The oldest books are still only just out to those who have not read them.

Samuel Butler

 
 
 
 
 
Tác giả: Brian D’Amato
Thể loại: Tiểu Thuyết
Nguyên tác: In The Courts Of The Sun
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 37
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2523 / 64
Cập nhật: 2015-08-20 15:26:33 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 22
2
Hai chiếc thuyền đi biển, đội phu chèo và những người đi tiền trạm của chúng tôi đã chờ sẵn tại địa điểm hẹn trước trên bờ biển, một bãi cát kín đáo nằm cách cửa sông ba dặm về hướng bắc. Chắc nó cũng chẳng lấy gì làm bí mật vì có phải đến ba trăm người lôi thôi lốc thốc đứng vây quanh trên một dải cát vàng mịn như bơ, lốm đốm những mỏm dung nham đen sì và xác một con cá mập chanh lềnh phềnh trong vũng nước nông. Chuyến hành trình của chúng tôi bị trì hoãn đôi chút khi các chủ thuyền nói sau vụ núi lửa phun trào, những người chèo thuyền của họ sợ bị nữ thần Cóc Đất luộc chín và ăn thịt nên chúng tôi sẽ phải bơi ở khoảng cách xa bờ hơn bình thường. Và vì thế, họ bắt chẹt chúng tôi số tiền cao hơn mức họ vừa đồng ý trước đó có vài giờ. Ngoài ra, chúng tôi còn phải thuê thêm một k’al maac có tiếng ở vùng này. Hắn từa tựa như người mà ở châu Phi họ gọi là inyanga, thầy lang nước; hắn sẽ giữ cho thuyền chúng tôi khỏi chìm bằng cách liên tục khấn vái, đổ dầu xuống nước khi biển động và những trò tương tự. Lúc đầu tôi nghĩ hắn chẳng qua chỉ là một loại bịp bợm, nhưng sau này, có lần tôi thấy hắn chơi một ván cờ Hiến tế kỳ quặc và hết sức giản lược để xem thời tiết biển. Mưa Chết 18 lo việc mặc cả và rốt cuộc chúng tôi cũng được lên thuyền. Toán vệ sĩ của chúng tôi ở lại trên bờ. Họ canh chừng xem chúng tôi còn bị bám đuôi hay không và sẽ đuổi theo sau. Chúng tôi cúng máu cho Người Đưa Nôi của hướng Tây Bắc rồi khởi hành.
Tôi nghĩ việc nhét hơn hai trăm người lên hai chiếc thuyền có vẻ không khả dĩ lắm, nhưng hai chiếc thuyền này không phải loại nhỏ. Tôi áng chừng mỗi chiếc dài khoảng chín mươi nhăm feet. Đây là loại thuyền được đẽo, hay đúng hơn, được đốt từ thân cây gỗ gụ, to phải bằng cây Luna (Một cây tùng già gần nghìn tuổi ở bang California), nữ hoàng của những cây tùng. Chiếc đi đầu có cái cổ dài vươn ra ở mũi thuyền với cái đầu bé tí khiến nó giống hệt một con khủng long cổ dài, còn chiếc thứ hai, có tôi ngồi trên đó, được gắn cái đầu như đầu tôm hùm với hai sợi râu. Thân thuyền màu đen khắc những ký tự màu trắng và da cam, được đánh bóng bằng mỡ lợn biển. Chúng còn có cả mái vòm nên nhìn không khác gì thuyền rồng của nữ hoàng Cleopatra, nhưng Cá Sấu 12 đã bắt phu chèo thuyền dỡ chúng xuống để chạy cho nhanh. Không hề có lá buồm nào. Hay mình dạy họ làm một cái nhỉ, - tôi nghĩ bụng. Thôi đừng. Đừng gây sự chú ý.
Sau khi qua khỏi vùng sóng mạnh gần bờ một cách an toàn, các k’iik có vẻ nhẹ nhõm. Cuối cùng họ cũng có thể tán gẫu một chút, lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi rời làng Cacao.
- Ac than a puch tun y an I pa oc’ in cabal payee tz’oc t pitzom?- giọng một ai đó hỏi. (Anh có nhớ cái lần chúng ta chơi ở đây và anh đánh lòi cả mắt một tên tiền đạo không?)
Phải mất một giây tôi mới nhận ra câu ấy là dành cho tôi.
- B’aax? - người đó hỏi tiếp. Nó đại để giống câu: “Này, Thằn Lằn Chân Lùn 10, tỉnh mộng đi nào”.
Đó là Tay 2, em trai Hun Xoc. Nó ngồi phía sau tôi, còn Hun Xoc ngồi đằng trước. Hai nhân vật quan trọng khác ngồi cùng trên chiếc thuyền này là Bướm Đêm 3 – người ghi nhớ – và Lưỡi Cưa 4, một trong năm người giả dạng tôi. Đầy tớ của ai ngồi bên trái người ấy. Tôi quay lưng lại.
- Ma’ax ca’an, - tôi đáp. (Đó không phải là tôi).
- Hắn ngã xuống và anh đánh quả bóng đập vào sau đầu hắn mà. Cái khăn giữ cho hắn khỏi vỡ đầu nhưng một bên mắt hắn bật ra. Tay 2 to béo và vuông chành chạnh với khuôn mặt hăm hở, nó kéo mí mắt phải lên và cố làm cho con ngươi lồi ra hết mức. - Hắn vẫn nhìn được bằng con mắt bên kia nên cố thử nhét con mắt bị lòi vào hốc mắt nhưng không được, thế là, chẳng biết làm gì nữa, hắn biết mình sắp ngỏm và không muốn chúng ta lấy được nó, hắn liền ăn nó.
- Tôi không nhớ chuyện đó, - tôi đáp.
- Mày nên ăn một bát bột sắn thật to đấy. – Hun Xoc bảo Tay 2. Đó là một câu thành ngữ, ý nói: “thôi ngay”. Chacal đang trải qua quá trình giống như “cắt đứt” với cuộc sống, và việc hỏi han về những chuyện xảy ra với anh ta trước khi cái xác được chuyển sang cho tôi rất dễ dẫn đến việc vi phạm điều cấm kỵ: đó là cái tên cũ của tôi không được phép nhắc đến nữa. Nhưng Tay 2 không để tâm đến những chuyện như vậy.
Tôi nghe thấy Lưỡi Cưa 4 cố nén một tiếng rúc rích.
- Chuyện xảy ra như thế thật à? – tôi hỏi.
- Không hẳn thế đâu, - Hun Xoc nói.
- Chính xác là như thế đấy, - Tay 2 cãi. – Anh còn nhớ Vảy Ghẻ 22 không? – nó hỏi tôi.
Tôi lắc đầu.
- Hắn là một trong những tên làm vườn của Bóng 3, - Hun Xoc chen ngang, - mặt hắn đầy mụn cơm và rất khó coi. Hắn luôn đi tắm hơi một mình. Nhưng có một lần, Rắn Chuông 22 bất chợt bước vào và nhìn thấy đầu chim hắn bị cắt cụt. Và hắn không chịu kể cho chúng ta chuyện ấy xảy ra như thế nào.
- Anh có nhớ chúng ta đã phát hiện ra chuyện đó như thế nào không? Với Tóc Cứt ấy? – Tay 2 hỏi.
- Cậu hỏi tôi à? – tôi hỏi lại.
Nó gật đầu.
Tôi lắc đầu. Tôi quan sát Tay 2 qua tấm mặt nạ. Nó tin câu chuyện đó đến mức nào nhỉ? – tôi nghĩ ngợi, - chuyện tôi quên mình là ai ấy mà. Rõ là nó không nghĩ tôi đã thành một người hoàn toàn khác, tuy nó vẫn hơi e dè. Và tất cả những người ngồi trên con thuyền này, tất cả những người tham gia chuyến hành trình này nữa, họ tin câu chuyện đó đến mức nào? Liệu họ có tin tất cả những gì Sọ Đá Quý 2 nói, hay chỉ chấp nhận thế thôi? Họ có phải lũ đần đâu. Nhưng mặt khác, ở đây người ta cũng không có nhiều ý niệm về sự nghi ngờ tôn giáo. Có lẽ mỗi người trong số họ suy nghĩ một khác. Người thì tin, người thì nghĩ các vị thủ lĩnh của mình đang phóng đại mọi chuyện.
Và đương nhiên, ngay cả khi họ có tin đi chăng nữa, họ cũng vẫn tức giận tôi vì đã làm hỏng việc của Chacal. Hẳn là Sọ Đá Quý 2 có giải thích với họ chuyện này, ông ta nói tôi đến cũng là để cứu Chacal nữa… song thể nào cũng còn chút oán giận. Và có lẽ cả sợ sệt nữa. Họ không chắc tôi có phải là người hay không.
