Books had instant replay long before televised sports.

Bern Williams

 
 
 
 
 
Tác giả: John Perkins
Nguyên tác: Confessions Of An Economic Hit Man
Dịch giả: Lê Đồng Tâm
Biên tập: Quyen Thuy
Upload bìa: Viet Quang Luong
Số chương: 38
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 261 / 76
Cập nhật: 2020-06-28 13:34:21 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 29: Công Ty Của Tôi, Enron, Và George W. Bush
ào thời điểm Torrijos bị ám sát, đã mấy tháng liền tôi không gặp Paula. Tôi hẹn hò với cô gái khác, trong đó có Winifred Grant, môt nhà quy hoạch môi trường trẻ mà tôi gặp ở MAIN; tình cờ bố của cô lại là kỹ sư trưởng của Bechtel. Paula đang hẹn hò với một nhà báo Colombia. Chúng tôi vẫn là bạn nhưng quyết định cắt đứt những sợi dây tình cảm lãng mạn. Tôi vật lộn với công việc làm chứng chuyên môn của mình, đăc biệt trong vụ biện hộ cho Nhà máy Năng lượng hạt nhân Seabrook. Dường như tôi lại đang bán rẻ mình, lại trở về với vài trò cũ của mình đơn giản chỉ vì tiền. Winifred giúp tôi rất nhiều trong thời gian này.
Cô ấy là một nhà môi trường học nhưng đồng thời rất hiểu về sự cần thiết phải cung cấp điện với lượng ngày càng tăng. Cô ấy lớn lên ở vùng Berkeley của vịnh Đông San Francisco và tốt nghiệp đại học UC Berkeley. Cô ấy là một người phóng khoáng, có cái nhìn cuộc sống đối lập hẳn với cách nhìn khắt khe của bố mẹ tôi và Ann. Quan hệ của chúng tôi tiến triển tốt. Winifred xin nghỉ phép ở MAIN, và chúng tôi cùng đi trên chiếc thuyền của tôi dọc bờ Đại Tây Dương xuống Florida. Chúng tôi thường để thuyền lại các biến cảng để tôi có thể bay đi làm chứng chuyên môn.
Cuối cùng, chúng tôi xuống West Palm Beach, Florida và thuê một căn hộ ở đó. Chúng tôi kết hôn và con gái tôi, Jessica, chào đời ngày 17/05/1982. Tôi đã 36 tuổi, già hơn nhiều so với đám đàn ông vẫn đưa vợ đến các lớp học kiến thức chăm sóc bà mẹ và trẻ sơ sinh. Một phần công việc của tôi về Seabrook là phải thuyết phục Ủy ban dịch vụ công cộng New Hampshire rằng năng lượng hạt nhân là giải pháp tốt nhất và hiệu quả nhất để cung cấp điện cho bang.
Thật đáng tiếc, càng tìm hiểu vấn để kỹ hơn, tôi càng nghi ngờ giá trị của những lý lẽ mà tôi đưa ra. Vào thời điểm ấy, tài liệu, sách báo nói về vấn đề này luôn thay đổi, phản ánh những bước tiến trong nghiên cứu, và ngày càng cho thấy có rất nhiều loại hình năng lượng khác, ưu việt hơn hẳn năng lượng hạt nhân cả về mặt kỹ thuật lẫn hiệu quả. Rồi cán cân cũng bắt đầu lệch khỏi thuyết cũ cho rằng năng lượng hạt nhân là an toàn. Người ta đặt ra những câu hỏi nghiêm túc về độ tin cậy của các hệ thống hỗ trợ, về việc đào tạo những cán bộ vận hành, về khuynh hướng sơ suất trong yếu tố con người, sự hao mòn máy móc và sự thiếu an toàn của việc loại bỏ các chất thải hạt nhân. Tôi bắt đầu cảm thấy lo lắng, không thoải mái với nhiệm vụ mà người ta đã trả tiền để tôi hoàn thành và phải tuyên thệ để làm cái việc mà rốt cuộc sẽ khiến tôi phải ra tòa.
