn song bắn yểm trợ như thể những người mù bị nhốt còn sống sót sắp sửa tấn công để phục thù. Mặt tái xanh, một tên trong bọn lính đã nổ súng hốt hoảng nói, Bất cứ giá nào tao cũng sẽ không vào trong đó. Chẳng mấy chốc, trong cùng ngày, khi chiều xuống, vào giờ đổi gác, hắn trở thành một người mù nữa giữa những người mù khác, may là hắn trong quân đội, nếu không hắn sẽ vào đó với những người mù bị nhốt, làm bạn với những người đã bị hắn bắn chết, và có trời biết họ sẽ làm gì hắn. Lời bình phẩm duy nhất của viên trung sĩ là, Tốt hơn nên để tụi nó chết đói, chó chết, hết chuyện. Như chúng ta biết, thiên hạ thường nói và nghĩ tương tự, một cách vui vẻ, nhưng chút lòng quan tâm nhân đạo quý báu còn sót lại khiến hắn lập tức nói thêm, Từ nay chúng ta sẽ để mấy cái thùng ở nửa đường, cho họ tới kiếm, ta sẽ canh chừng họ, và ta sẽ bắn nếu có hành vi đáng ngờ nhỏ nhặt nào. Hắn đi tới đài chỉ huy, bật micro, và hết sức chăm chút từng lời nói, moi lại mấy câu hắn nhớ đã nghe trong những dịp hình như tương tự, hắn tuyên bố, Quân đội tiếc là đã phải dùng vũ khí trấn áp hành vi dấy loạn gây nên tình thế hiểm nghèo vừa qua, vì vậy quân đội không có lỗi trực tiếp hay gián tiếp, và báo cho quý vị biết là từ nay người bên trong sẽ đi lấy thực phẩm phía ngoài tòa nhà, và sẽ nhận lãnh hậu quả nếu có bất kỳ ý định lặp lại hành vi quấy rối nào xảy ra như vừa rồi và tối hôm qua. Hắn ngập ngừng, không rõ nên kết thúc ra sao, hắn đã quên mình nói gì, rõ ràng hắn đã nói, nhưng chỉ có thể nhắc lại, Chúng tôi không có lỗi, chúng tôi không có lỗi.
Trong tòa nhà, tiếng súng nổ điếc tai vang dội trong khoảng không gian chật kín của tiền sảnh, gây hoảng loạn cực kỳ. Thoạt tiên người ta nghĩ bọn lính sắp xộc vào các phòng và bắn bất kỳ cái gì trong tầm mắt, Chính phủ đã thay đổi chiến thuật, định thanh toán toàn bộ người bị nhốt, một số bò dưới gầm giường, kẻ khác kinh hoảng bất động, một số có thể đã nghĩ như vậy còn hơn, chết khỏe còn hơn lay lắt, nếu phải đi thì đi cho nhanh. Kẻ đầu tiên phản ứng là nhóm bị lây. Họ đã chạy trốn ngay khi tiếng súng nổ ra, nhưng rồi sự yên lặng khuyến khích họ quay lại, một lần nữa họ đi ra phía cửa dẫn tới tiền sảnh. Họ thấy thi thể nằm chất đống, máu chảy ngoằn ngoèo loang từ từ trên sàn gạch như một sinh vật sống, rồi họ thấy các thùng thực phẩm. Cái đói thúc đầy họ, đồ ăn thức uống rất đáng thèm khát nằm ngay đó, thật ra là cho người mù, theo quy định, thực phẩm của họ chưa tới, nhưng cần gì quy định, chẳng ai thấy họ, ăn cỗ đi trước, như cổ nhân đã liên tục nhắc nhở chúng ta qua nhiều thời đại, và cổ nhân biết mấy chuyện này. Tuy nhiên, cái đói của họ chỉ có sức đưa họ tiến tới ba bước, lý trí đã can thiệp và cảnh cáo họ rằng kẻ nào đủ liều lĩnh tiến tới thì hiểm nguy đang rình rập trong các thi thể không còn sự sống đó, nhất là trong vũng máu ấy, nào ai biết hơi gì, xạ khí gì, chướng khí độc hại gì đã bốc lên từ các vết thương há miệng của mấy xác chết. Họ chết rồi, họ không thể gây nguy hại nữa, có kẻ nhận xét, hắn định trấn an mình và kẻ khác, nhưng lời hắn nói làm sự việc tệ hơn, đúng, mấy người mù này đã chết, họ không cử động, thấy chưa, chẳng nhúc nhích cũng chẳng thở, nhưng nào ai biết bệnh mù trắng này không là một chứng bệnh tinh thần nào đó, và nếu chúng ta giả thử điều này là đúng, thì linh hồn của những người mù tử vong đó chưa bao giờ tự do như lúc này, nó ra khỏi cơ thể họ, và do đó tự do làm bất kỳ điều gì nó thích, nhất là làm chuyện tai ác, mà như mọi người đều biết luôn luôn là chuyện dễ làm nhất. Nhưng các thùng thực phẩm đứng lồ lộ ở đó, lập tức lôi cuốn sự chú ý của họ, vì đòi hỏi của dạ dày, họ chẳng để ý gì khác dù đó là lợi ích của họ. Một trong những thùng thực phẩm rỉ ra một chất lỏng trắng từ từ lan tới vũng máu, nhìn rất giống sữa, một màu không thể lầm. Can đảm hơn, hay chỉ là nghiệp chướng, sự khác biệt này thường không dễ nhận, hai người trong bọn bị lây bước tới, và khi họ sắp thò bàn tay tham lam lên thùng đầu tiên thì một nhóm người mù xuất hiện ở khuôn cửa qua khu bên kia. Trí tưởng tượng có thể chơi trò ma mãnh, nhất là trong tình thế thiếu lành mạnh như lúc ấy, hai gã đi hôi của này như thể đã thấy người chết bất thần từ mặt đất đứng lên, vẫn mù như trước, hẳn nhiên, nhưng nguy hiểm hơn nhiều, vì chắc chắn họ chất chứa đầy ý muốn trả thù. Họ thận trọng lùi lại trong im lặng tới lối vào khu của họ, có lẽ người mù đang bắt đầu lo cho các xác chết như lòng nhân hậu và tôn kính đòi hỏi, hay nếu không, họ có thể để lại một thùng mà không biết, dù là thùng nhỏ, thật ra ở đây người bị lây không nhiều lắm, có lẽ giải pháp tốt nhất là xin họ, Làm ơn thương xót chúng tôi, ít nhất để lại một thùng nhỏ cho chúng tôi, sau chuyện xảy ra có lẽ hôm nay người ta sẽ không giao thêm thức ăn. Người mù di chuyển như ta vẫn biết, mò mẫm, vấp váp, kéo lết chân, nhưng như có tổ chức, họ biết cách phân chia công việc một cách hiệu quả, một số giẫm tung tóe sữa và máu nhớp nhúa, họ lập tức lùi lại và khiêng các xác chết ra sân, kẻ khác lo tám cái thùng đã được bọn lính vứt ở đó, từng thùng từng thùng. Trong số người mù bị nhốt có một bà coi bộ có mặt mọi lúc mọi nơi, giúp khiêng vác, bà ta hành động như thể đang hướng dẫn bọn đàn ông, một việc rõ ràng là bất khả đối với một bà mù, và vô tình hay cố ý, hơn một lần bà ta quay đầu về khu nhốt người bị lây, như thể bà ta có thể thấy họ hay cảm thấy sự hiện diện của họ. Trong chốc lát, tiền sảnh trống trơn, chẳng còn dấu vết nào trừ vệt máu lớn, và một vệt trắng nhỏ bên cạnh, từ sữa tràn ra, ngoài ra ngang dọc chỉ có các dấu chân đỏ hay ướt. Cam chịu, bọn người bị lây đóng cửa và đi tìm bánh vụn, họ nhụt chí tới nỗi có người suýt buột miệng, và điều này cho thấy họ tuyệt vọng ra sao, Nếu rốt cuộc mình sẽ phải mù, nếu số phận của mình như vậy, thì bây giờ dọn qua bên kia cho xong, ở đó ít nhất mình có cái gì để ăn, Có lẽ tụi lính sẽ mang phần ăn của mình, kẻ khác gợi ý, Anh có bao giờ ở trong quân ngũ chưa, một người khác hỏi anh ta, Chưa, Đúng như tôi nghĩ.
Biết rằng người chết thuộc về cả hai phòng, những người trong phòng thứ nhất và thứ hai cùng họp lại để quyết định họ nên ăn trước rồi chôn xác chết, hay ngược lại. Hình như không người nào muốn biết là ai đã chết. Năm xác trong số đó đã ở trong phòng thứ hai, khó nói họ đã biết nhau, hay họ không biết nhau, hay họ có thời giờ và ý định tự giới thiệu và thổ lộ tâm can. Vợ bác sĩ không nhớ đã gặp họ khi họ đến. Bốn xác còn lại, đúng, bà nhận ra mấy xác này, họ đã ngủ với bà, trong chừng mực nào đó, dưới cùng mái nhà, mặc dù một người bà chỉ biết như thế và làm sao bà có thể biết hơn, một kẻ tự trọng không đi loanh quanh thảo luận chuyện riêng tư với người mới gặp, như chuyện ông ta đã làm tình với một cô gái đeo kính đen trong khách sạn, còn về phần cô, nếu chúng ta nói về cô ấy, cô không biết ông ta bị nhốt ở đây và cô ở ngay bên cạnh người đàn ông vốn là nguyên nhân làm cô thấy mọi vật màu trắng. Anh lái tắc xi và hai viên cảnh sát là những người tử vong kia, ba anh chàng tráng kiện có thể tự lo lấy thân, nghề nghiệp của họ giúp nhau bằng nhiều cách, rồi cuối cùng họ nằm đó, bị đốn ngã một cách tàn nhẫn khi còn sung sức và đang đợi kẻ khác quyết định số phận họ. Họ sẽ phải đợi cho tới khi những kẻ sống sót ăn xong, không vì tính ích kỷ thông thường của người sống, mà vì có kẻ nhạy bén nhớ ra rằng chôn chín cái xác trong đất cứng mà chỉ có một cái xẻng là một việc ít nhất tới giờ ăn tối mới xong. Và khó có thể chấp nhận rằng những người tình nguyện được trời phú cho lòng tốt sẽ làm việc trong khi kẻ khác nhét đầy bao tử, vì vậy họ quyết định để mấy cái xác lại sau. Thực phẩm giao thành từng phần cá nhân, do đó dễ chia, của ông, của bà, tới khi hết sạch. Nhưng sự lo lắng của một số người mù thiếu đầu óc công bằng lại làm phức tạp một việc dễ hiểu trong tình huống bình thường, và mặc dù phán xét bình tĩnh và vô tư sẽ khiến chúng ta thấy rằng sự quá quắt cũng có một lý lẽ nào đó, thí dụ, ta chỉ cần nhớ rằng ngay từ đầu chẳng ai biết sẽ có đủ thực phẩm cho mọi người. Thật vậy, rõ ràng không dễ đếm người mù hay phân phát khẩu phần mà không có con mắt có thể nhìn cả khẩu phần và con người. Hơn nữa, vài người mù trong phòng thứ hai thiếu thành thật một cách đáng trách, cố gây ấn tượng họ đông hơn thực tế. Như thường lệ, lúc này sự hiện diện của vợ bác sĩ cho thấy là hữu ích. Vài lời nói đúng lúc luôn luôn giải quyết được vấn đề mà một bài diễn thuyết tràng giang đại hải chỉ làm cho tồi tệ thêm. Không ít kẻ có ý xấu và ngang bướng chẳng những cố thử, mà quả thực đã thành công trong việc nhận gấp đôi khẩu phần. Vợ bác sĩ biết hành vi bất lương này, nhưng nghĩ tốt hơn đừng nói gì. Bà không dám nghĩ tới hậu quả sau đó nếu bị khám phá là bà không mù, khi ấy nhẹ nhất bà phải chịu sự sai khiến của mọi người, tệ nhất là bà có thể trở thành nô lệ cho vài kẻ trong số họ. Ý kiến được đưa ra từ đầu là nên có người gánh trách nhiệm cho mỗi phòng để giải quyết các khó khăn này khác biết đâu lại có ích? Nhưng than ôi, nghiêm trọng hơn, kẻ chịu trách nhiệm có quyền hạn mỏng manh không thể. Thôi cãi, bấp bênh không thể chối cãi, bị đặt vấn đề bất kỳ lúc nào không thể chối cãi, và với điều kiện quyền này phải được thi hành một cách minh bạch vì lợi ích của mọi người, và phải được đa số thừa nhận. Nếu không làm được điều ấy, bà nghĩ, chúng ta rốt cuộc sẽ giết nhau trong này. Bà tự hứa sẽ thảo luận mấy vấn đề tế nhị ấy với chồng rồi tiếp tục chia khẩu phần.