Thôi, đừng có hoang tưởng nữa. Mọi chuyện có phải chỉ xoay quanh mày đâu.
Tay 2 nói tiếp:
- Ờ, trên đường thi đấu ở đây về, chúng ta đã nghĩ lại ở cái làng mọi này. Có một k’aak – tức là một con bé mọi – nó muốn ngủ với tất cả chúng ta, tất cả những người chơi bóng hông. Nó có mớ tóc dài với những vệt màu nâu. Lúc nào nó cũng luẩn quẩn xung quanh và họ gọi nó là Tóc Cứt. Anh nhớ không?
- Không, - tôi đáp. Thực ra tôi cũng thấy gợi gợi lên chút gì đó trong đầu, nhưng phải cần thêm gợi ý thì mới nhớ ra được.
- Thế anh cũng không nhớ lúc anh đang ngủ thì Bướm Đen 1 xát c’an aak’ot vào chim anh à?
Tôi lại ra hiệu “không”.
- Thế chuyện gì xảy ra? - Lưỡi Cưa 4 hỏi.
- À, Cha… À… anh này tỉnh dậy, - Tay 2 nói, - anh ta nhảy dựng lên, nắm cái ấy, nhảy tưng tưng và gào lên: “Nó căng quá! CĂNG QUÁ!!!” - Chắc c’an aak’ot là một loại ma tuý nào đấy gây ảo giác kích thích dương vật – Anh ta chạy cuồng lên quanh sân và nhìn thấy Tóc Cứt. Anh ta kêu lên: “a ha!”, tóm lấy con bé và “ấy” vào lỗ đít nó. Thế là, một lúc sau, anh ta thấy thoải mái, ngồi lau sạch cái của quý của mình, nhưng lại đến lượt Tóc Cứt nhảy tưng tưng lên. Nó gào: “Ui, ui, ui, ui, ui, ui!”.
Chắc các bạn cũng hình dung ra Tay 2 vừa bắt chước các giọng kêu, vừa đùng đùng diễn lại động tác đó làm chuyển cả con thuyền.
- Thế là nó ngồi xổm xuống và ị. Cứt tuôn ra và tất cả chúng tớ đứng nhìn. Lát sau, con bé ỉa ra cả ruột. Và cứ thế lòng ruột tuôn ra từ đít nó, cuộn thành một đống dưới đất, một con chó chạy đến, đớp lấy một đầu và chạy đi, làm chỗ lòng bị lôi tuồn tuột tiếp ra. Nó bắt đầu ăn, lòng ruột cứ thế bị lôi ra, Tóc Cứt mặt nhăn nhúm lại như thế này này, và một đoạn lòng có một cục lồi lên. Thế là anh này - ý nó nói tôi - giật chỗ lòng ra khỏi miệng con chó, đẩy cái cục kia ra đằng đầu ruột đã bị nhai nát. Nó rơi xuống đất. Một thứ khẳng khiu, nhăm nhúm và đầy mụn cơm. Đó là cái đầu chim của Vảy Ghẻ 22! Thế là anh này hét lên: “Cái chim này có ở đâu thì tao cũng nhận ra! Nó là của Vảy Ghẻ 22! Thằng nào đi tìm nó về đây đi! Chúng ta tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi!”.
Mấy thằng đầy tớ phải cắn chặt môi để nén tiếng rúc rích. Bướm Đêm 3 và Lưỡi Cưa 4 thì cười rũ ra. May mà những người chèo thuyền không hiểu thứ tiếng riêng của nhà chúng tôi.
- Tôi không biết chuyện này đấy, - tôi nói. Và tôi cũng lăn ra cười. Có lẽ nó cố tình làm thế. Các bạn mà được ở đó thì…
- Đủ rồi, - Hun Xoc nói, - thôi đi. Bọn Búa Lớn có thể ngửi thấy mùi chúng mày đang căng cứng lên đấy.
Không biết tôi đã nhắc tới chuyện này chưa, nhưng chúng tôi không được phép sa đà vào bất cứ thể loại nào liên quan đến tình dục trong chuyến đi này. Một chuyến đi dài cũng được coi giống như một chuyến đi săn thiêng liêng. Anh thậm chí không nên “dựng lều” nếu có thể nén được, bởi, như Hun Xoc nói, nó sẽ khiến kẻ thù ngửi thấy mùi chúng tôi, giống như đánh động con mồi trong chuyến đi săn. Nhưng dĩ nhiên, đám k’iik này phần lớn vẫn còn là trẻ con, và dĩ nhiên, là giống đực.
- Chúng ta phải là sac kanob, - Hun Xoc nói tiếp. Sac kanob nghĩa là rắn mũi thương. Câu đó ý nói rằng hơn tất cả các loài rắn khác, rắn mũi thương nhanh, khó phát hiện, và đặc biệt là lặng lẽ.
Tay 2 bèn ngồi yên.
- Hơn nữa, - Hun Xoc nói, - mày thêm thắt cũng quá đấy. Có một đoạn ngắn tí bị lòi ra thôi.
Nó ngả người ra và nhét một nhúm thuốc lá nhai vào miệng. Trời đã sập tối. Không còn chút ánh le lói nào. Sau khi đi qua một đống lửa hội mừng ở Comalcalco, chúng tôi rẽ về hướng tây bắc – hướng của thần chết – lái thuyền chạy vuông góc với hai ngôi sao của Teotihuacán, ngôi Kền Kền Cái và Vết Thương Của Kền Kền Cái; đó chính là ngôi sao mà ngày nay chúng ta gọi là Thuban và vệ tinh màu đỏ của nó: Alpha Draconis. Vào năm 3113 trước công nguyên, năm bắt đầu của hệ thống lịch Long Court, Thuban chính là ngôi sao nằm ở vị trí sao bắc đẩu. Tôi chưa từng nhìn thấy màu đỏ của nó rõ đến thế, kể cả qua kính viễn vọng. Hun Xoc nói chúng tôi đang tiến đến gần hai ngôi sao đó, gần đến mức có thể nghe thấy tiếng chúng kêu xèo xèo khi chạm vào mặt nước. Tôi có thể nghe thấy âm thanh mà thằng bé ám chỉ. Tiếng động đó nghe như tiếng xèo xèo của đầu mẩu thuốc lá rơi xuống vũng nước mưa, nhưng dĩ nhiên đó chỉ là tiếng sóng biển. Đám vi khuẩn phát sáng lập lòe theo mỗi nhịp mái chèo nhúng xuống nước, hệt như tia sáng bắn ra theo nhịp đập đá lửa. Trước lúc bình minh, thời khắc thích hợp nhất để tập trung, tôi ngả người qua mạn thuyền – cố tránh nhìn vào cái bóng của khuôn mặt mới vì nó luôn làm tôi hoảng hồn – và thử điểm danh các loài lưỡng tính. Có tôm bạc hà, những con nhuyễn thể bơi thành từng dải dài đỏ quạch, những con sứa khổng lồ và một loài có hình phiến lá oải hương nhìn như sứa răng lược nhưng tôi không nhận ra là loài nào. Có lần, tôi nhìn thấy một con mà tôi biết chắc chắn chưa từng được mô tả, nhưng khi tôi thò tay xuống định tóm lấy nó thì trong nước đầy nọc sứa làm tay tôi ngứa ran, thế là hụt.
Toán vệ sĩ bắt kịp chúng tôi vào buổi trưa. Họ đi trên một chiếc thuyền thân hẹp giống thuyền đua với mười người chèo và mười người nghỉ chờ tiếp sức. Hun Xoc và các k’iik khác đã đặt tay lên cây lao, nhưng chiếc thuyền được quấn những tràng hoa giấy mang màu sắc của thị tộc Đại Bàng, và khi đó đến gần thì họ nhận ra. Thuyền chúng tôi đi sát vào bờ và đậu vào chỗ khuất gió của một bãi cát nổi.
Gã chỉ huy leo lên thuyền của tôi và đi ra phía cuối thuyền. Người ngồi lái rời khỏi vị trí, hắn cùng những người khác đi ra mũi thuyền để năm chúng tôi, lần này có cả tôi, bàn chuyện.
Có một toán đông đang bám theo chúng tôi, gã vệ sĩ nói, ít nhất là mười hoặc mười lăm người, chính là những kẻ đã theo chúng tôi trên sông.
Chúng tôi không cưỡng được cái quay đầu nhìn về hướng đông. Trên mặt nước có vô số thuyền bè, nhưng hắn nói chúng còn cách quá xa nên chưa thể nhìn thấy.