Tôi ngày càng tin chắc rằng có những công nghệ phát điện mới mà không làm hại đến môi trường. Đặc biệt là những công nghệ phát điện từ những chất mà trước đây người ta vẫn coi là chất thải. Rồi một ngày tôi thông báo với các ông chủ tịch tại công ty dịch vụ New Hampshire là tôi sẽ không làm chứng cho họ nữa. Tôi từ bỏ cái công việc mang lại cho tôi rất nhiều tiền và quyết định thành lập công ty để có thể ứng dụng những công nghệ mới này và đưa vào thực tiễn những gì trước đây mới chỉ là lý thuyết. Winifred ủng hộ tôi hoàn toàn, bất chấp những điều không lường trước được của một cuộc mạo hiểm, bất chấp thực tiễn là lần đầu tiên trong đời, cô ây sắp có con. Vài tháng sau khi Jessica chào đời, năm 1982, tôi thành lập Hệ thống năng lượng độc lập (IPS), một công ty với sứ mệnh xây dựng những nhà máy năng lượng có lợi cho môi trường và dựng lên những mô hình để khuyến khích các công ty khác noi theo. Đó là một công việc rất mạo hiểm, và phần lớn những công ty theo đuổi điều này đã thất bại.
Tuy vậy, “những sự trùng hợp ngẫu nhiên” đã luôn xuất hiện để cứu chúng tôi. Thực tế tôi dám chắc là rất nhiều lần đã có người giúp tôi, rằng tôi được đền đáp cho những gì tôi đã làm trước kia và vì tôi đã biết giữ im lặng. Bruno Zambotti nhận môt vị trí cao cấp tại Ngân hàng phát triển Liên Mỹ. Ông đồng ý vào hội đồng quản trị của IPS và lo về mặt tài chính cho công ty non trẻ. Chúng tôi nhận được sự hỗ trợ từ Bankers Trush; ESI Energy; Prudential Insurance Company; Chadbourne và Parke (một công ty luật lớn trên Wall Street, công ty mà Ed Muskie, cựu thượng nghị sĩ Mỹ, ứng cử viên tổng thống và ngoại trưởng là một cộng sự); và Riley Stoker Corporation (một công ty xây dựng, thành viên của tập đoàn Ashland Oil Company, công ty này đã thiết kế và xây dựng nhiều nồi hơi tinh xảo bằng những công nghệ có tính đột phá cho các nhà máy điện).
Chúng tôi thậm chí có được cả hỗ trợ từ quốc hội Mỹ, chúng tôi được miễn một loại thuế đặc biệt, điều này giúp cho IPS có được lợi thế so với những đối thủ khác. Năm 1986, cả IPS và Bechtel cùng lúc khởi công xây dựng nhà máy năng lượng với những công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất để đốt than phế thải không gây nên mưa axit. Đến cuối thập kỷ, cả hai công ty đã làm nên một cuộc cách mạng trong ngành dịch vụ công, trực tiếp góp phần củng cố luật chống ô nhiễm quốc gia bằng cách chứng minh một cách dứt khoát rằng rất nhiều thứ mà trước đây người ta vẫn tưởng là chất thải có thể được chuyển thành điện, và than có thể đốt mà không gây nên mưa axit và nhờ vậy bác bỏ những luận điệu trái ngược của các công ty dịch vụ công.
Nhà máy của chúng tôi cũng chứng minh rằng có thể huy động vốn cho những công nghệ chưa qua kiểm nghiệm và tiên tiến như vậy thông qua một công ty tư nhân qui mô nhỏ, qua phố Wall và các phương tiện tài chính thông thường.(1) Một lợi ích nữa của việc này là nhà máy năng lượng của IPS thải khí thải nhiệt vào một nhà kính khoảng 1,5 hecta thay vì thải vào không khí hay vào nguồn nước gây ô nhiễm môi trường. Vai trò Chủ tịch IPS của tôi giúp tôi biết được những gì đang diễn ra trong ngành năng lượng. Tôi quen với những người có thế lực trong các ngành: các luật sư, những người vận động hành lang, các chủ ngân hàng đầu tư, và các viên chức cao cấp của các công ty lớn. Tôi cũng có lợi thế là bố vợ làm việc hơn 30 năm tại Bechtel, giữ cương vị của một kỹ sư trưởng, và giờ ông đang chịu trách nhiệm xây dựng một thành phố ở Ảrập Xêút - kết quả trực tiếp của công việc mà tôi đã làm vào những năm 70, trong thời kỳ vụ rửa tiền của Ảrập Xêút. Winifred lớn lên gần trụ sở chính ở Bechtel tại San Francisco và cũng là thành viên của đại gia đình cái công ty ấy; công việc đầu tiên của cô ấy sau khi tốt nghiệp UC Berkeley là ở Bechtel.
