This will never be a civilized country until we expend more money for books than we do for chewing gum.

Elbert Hubbard

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Son Vo Di
Số chương: 9
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6942 / 422
Cập nhật: 2016-06-04 04:55:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6: Gia Định Và Phú Xuân Đối Đầu
Tiết 16
CÁI CHẾT CỦA NGUYỄN HUỆ
Con người Nguyễn Huệ * Vai trò Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính của Tây Sơn * Khó khăn của Cảnh Thịnh: sức tràn bờ của Tây Sơn ở Diên Khánh và vụ Bùi Đắc Tuyến.
Giữa những bộ mặt lịch sử xuất hiện vào hậu bán thế kỷ XVIII Nguyễn Huệ tỏ ra đặc biệt nhất. Nguyễn Ánh bền dai, kiên trì có lẽ đã làm cho một số người trầm tĩnh thán phục, nhưng lại từng là bại tướng của "ông Long Nhương", nên có thắng trận cuối cùng cũng bớt một phần oai vũ đối với người sau. Nguyễn Nhạc thất bại ngay lúc còn sống, hình như đã thừa đến 6 năm trong thành Chà Bàn, kén may mắn hơn Châu Văn Tiếp chết trên chiến trường, Nguyễn Hữu Chỉnh bị bêu đầu sau một hồi làm mưa làm gió. Nguyễn Huệ trái lại sống giữa hào quang rực rỡ của chiến thắng, chết đi ném trả cho con cháu trách nhiệm giữ cho dòng họ khỏi bị tru diệt. Nguyễn Huệ thu nhặt được tất cả những lời khen lao, từ bọn bầy tôi quen tán tụng bất cứ ai là chủ tể cho tới đám thù nghịch từng chịu điên đảo vì ông.
Về khuôn mặt, dáng người, lịch sử còn để lại bức vẽ truyền thần của nhà Thanh hoạ lúc có sứ bộ 1790. Nhưng chúng ta đều biết đó chỉ là Giả Vương. Người ta không cần chọn người giống lắm vì đã có Phúc Khang An làm tay trong gạt Càn Long rồi. Nói về khí vũ hiên ngang của một võ tướng bách chiến bách thắng thì hẳn Giả Vương đã có - nếu ta tin hoạ sư vẽ theo thực, không tô điểm thêm.
Mới đây, người ta tìm được chứng cớ rằng một pho tượng trong chùa Bộc ở Hà Nội chính là tượng Quang Trung 1. Việc bức tượng được cho mặc triều phục, đi hia mà lại chân trong chân ngoài chứng tỏ thái độ ngang tàng của con nhà tướng. Nhưng nếu chữ "quang trung" trên đôi câu đối đúng là chỉ ông vua Tây Sơn này thì bức tượng chắc cũng không tạc đúng hình Nguyễn Huệ vì đã phải chịu những quy luật về hình ảnh khuôn khổ của một ông Phật, ông tướng Trung Hoa: tai to, mắt xếch (đáng chú ý là trong hình Giả Vương, đôi mắt người mẫu còn nằm ngang hơn ở đây).
Trong một quyển dã sử còn lại, có một vài nét về Nguyễn Huệ có vẻ thực lắm: "Tóc Huệ quăn, mặt mụn đầy, có một con mắt nhỏ, nhưng mà cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn thì ánh sáng từ mắt soi sáng cả chiếu..." 2. Tóc quăn, mặt mụn, mắt không đều là dấu vết của thân xác. Nhưng câu chuyện tròng mắt có ánh sáng phát ra, ban đêm soi sáng cả chỗ ngồi là cảm tưởng của người nhìn khiếp sợ trước oai vũ của "Thượng công".
Về cuộc đời riêng của con người này, lịch sử cũng biết được một ít, nhiều hơn những ông vua thời bình cầm đầu quốc gia bằng thế tập. Sĩ phu Bắc Hà quen với không khí tôn nghiêm, bệ vệ của Lê hoàng, Trịnh chúa đã ngạc nhiên khi thấy cảnh anh em Tây Sơn "trò chuyện, kẻ hỏi người đáp cực kỳ ôn tồn (?) y như anh em các nhà thường dân" 3. Và cũng nhân dịp ra Bắc này, tướng sĩ dưới quyền được vui cười cảm thấy gần gũi ông tướng oai nghiêm ngày thường với câu nói cợt nhả: "Vì dẹp loạn mà ra rồi lấy vợ mà về, trẻ con nó cười thì sao? Tuy vậy ta chỉ quen gái Nam Hà chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng thử một chuyến xem có tốt không?" 4.
Người con gái Bắc Hà 16 tuổi đó cũng biết nhược điểm của bậc anh hùng nên đã dùng thế lực riêng của mình mà ảnh hưởng tới quyết định của Nguyễn Huệ khi đòi phế tự hoàng Lê Duy Kỳ, lập Sùng Nhượng công Duy Cẩn, khi thì đòi ngược lại, "mếu khóc" vuốt ve tự ái đấng trượng phu. Tình cảm mềm yếu cũng tỏ rõ mấy năm sau, khi Quang Trung "điên cuồng lên" vì một người vợ mất ở Phú Xuân 5.
Tấm lòng say mê đó đem đổ vào cuộc đời ông, nơi triều chính, nơi chiến trường biến thành một sức quyến rũ lôi cuốn mọi người. Dù Nguyễn Nhạc có ghét em đến dùng chữ "giảo quyệt", "hợm hĩnh", "kiêu ngạo", người ta vẫn nhìn hành động của Huệ để mà thấy các hình dung từ trên không có ý nghĩa xấu khi gán cho một con "hùm (muốn) ra khỏi cũi". Trái lại, khi bàn về Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh đang ở thế đối địch, Nguyễn Đình Giản cứng cỏi đều nhận "Bắc Bình vương là một tay anh hùng". Khi triều thần Bắc Hà họp lại để bàn việc cử người vào đòi Nghệ An, Phan Lê Phiên loại Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dư, viện lẽ "Bắc Bình vương là người rất quyệt, hay dùng trí thuật lao lung người khác, trong lúc bàn luận, khi xuống lại nâng lên người ta không biết đâu mà dò". Trần Công Xán, viên sứ giả được đề cử sau lúc "luôn trong mấy hôm vẫn không cử được người nào", cũng phải e dè nhận rằng kẻ mình phải thuyết là "người huyền bí khó lường" 6. Thận trọng dè dặt không vào thăm Lê Hiển Tông bệnh, dùng lý đó để bắt lỗi Lê Duy Kỳ sao không đợi ông vào hãy phát tang, Nguyễn Huệ thực đã hành động có chừng mực, có tính toán khiến bọn Lê thần phải nể sợ vậy.
Những chiến thắng của ông càng đưa ông lên cao trên đài danh vọng. Một cung nhân ở Thanh Hoá trong dịp Ngô Văn Sở chận núi Tam Điệp hẳn đã thấy cả hùng khí của Tây Sơn nên bày mưu cho Lê Thái hậu mà kỳ thực tóm tắt được cả dư luận Bắc Hà lúc bấy giờ đối với viên tướng "hang núi":
"Nguyễn Huệ là bực lão thủ hung tợn và giỏi cầm quân. Coi y ra Bắc vào Nam thật là xuất thần quỷ nhập. Không ai có thể dò biết. Y bắt Nguyễn Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Vũ Văn Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám trông thẳng vào mặt. Nghe lệnh y, ai cũng mất cả hồn vía, sợ hơn cả sấm sét..." 7.
Kẻ thù của Tây Sơn ở phương Nam, tuy phải chui nhủi chạy trốn, tức giận vì vua chúa họ suýt diệt tộc trong tay Nguyễn Huệ cũng không thể nào nói khác hơn những lời khen lao được, tuy họ đã từng chê trách thậm tệ Nguyễn Nhạc. Sử quan viết: "Nguyễn Văn Huệ là em Nhạc, tiếng nói như chuông, mắt sáng như điện, giảo, kiệt, thiện chiến? ai cũng phải sợ... Bốn lần đánh Gia Định, lúc ra trận đều đi trước, sĩ tốt hiệu lệnh nghiêm minh, thuộc hạ ai nấy dốc lòng vâng mệnh" 8.
Có thể nói Nguyễn Huệ đã dùng hào quang của mình mà che chở cho chế độ khi phong trào Tây Sơn đưa ông lên đài danh vọng. Bởi chế độ Tây Sơn quả đã phải đứng bấp bênh vì xây dựng trên một mâu thuẫn. Chúng ta đã nói rằng phong trào Tây Sơn xuất hiện vì sự giao thoa của hai nguồn năng lực lấy từ hai biến chuyển: một, bên trong là kết quả của tiến trình Nam tiến phối hợp với văn hoá phương Nam mấy trăm năm, và một, bên ngoài là sự khích động của văn minh kỹ thuật Âu tây trên đất Đại Việt.
Trong lịch sử của họ, Tây Sơn đã xô được Nam Hà rồi không tìm được đồng minh bên ngoài, bên trong lại hãnh diện vì sức mạnh quân lực, họ không tìm ra được cách tổ chức, khai thác những khả năng địa phương để tâm phục lâu dài dân chúng. Quay ra Bắc Hà, họ lại chui đầu vào trong cái rối rắm mà người trước đã gỡ không ra vì sự cằn cỗi của đất đai, vì không khí bảo thủ đã lâu đời, khó tẩy phá của sinh hoạt vua quan, dân chúng.
Chúng ta đã thấy cố gắng dung hoà giữa Tây Sơn và cựu thần Lê - Nguyễn. Nhưng sự vá víu ấy quả là tạm bợ. Bên trong chế độ vẫn chưa có sự hoà hợp. Nguyễn Thiếp chẳng hạn, tuy thấy được lối đào tạo nhân tài theo kiểu trích cú tầm chương không có ích lợi nên hô hào phục cổ. Nhưng cái giọng "tuần tự nhi tiến" quả cũng là giọng kinh văn. Không thể đòi hỏi Nguyễn Thiếp điều gì khác hơn một khi còn tồn tại cái không khí truyền thống Nho giáo đã hãnh diện có một Ngô Nho chẳng hạn, khẳng khái nói: "Đại thần vì nước gánh việc, kẻ sĩ vì người tri kỷ mà chết, đều là nghĩa nên làm như thế, ngoài ra tôi không còn biết có sự gì khác". Chính các nho sĩ bảo thủ đã chê cười nho sĩ cải cách và giễu cợt lối học chữ Nôm do Quang Trung chủ trương.
Quân tướng Quy Nhơn cũng không chịu để lôi kéo đi xa. "Theo Chu tử", nhưng phải dịch kinh, truyện ra chữ Nôm, thi cử lời Nôm, dụ tướng sĩ bằng chữ Nôm, điếu tang viết lời Nôm 9. Chúng ta cũng thấy các bức thư chữ Nôm của Nguyễn Ánh, đã nghe lời dụ ban cho tướng sĩ ở Gia Định (1800) 10, nhưng đó chỉ là phương sách tạm bợ nhất thời đối với họ Nguyễn. Trong khi đó Tây Sơn phải dùng chữ Nôm như một phương tiện diễn đạt tư tưởng chính thức, hợp với sự hãnh diện của họ. Có những tờ chiếu, sắc thần 11 bằng chữ Hán trong triều đại là một mỉa mai cho quá khứ của họ, nhưng cái thế cô lập với ảnh hưởng phương Nam mà từ đó họ phát xuất khiến họ đi dần vào trong không khí các trào cũ.
Sự lưỡng lự đó làm nên yếu kém của Tây Sơn. Tất nhiên việc Chiêu Thống còn ở Trung Hoa, việc Nguyễn Ánh hùng cứ phương Nam ảnh hưởng phần nào vào sự quyết định hợp tác với Tây Sơn của các cựu thần Nguyễn - Lê. Nhưng bản chất bấp bênh của chế độ Tây Sơn cũng khiến người ta ngần ngại hợp tác, nếu không là chống đối lại.
Quân tướng Tây Sơn trong vai trò chủ động nắm vận mệnh của vùng đất họ chiếm cứ cũng tung hết khả năng trong một cố gắng cùng cực để biến đổi xã hội đang cuốn hút họ theo một khuynh hướng thoái trào. Những biện pháp mạnh mẽ đã tung ra để bảo đảm thi hành cải cách hầu như đều có kèm với sự phô trương quân lực. Triều đại Tây Sơn, do đó, có bản chất quân phiệt và chỉ có thể tồn tại bằng chế độ quân chính của họ thôi. Thực ra đám võ tướng cũng chứng tỏ được họ là những người kiểu mẫu của thời đại mới. Kiêu căng, quen dùng uy quyền đàn áp, họ khiến cho những người Anh đến thăm năm 1793 phải phàn nàn cho đời sống của người dân. Nhưng phái bộ Macartney cũng phải công bình mà nhận rằng bọn võ tưởng ít hư hỏng hơn bọn văn quan 12. Thêm một chứng cớ rằng bên dưới sự thanh liêm tương đối của quân đội, có một tình trạng suy đồi xã hội mà những sức phản kháng tiềm tàng có thể lợi dụng được.
Nhưng bọn võ tướng từng vào sanh ra tử vốn chỉ chịu phục tòng người chỉ huy của họ thôi. Nguyễn Huệ cùng trưởng thành với họ, với thiên tư, với tài năng đã cai trị họ cũng như thần dân dưới quyền bằng sức mạnh của khiếp phục. Do uy quyển đó mà Nguyễn Huệ đã thi hành những cải cách có khi động chạm đến cả đời sống tinh thần của dân chúng như khi tiếp tục thi hành "phụng truyền" của Nguyễn Nhạc sai phá các chùa chỉ chừa mỗi tổng một ngôi mà thôi 13. Giáo sĩ Labartette ở Bố Chính hơn ai hết, có đủ những điều mắt thấy tai nghe để phán đoán về chế độ Tây Sơn. Ông nói: "Một ông vua dù có ẩn ý thế nào với tôn giáo có lẽ cũng thi hành một cách nhẹ nhàng vì những lý do chính trị. Ông chắc phải sợ bất mãn gây ra loạn lạc. Không bao giờ ông có thể có đủ sức mạnh để làm điều mà bọn này (Tây Sơn) đã làm. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, họ đã quét sạch xử sở khỏi những lạm dụng nhơ nhuốc: không ai dám rục rịch hết" 14.
Có lẽ biết đến vai trò - không chắc quyết định - nhưng quan trọng của ông trong sự sinh tồn của triều đại, nên Quang Trung, trước khi mất ngày 29 tháng 7 Nhâm Tý, giờ Dạ Tý (11-12 giờ khuya 16-9-1792) 15 đã đòi Trần Quang Diệu về trối trăn, dặn chôn cất cho mau nội trong một tháng rồi dời kinh về Phượng Hoàng Trung đô. "Nếu không, quân Gia Định kéo tới, các người sẽ không có đất mà chôn đâu" 16.
Đứa bé mới lên, "đồ sự du hí", làm gì biết đến sự cần thiết của những biện pháp khắt khe. Cho nên bãi lệnh mang tín bài, bỏ lệnh bắt dân lậu 17, việc làm tuy tiếng là nhân ái mà kỳ thực chứng tỏ triều thần Tây Sơn thiếu chủ tướng đã trở nên giải đãi, dắt nhau vào con đường cầu an, đem thêm nguy vong cho chế độ vậy.
Chế độ phân phong cho anh em đã thấy có nhược điểm ở Trung Quốc là khi trung ương không mạnh thì quốc gia dễ tan rã. Cho nên, vào năm 1793 ai cũng biết là Quang Thuỳ muốn độc lập với Quang Toản. Rồi loạn lạc nổi lên, nhất là ở Bắc Hà. "Xứ xứ tịnh khởi", thật sử quan vẽ được trong lời, sức phản động bày tỏ khi Nguyễn Huệ chết. Ở Gia Định, tháng 7-1792, người ta còn hoảng hốt vì "tên giặc ở Huế mạnh hơn bao giờ hết và chắc chắn hắn sẽ bóp chết Vua" 18, nhưng cùng tháng năm sau, người ta vui mừng "kẻ thù vẫn còn, nhưng lực lượng họ yếu kém thấy rõ" 19.
Cho nên Ngọc Hân than khóc chồng mà như thay cả triều đại Tây Sơn khóc chúa tể:
"Nghe trước có đấng vương Thang, Võ,
"Công nghiệp nhiều, tuổi thọ thêm cao,
"Mà nay áo vải, cờ đào,
"Giúp dân dựng nước xiết bao công trình!...
"Công dường ấy mà nhân dường ấy,
"Cõi thọ sao hẹp bấy hoá công
"Rộng cho chuộc được tuổi rồng,
"Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi".
Tuy nhiên sự tan rã không phải đến tức khắc. Mười bảy ngàn quân và 80 voi ồ ạt vào cứu viện Quy Nhơn còn đủ hung hăng để người ta tăng quân số gần gấp đôi: 30.000 người, hay như Lelabousse nói 5-60.000 người.
Nhưng thành Chà Bàn không mất vào tay Nguyễn Ánh thì cũng mất vào tay Phạm Văn Hưng. Quân cứu viện đến trước thành thì thấy cửa đóng. Họ lên tiếng đe doạ thì Nguyễn Nhạc nhắm không đủ sức giữ nổi nữa nên đã mời họ vào. Tiếp sau đó là những cử chỉ nhường nhịn giả dối. Nhạc tuyên bố nhường ngôi lại và chỉ muốn sống như người thường thôi. Ban đầu họ không nhận, mời ông lên lại trên ngai ngồi để họ lạy, nhưng ông từ chối. Vài tháng sau (13-12-1793), ông mất đi, người ta nói, "vì buồn rầu và xấu hổ". Nguyễn Bảo, con Nhạc được phong làm Hiếu công, ăn lộc huyện Phù Ly 20.
Như vậy là từ nay Nguyễn Ánh phải đối đầu trực tiếp với Phú Xuân. Việc Nguyễn Nhạc chắn giữ Quy Nhơn ngăn giúp được cho Gia Định sức mạnh của Tây Sơn miền Bắc trong khoảng vài năm đủ để cho Nguyễn Ánh chỉnh bị quân tướng. Tuy bây giờ thực là muộn, nhưng quân đội còn giữ được hăng hái và sức mạnh đã không chịu để Nguyễn Ánh đe doạ mình.
Cho nên, tháng 3 Giáp Dần (1794) Quang Toản lại phái Thái uý Phạm Văn Hưng và Tổng quản Trần Quang Diệu vào Quy Nhơn 21. Bốn vạn quân của Hưng mới tới Phú Yên thì Nguyễn Văn Nhân bỏ chạy mặc dầu đã có lời dặn của Hoàng tử Cảnh lúc bấy giờ ở Diên Khánh bảo phải giữ.
Một đạo quân Tây Sơn theo đường núi vòng xuống Ba Ngòi định để chận lương Diên Khánh từ Gia Định chuyển ra bằng đường bộ vì 4 vạn vuông lúa do Nguyễn Văn Thành tải bằng đường thuỷ mắc ngược gió không ra khỏi Vũng Tàu. Ngày 28-4, 300 thuyền Diệu vào Nha Trang. Ngày 2-5 đã có bộ binh Hưng và 50 voi vào Bình Khang vây kín 3 mặt thành Diên Khánh - Bên trong chống giữ là Bá-đa-lộc và Hoàng tử Cảnh với lời dặn dò của Nguyễn Ánh lúc ra đi nhắc nhở sự quan trọng của ngôi thành: "Ta đêm ngày hao mòn, từng phải cay đắng mới được chút đất này đó" 22.
Bảy ngàn quân bên trong chống với 40.000 quân bên ngoài. Trên thành Bá-đa-lộc cho đặt thêm nhiều đại bác giả làm nghi binh. Quân Diệu ở ngoài bắn đại bác vào không hiệu quả mới đắp luỹ đất vây quanh. Trong gần một tháng không bỏ thành theo lời Nguyễn Ánh, Diên Khánh đã tiêu hao quân địch bằng cách đột kích khiến họ bị chết và phải sợ hãi. Trận lớn nhất và cuối cùng là vào ngày 21-5, quân Gia Định có 7-8 người chết cùng hơn 60 người bị thương. Bên ngoài có các tướng Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành ở Ba Ngòi, Nguyễn Long trên vùng núi. Nguyễn Văn Thành lôi Nguyễn Văn Nhân bỏ Long Cương (gò Rồng?) tới đóng Phong Lộc, cầu Dài sát vòng vây Tây Sơn.
Ngày 23-5, Tây Sơn rút lui. Nguyễn Ánh đường thuỷ và Hoàng tử Cảnh, Nguyễn Văn Thành đường bộ, lên đường truy kích địch ngay sáng hôm sau.
Thực ra Cảnh và Bá-đa-lộc ở xa trận địa đến hơn một giờ đường 23, nhưng khi Tây Sơn rút lui về đồng Cây Cầy, hai người cũng trải qua nhiều vất vả. Đi trước có Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Long, Võ Văn Lượng, Mạc Văn Tô, Nguyễn Văn Tính, Nguyễn Văn Lợi tập kích sau lưng Tây Sơn. Con đường Hà Nhao, An Tượng men theo các hẻm núi không thể nào đi ngựa hoặc đi cáng được mà nhất định phải đi bộ và người mệt không tả được như Bá- đa-lộc đã than.
Nguyễn Ánh tới Thi Nại bèn sai Tôn Thất Hội đánh lấy Tiêu Cơ (Gành Ráng?), làng Mai lấy được 40 đại bác cùng khí giới khác. Đổi lại, Phó tướng Tiền quân là Nguyễn Văn Thư trúng đạn chết.