Cá Sấu 12 ra lệnh cho lính trinh sát lên bờ, thuê hai chiếc thuyền nhỏ hơn và theo dõi những kẻ đang theo dõi chúng tôi. Trong lúc đó, chúng tôi sẽ vượt thật xa chúng. Nếu chúng biết chúng tôi đang đi đâu, chúng sẽ không rời khỏi mặt nước, bằng không, chúng sẽ đỗ lại ở tất cả các cảng để kiểm tra xem chúng tôi có đi qua đấy không.
- Và đừng quay về đoàn khi chưa phát hiện chắc chắn chúng là ai – ông ta dặn.
Kết cục là, thay vì lên bờ hôm nay, chúng tôi lại tiếp tục lên đường, ra xa ngoài khơi, đi chếch về hướng bắc thay vì tây bắc và thưởng cho những người chèo thuyền món đầu tiên để họ tăng tốc. Đêm nay, chúng tôi sẽ đổi hướng một lần nữa về phía tây để cắt cái đuôi lẵng nhẵng đằng sau. Đội lính gác quan sát chân trời phía sau chúng tôi, dùng những tấm da cuộn lại như ống nhòm, nhưng sương mù mỗi lúc một dày, hay đúng hơn là mờ mịt nên họ không phát hiện được điều gì khả nghi.
Sáng ra, mặt nước gợn vết mỡ loang óng ả từ xác cá voi và lều phều những con cá chép trương phềnh. Chúng tôi không nhìn thấy, cũng không cảm thấy bụi rơi xuống người, nhưng ai nấy đều xám đen đi, và nếu có người quết một miếng giẻ ướt lên mặt chúng tôi thì nó sẽ đen sì đi lập tức. Xác cá chết thu hút những con mòng biển từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Tôi không nói quá đâu. Chắc chắn thế đấy. Có những con chỉ nhỏ bằng con quạ, nhưng cũng có những con to phải bằng loài khủng long có cánh. Khi chúng tôi đi qua cái xác trắng bị rỉa nham nhở của một con cá heo – tôi đoán thế - thì vô số mòng biển cất cánh bay lên, nhiều đến mức những người chèo thuyền tưởng chúng được ấp nở ra từ trong xác con cá. Ruồi nhặng nữa, đông đặc, đến gió biển cũng chẳng đủ để xua bớt đi, thế nhưng Cứt Ta Tu rất chịu khó, nó liên tục dùng túm phất trần tết bằng tóc phủi người cho tôi, vài giờ mới đổi tay một lần cho đỡ mỏi. Khổ thân thằng bé.
Đêm thứ chín kể từ khi rời Ix, biển bắt đầu trở gió. Họ dùng những tấm ván dài nối hai chiếc thuyền lại với nhau để tạo thành một kiểu thuyền đôi. Chúng tôi buộc phải bơi xa bờ hơn nữa để đề phòng gió mạnh có thể đẩy chúng tôi về phía vách đá. Bão rồi, - tôi nghĩ, - chúng ta thành mồi cá mú mất. Thôi rồi lũ chim biển. Chúng tôi sẽ đâm phải chúng trước tiên. Nhưng cái cơn phải gió ấy cũng qua đi và áng chừng khoảng ba giờ sáng, mặt trăng to lớn, đỏ quạnh hiện ra từ sau những đám mây, nhìn hệt như nửa viên thuốc Valium 5 miligam, rơi tõm xuống mặt nước. Hôm sau, chúng tôi cập cảng một thành phố tiền đồn của người Teotihuacán có tên là Nơi Chúng Bị Mù Mắt, nằm bên bờ bắc của một hồ nước sau này được gọi là Laguna de Alvarado. Nó thực ra chỉ gồm những con đường đắp bằng bùn dẫn xuống một cửa sông nước nông, đậu chật kín nào thuyền, nào xà lan với những đội chèo thuyền nói năm mươi thứ tiếng khác nhau. Có cả một khu trại lớn nơi những người thợ ướp muối ướp thịt chuột đầm lầy và cá phèn, dù đã có gió xua bớt nhưng ở đây vẫn ám mùi thối của cá ươn và không khí nói chung có mùi khó chịu.
Trong khi các ông lớn mặc cả, Tay 2 và Cứt Ta Tu đặt tôi ngồi vào một thứ dạng như cái lều di động đan bằng cành liễu, tựa như cái xe tắm (Một loại xe dành cho người đi tắm biển, thịnh hành vào thế kỷ 19. Chiếc xe chở người tắm ra đến mép nước và người tắm từ trên xe lội thẳng xuống nước để tránh phải đi một quãng đường dài trước mắt thiên hạ trong bộ đồ tắm). Tôi lấy ra một tập giấy gấp mới với cái bìa còn trắng tinh. Tôi định dùng một mẩu than chì nhưng Bướm Đêm 3 đã kiếm được cho tôi vài mảnh quặng sắt đỏ có thể vạch nét khá rõ trên nền đá phấn, không kém gì trâm bạc. Thế là sẵn sàng.
Tôi viết thêm một bức thư gửi về nhà dưới dạng mã hoá như sau:
(đã giải mã)
TỪ KHÓA MỚI: AWHNNBAGHSDDLPFSETQHYTAHBDSZ
Jed DeLanda
Viết tại: Tacoanacal Pana’ Tonat (Alvarado)
Gửi: Nhóm Chocula
Tại: Phế tích Ix, Alta Verapaz, Guatemala.
Khoảng 11 giờ sáng, thứ Tư, ngày 31 tháng 3 năm 664 Công nguyên.
Marena, Taro, Jed và mọi người thân mến,
Chắc mọi người cũng nhận thấy, trong bức thư đầu tiên, tôi đã định thử mô tả một số nét đặc trưng của địa phương nhưng lại thôi. Trong phần này, tôi sẽ chỉ tập trung vào vấn đề chính. Như tôi đã nói, nhiệm vụ đầu tiên của tôi khi đến Teotohuacán là tìm cách diện kiến người phụ nữ được nhắc đến trong cuốn Thư tịch Nurnberg, Ahau-na Kor. Sau đây là những gì tôi tìm hiểu được về bà ta, cho đến lúc này:
Bà ta sinh, hay chính xác hơn, được đặt tên vào ngày Đỉnh núi 1, Ngỗng trắng 1. 9.10.13.13.13, tại một thành phố nhỏ ở B’aakal tên là Mía ủng, thuộc quần thể bao quanh Lakama, Palenque. Bà ta là người thuộc gia tộc cai trị thành phố đó, những người được coi là hậu duệ của loài chim chứ không phải loài mèo, và là con cháu của bà ngoại Sọ Đá Quý 2. Từ khi lên năm tuổi, bà ta đã bộc lộ năng khiếu và một người đếm mặt trời ở Hội Rắn Chuông Lakamha đã dạy bà ta chơi cờ Hiến tế. Bà ta chơi xuất sắc một cách khác thường, và sáu năm sau, Hội Rắn Chuông đã gửi bà ta đến Teotihuacán để học tiếp với Nhện Dệt Cầu Vàng, một dạng giống như nhà tu kín dành cho nữ giới phụng sự trong dòng tu thờ Rắn Chuông ở đó.
Tôi nghĩ tôi nên nhắc tới điểm này, ngay cả khi nó làm câu chuyện trở nên rối rắm: Nhện Dệt Cầu Vàng – nó được lấy theo tên loài nhện dệt cầu vàng có tên khoa học là nephila clavipes – là một bộ phận thuộc cái gọi là Kền Kền, hay Trắng, hay Thời Bình, chính là một nửa Giáo hội của Teotihuacán.
Mục đích của việc này có lẽ là để củng cố mối quan hệ giữa Lakamha và Teotihuacán. Mặc dù Kor phải chính thức tuyên bố từ bỏ quan hệ với gia đình để gia nhập dòng tu thờ phụng Rắn Chuông, nhưng mối liên hệ đó vẫn có lợi ích chính trị đối với gia đình bà ta, nhất là nếu như sau này bà ta quay về. Sọ Đá Quý 2 có nói rằng khi công nương Kor rời nhà, thủ lĩnh của tất cả các thị tộc họ chim trong vùng đã gửi quà biếu. Sọ Đá Quý 2 tặng bà ta một người làm trò uốn dẻo rất giỏi tên là Nhím 0, và hình như đến giờ hắn vẫn là tên hề được bà ta sủng ái nhất. Ở Teotihuacán, bà ta là một trong số rất ít phụ nữ trở thành người đếm mặt trời chín sọ, một trong những người biết cách sử dụng, và có thể biết cách pha chế các loại ma tuý của trò chơi. Người ta đồn rằng bà ta có thể nói chuyện với ruồi và sau mỗi mùa hòa bình lại thay da một lần. Giống như một vài thành viên Maya khác trong dòng tu, Kor hoặc đã quyết định không trở về vùng đất của người Maya, hoặc đã bị ngăn trở bởi những khúc mắc căng thẳng giữa đạo thờ Rắn Chuông và các thị tộc cai trị. Người ta còn đồn đại nhiều chuyện khác nữa, nào là áo quần bà ta mặc được dệt bởi những con nhện, nào là bà ta nhớ được cả lúc nằm trong bụng mẹ, nào là bà ta có thể tự lột bỏ da. Hội Rắn Chuông Sao của Teotihuacán được sáng lập bởi một ahau lai dòng máu Maya tên là Xc’ux Tsuc 11(nghĩa là Rắn San Hô 11), người đã đưa gia tộc của mình đến định cư tại thành phố này vào ngày mùng 9 tháng 8 năm 106 Công nguyên. Nó lớn mạnh một cách vững chắc qua nhiều thế kỷ. Trong khi đó, hội đồng của thành phố vẫn bị chi phối bởi hai thị tộc Kền Kền và Bướm Đuôi Nhạn. Nhưng từ tám năm trước, hai thị tộc lớn này và các dòng tộc chi nhánh của họ lên tiếng đòi lại vị trí thống trị tôn giáo cho các vị thần bảo trợ của họ là Bão Lốc, hay còn gọi là Ông Già Nhăn Nheo, và Koatalatcacalanako, nữ thần nước có nanh mà họ gọi là Phù Thủy Ngọc Bích. Hội Rắn Chuông bị hạ bệ và bị buộc phải xây một bức tường chắn tầm nhìn của Kim Tự Tháp Rắn Chuông xuống quảng trường chợ thiêng liêng của Teotihuacán, nơi trước đó do họ cai quản. Do vậy, Nhện Dệt Cầu Vàng có thể đang bị chèn ép và có lẽ họ sẽ sẵn sàng thỏa hiệp với tôi để thoát khỏi tình thế đó. Chúng ta sẽ chờ xem.
Tôi vẫn chưa có kế hoạch nào khả dĩ hơn. Phải thú nhận rằng tôi đã tính đến chuyện chuồn đi và dựng lên một nhân vật tựa như Jim – Chúa tể rừng xanh. Biết đâu tôi có thể chiếm được cho mình một cái làng hẻo lánh chết toi nào đó, huấn luyện họ bắn cung rồi dẫn quân về Ix và lật đổ cái thành phố ấy. Nhưng để làm được việc ấy, phải cần đến rất nhiều thời gian mà tôi không có.
Tôi cũng tự hỏi liệu còn cách nào khác để giải quyết chuyện này. Chẳng lẽ không có người đếm mặt trời chín sọ nào ở gần Ix hơn để chúng tôi có thể bắt giữ và ép khai ra cái bí mật kia?
Nhưng khi tôi đề xuất việc này với Sọ Đá Quý 2, ông ta đưa ra ba lý do phản đối rất hợp lý.Thứ nhất, những người đếm mặt trời của thị tộc mèo kia thà chết chứ không bao giờ để bị bắt. Cái chết đối với họ chẳng là gì sất, anh chỉ cần nhìn họ với ánh mắt hơi là lạ thôi là họ sẽ tự vẫn ngay. Và ngay cả khi anh bắt được một người và giữ hắn không tự tử được đi chăng nữa thì cũng chẳng có cách nào khiến hắn nói thật cho anh bất cứ điều gì. Người ta luôn cho rằng chẳng ai có thể chịu đựng được mãi dưới những ngón tra tấn lành nghề, nhưng điều đó không đúng, chí ít là ở đây. Theo lời Sọ Đá Quý 2, anh có thể khiến một người kêu gào suốt hai mươi tư giờ một ngày, bảy ngày một tuần trong hai mươi năm liền nhưng cũng đừng hòng hắn cho anh biết bây giờ là mấy giờ. Thứ hai, những người đếm mặt trời ở vùng này chỉ có một lượng nhỏ thuốc đã pha chế sẵn. Còn thứ mà Sọ Đá Quý 2 muốn là công thức chế biến trọn vẹn, cây cỏ hoặc bất cứ thứ gì nằm trong thành phần thuốc nếu tôi có thể mang chúng về nguyên vẹn.
Nhân tiện, Sọ Đá Quý 2 cũng nói luôn vì sao chúng tôi không thể đánh cắp thuốc của nhà Mèo Rừng. Như chúng ta đã thấy qua ra-đa, có cả một mạng lưới hang động ăn sâu vào dãy núi phía sau kim tự tháp của nhà Mèo Rừng. Vào lúc này, hình như họ đang đào hầm mộ cho Chim Ruồi Có Nanh 9 trong một trong những cái hang đó. Người ta đồn dưới ấy có cả một làng thầy tế chẳng bao giờ ló mặt ra ngoài, chỉ ở đó để giữ chặt số thuốc. Thậm chí nếu chúng tôi có tìm ra số thuốc nằm ở đâu, họ cũng sẽ nuốt chửng hết và tự tử trước khi chúng tôi lấy được. Cũng phải công nhận rằng việc hối lộ thường không có tác dụng đối với những người thuộc giới quý tộc. Không tài nào mua chuộc được họ.
Bốn mươi năm trước, nhà Mèo Rừng đã ám sát toàn bộ những người đếm mặt trời giỏi nhất của các thị tộc khác. Sọ Đá Quý 2 mới chỉ đạt bốn sọ, vậy mà ông ta đã là người đếm mặt trời cấp cao kiêm ahau của nhà Đại Bàng. Người đếm mặt trời tám sọ của ông ta đã chết nhiều năm trước, và hiện nay, người duy nhất đạt trên đẳng cấp bốn sọ còn lại ở Ix là Gió Lốc 11 của nhà Mèo Rừng. Nói đến đây, như mọi người đều biết, tất cả những người đếm mặt trời chín sọ ở ngoài Teotihuacán điều phục vụ cho các thị tộc báo đốm.
Giữa những người đếm mặt trời nam và nữ cũng có một vài mâu thuẫn. Chuyện kể rằng, vào thời xa xưa, hầu hết người đếm mặt trời là nữ giới và những người đếm mặt trời nam giới phải tự thiến mình để chơi tốt hơn. Có người nói người đếm mặt trời nữ giới dự đoán chính xác hơn nhưng họ đã bị phe nam giới hất cẳng. Hình như hội của Koh đã phải biến mình thành nam giới để tránh rắc rối. Nghe đâu Koh và những người đếm mặt trời nữ giới khác của Hội Rắn Chuông có cả vợ, những người vợ, hay nàng hầu gì đó. Nhưng đó cũng có thể chỉ là những lời đồn tục tĩu.
Sọ Đá Quý 2 nói nếu tôi đem về được những thứ như dự tính, ông ta sẽ biếu một lượng lớn thuốc cho thủ lĩnh của các thị tộc không thuộc dòng dõi Mèo Rừng ở Ix và tuyên bố rằng việc ông ta chế ra được thứ thuốc này chứng tỏ ông ta, chứ không phải Chim Ruồi Có Nanh 9, mới là người được Mèo Rừng 1, người sáng lập ra thành Ix theo truyền thuyết, lựa chọn để cai trị thành phố. Việc này sẽ khiến nhà Mèo Rừng mất uy thế, đủ để Sọ Đá Quý 2 nhận được sự ủng hộ của các dòng họ quý tộc khác ở Ix. Khi họ đã hoàn toàn đứng về phe ông ta, ông ta sẽ tìm một cái cớ nào đó để hủy trận đấu bóng hông. Lý tưởng hơn, các thị tộc lớn sẽ phế truất nhà Mèo Rừng và tôn Sọ Đá Quý 2 làm ahau. Sau đó, nếu sống được đủ lâu, ông ta sẽ rời Ix, lập nên một thành phố riêng ở đâu đó về phía đông. Bởi theo các chứng cứ khảo cổ, dòng tộc của Sọ Đá Quý 2 có thể duy trì quyền lực tại một thành phố khác thêm ít nhất hai trăm năm nữa.
Sọ Đá Quý 2 hứa với tôi rằng nếu tôi đưa được Koh hay một người đếm mặt trời chín sọ nào đó về, cùng với phương thức pha chế các món thuốc, ông ta sẽ đảm bảo sao cho tôi được táng cùng với toàn bộ số thuốc và thông tin ghi chép được trong một hầm mộ không bị ai để ý, với những viên đá nam châm sắp xếp theo đúng cách. Dĩ nhiên, tôi cũng nhận thức được rằng những điều này đa phần chỉ là dự tính. Ông ta liệu có thực lòng với chúng ta không? Hừ, đương nhiên tôi sẽ ngầm để ý theo dõi ông ta. Nhưng tôi nghĩ, bất chấp mọi chuyện đã xảy ra, sau những cuộc luận bàn bí mật giữa hai chúng tôi, tôi và Sọ Đá Quý đã trở nên khá thân thiết. Chúng tôi hiểu nhau. Và theo như tôi thấy, đến giờ, ông ta chưa hề nói dối tôi.
Tôi gửi kèm theo sau đây năm mươi sáu trang giấy ghi chép những điều tôi mới tìm hiểu thêm về cờ Hiến tế. Các vị sẽ thấy trong một thời gian ngắn trước khi tôi rời Ix, Sọ Đá Quý 2 đã dạy tôi vô khối những chiến thuật và quy tắc chơi mới (đối với chúng ta thôi). Ông ta cũng huấn luyện tôi các nghi thức mà, theo lời ông ta, sẽ khiến tôi đủ tư cách đấu với bất cứ người đếm mặt trời Maya nào.
Chắc các vị cũng thắc mắc liệu Sọ Đá Quý 2 có dạy hết cho tôi những gì ông ta biết về trò chơi không. Chính tôi cũng băn khoăn điều này. Bởi một lẽ, tôi hiểu về trò chơi đủ để khẳng định rằng ngay cả khi học đến mười năm với Sọ Đá Quý 2, may mắn tôi cũng chỉ chơi được với sáu viên đá. Và như thế hiển nhiên còn xa mới so được với chín viên. Tôi có bỏ ra hàng năm luyện tập cũng không thể nhìn xa được quá một k’atun, chứ đừng nói gì đến tám mươi. Vì thế, hoặc tôi phải tìm được một ông thầy chín sọ, hoặc LEON phải được cải tiến thật nhanh, hoặc món thuốc phải vô cùng hiệu nghiệm, nếu không chúng ta sẽ xôi hỏng bỏng không. Còn về chuyện Sọ Đá Quý 2 có giấu nghề với tôi hay không, hoặc ông ta có sai người đếm mặt trời của mình làm xáo trộn ván chơi một cách cố ý hay không thì …hừ, tôi không dám nói chắc. Tôi không nghĩ ông ta làm thế. Nhưng các vị cũng biết đấy, tôi có bao giờ giỏi xét đoán người khác đâu.
Sọ Đá Quý 2 đã hứa nếu tôi không thể đích thân đưa những mẫu ghi chép này về, ông ta sẽ chôn nó trong hầm mộ cùng mọi thứ liên quan đến trò chơi mà ông ta có thể kiếm được và đặt những viên đá nam châm theo đúng cách chúng ta đã bàn, sát vị trí định trước hết mức có thể. Mặc dù tôi không quá lạc quan về số phận của Sọ Đá Quý 2 sau trận bóng hông… nhưng tôi vẫn có dự cảm tốt lành về việc sẽ đến Teotihuacán kịp lúc và bắt đầu một giai đoạn thành công hơn trong chuyến hành trình lần này.
Một lần nữa, xin cảm ơn sự tin tưởng của các vị.
Xin chúc mọi điều tốt lành,
JDL,
Xin xem tài liệu đính kèm.
43
Người ta gọi thác nước Nacouintan là "Xcaracanat" - "Nơi Khai Thiên Lập Địa" - bởi nữ thần Cóc Đất đã bị xẻ xác ở đây sau khi sáng tạo ra thế giới, mắt thần hoá thành các hồ nước, sông suối, hang động, và đại dương trở thành vũng máu nơi thần hấp hối. Mưa Chết 18 nói thần có miệng ở cả khoeo chân, khoeo tay, cổ tay và vô số các khớp khác, và những cơn núi lửa phun trào chính là tiếng kêu đòi máu và thịt để có thể tiếp tục sống với những vết thương. Lão trao cho các thầy tế ở đó một tên phu nô lệ mà chúng tôi không hài lòng. Các k'iik ngồi chờ dưới một mái che dành cho khách qua đường và mặc cả mua bán với bọn hàng rong. Hun Xoc từ ngoài đường quay về, ngồi xệp xuống cạnh tôi.
- Chúng ta vừa phải nhận thêm mười tám con rùa đất hai chân - nó bảo tôi. Nghĩa là chúng tôi vừa phải mua thêm nô lệ và chúng có vẻ không thạo khuân vác cho lắm.
Tôi ra hiệu "ừ".
- Không phải là tiếc tiền, - thằng bé nói tiếp, - nhưng có quá ít phu khuân vác chuyên nghiệp. Thà rằng cứ dùng một toán nô lệ chưa biết gì, khi nào chúng kiệt sức thì bán đi hoặc cứ vứt lại bên lề đường rồi thuê người thay thế trên đường còn hơn.
Tôi ra hiệu "chí phải", tức là ra hiệu "ừ" hai lần để nhấn mạnh. Từ đây đến Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh vẫn còn tới hai trăm bốn mươi dặm nữa, gần như thẳng hướng táy. Nếu đi liền hai mươi tiếng một ngày, chúng tôi có thể đến nơi vừa hay trước lúc đóng cổng giới nghiêm. Nhưng đường xá cứ mỗi lúc một đông.
Hun Xoc nhìn tôi. Tôi cũng nhìn lại.
- Tôi đang nói chuyện với Chacal hay Thần Lằn Chân Lùn 10 thế? - Nó hỏi. Một câu hỏi vu vơ, nhưng nó biết cách tóm được anh lúc không đề phòng.
- Chacal đi rồi, - tôi đáp, - tên thật của tôi là Jed DeLanda.
- Jed DeLanda? - Nó lặp lại.
- Đúng thế, - tôi đáp. Thằng bé phát âm từ đó rất chuẩn xác. Nó vốn là thợ săn và thường xuyên luyện tập cách bắt chước tiếng kêu của động vật.
- Vậy thì Jed, bên cạnh tôi, anh từ đâu đến?
- Tôi đến từ một nơi gần Ix, - tôi đáp.
- Anh đến từ thời gian nào?
- Từ b'ak'tun thứ mười ba.
- Tôi chắc Sọ Đá Quý 2, ở trên chúng ta, không nghĩ chúng tôi cũng biết điều đó.
- Phải.
- Ờ... - nó nhìn nhanh vào mắt tôi rồi lại quay nhìn phía trước, - ở đó như thế nào?
- À, chúng tôi biết rất nhiều thứ, - tôi đáp, - và người ta xây dựng rất nhiều thứ, các thành phố lớn hơn cả Teotihuacăn... Ở b'ak'tun thứ mười ba, chúng tôi không đi bộ như ở đây, chúng tôi lướt đi trên những cái xe cáng lớn đặt trên bánh lăn, chỉ có điều, những cái bánh lăn chạy theo cùng xe nên không phải chuyển sang bánh lăn khác. Và chúng tôi đi nhanh hơn thế này rất nhiều.
- Ờ. Thế anh đã tới thành phố Lưỡi Dao rồi à?
- Rồi, nhưng ở b'ak'tun thứ mười ba, nó chỉ là những khối đá rỗng thôi.
- Thế anh, ngồi gần tôi, biết xa hơn về phía tây bắc của Teotihuacán có gì à?
- Phải.
- Ở đó có gì?
Tôi trả lời rằng ở đó còn rất nhiều đất đai nữa, rồi đến biển, rồi lại thêm đất đai ở nửa kia của trái đất hình tròn như quả bóng. Tôi nói rằng chúng ta không văng khỏi mắt đất là nhờ quả bóng đó giữ chúng ta lại, giống như hai viên đá nam châm hút nhau. Tôi nói rằng trái đất quay quanh mặt trời, là một quả bóng to hơn nhiều, cháy sáng.
- Nhưng lớp vở thứ không cũng có lửa cháy mà.
Tôi đáp rằng đúng, trái đất cũng nóng ở phần giữa.
- Nó nằm dưới Xib'alb'a à?
- Không có Xib'alb'a nào cả, - tôi đáp. Hình như tôi hơi cáu kỉnh thì phải.
- Tôi biết là có mà, - Hun Xoc nói, - tôi nhìn thấy nó rồi.
Richard Halliburton, người từng đi khắp thế giới và quay trở về hai lần, kể rằng người ta đã rất ngạc nhiên khi hỏi ông đất nước nào đẹp nhất và nhận được câu trả lời "đó là Mexico". Nhưng đối với người dân Mexico và những vùng lân cận thì điều đó hoàn toàn chẳng có gì đáng ngạc nhiên, dù từ bấy đến nay, nó đã bị xén tỉa đi rất nhiều, theo đúng nghĩa đen. Và rất nhiều người sẽ khẳng định rằng con đường cổ xưa dẫn từ Veracruz đến Puebla (Veracruz và Puebla là hai bang của Mexico) là con đường đẹp huy hoàng nhất Mexico. Song nếu ai đó muốn lập một kỷ lục đi bộ ở đây thì người ấy chắc chẳng còn hứng thú đâu mà ngắm cảnh. Chúng tôi đi chen lấn và khó nhọc.
Đường luôn có xu hướng dốc lên. Chúng tôi đi qua nhiều làng mạc vô danh tới mức đếm đến 455 thì tôi bị lẫn. Các bạn chỉ cần hình dung ra cụm từ hết làng nọ đến làng kia với một cái gạch ngang trên đầu để thể hiện rằng nó lặp đi lặp lại không bao giờ dứt. Mỗi ngôi làng đều có một hoặc hai kim tự tháp nhỏ xoàng xĩnh nằm chính giữa những túp lều quây thành một vòng tròn. Hàng bầy trẻ con còi cọc và những đám hạ lưu chăm chăm xoáy đồ của khách bộ hành, nhất là những người có vẻ đơn độc, không ai giúp đỡ. Chiều tối, khi chúng tôi đang chạy - nói cho đúng thì những người khiêng kiệu của chúng tôi chạy còn chúng tôi thì chen lấn nhau - giữa hai dãy núi thấp, không có đoàn khách bộ hành nào khác trong tầm nhìn, tôi nghe thấy tiếng một đàn chim từ hướng bắc bay về phía chúng tôi. Điều kỳ cục là xét qua tiếng kêu, đàn chim này dường như bao gồm tất cả các loài khác nhau, mòng két, sáo đá, cú quạ, tất tần tật bay chung một đàn, mà điều này thì không thê. Khi chúng bay ngang qua đầu, tôi nhận ra đó là một đàn gồm hàng trăm con vẹt đuôi dài, giống chim to cồ cộ, pha đủ màu sắc xanh,đỏ,đen, trắng, vàng, không khác gì những con tinh tinh đu bay trong bộ trang phục hề nhưng lại có cái đuôi dài to tướng. Hun Xoc, người đi trước tôi có vài bước chân, nhảy xuống khỏi lưng gã phu khiêng kiệu, bước ra ngoài, khum tay lên miệng và hát to lên với đàn chim:
"Ah yan, yan tepalob' ah ten Ix tz'am!
Ah ten popop u me'enob nojol...
Hỡi đàn vẹt đuôi dài kiêu hãnh
Hãy đến Ix của chúng ta ở phương nam,
Nói với người già và người trẻ,
Đàn ông và đàn bà,
Hãy hát trong vườn,
Hát trước ngưỡng cửa,
Rằng hãy đợi chúng ta trở về,
Kiên nhẫn và can đảm,
Đợi chúng ta trở về, trở về, trở về...
Đàn chim bay tản ra rồi xúm lại gần nhau, lượng vòng hình bán nguyệt trên đầu chúng tôi, cánh vỗ san sát. Cơn lốc màu sắc khiến màu trắng của trời như bị xé nhỏ ra thành từng mảnh. Vài cục phân chim rơi xuống, suýt chúng người tôi, nhưng rơi thẳng vào ngực Cứt Ta Tu, ừ thì nó ở đó để làm việc ấy mà, - tôi nghĩ. Lũ chim nghe lời bài hát của Hun Xoc và nhai lại với cái giọng khàn khàn nhưng nghe khá rõ, láy đi láy lại và nhỏ dần khi chúng bay khuất về phương nam: "Tu men, t'u men, đợi chúng ta trở về, trở về, trở về..."
Tối hôm đó, Cá Sấu 12 cho đoàn giảm tốc độ, chúng tôi đi bộ thong thả cho thư giãn chân cẳng. Cách đi này giống cách đi trước đây của các hướng đạo sinh, cứ đi bộ ba mươi bước lại chạy ba mươi bước, chỉ có điều, số bước của chúng tôi là suýt soát mười ngàn. Khi đến Những Bàn Tay 31, một nơi gần Córdoba (Một thành phố thuộc bang Veracruz của Mexico ngày nay), chúng tôi thấy Chtlatépetl hiện ra trước mắt. Đó là ngọn núi lửa lớn nhất ở Mexico. Sau này, nó được đặt tên theo tiếng Tây Ban Nha là Orizaba, còn Cá Sấu 12 thì gọi nó là "Nơi Lão Ghẻ Nhảy Vào Lò Bếp". Một làn hơi mờ mờ bốc lên từ đỉnh núi, nhưng tôi đoán đó chỉ là mây. Theo những gì tôi nhớ được thì lần phun trào cuối cùng của nó cách thời điểm này đã hai ngàn năm và không còn lần phun trào nào đáng kể nữa cho đến tận năm 1687.
Một cái bóng sẫm đổ xuống ngang đường; giây đầu tiên, tôi nghĩ đó là cơn bão sắp ập tới, hoặc một cuộn khói nham thạch đến từ đỉnh núi lửa nào đó đang phun trào quanh đây, nhưng sau tôi nhìn rõ đó là những con chim, chính xác là chim bồ câu; một vài con sà xuống gần chúng tôi, tôi phân vân không biết chúng là giống bồ câu gì bởi chúng có cái ức sáng bóng như thiếc với thiếc màu đỏ nóng lạ lùng, rồi tôi nhận ra đó là bồ câu di cư. Bầy chim nhất loạt đổi hướng và cả bầu trời như biến thành một rừng cây dương hoặc dương lá rung khi có gió bất ngờ thổi tới, những phiến là ngửa cái mặt dưới bàng bạc của mình lên, và đợt sóng sống khổng lồ ấy cuốn thẳng về hướng tây, về phía Nacananomacob, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh. Một giờ đồng hồ sau, vẫn còn những con tụt lại cuối đàn bay qua. Thật khó tin là chúng lại có thể tuyệt chủng, nhưng khó tin hơn là sẽ đến một ngày, chỉ còn lại duy nhất một con và nó sẽ chết vào lúc 12 giờ 30 phút trưa ngày mùng 1 tháng 9 năm 1914. Đến giữa trưa, chúng tôi buộc phải đột ngột dừng lại ở Topacanoc, tức "Đồi Mũi", vì một sự kiêng kỵ "lối đi". Hay tôi nên nói là kiêng kỵ "hướng đi". Sự tình thế này, khi anh đi theo một hướng nhất định nào đó tức là anh đang đặt mình dưới sự bảo trợ của một vị thần nào đó, ngụ trong một quả núi nào đó và anh phải tôn kính vị thần ấy. Trong trường hợp này, Hun Zotz, nghĩa là Dơi 1, vị thần của hướng tây, sẽ khó ở cho đến khi trời tối. Họ không muốn nói cho tôi biết có chuyện gì, nhưng tôi có cảm giác rằng ông ta là một nữ thần và vừa mới đi qua bầu trời. Thật điên ruột. Đừng nổi nóng, - tôi tự nhủ, - không quan trọng đích đến cách bao xa, miễn là luôn hướng đến nó. Và chính granola sẽ đưa ta đến đích.
Giờ một-phần-chín thứ năm của đêm, Người Nuốt ánh Sáng Đỏ xuất hiện. Đó là hiện tượng nguyệt thực một phần. Người ta cho rằng mắt của Người Nuốt ánh Sáng Đỏ tựa như mắt cú, có thể phát hiện ra chuyển động trong bóng tôi. Và ông ta yêu quý nhà Ocelot. Vì thế, chúng tôi phải dừng chân hạ trại tại chỗ, trên một đồng cỏ hoang um tùm ngay sát đường cái. Những tiếng la hét dậy lên, hầu hết từ phía xa vọng lại, nhưng cũng có những tiếng gần hơn so với mong muốn của chúng tôi. Người ta đang ra sức doạ cho cái bóng biến đi. Những giọng nói già nua nhai nhải một thứ tiếng ngọng theo lối cổ nào đó của người vùng này, những từ ngữ địa phương xa lạ của khách bộ hành và người chạy lánh nạn tạm trú ở Choula, thậm chí cả chó, khỉ sóc nuôi trong nhà và mèo rừng cũng hùa theo, chúng sủa, rú, rít và phun phì phì. Tôi trèo lên vài Cứt Ta Tu và nhìn qua đám cỏ cao về hướng thành phố đang chết dần đó. Năm mươi hai vòm cửa trên mặt tường quay về phía tôi của toà kim tự tháp cổ đắp bằng đất sáng rực lên bởi những đống lửa mà các thầy tế vừa nhóm.
Cái bóng màu gỉ sắt đã chạm tới vùng tối Vaporum (Một vùng tối rộng 55.000 km2 trên mặt trăng, có thể quan sát khá rõ từ trái đất) của mặt trăng. Một chuỗi hợp âm bảy rờn rợn mà đôi tai của Chacal nhận ra là tiếng những cây kèn dài và mảnh, dùng để cầu hồn ở Mexico. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc hành trình chúng tôi nghe thấy âm thanh này, nó khiến chúng tôi bất giác rùng mình. Tám trăm năm mươi tư năm sau, những người Aztec đã dùng chính nó để doạ đuổi đội quân của Cortés. Toà kim tự tháp cháy sáng và toả khói như một quả núi lửa. Rốt cuộc, cái bóng đỏ của Người Nuốt ánh Sáng cũng biến đi - theo đúng lịch trình quỹ đạo của nó, tôi đã định bảo cho họ biết điều này, nhưng lại thôi vì muốn tỏ ra khiêm nhường. Những tiếng hò hét reo mừng cuối cùng cũng lắng xuống, chỉ còn bốn hoặc năm tiếng kèn toe toe nhức óc, hỗn độn chen lấn nhau trong một bản hoà tấu nhai đi nhai lại không biết mệt. Thần Thỏ Cái (Tức là mặt trăng) lại toả sáng trên đỉnh kim tự tháp đỏ xám, hơi lưỡng lự một chút, như thể phân vân chưa biết chọn bên nào để hạ xuống. Tôi không ngủ được nữa, nhưng cũng chợp mắt lơ mơ.
Rạng sáng, tốp trinh sát của chúng tôi quay trở về và thông báo có bạo loạn ở Nơi Tổ Tiên Trú Ngụ - đâu đó quanh San Martín Texmelucan (Một thành phố thuộc bang Pueblu, Mexico) ngày nay - ngay trên con đường phía nam gần nhất dẫn lên cao nguyên, qua đèo Cortéz. Con đường leo hết dốc này đến dốc khác, hệt như những bậc cầu thang của người khổng lồ bị mài mòn. Chúng tôi đi qua hàng trăm mẫu đất rừng mới được đốt quang, lác đác những lò nung vội toả khói nom như cái tổ ong khổng lồ. Một quãng sau, ngay cả những thân cây lá rộng mà ở quãng trước được giữ lại vài cây vì lý do tín ngưỡng cũng không còn. Những bụi thông pifion (Một loại thông ở Mexico, cho quả ăn được) và cỏ hoang mạc chiếm hết các dốc núi. Dân vùng này sống trong những ngôi nhà xây bằng đá sỏi cuộn và trồng một loại ngô đen bắp nhỏ xíu. Hàng đống mảnh đá vỏ chai lóng lánh giữa các tảng đá cuội. Đá vỏ chai đối với Teotihuacán cũng như thép đối với nước Anh hay Đức trong thời kỳ cách mạng công nghiệp. Ở đâu người ta cũng có nhu cầu vô hạn về nó, và cũng như thép, nó chính là vật truyền bệnh quân phiệt hoá. Hết lối mòn này đến lối mòn khác hoà vào con đường lớn. Bốn bề ngợp mùi cây tuyết tùng, nhưng không phải từ cây sống, mà từ những đoàn chở gỗ về từ các cánh rừng miền đông bắc. Ban đêm, nhiệt độ hạ xuống còn bốn mươi độ (Tức 400F, tương đương gần 50C), và với chúng tôi, nó chẳng khác nào bắc cực. Bầy chó xua gà gô trắng và giẽ giun bay nháo nhác khỏi những bụi cây bách xù, và thật tài tình. Tay 2 hạ được một con gà gô bằng một mũi lao phóng bằng tay. Để phạt thằng nhãi vì tội phá hàng, Cá Sấu 12 bắt nó đem con gà cho mọt người dân địa phương. Hai đầu gối tôi đã đỡ nhiều nên tôi thử chạy, nhưng khi các đỉnh núi hiện ra trước mắt, tôi cũng đứt hơi như những người khác và phải ngồi phịch xuống một cái ghế kiệu. Cứ để bọn vô sản lo việc này. Tôi mệt đến nỗi chẳng còn hơi sức đâu mà tìm từ lịch sự nữa.
Các đỉnh núi mà tôi nói đến ở đây là Itzaccihuatl và Popocatépetl bên tay trái và núi lửa Volcán Tláloc ở phía xa bên tay phải. Tên người ta gọi chúng vào thời này là Nhà Của Hunahpu 1, Nhà của Hunahpu 7 và Anh Bạn Sôi Sùng Sục. Hầu hết các miệng núi lửa quanh đây đều đã tắt từ kỷ Băng Hà, chỉ có Popo là còn chút dấu hiệu hoạt động với những đám bụi lơ lửng bên sườn phía đông, có lẽ để ủng hộ San Martín. Song tôi nghĩ trận phun trào này nhỏ thôi, chắc chỉ khoảng 1,5 độ VEI (Viết tắt của Volcanic Explosivity Index - chỉ số hoạt động núi lửa, được chia làm 7 cấp độ). Nếu đây là năm 1345, 1945 hay 1996 thì chắc chúng tôi sẽ gặp rắc rối lớn.
Ngày thứ hai mươi của cuộc hành trình, trời nắng, mây rải rác bay về phía đông. Đến giữa trưa, chúng tôi vượt qua đỉnh cao nhất của con đèo, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh, chính là Vùng hồ Mexico sau này, trải rộng dưới chân chúng tôi, cách 4,770 feet theo đường thẳng đứng, được bao bọc trong một địa thế hình hạt hạnh nhân nằm giữa hai dãy núi chạy theo đường vòng cung. Từ đây, có thể thấy nó rộng và tính lặng, xung quanh bờ được viền những ụ đất và miệng núi lửa nhỏ khum khum như hình vỏ sò, sát mép nước xanh thẫm một màu cói và bèo tấm, màu xanh càng lan xa càng nhạt dần thành mặt nước phẳng lặng và lóng lánh như hồ thuỷ ngân. Điểm xa nhất của bờ hồ bên kia cách khoảng bốn mươi dặm. Thung lũng này có người ở, quanh các bờ hồ rải rác làng mạc, chằng chịt những con đường đất đắp nổi; xuồng, thuyền mui và những chiếc bè mảng tròn khổng lồ đông san sát.
Ờ, - tôi nghĩ bụng, - ít ra thì bây giờ mình cũng hết băn khoăn tại sao nơi này lại được gọi là Nacananomcob, Vùng Hồ Của Những Đôi Cánh. Hàng bầy bach haob' và halach bach haob, tức diệc bạch và cò quăm trắng, hàng đàn kuba'ob', hay diệc cọp, lội bì bõm sát bờ, xa hơn ngoài mặt nước là những con bich ha, sếu đồi cát, lượn vòng quanh với cái dáng cứng đơ theo hàng lối chỉnh tề như đoàn lính bộ binh bị sương giá làm cho tê cứng của Napoleon. Một bầy két cánh đỏ hoảng hốt cất cánh bay lên với tiếng kêu nghe như tất cả các cánh cửa nhà kho ở Old Midwest (Khu vực bao gồm các bang Illinois, Indiana, Michigan, Ohio và Wisconsin của Mỹ) cùng rít lên một lúc trên bản lề han gỉ, và trong vài giây, người ta chỉ có thể thoáng thấy một vài vệt xanh xanh của bầu trời qua khe hở giữa những con chim lúc nào cũng căng thẳng ấy, trước khi chúng cùng đồng loạt đổi ý và lại hạ cánh xuống. Đúng là Nacaranomacob - tôi nghĩ. Nephelococcygia. Thật là thiên đường.