Ngành năng lượng đang trải qua một thay đổi lớn. Các công ty công trình lớn đang dùng mọi thủ đoạn để mua lại hoặc chí ít thì cũng cạnh tranh với các công ty trước kia đã từng độc quyền. Bãi bỏ quy định, luật lệ đã trở thành khẩu hiệu, luật lệ liên tục thay đổi. Đầy rẫy cơ hội cho những kẻ tham vọng muốn lợi dụng tình thế hỗn loạn tại tòa án và quốc hội. Những người am hiểu trong ngành gọi đây là “Miền Tây hoang dã” của ngành năng lượng. Một trong số những nạn nhân của quá trình này là MAIN. Đúng như Bruno đã dự đoán, Mac Hall đã mất hết khái niệm về thực tế và không một ai dám nói với ông ta điều đó. Paul Riddy chưa bao giờ nắm quyền và những người đứng đầu MAIN không chỉ không chớp thời cơ, không tận dụng những cơ hội mà những thay đổi lớn lao trong ngành đem lại mà còn phạm một loạt sai lầm.
Chỉ vài năm sau khi Bruno đạt dược mức lãi kỷ lục, MAIN đã đánh mất vị trí EHM của mình và rơi vào tình trạng kiệt quệ tài chính. Những hội viên của MAIN bán nó cho một công ty xây dựng và lắp ghép lớn biết tận dụng thời cơ. Trong khi vào năm 80, tôi nhận được gần 30 đô la cho mỗi cổ phần thì những cổ đông khác chỉ nhận được chưa đến một nửa số đó sau gần bốn năm. Thế là một trăm năm đầy kiêu hãnh của công ty đã kết thúc một cách nhục nhã.
Tôi buồn khi nhìn thấy công ty bị xóa sổ nhưng tôi cũng cảm thấy rằng mình đã ra đi đúng lúc. Tên tuổi MAIN còn tồn tại với người sở hữu mới thêm một thời gian nữa, nhưng sau đó nó hoàn toàn biến mất. Cái biểu trưng mà trước đây từng rất có trọng lượng với nhiều quốc gia trên thế giới đã chìm vào quên lãng. MAIN là thí dụ của một công ty đã không đương đầu được với sự thay đổi của ngành năng lượng.
Trái ngược với MAIN là hình ảnh một công ty phát triển nhanh nhất trong ngành bỗng nhiên xuất hiện và ngay lập tức lấy được những hợp đồng khổng lồ. Phần lớn những buổi họp thường bắt đầu bằng những câu chuyện gẫu, người ta uống cà phê, sắp xếp lại giấy tờ, và ở thời điểm này, những câu chuyện gẫu thường xoay quanh Enron. Không một ai ngoài công ty có thể hiểu được làm thế nào mà Enron có thể đạt được những điều kỳ diệu như vậy. Những người trong cuộc chỉ cười và giữ im lặng. Đôi khi, vì bị hỏi dồn, họ nói về một cách quản lý mới, cách quản lý các nguồn tài chính đầy sáng tạo và về việc họ cam kết chỉ thuê những nhà quản lý biết cách vận động hành lang trên khắp thế giới. Với tôi, tất cả những điều này nghe có vẻ như là một kiểu EHM mới.
Đế chế toàn cầu đang tiến lên phía trước với một tốc độ chóng mặt. Với những người quan tâm đến dầu lửa và đến tình hình quốc tế như chúng tôi, một đề tài nóng hổi nữa là con trai của Phó Tổng thống, Geogre W. Bush (Bush con :)). Công ty đầu tiên của tay này, Arbusto (tiếng Tây Ban Nha của từ Bush (bụi rậm)) là một thất bại mà cuối cùng cứu được chỉ nhờ sáp nhập với Spectrum 7. Sau đó Spectrum 7 gần như đứng trên bờ vực phá sản và Harken Energy Corporation đã mua lại công ty này vào năm 1986. George Bush được giữ lại trong Hội đồng Quản trị với tư cách là một nhà tư vấn với mức lương 120.000 đô la mỗi năm.(2) Tất cả chúng tôi đều cho rằng Bush có được vị trí này là nhờ vào ông bố Phó Tổng thống của mình, vì những thành tích của ông ta khi còn là quản lý công ty dầu lửa chắc chắn không đủ đảm bảo cho ông ta vị trí này. Việc Harken nhân cơ hội này bắt đầu mở rộng các chi nhánh kinh doanh ra nước ngoài và tích cực tìm cách đầu tư ở Trung Đông cũng không phải là ngẫu nhiên. Tạp chí Vanityfair đã bình luận:
“Từ khi Bush có chân trong hội đồng quản trị, những điều kỳ diệu bắt đầu xảy đến với Harken - các cơ hội đầu tư mới, những nguồn tài chính bất ngờ, quyền được lắp đặt giàn khoan hết sức ngẫu nhiên”.(3) Năm 1989, Amoco đang đàm phán với chính phủ của Bahrain về quyền lắp đặt giàn khoan ở ngoài khơi. Khi đó Phó Tổng thống Bush được bầu tổng thống. Liền sau đó, Michael - một cố vấn của Bộ ngoại giao được giao nhiệm vụ hướng dẫn cho Đại sứ Mỹ mới ở Bahrain - Charles Hostler - sắp đặt một cuộc gặp mặt giữa chính phủ Bahrain và Harken Energy.