Vài kẻ vì biếng nhác, kẻ khác vì dễ đau dạ dày, không có ý đi đào huyệt ngay sau khi ăn. Vì nghề nghiệp của ông, bác sĩ cảm thấy có trách nhiệm hơn kẻ khác, và khi ông nói mà không hăng hái lắm, Nào, chúng ta đi chôn các xác chết, không có một người nào tình nguyện. Duỗi dài trên giường, người mù chỉ muốn được yên để tiêu hóa thức ăn, vài kẻ ngủ ngay, chả có gì ngạc nhiên, sau kinh nghiệm khủng khiếp họ đã trải qua, cơ thể, ngay cả cơ thể thiếu dinh dưỡng, đã tự buông thả cho công việc tiêu hóa chậm chạp. Lát sau, khi trời tối, vì ánh nắng tàn nhanh, các ngọn đèn mờ có vẻ sáng hơn, đồng thời cho thấy dù yếu chúng vẫn phục vụ được mục đích nhỏ nhoi của chúng, bác sĩ và vợ thuyết phục được hai ông cùng phòng đi với họ ra sân, dù chỉ để chia đều công việc phải làm và tách các xác chết đã cứng, sau khi đã quyết định mỗi phòng sẽ chôn người chết của mình. Những người mù này có một lợi thế có thể gọi là ảo giác của ánh sáng. Thật vậy, đối với họ chả có gì khác biệt giữa ngày và đêm, ánh rạng đông hay nhá nhem chiều tà, giờ khắc tĩnh lặng của sớm mai hay tiếng ầm ĩ rộn ràng lúc đúng ngọ, những người mù này bị vây phủ vĩnh viễn trong sắc trắng chói lòa, như mặt trời rọi qua sương mù. Đối với người mù loại này, mù lòa không có nghĩa là lao vào bóng đen tầm thường, mà là sống trong vầng hào quang rực rỡ. Khi bác sĩ buột miệng nói họ sẽ phân loại xác chết, người đàn ông mù đầu tiên, một trong hai người đồng ý giúp ông, muốn biết làm cách nào có thể nhận dạng họ, một câu hỏi hợp lý của người mù khiến bác sĩ lúng túng. Lần này vợ ông nghĩ đừng nên dại dột giúp ông để khỏi bị lộ. Bác sĩ thoát khỏi tình thế khó khăn một cách lịch sự bằng phương pháp thú nhận tận gốc, đó là tự nhận lỗi, ông nói bằng giọng của một người tự cười mình, Người ta quen có cặp mắt tới nỗi nghĩ mình có thể dùng nó khi nó chẳng còn dùng được nữa, thật vậy, chúng ta chỉ biết ở đây có bốn người của phòng mình, anh lái tắc xi, hai anh cảnh sát, và một người nữa đã ở chung với mình, vì thế cách làm là chọn ngẫu nhiên bốn xác, trân trọng chôn họ, bằng cách này chúng ta làm tròn bổn phận của mình. Người đàn ông mù đầu tiên đồng ý, ông kia cũng vậy, và một lần nữa, họ thay phiên nhau bắt đầu đào huyệt. Hai người phụ việc này sẽ không bao giờ biết, họ mù tịt như vậy mà, rằng các xác chết được chôn đúng là những người họ đã nói tới, hoàn toàn đúng, chúng ta cũng chả cần nhắc lại việc bác sĩ làm, như tình cờ, tay ông được tay vợ hướng dẫn, bà nắm một chân hay cánh tay, và ông chỉ phải nói, Xác này. Khi họ đã chôn xong hai xác, rốt cuộc từ trong phòng hiện ra ba ông tỏ ý giúp, nếu có ai bảo họ là đã khuya lắm rồi thì chắc họ sẽ ít tự nguyện hơn. Về mặt tâm lý, ngay cả khi người ta mù, chúng ta phải thừa nhận rằng đào huyệt lúc trời sáng rất khác với lúc sau khi mặt trời lặn. Khi họ trở về phòng, toát mô hôi, lấm đất, mùi da thịt thối rữa buồn nôn vẫn còn trong mũi họ, giọng trên loa phóng thanh nhắc lại các hướng dẫn thông lệ. Không một lời ám chỉ sự kiện đã xảy ra, không một lời nhắc tới súng nổ hay tử vong vì bắn thẳng. Những lời cảnh cáo như, Ra khỏi tòa nhà mà không được phép sẽ chết tức khắc, hay Những người bên trong sẽ chôn xác trong sân mà không cần bất kỳ lễ nghi thủ tục nào, giờ đây, nhờ kinh nghiệm cay đắng của cuộc đời, chúa tể của mọi cách ứng xử, cho thấy mấy câu cảnh cáo này là thật, trong khi lời thông báo hứa hẹn phát thực phẩm ba lần mỗi ngày hình như mỉa mai một cách lố bịch, hay tệ hơn nữa, một cách khinh bỉ. Khi tiếng nói lắng xuống, vì phải biết mọi ngóc ngách trong này, bác sĩ tự đi tới cửa phòng bên kia để báo cho những người bên trong, Chúng tôi đã chôn người chết của chúng tôi, Ôi dào, nếu ông đã chôn thì chôn hết luôn, một giọng đàn ông bên trong trả lời, Thỏa thuận là mỗi phòng sẽ chôn người chết của phòng mình, chúng tôi đã đếm bốn người và chôn họ rồi, Được, ngày mai bên này chúng tôi sẽ lo, một giọng nam khác nói, rồi đổi giọng, ông ta hỏi, Thức ăn không giao thêm à, Không, bác sĩ đáp, Nhưng loa phóng thanh nói ba lần mỗi ngày mà, Tôi không nghĩ họ luôn giữ lời hứa, Vậy thì chúng ta sẽ phải chia khẩu phần thực phẩm được giao, một giọng nữ nói, ừ phải, nếu các ông bà muốn thì ngày mai chúng ta có thể bàn, Đồng ý, người đàn bà nói. Bác sĩ đã sắp bỏ đi thì nghe giọng người đàn ông thứ nhất nói, Ai ra lệnh ở đây, ông ngừng lại, mong được nghe câu trả lời, và câu trả lời cũng đến từ giọng nữ đó, Nếu chúng ta không nghiêm chỉnh tự tổ chức thì đói và sợ sẽ nổi lên ở đây, thật đáng xâu hổ là mình đã không đi với họ để chôn người chết, Tại sao bà không đi chôn vì bà thông minh và tự tin quá mà, Tôi không thể làm một mình nhưng tôi sẵn sàng phụ, Cãi nhau vô ích, một giọng nam khác xen vào, sáng mai chúng ta sẽ thu xếp việc này trước tiên. Bác sĩ thở dài, cuộc sống chung sẽ khó khăn. Khi quay về phòng mình, ông cảm thấy mót đi tiểu. Ở điểm ông đang đứng, không chắc ông có thể tìm thấy phòng vệ sinh, nhưng ông quyết định thử. Ông hy vọng ít ra có người nhớ để ở đó giấy vệ sinh được giao cùng với thùng thực phẩm. Trên đường đi ông lạc hai lần và khổ sở vì bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng, cuối cùng, đúng lúc ông hết nhịn được nữa, ông có thể kéo quần xuống và cúi trên hố xí. Mùi hôi làm ông nghẹt thở.
Ông cảm thấy đã giẫm lên cái gì nhão, phân của ai đã ra ngoài lỗ hố xí hay họ đã quyết định đi tiêu mà chả cần nghĩ tới kẻ khác. Ông thử tưởng tượng chỗ này thế nào, đối với ông nó trắng toát, chói sáng, rực rỡ, ông chẳng có cách nào biết vách tường và nền nhà màu trắng hay không, và ông đi đến kết luận vô lý là ánh sáng và sắc trắng ở đó đang bốc mùi hôi khủng khiếp. Mình sẽ phát điên vì kinh hoảng, ông nghĩ. Rồi ông cố chùi sạch mình nhưng không có giấy. Ông sờ tay lên bức tường phía sau, hy vọng tìm thấy cuộn giấy vệ sinh hay cây đinh móc mấy mẩu giây cũ nếu không có gì khá hơn. Chẳng có gì. Ông cảm thấy khổ sở, chán nản, bất hạnh hơn là ông có thể chịu đựng, chen chúc trong đó, bảo vệ cái quần đang quét lên nền nhà ghê tởm, mù, mù, mù, và không kìm chế được mình, ông bắt đầu lặng lẽ khóc. Dò dẫm, ông đi vài bước và tông vào vách đối diện. Ông đưa một tay ra, rồi tay kia, cuối cùng tìm thấy cửa. Ông có thể nghe bước chân ai kéo lê, chắc cũng đang tìm phòng vệ sinh, và cứ vấp, Nó ở chỗ quái nào thế này? người đó đang hững hờ lẩm bẩm, như thể trong thâm tâm ông ta không thiết tha tìm. Ông ta đi sát phòng vệ sinh mà không nhận ra có người ở đó, nhưng chằng hề gì, tình thế không thoái hóa tới mức khiếm nhã, nếu có thể gọi như thế, một người bị bắt gặp trong hoàn cảnh lúng túng, quần áo xốc xếch, tới phút chót, vì cảm giác ngượng nghịu bối rối, bác sĩ đã kéo quần lên, rồi ông kéo xuống, khi ông nghĩ chỉ còn một mình ông, nhưng không kịp, ông biết ông bị bẩn, bẩn hơn ông nhớ những lần đã bẩn trong đời. Có nhiều cách đế trở thành con thú, ông nghĩ, đây chỉ là cách đầu tiên. Tuy nhiên, thật ra ông không thể than vãn, ông vẫn còn có người không nề hà lau ông sạch sẽ.
Nằm trên giường, những người mù bị nhốt đợi giấc ngủ xoa dịu nỗi khốn khổ của họ. Kín đáo, như sợ nguy cơ có kẻ thấy cảnh khốn khổ này, vợ bác sĩ đã hết sức giúp chồng tự lau chùi sạch sẽ. Bây giờ là sự im lặng u sầu thường thấy trong bệnh viện khi bệnh nhân đã ngủ, và đau đớn ngay cả khi họ ngủ. Ngồi thẳng và tỉnh táo, vợ bác sĩ nhìn dãy giường, các hình dáng mờ tối, vẻ xanh xao bất động của một khuôn mặt, một cánh tay cử động trong mơ. Bà tự hỏi bà sẽ mù như họ chăng, lý do không thể giải thích nào cho tới nay đã cứu bà không bị mù. Với một cử chỉ mệt mỏi, bà đưa tay vuốt tóc ra sau đầu, và nghĩ, Chúng ta sẽ hôi tới tận mây xanh. Lúc đó có tiếng thở dài, tiếng rên, tiếng kêu nhỏ, thoạt tiên bị bóp nghẽn, những âm thanh dường như là tiếng nói, chắc là lời nói, nhưng mất ý nghĩa giữa sự dồn dập đã biến chúng thành tiếng hét và ậm ực, rồi cuối cùng thành tiếng thở rống nặng nề. Cuối phòng có tiếng người bực dọc. Đồ con heo, tụi nó là đồ con heo. Đây không phải là heo, chí là một ông mù và một bà mù có thể chẳng biết gì về nhau hơn là thế này.
Một cái bụng trống rỗng thức dậy sớm. Vài người mù bị nhốt mở mắt khi trời chưa sáng, trong hoàn cảnh của họ chẳng phải vì đói, mà vì đồng hồ sinh học của họ, hoặc bất kỳ ta gọi nó là gì, không còn chạy đúng nữa, họ tưởng đó là ánh nắng, rồi nghĩ, Mình ngủ quá giấc, và nhận ra ngay rằng họ lầm, các bạn cùng bị nhốt với họ đang ngáy như kéo gỗ, không lầm được. Bây giờ chúng ta biết qua sách vở, và hơn nữa qua kinh nghiệm bản thân, bất kỳ ai có khuynh hướng thức sớm hay buộc phải dậy sớm vì cần thiết đều thấy không chịu nổi khi kẻ khác cứ tiếp tục ngủ ngon, và họ có lý do chính đáng trong hoàn cảnh chúng ta đang nói, vì một người mù đang ngủ rất khác với một người mù đã mở mắt chả vì mục đích gì. Nhận xét về bản chất tâm lý này, sự khác biệt tế nhị của nó không nhất thiết thích hợp nếu xét theo mức độ bất thường của tai biến mà câu chuyện của chúng ta đang cố thuật lại, chỉ dùng để giải thích vì sao tất cả người mù bị nhốt thức dậy sớm, một số như đã nói từ đầu thức dậy vì bao tử trống rỗng cồn cào cần thức ăn, kẻ khác bị lôi khỏi giấc ngủ vì sự sốt ruột bồn chồn của bọn dậy sớm không do dự làm ồn hơn cần thiết và hơn mức có thể tha thứ khi người ta sống chung trong doanh trại hay phòng ốc. Ở đây không chỉ có người chín chắn và lịch sự, mà có cả nhũng kẻ thật thô bỉ muốn khuây khỏa mỗi buổi sáng bằng cách khạc đờm và xì hơi không thèm để ý tới người hiện diện, và nếu nói sự thật, họ cư xử tệ hại như thế suốt ngày, làm cho bầu khí quyển càng nặng, và chả làm sao được, chỗ mở thoáng duy nhất là cửa ra vào, còn các cửa sổ quá cao không với tới được.
Nằm bên chồng, thật sát vì giường hẹp, nhưng cũng vì tự ý, họ mất mát gì giữa đêm để giữ lịch sự, để không cư xử như những kẻ mà có người gọi là đồ con heo, vợ bác sĩ nhìn đồng hồ của bà. Hai giờ hai mươi ba. Bà nhìn kỹ hơn, thấy kim giây đứng yên. Bà đã quên lên dây chiếc đồng hồ khốn nạn, hay bà khốn khổ khốn nạn, vì ngay cả việc đơn giản này bà cũng chẳng nhớ làm chỉ sau ba ngày cách ly. Không kìm được mình, bà bật khóc tức tưởi, như thể tai họa tệ hại nhất bỗng xảy đến cho bà. Bác sĩ nghĩ vợ ông hóa mù, điều ông rất sợ rốt cuộc xảy ra, và cuống lên định hỏi, Em bị mù à, nhưng vào phút chót ông nghe tiếng bà thì thào, Không, không, không phải, không phải, rồi tiếng thì thầm kéo dài, hầu như không nghe thấy, hai cái đầu của họ chui dưới chăn, Em thật ngốc, em quen lên dây đồng hồ, rồi bà tiếp tục nức nở, không dỗ được. Thức giấc trên giường bên kia lối đi, cô gái đeo kính đen đi về phía tiếng nức nở, hai tay đưa ra, Bà buồn, cần tôi giúp gì không, cô vừa hỏi vừa tiến tới, và chạm tay vào hai thân người trên giường. Tính chín chắn đòi hỏi cô rút tay về lập tức, và chắc chắn là bộ não của cô ban ra lệnh đó, nhưng tay cô không tuân theo, nó chỉ chạm tinh tế hơn, dịu dàng vuốt ve tấm chăn dày và ấm, Cần tôi giúp gì không, cô gái lại hỏi một lần nữa, và lúc này cô đã bỏ tay ra, giơ lên tới khi nó lạc mất trong sắc trắng vô sinh, vô vọng đó. Vẫn nức nở, vợ bác sĩ ra khỏi giường, ôm lấy cô gái và nói, Không có gì, tôi chỉ bỗng dưng thấy buồn, Nếu bà vững chãi như thế mà ngã lòng thì thật không còn gì cứu vãn chúng ta, cô gái phàn nàn. Bình tĩnh hơn, vợ bác sĩ nghĩ, nhìn thẳng cô, Dấu hiệu viêm màng kết đã gần khỏi, thật đáng tiếc mình không thể nói cho cô ta biết, cô ta sẽ vui lòng. Ừ, cô ta có thể sẽ vui lòng, dù sự vui lòng đó là vô lý, không chỉ vì cô ta bị mù, mà vì tất cả mọi người ở đây cũng mù, có đôi mắt sáng đẹp thế này thì được tích sự gì cho cô nếu chẳng ai thấy chúng. Vợ bác sĩ nói, Chúng ta đều có lúc yếu lòng, chúng ta còn có thể khóc là còn tốt, nước mắt thường là sự cứu rỗi của mình, có những lúc chúng ta sẽ chết nếu mình không khóc, Chẳng có gì cứu vãn mình, cô gái đeo kính đen nhắc lại, Nào ai biết, chứng mù này không như bất kỳ cái gì, nó có thể bỗng dưng biến mất như khi nó đến, Khi ấy quá trễ cho những ai đã chết, Chúng ta đều phải chết, Nhưng không bị giết và tôi đã giết một người, Đừng tự trách mình, chẳng qua tại hoàn cảnh, tất cả chúng ta ở đây đều có tội và vô tội, tệ hơn cách cư xử của những người lính đang ở đây để bảo vệ chúng ta, họ có thể viện cớ lớn nhất là sợ hãi, Phải chỉ cứ để anh chàng khốn nạn mơn trớn tôi thì ngay lúc này hắn còn sống, còn thân thể tôi vẫn chẳng mất mát gì, Đừng nghĩ tới nữa, nghỉ đi, cố ngủ. Bà theo cô gái về giường cô, Nào, lên giường, Bà rất tử tế, cô gái nói, rồi thấp giọng, Tôi không biết làm sao, tôi sắp có kinh mà tôi không mang theo băng vệ sinh, Đừng lo, tôi có. Hai tay cô gái đeo kính đen tìm nơi để bám, nhưng vợ bác sĩ dịu dàng cầm lấy chúng trong tay bà, Nghỉ đi, nghỉ đi. Cô gái nhắm mắt, nằm yên như thế một phút, đáng lẽ cô có thể thiếp ngủ nếu tiếng cãi nhau không bỗng dưng nổ ra, có người đi tới phòng vệ sinh và khi trở lại thấy giường mình bị chiếm, không do ác ý, anh chàng kia đã thức dậy vì cùng lý do, trên đường đi họ đi ngang nhau, và hiển nhiên chẳng ai nảy ra ý nói, Cẩn thận đừng vào lầm giường khi anh quay lại đây nhé. Đứng đó, vợ bác sĩ nhìn hai anh mù đang cãi nhau, bà thấy họ không làm cử chỉ nào, hầu như không cử động thân mình, nhanh chóng biết rằng bây giờ chỉ có giọng nói và thính giác của họ dùng cho mọi mục đích, đúng, họ có tay, họ có thể đánh, túm, đấm, như thường nói, nhưng nhầm giường chẳng đáng để nhặng xị lên, giá mà toàn bộ gian dối của cuộc đời chỉ như thế này, và họ chỉ phải thỏa thuận, Số hai của tôi, của anh số ba, hiểu dứt khoát chưa, Nếu mình không bị mù thì chuyện nhầm lẫn này sẽ chả bao giờ xảy ra, Anh nói đúng, vấn đề của mình là mình mù. Vợ bác sĩ nói với chồng, Toàn thế giới ở cả trong này.
Không hẳn tất cả. Chẳng hạn, thực phẩm ở bên ngoài, và lâu lắm mới tới. Từ cả hai phòng, một số người đã đóng đô trong tiền sảnh, đợi lệnh trên loa phóng thanh. Họ cứ lê bước, lo âu và nôn nóng. Họ biết họ phải ra sân phía trước để tìm thùng thực phẩm bọn lính theo lời hứa sẽ để ở giữa cổng chính và bậc thang, và họ sợ có âm mưu hay cạm bẫy nào đó, Làm sao biết tụi nó sẽ không bắn, Sau mấy chuyện tụi nó đã làm thì chuyện gì tụi nó cũng có thể làm, Đâu có tin tụi nó được, Tụi mày không bắt tao ra đó được đâu, Tao cũng không, Phải có người đi nếu mình muốn ăn, Tôi không biết chết vì bị bắn và chết đói cái nào hơn, Tôi đi, Tôi cũng đi, Mình không phải đi hết cả, Bọn lính có thể không thích, Hay lo sợ rồi nghĩ mình định trốn, có lẽ vì vậy tụi nó bắn cái ông bị thương ở chân, Mình phải quyết định, Mình cẩn thận không thừa đâu, thử nhớ chuyện xảy ra hôm qua, chín người chết không hơn không kém, Tụi lính sợ mình, Còn tôi sợ tụi nó, Tôi muốn biết họ có bị mù không, Họ là ai, Tụi lính, Theo ý tôi thì tụi nó nên bị trước tiên. Họ cũng đồng ý, nhưng không tự hỏi tại sao, và ở đó không ai cho họ một lý do chính đáng là, Vì khi đó bọn lính sẽ không thể nhắm súng. Thời gian cứ trôi qua, loa phóng thanh vẫn im tiếng. Các ông bà đã cố chôn người chết của các ông bà chưa, một ông mù trong phòng đầu hỏi để có cái mà nói, Chưa, Xác bắt đầu bốc mùi rồi gây bệnh khắp chung quanh, Ôi dào để nó gây bệnh khắp cả và bốc mùi lên tới mây xanh, tôi mặc kệ, tôi không định làm gì trước khi ăn, như có người đã nói, ăn xong rồi mới rửa nổi, Tục lệ đâu có vậy, câu cách ngôn của anh sai, đại khái là chôn người chết xong rồi kẻ đưa ma mới ăn cỗ. Với tôi thì ngược lại. Vài phút sau một trong mấy người mù này nói, Có một việc làm tôi băn khoăn, Việc gì, Làm sao mình phân phát thực phẩm, Như mình đã làm, mình biết mình có bao nhiêu người, đếm khẩu phần, mỗi người nhận phần mình, cách đó đơn giản và công bằng nhất, Nhưng không ổn, có mấy người không có thức ăn, và cũng có đứa lấy hai phần, Việc phân phát tổ chức kém, Tổ chức luôn luôn kém trừ phi người ta tỏ ra tôn trọng và có kỷ luật, Phải chỉ ở đây mình có ai thấy được một chút thôi, Ôi dào, hắn sẽ giở trò bịp bợm để bảo đảm lấy được phần nhiều, Tục ngữ có câu, xứ mù thằng chột làm vua, Tục ngữ với chả tục nghiếc, Nhưng ở đây thì khác, Ở đây ngay cả thằng lé cũng chẳng thoát, Như tôi thấy, giải pháp tốt nhất là chia thực phẩm đồng đều cho các phòng, rồi mỗi người có thể tự lo, Ai nói đó, Tôi, Tôi là ai, Tôi, Anh ở phòng nào, Phòng số hai, Ai mà tin trò khôn vặt như vậy, vì phòng số hai ít bệnh nhân hơn, dàn xếp như vậy có lợi cho họ và họ sẽ có ăn nhiều hơn mình, vì phòng mình đầy nghẹt, Tôi chỉ thử góp ý, tục ngữ cũng nói chia chác thật thà là cha dại dột, Như cứt, đủ tục ngữ lắm rồi, mấy câu tục ngữ này làm tôi nổi cáu, Điều mình nên làm là mang tất cả thực phẩm tới phòng ăn, mỗi phòng bầu ra ba người để làm việc chia phần, vì sáu người đếm thì ít bị lạm dụng hay gian dối, Rồi làm sao mình biết họ nói thật khi bên kia nói số người trong phòng họ, Mình làm việc với người thật thà, Lại tục ngữ nữa hả, Không, đó là tôi nói, Anh bạn ơi, tôi không biết về chuyện thật thà nhưng mình đói là cái chắc.
Như thế từ nãy giờ đợi câu mật mã, một ám hiệu, một chiếc chìa khóa thần kỳ, cuối cùng tiếng nói trên loa phóng thanh vang lên, “Chú ý, chú ý, các bệnh nhân có thể ra lấy thực phẩm, nhưng chú ý, nếu ai tới quá gần cổng sẽ nhận cảnh cáo sơ bộ, và nếu họ không quay lại tức khắc, lời cảnh cáo thứ hai sẽ là viên đạn”. Người mù bị nhốt từ từ tiến tới, vài kẻ tự tin hơn tiến ra bên phải, họ nghĩ sẽ tìm thấy cửa ở đó, kẻ khác không chắc lắm về khả năng định hướng của mình đành đi lướt theo vách tường, cách này không thể lạc lối, khi tới góc nhà họ chỉ cần rẽ phải theo bức tường và sẽ tìm thấy cửa ở đó. Tiếng hống hách trên loa phóng thanh sốt ruột nhắc lại lời gọi. Sự đổi giọng hiển nhiên ngay cả đối với kẻ không có lý do gì để ngờ vực, đã khiến những người mù bị nhốt kinh hoảng. Một người trong bọn tuyên bố, Tôi không nhúc nhích khỏi đây đâu, tụi nó muốn thộp mình bên ngoài rồi giết cả bọn mình, Tôi cũng không đi nữa, một người khác nói, Tôi cũng không, người thứ ba thêm vào. Họ khựng lại tại chỗ, lưỡng lự, vài người muốn đi, nhưng sự sợ hãi đã lấn át họ. Tiếng nói lại vang lên, Nếu trong ba phút nữa không ai xuất hiện để nhận mấy cái thùng, chúng tôi sẽ lấy đi. Lời đe dọa này không làm họ vượt qua được sợ hãi, mà chỉ đầy nỗi sợ vào góc sâu nhất của tâm trí, như con thú bị săn đuổi đợi cơ hội tấn công. Người này cố nấp sau kẻ kia, những người mù bị nhốt di chuyển một cách sợ sệt ra đầu cầu thang. Họ không thấy các thùng thực phẩm không nằm dọc theo sợi dây hướng dẫn như họ mong đợi, vì họ không biết bọn lính sợ bị lây đã không chịu tới gần sợi dây mà người mù đang nắm. Các thùng thực phẩm được chồng lên nhau, đại khái gần chỗ vợ bác sĩ đã nhặt cái xẻng. Viên trung sĩ ra lệnh, Tiến tới, tiến tới. Lúng túng, người mù cố làm thành một hàng để tiến tới một cách trật tự, nhưng trung sĩ gầm lên, Các ông không tìm thấy mấy cái thùng ở đó đâu, buông sợi dây ra, buông nó ra, đi qua bên phải, bên phải của các ông, bên phải của các ông, đồ ngu, các ông đâu có cần mắt mới biết bên nào của các ông có cái tay phải. Lời cảnh cáo đưa ra đúng lúc, một số người mù ti mỉ trong mấy việc này đã diễn giải lệnh một cách nôm na, nếu là bên phải thì theo logic sẽ là bên phải của người đang nói, vì thế họ cố luồn dưới sợi dây để tìm mấy cái thùng chỉ có trời biết ở đâu. Trong tình huống khác, cảnh lố bịch này sẽ làm phần lớn khán giả có chừng mực cũng phải rú lên cười, khôi hài hết chỗ nói, một số người mù bò tới, mặt họ gần chạm đất như đàn lợn, một cánh tay vươn lên trời, trong khi mấy người kia có lẽ sợ vùng không gian trắng không có mái che sẽ nuốt chửng họ, tuyệt vọng bám lấy sợi dây và chăm chú lắng tai, đợi nghe tiếng đắc thắng đầu tiên khi có kẻ tìm được mấy cái thùng. Bọn lính đáng lẽ đã nhắm súng và bắn mà không ân hận tụi đần độn đang di chuyển trước mắt chúng như bầy cua gãy càng, đang lóng ngóng quơ càng tìm cái chân gãy của chúng. Sáng hôm đó tụi lính đã nghe trung đoàn trưởng nói tại doanh trại, vấn đề của bọn mù bị nhốt này chỉ giải quyết được bằng cách quét sạch họ, bọn đã ở đó và bọn sắp vào, khỏi cần quan tâm nhân đạo giả dối, đúng từng chữ của ông, giống như người ta cưa bỏ cái chân bị hoại tử để cứu cả người, Chó dại chết, ông nói để minh họa, bệnh dại chết theo. Đối với vài tên lính thiếu bén nhạy với cái đẹp của ngôn ngữ văn hoa, chúng khó hiểu một con chó dại dính líu gì tới người mù, nhưng lời nói của trung đoàn trưởng đáng giá ngàn vàng, một lần nữa nói một cách văn hoa, chả ai lên tới chức cao như vậy trong quân đội mà không nghĩ, nói và làm đúng tất cả mọi việc. Cuối cùng một ông mù va vào mấy cái thùng và kêu lên khi đã nắm lấy chúng, Đây rồi, đây rồi, nếu ngày nào đó người đàn ông này phục hồi lại thị lực, ông chắc chắn sẽ không tuyên bố một tin kỳ diệu với niềm vui lớn hơn như thế. Trong vài giây, những kẻ khác đã vồ lấy mấy cái thùng, tay chân hỗn loạn, mỗi người kéo một thùng về phía mình và đòi ưu tiên, Tôi khiêng nó, không, tôi sẽ khiêng nó. Những kẻ còn nắm sợi dây bắt đầu cảm thấy nôn nóng, bây giờ họ sợ chuyện khác, sợ khi phân chia thực phẩm họ có thể bị loại ra vì lười biếng hay hèn nhát, À, mấy ông không chịu bò xuống đất, chổng mông lên trời và chịu rủi ro bị bắn, mấy ông khỏi ăn, hãy nhớ câu cách ngôn, có khó mới có miếng ăn. Tin vào câu dạy đời này, một người mù buông sợi dây ra rồi đi, hai tay đưa về phía huyên náo, Họ không thế bỏ rơi mình, nhưng tiếng ồn chợt im và chỉ còn tiếng người bò trên mặt đất, tiếng than vãn tắc nghẽn, một khối âm thanh phân tán và hỗn loạn đến từ mọi phía và hư không. Ông ngừng lại, do dự, cố đi ngược về chỗ an toàn của sợi dây, nhưng ông đã mất hướng, bầu trời trắng của ông không một ngôi sao, và bây giờ có thể nghe tiếng trung sĩ ra lệnh cho bọn đang tranh nhau mấy cái thùng trở lại bậc thang, vì điều ông đang nói chỉ có thể là nói với họ, Để tới chỗ các ông muốn tới thì phải tùy là các ông đang ở đâu. Không còn người mù nào nắm sợi dây, họ phải quay lại chỗ cũ hết, và bây giờ họ đang đứng ở đầu cầu thang đợi kẻ khác về. Ông mù mất hướng không dám đi khỏi chỗ của mình. Trong tình thế đau khổ, ông bật lên một tiếng kêu lớn, Làm ơn giúp tôi với, ông không biết bọn lính đã chĩa súng vào ông và đợi ông bước qua lằn ranh vô hình giữa sống và chết. Đứng đó cả ngày hả, thằng mù kia, trung sĩ hỏi bằng giọng hơi hốt hoảng, thật ra hắn không cùng ý kiến với chỉ huy trưởng, Ai có thể bảo đảm là ngày mai mình không gặp số phận đó, còn bọn lính thì rõ ràng chỉ cần nghe lệnh là chúng giết, nghe một lệnh khác là chúng chết, Tụi mày chỉ bắn khi tao ra lệnh, trung sĩ quát. Câu nói này khiến ông mù nhận ra rằng mạng sống của ông đang gặp nguy. Ông khuỵu xuống van xin, Làm ơn giúp tôi với, chỉ cho tôi chỗ phải đi, Cứ bước tới, ông mù, cứ bước tới hướng này, một tên lính gọi từ xa bằng giọng thân thiện giả dối, người đàn ông mù đứng lên, đi ba bước, rồi chợt ngừng lại, cách dùng động từ làm ông ngờ vực, cứ bước tới hướng này không giống như cứ đi, cứ bước tới hướng này bảo ta rằng hướng này, đúng hướng này, theo phía này, ta sẽ tới nơi ta được gọi tới, chỉ để lãnh viên đạn thay thế một dạng mù này bằng một dạng mù khác. Sáng kiến này chúng ta có thể mô tả là tội ác do một tên lính có thành tích bất hảo đưa ra, và trung sĩ lập tức cản lại bằng hai lệnh gay gắt liên tiếp, Đứng lại, Đằng sau, quay, theo sau là một lệnh nghiêm khắc cho thằng mất dạy này, hắn có diện mạo của loại người không thể tin tưởng để giao cho khẩu súng. Phấn khởi vì sự can thiệp tử tế của trung sĩ, những người mù đã tới đầu thang bỗng làm huyên náo dữ dội như để làm cột nam châm cho ông mù lạc đường. Giờ đây tự tin hơn, ông tiến thẳng tới, Cứ hét lên, cứ hét lên, ông van xin họ, trong khi những người mù kia hoan hô như đang nhìn một người năng nổ nhưng mệt nhoài sắp hoàn tất một cú chạy nước rút dài. Ông được chào đón nhiệt liệt, ít nhất họ có thể làm như thế, trong nghịch cảnh đã biết hay có thể dự đoán, mình biết bạn mình là ai.
Mù Lòa Mù Lòa - José Saramago Mù Lòa