Chúng tôi xuống đèo, đi vào một vùng không khí mà người ta thường thấy ở những vùng hồ trên cao, nó ẩm ướt đến mức tối đa có thẻ, nhưng không khí lại quá loãng nên chẳng tích được bao nhiêu nước. Khi xuống thấp hơn, tôi bắt đầu thấy nơi đây sầm uất đến mức nào. Trên những hòn đảo đẹp hơn, nhà cửa được xây dựng nhiều đến mức kín đặc không khác gì đảo Mont Saint Michel. Người ta buộc phải xây lều ra xa ngoài mặt nước, trên các đống đá, trên các cột chống, thậm chí nhìn như trên không-gì-cả. Nhân tiện nhắc đến chuyện này, Teotihuacán Lớn, cũng như mọi thành phố lớn khác, có đến 95 phần trăm là ổ chuột. Cá Sấu 12 kể rằng rất nhiều người hoặc các hội cứu tế. Hình như Hội cứu tế Rắn Chuông là lớn nhất. Họ phát chuẩn những chiếc bánh vặn thừng dài bằng bột sắn, tựa như bánh bột rán churro ngày nay, mua bằng tiền đóng góp của người đi lễ và tiền thu được qua việc hành nghề xem bói. Khi còn cách khu hồ khoảng hai trăm feet tính theo chiều cao, chúng tôi lọt vào một vùng đẳng áp và quang cảnh bỗng sinh động hẳn. Một con chim cắt mà ở đây gọi là kos lao bổ vào ba con mòng két xanh đứng túm tụm gần nhau, nhưng chúng đập cánh, rẽ lên và bay mất. Một bầy bói cá xanh nhặng xị nhiếc móc con non. Một con chim ưng biển đâm nhào xuống, lùng sục sủi tăm dưới mặt nước hồi lâu rồi ngoi lên với cái mỏ rỗng không. Một đôi cò nhiệt đới halach pocob đầu đen, thân trắng với cái cổ đỏ loè, nom hệt như hai bà xơ dòng thánh Dominic bị cắt họng, sục sạo trong đám cói sậy với vẻ bình thản như thể chúng biết hình phạt dành cho kẻ nào dám sát hại chúng là thiến đến chết. Những con bồ câu Inca lù khù; những con chim cu lười lẫm gấp ba. Ở đây có nhiều thứ nằm trong danh mục những thứ tôi chưa từng nhìn thấy, và đó không phải là trại cải tạo thanh thiếu niên hay bộ lông chim vào mùa sinh sản, hay những thứ vớ vẩn đại loại như thế. Nói chung, nó đủ khiến David Allen Sibley (Nhà điều cầm học người Mỹ) lên một cơn đau tim. Chắc không thể đưa tất cả những thứ này vào danh mục được, - tôi thầm nghĩ, - bộ nhớ không đủ chứa mất. Một đám đông đang hò hét bên dưới, khi đi ngang qua, chúng tôi mới biết rằng người ta đang chơi một trận bóng giải trí, bất chấp bầu không khí lo âu căng thẳng. Họ dùng một loại gậy cong như gậy chơi bóng của người Ai-len để đánh những quả bóng gỗ lớn. Chúng tôi bỏ đám chơi bóng lại phía sau và chạy xuống theo những con dốc thoai thoải, giữa một biển người che mặt, vừa đi vừa lầm rầm cầu khẩn, hầu hết đều xách theo một cái giỏ đựng xương. Đó là những người đang đưa hài cốt cha mẹ đến đặt trong hầm mộ ở thành phố vĩnh cửu để họ được hầu hạ tổ tiên cao quý của dòng tộc mình. Chim chóc thì vẫn nhan nhản xung quanh. Dân ở đây chắc chẳng bao giờ bị đói. Anh chỉ cần chìa tay ra bất cứ chỗ nào mà tóm lấy bữa tối từ trong không khí. Và cứ lấy đi một ngàn của bất cứ thứ gì thì sẽ có mười ngàn khác đến bù lại, ít nhất thì đấy cũng là ý nghĩ của các cư dân thuộc giống người.
Chúng tôi đi qua hàng trăm xưởng thợ ngoài trời, nằm trong sân trước những căn nhà kho mái thấp, trát thạch cao trắng, và cứ ba xưởng thì hai xưởng là xưởng làm lông chim. Thợ đánh bẫy dốc những con chim sống ra khỏi lưới, vặn cổ chúng rồi phân loại thành từng đống, cứ mỗi con, viên kế toán lại thả một cái thẻ đếm vào một trong mấy cái bình và theo dõi tổng số bằng các nút thắt trên một sợi dây. Một người phụ nữ moi ruột và lột da, rồi một người khác vặt lấy lông, gột rửa và phân loại. Hệt như dây chuyền sản xuất tiền công nghiệp, trong đó mỗi người chỉ thực hiện một vài công đoạn nhất định. Một vài gia đình chuyên vặt lông sống những loài không được phép giết, và tất cả những gì anh nghe thấy khi đi qua chỗ họ là tiếng kêu rít đau đớn tột độ của chim diệc và gà chachalaca. Chúng tôi trông thấy hàng ngàn con trụi thùi lụi, loạng choạng đi trong sân, rỉa cá chết, ngô vụn và đập đập đôi cánh nhìn như những cánh tay dị tật vì chẳng còn lấy một sợi lông. Đây là một nền văn minh dựa vào lông chim, không khác gì nước Anh dựa vào gỗ. Thế mà chúng tôi còn mang thêm đến cho họ hai xe cáng đầy lông. Nhưng lông chim của chúng tôi có màu mà ở đây họ không có. Họ có rất nhiều lông màu đen, trắng, xám, đủ sắc độ nâu, vàng nâu, xanh da trời sáng, hồng và đỏ. Còn chúng tôi mang đến màu của rừng sương mù, xanh tím, đỏ tươi, xanh da trời thắm, xanh ngọc lam và xanh lục vàng.
Những toán dân đen lân la lại gần chúng tôi. Phần lớn trong số đó là loại người mà tôi cho là ma'ala'ba'ob, hạng thấp kém hơn cả cái lòng bàn chân của anh. Tôi tuy cố tỏ ra bình đẳng, nhưng phân biệt đẳng cấp lại là một phẩm chất tốt ở đây.
Chúng tôi tiếp tục tiến lên. Đôi lúc, qua dãy đầu người phía trước, tôi chỉ trông thấy những tấm lưới đánh cá chăng phơi trên những cây sào cao có chạc, kéo dài đến hàng dặm. Hun Xoc thì thầm với tôi rằng Bị Thương 14 sẽ ra đón chúng tôi ở bên kia hồ. Họ mới biết tin chúng tôi đến cách đây bốn ngày qua những người đưa tin - chúng tôi không có bồ câu đưa thư, và mặc dù dọc đường từ bờ biển đến đây cũng có hệ thống báo tin bằng lửa báo hiệu nhưng chúng tôi không muốn dùng - song chừng ấy thời gian cũng đủ để họ chuẩn bị sẵn sàng.
- 14 làm như mình là Vẹt Đuôi Dài 7 ấy, - Hun Xoc nói. Câu ấy có nghĩa là "Hắn tinh tường lắm".
- Ừ, - tôi ra hiệu. Tôi nheo mắt nhìn về phía trước. Có một dãy thứ gì đó nom như những cái cổng chào lễ hội chắn ngang lối dẫn lên một con đường rộng màu trắng đắp cao, dài chừng hai dặm, chạy cắt ngang qua một đoạn hồ hẹp, gần giống như cửa sông đổ vào hồ nước lớn. Khi nhìn gần hơn, cái mà tôi tưởng là cầu tàu té ra là những cái giá bày sọ người. Mẹ kiếp, - tôi nghĩ, - thứ này khiến chúng tôi thành ra như những kẻ đê tiện. Chúng tôi, tức là người Maya chúng tôi ấy mà. Ở nhà, chúng tôi chỉ trưng bày đầu của vài nhân vật đình đám và thi thoảng là đầu của những thằng vô lại. Còn ở đây, hình như họ choảng tất cả những kẻ nào nhìn mình với vẻ là lạ rồi giữ gìn từng cái đầu một như của quý. Những chiếc nằm cuối dãy về phía tây biến dạng đến mức khó mà tin được đó là đầu người. Những gã này chẳng có tí tao nhã nào cả, - tôi nghĩ bụng.
Chúng tôi tặng quà, hoặc có thể gọi là biếu xén, để được đi qua con đường đắp nổi. Ở bán đảo tiếp theo,đám dân đen lao dịch trên bờ hồ đưa chúng tôi xuống hai chiếc bè mảng lớn, mỗi bè có bốn mươi người chèo, đưa chúng tôi sang bờ đông bắc, đến Tamoanatowacanac, nghĩa là Cảng Hồ Của Teotihuacán. Chúng tôi bơi ngang qua một hòn đảo được trưng dụng làm một cánh đồng sản xuất muối khổng lồ. Nhưng tên nô lệ tóc ngắn cụt kéo nước từ dưới hồ lên bằng những cái cần trục đối trọng giống cần kéo nước của người Ai Cập và đổ vào các khuôn ruộng bám mảng trắng rộng hàng mẫu. Một con cò quăm đỏ nhìn tôi như thể nó biết nhiều thứ hơn cả tôi. Thoth (Vị thần tượng trưng cho nghệ thuật và sự thông thái của người Ai Cập, được khắc hoạ với cái đầu của loài cò quăm) cơ đấy, - tôi nghĩ bụng, - Thế ở mày là thứ thần thánh gì?
Bờ hồ được đắp đê và bao một bước tường tạm thời màu xanh lá cây và xám, xếp bằng hàng ngàn thân cây bị đốn hạ, cành lá quay ra phía hồ để những kẻ muốn tấn công phải vướng víu vì nó. Chúng tôi cập bờ tại một khoảng trống giữa bức tường và lấy đi dáng điệu hiên ngang hết mức có thể - điều này không dễ khi bước ra khỏi thuyền - đặt chân lên thành Babel (Ý nói một thành phố huyền thoại).
Mật Mã Maya Mật Mã Maya - Brian D’Amato Mật Mã Maya