Ngay lập tức Amoco được Harken thế chân. Mặc dù Harken chưa bao giờ đặt giàn khoan ngoài khu vực Đông Nam nước Mỹ, và lại càng chưa bao giờ ở ngoài khơi, công ty này đã dành được quyền đặt dàn khoan ở Bahrain, một điều chưa từng xảy ra ở trong thế giới Ảrập. Chỉ trong vòng vài tuần giá cổ phiếu của Harken Energy tăng hơn 20%, từ 4.5$ lên 5,5$ cho mỗi cổ phiếu. Kể cả những bậc lão làng trong ngành năng lượng cũng bị sốc bởi sự kiện ở Bahrain. “Tôi hy vọng G.W. Bush không làm bất cứ điều gì khiến cha anh ta phải trả giá.” Một người bạn luật sư của tôi, chuyên làm về lĩnh vực năng lượng và cũng là một người hết sức ủng hộ đảng Cộng hòa nói. Chúng tôi đang uống Cocktail tại một quán bar ở góc phố Wall, trên đỉnh tòa nhà thương mại thế giới. Anh ta nói một cách chán nản: “Tôi không biết có đáng thế không.” Lắc đầu một cách buồn bã, anh tiếp “Chẳng biết sự nghiệp của ông con có đáng để ông bố phải mạo hiểm cái chức tổng thống không?”. Tôi không ngạc nhiên như những người khác, nhưng có lẽ là vì tôi có một triển vọng độc nhất vô nhị. Tôi đã từng làm việc cho chính phủ Côoét, Ảrập Xêút, Ai cập và Iran, tôi hiểu nền chính trị Cận Đông, và tôi biết là Bush, cũng giống như những người quản lý Enron, là một phần của cái mạng lưới mà tôi và những đồng sự EHM của mình đã tạo dựng lên; họ là những địa chủ và ông chủ đồn điền.
Ghi chú:
1. Để biết thêm thông tin về IPS, Tập đoàn Năng lượng Archbald, và ngài Giám đốc điều hành John Perkins, xem Jack M. Daly và Thomas J. Duffy, Đốt than ở Archbald, Cơ khí dân dụng, tháng 7/1988; Vince Coveleskie, tờ The Scranton Times, ngày 17/10/1987; Nhà máy Archbald sẽ biến bụi than thành năng lượng, Citizen’s Voice, Wilkes-Barre, PA, ngày 6/6/1988;
2. Tài sản nợ cho tới tài sản có: Từ bụi than cho đến ánh sáng, thức ăn; xã luận, tờ Citizen’s Voice, Wilkes-Barre, PA, ngày 7/6/1988. Joe Conason, Câu chuyện thành công của ngài George W. Bush, Tạp chí Harpers, tháng 2/2000; Craig Unger, Cứu giúp Ảrập Xêút, Hội chợ Vanity, tháng 10/2003, trang 165.
3. Xem George Lardner Jr. Và Lois Romano, Bước ngoặt sau khi cạn kiệt, tờ Bưu điện Washington, ngày 30/7/1999; Joe Conason, Câu chuyện thành công của ngài George W. Bush, Tạp chí Harpers, tháng 2/2000; và Sam Parry, Tập đoàn dầu lửa của gia đình Bush-Phần II: Thế hệ thứ ba, http://www.newnetizen.com/predidential/busholigarchy.htm (được truy cập vào ngày 19/4/2002. Học thuyết này mang một ý nghĩa mới mẻ và dường như đã sắp sụp đổ đến nơi khi chịu nhiều sự săm soi của công chúng, và khi mà vài năm sau đó công ty kế toán có tiếng là Arthur Andersen đã câu kết với các giám đốc của Enron để lừa gạt những người tiêu dùng năng lượng, công nhân của Enron, và công chúng Mỹ hàng tỷ đô la. Cuộc chiến ở Iraq năm 2003 đã gạt tâm điểm này sang một bên. Trong suốt cuộc chiến, Bahrain đã đóng một vai trò quyết định trong chiến lược của Tổng thống George W. Bush.
Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế - John Perkins Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế