The multitude of books is making us ignorant.

Voltaire

 
 
 
 
 
Tác giả: John Perkins
Nguyên tác: Confessions Of An Economic Hit Man
Dịch giả: Lê Đồng Tâm
Biên tập: Quyen Thuy
Upload bìa: Viet Quang Luong
Số chương: 38
Phí download: 5 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 261 / 76
Cập nhật: 2020-06-28 13:34:21 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 28: Panama: Lại Một Vị Tổng Thống Nữa Bị Ám Sát
ái chết của Roldos làm tôi sửng sốt, mặc dù đáng ra tôi không nên sửng sốt như vậy. Tôi đâu có ngây thơ. Tôi đã từng biết đến Arbenz, Mossadegh, Allende - và rất nhiều người khác nữa, những người mà tên tuổi của họ chưa bao giờ được nhắc đến trên báo chí hoặc các cuốn sách lịch sử nhưng cuộc đời của họ đã bị huỷ hoại hoặc bị rút ngắn lại bởi họ đã dám đứng lên chống lại chế độ tập đoàn trị. Song tôi vẫn sửng sốt. Nó diễn ra quá trắng trợn. Sau thành công vang dội của chúng tôi ở Ảrập Xêút, tôi đã kết luận rằng những hành động trơ trẽn như vậy đã thuộc về quá khứ. Tôi nghĩ rằng những con chó rừng đã được nhốt vào sở thú. Giờ tôi biết tôi đã sai. Tôi dám chắc cái chết của Roldos không phải là một tai nạn.
Nó có tất cả dấu hiệu của một vụ ám sát do CIA sắp đặt. Tôi hiểu nó được thực hiện thật trắng trợn để gửi đi một lời đe dọa. Chính phủ Reagan, với hình tượng của một chàng trai cao bồi Hollywood, là một phương tiện lý tưởng để chuyển tải những thông điệp như vậy. Những con chó rừng đã quay trở lại. Chúng muốn Torrijos và bất kỳ ai có ý định tham gia vào chiến dịch chống lại chế độ tập đoàn trị hiểu được vấn đề đó. Nhưng Torrijos không chịu lùi bước. Giống như Roldos, ông không để bị đe dọa.
Ông cũng trục xuất Viện Nghiên cứu mùa hè và kiên quyết từ chối lời đề nghị của chính phủ Reagan về việc đàm phán lại hiệp ước kênh đào. Hai tháng sau khi Roldós bị ám sát, cơn ác mộng của Torrijos trở thành sự thật, ông chết trong một vụ tai nạn máy bay. Đó là vào ngày 31 tháng 7 năm 1981. Châu Mỹ Latinh và cả thế giới quay cuồng. Torrijos nổi tiếng trên khắp thế giới; người ta ngưỡng mộ ông vì ông đã buộc Mỹ phải trả lại kênh đào Panama cho những người chủ hợp pháp của nó và vì ông tiếp tục đứng lên chống lại Reagan. Ông là nhà vô địch trong cuộc đua đòi nhân quyền, là lãnh tụ của một dân tộc đã mở rộng vòng tay đón nhận những người tị nạn chính trị, trong đó có cả quốc vương Iran, một tiếng nói thuyết phục cho công bằng xã hội, người mà nhiều người tin rằng phải được đề cử cho giải Nobel vì Hòa bình. Giờ đây ông đã ra đi.
“Một vụ ám sát của CIA!”. Một lần nữa báo chí và các bài xã luận lại tràn ngập dòng chữ này. Graham Greene mở đầu với cuốn sách làm quen với vị tướng, cuốn sách mà ông viết từ chuyến đi mà tôi gặp ông tại khách sạn Panama với đoạn sau: Năm1981, khi đồ đạc đã được sắp xếp cho chuyến thăm lần thứ năm tới Panama của tôi thì chuông điện thoại reo. Herera, một người bạn và là người luôn tiếp đãi tôi nồng hậu mỗi lần tôi đến Panama báo tin tướng Omar Torrijos đã ra đi. Chiếc máy bay nhỏ chở ông đến ngôi nhà của chính mình tại Coclesito ở vùng núi Panama đã nổ tung và không một ai sống sót. Vài ngày sau, trung sĩ Chuchu, biệt hiệu José de Jesus Martinéz, cựu giáo sư triết học Mác tại trường đại học Panama, giáo sư toán và thơ, nói với tôi: “Có một quả bom trong cái máy bay ấy. Tôi biết có một quả bom trong máy bay, nhưng tôi không thể nói với anh qua điện thoại tại sao tôi biết”.(1)
Dân chúng ở khắp nơi khóc than cho sự ra đi của một người nổi tiếng là luôn bảo vệ người nghèo và những người bị áp bức và họ căm phẫn đòi Washington mở cuộc điều tra về những hoạt động của CIA.
Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra. Có rất nhiều người căm thù Torrijos, và trong danh sách ấy có những tên tuổi đầy thế lực. Khi còn sống, ông đã từng bị Tổng thống Reagan, Phó Tổng thống Bush, Bộ trưởng Quốc phòng Weinberger và các Tổng tham mưu trưởng cũng như rất nhiều tổng giám đốc các tập đoàn hùng mạnh căm ghét không giấu diếm. Đặc biệt, các tướng lĩnh quân đội đã phát điên lên vì những điều khoản trong hiệp ước Torrijos - Carter buộc họ phải đóng cửa trường quân sự Mỹ và bộ tổng chỉ huy chiến tranh miền Nam. Điều này buộc họ đối đầu với một thách thức lớn. Một là họ phải tìm cách để không phải làm theo hiệp ước, hai là phải tìm một nước khác sẵn sàng tiếp nhận những căn cứ này - một viễn cảnh không tưởng vào cuối thế kỷ XX.
Tất nhiên, còn một giải pháp nữa: thủ tiêu Torrijos và đàm phán lại hiệp ước này với người kế vị của ông.
Nhiều tập đoàn đa quốc gia khổng lồ cũng nằm trong danh sách những kẻ thù của Torrijos. Phần lớn những tập đoàn này có mối liên hệ mật thiết với các chính trị gia ở Mỹ và đều dính líu đến việc bóc lột sức lao động và các nguồn tài nguyên thiên nhiên của Mỹ Latinh - dầu lửa, gỗ, đồng, bôxit, và đất nông nghiệp.
Đó là những công ty chế biến, những công ty viễn thông, các tập đoàn hàng hải và vận tải, các công ty xây dựng và công nghệ. Tập đoàn Bechtel là một ví dụ điển hình về mối quan hệ mật thiết giữa các công ty tư nhân và chính phủ Mỹ. Tôi biết rõ Bechtel; tại MAIN chúng tôi thường làm việc với công ty này và kỹ sư trưởng của công ty đã trở thành một người bạn thân của tôi. Bechtel là công ty xây dựng và lắp ghép có thế lực nhất nước Mỹ.
Chủ tịch và lãnh đạo công ty là George Schultz và Caspar Weinberger, những người đã hết sức khinh miệt Torrijos khi ông công khai đồng ý với một kế hoạch của Nhật Bản về việc kênh đào Panama hiện tại bằng một kênh đào khác hiệu quả hơn. Việc này sẽ không chỉ tước đoạt quyền sở hữu của Mỹ mà còn gạt Bechtel khỏi một trong những công trình xây dựng sôi động và béo bở nhất của thế kỷ.
Torrijos đứng lên chống lại tất cả bọn họ, và ông làm điều này với một óc hài hước thanh lịch, duyên dáng và tuyệt vời nhất. Giờ đây ông đã chết, và thay thế ông là người được ông đỡ đầu, Manuel Noriega, một người không uy tín, không sức thu hút, cũng chẳng có được sự dí dỏm và trí thông minh của Torrijos, người mà rất nhiều người ngờ rằng không hề có khả năng chống lại những Bush, Reagan, và Bechtel của thế giới.
Bản thân tôi bị suy sụp bởi bi kịch này. Tôi ngồi hàng giờ suy nghĩ về những cuộc nói chuyện với Torrijos. Một đêm, tôi ngồi rất lâu nhìn chằm chằm vào bức ảnh của ông trong một tờ tạp chí và hồi tưởng lại đêm đầu tiên của mình ở Panama, đi taxi trong mưa, dừng lại trước tấm áp phích khổng lồ với bức ảnh của ông. “Lý tưởng của Omar là tự do; chưa có thứ vũ khí nào có thể giết chết được một lý tưởng!”. Ký ức về câu nói đó khiến tôi rùng mình, hệt như trong cái đêm bão ngày nào.
Khi ấy tôi không hề biết rằng cùng với Carter, Torrijos sẽ trả lại kênh đào Panama cho những người xứng đáng được sở hữu nó một cách hợp pháp, rằng chiến thắng này, cùng với những cố gắng hòa giải các bất đồng giữa những người Mỹ Latinh xã hội chủ nghĩa và những tên độc tài, sẽ làm cho chính quyền Reagan - Bush phát điên lên và tìm cách để hãm hại ông.(3) Tôi không thể biết rằng vào một đêm khác ông sẽ bị giết trong chuyến bay thông thường trên chiếc Twin Otter, hoặc là phần lớn thế giới trừ nước Mỹ sẽ tin chắc là cái chết của Torrijos khi mới 52 tuổi chỉ là một vụ ám sát nữa trong hàng loạt các vụ ám sát của CIA. Nếu Torrijos còn sống, chắc chắn ông sẽ tìm cách dập tắt làn sóng bạo lực đang dấy lên và từng mang tai họa cho biết bao dân tộc ở Trung và Nam Mỹ. Căn cứ vào những gì ông đã làm được, rất có thể ông sẽ tìm cách đạt được một thỏa thuận để làm giảm bớt sự tàn phá của các công ty dầu lửa quốc tế tại khu vực Amazon như Êcuađo, Colombia, và Pêru.
Và hành động này cũng sẽ giúp làm bớt đi những cuộc xung đột khủng khiếp mà Washington nhắc đến như khủng bố và cuộc chiến ma túy, nhưng Torrijos lại nhìn nhận những hành động này như hành động của những con người tuyệt vọng để bảo vệ gia đình và mái nhà của họ. Quan trọng hơn, tôi dám chắc ông sẽ trở thành một hình mẫu cho một thế hệ các nhà lãnh tụ mới ở Châu Mỹ, Châu Phi, và Châu Á - điều mà CIA, NSA và những EHM không bao giờ cho phép xảy ra.
Ghi chú:
1. Graham Greene, Tiến tới biết cái đại thể (New York: Sách cầm tay, 1984), trang 11. George Shultz là Bộ trưởng Bộ Tài chính và là Chủ tịch Hội đồng Chính sách kinh tế dưới thời Tổng thống Nixon và Ford, 1972- 1974, Chủ tịch Tập đoàn Bechtel, 1974-1982, làm Ngoại trưởng dưới thời Tổng thống Reagan và Bush, 1982-1989; Caspar Weinberger là Giám đốc Văn phòng Quản lý và Ngân khố và làm Bộ trưởng Bộ Y tế, Giáo dục, và Phúc lợi dưới thời Nixon và Ford, 1973-1975, Phó chủ tịch và Tư vấn trưởng của Tập đoàn Bechtel, 1975-80, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dưới thời Reagan và Bush, 1980-87.
2. Trong suốt năm 1973 là năm diễn ra vụ nghe trộm Watergate, trong bản điều trần trước Quốc hội, John Dean là người đầu tiên tiết lộ âm mưu của Mỹ là ám sát ngài Torrijos; năm 1975, theo yêu cầu của Quốc hội đối với CIA, do thượng nghị sĩ Frank Church chủ tọa, bản tường trình bổ sung và việc lập kế hoạch ám sát cả ngài Torrijos và Noriega được đệ trình. Xem, chẳng hạn như, Manuel Noriega với Peter Eisner, Hồi ký của Manuel Noriega, một tù binh của Mỹ (New York: Random House, 1997), trang 107.
Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế - John Perkins Lời Thú Tội Của Một Sát Thủ Kinh Tế