Thuỷ quân Gia Định mạnh mẽ thấy rõ. Trên núi Tam Toà, Tây Sơn bị cai cơ Nguyễn Đình Đắc bắt đến 800 người. Trần Quang Diệu, Đổng lý Nguyễn Văn Thận đem 8.000 binh đến bãi Nhạn, vũng Tham liền bị đánh tan. Chỉ có quân Phạm Văn Hưng, Thống lãnh Đặng Văn Chân đóng trong cửa Thi Nại là ráng cầm cự. Hoàng tử Cảnh xin hợp binh tiến đánh quân Hộ giá Nguyễn Văn Huấn đóng ở Vân Sơn 24, quân Kiểm điểm Trần Viết Kết đóng ở Hà Nhao. Nguyễn Ánh chỉ bảo giữ chắc ở La Hai, Hà Nhao, tăng thêm binh giữ Cù Mông bởi vì ông tin rằng khi thuỷ binh thắng thì bộ binh Tây Sơn sẽ tự tan rã ngay.
Tháng 6 âm lịch năm đó, Thuỷ quân của Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhân ra đánh Tây Sơn ở cửa An Dụ lấy thuyền lương rồi ra đến cửa Đại Cổ Luỹ (Quảng Ngãi) đánh kho Phú Đăng, đuổi Tiết độ Nguyễn Văn Giáp chạy, lấy lương rồi trở về. Trên bộ vừa được một tin quan trọng: quân Cảnh tìm được đường rừng đi vòng đến núi Chúa nơi đóng quân của Tây Sơn. Nguyễn Ánh vội sai Phạm Văn Triệu, Olivier, Trần Văn Tín, Lê Văn Duyệt, Cao Văn Lý, Nguyễn Văn Tồn với đội Xiêm binh (lính Miên) cùng Trương Văn Phượng tới tăng cường. Quân Cảnh lẻn đến tập kích phá quân Tây Sơn ở Hà Nhao, đồng Cây Cầy, núi Chúa bắt hơn 3.000 người, đuổi Trần Viết Kết chạy. Nguyễn Văn Thành vội vã truy kích bị phục binh phải rút về Hà Nhao. Sử quan không nói rõ hơn về số thiệt hại, nhưng chắc đó là cớ chính yếu để Ánh rút quân vì thuỷ quân ông cũng không thể phá vỡ cửa Thi Nại để lên núi tiếp cứu bộ binh được.
Tháng 6 âm lịch Hoàng tử Cảnh dẫn binh về trước, tháng 7 Nguyễn Ánh cho người giữ Phú Yên và tháng 9 thì về đến Gia Định sai phái Võ Tánh ra trấn Diên Khánh.
Quân Nguyễn rút thì Tây Sơn cũng theo chân mà tràn vào. Tháng 10, Trần Quang Diệu và Tư lệ Lê Trung đuổi Nguyễn Long và Võ Văn Lượng chạy về Bình Khang. Hai tháng sau thì họ tiến mạnh vào. Chuyến này Tây Sơn tỏ rõ quyết tâm và khôn ngoan mở rộng ngoại giao: họ đem vàng bạc qua cầu thông với Xiêm để cô lập Gia Định.
Nguyễn Ánh nghe Võ Tánh cho tin quân Tây Sơn đến địa đầu Bình Khang nhưng không thể làm gì hơn vì gió bấc thổi mạnh. Ông chỉ khuyên nhủ Võ Tánh cố thủ và cho Lưu thủ Bình Thuận Nguyễn Văn Tính lo tăng viện, đồng thời cho Nguyễn Huỳnh Đức làm chánh, Nguyễn Văn Thành làm phó, kéo quân đóng Phan Rang.
Trần Quang Diệu lãnh phần đánh Diên Khánh. Lê Trung tiến sâu hơn chiếm Du Lai, đuổi Võ Văn Lân được lệnh giữ đó từ tháng 10. Nguyễn Văn Tính tăng viện Diên Khánh không được phải quay về.
Trong tháng cuối năm Giáp Dần (đầu 1795). Trần Quang Diệu cố tìm cách tuyệt đường lấy nước của Diên Khánh nhưng không được. Thành này một lần nữa lại chứng tỏ khả năng phòng thủ của nó. Tây Sơn kéo lên ồ ạt bị súng trên thành bắn xuống lăn ra chết rất nhiều. Diệu lại phải đắp thành đất vây quanh và sơ hở để bị tập kích chết mất Đốc chiến Định. Tuy nhiên trong thành bắt đầu thiếu muối ăn, Đội trưởng Nguyễn Văn Trứ phải đang đêm lẻn trốn khỏi vòng vây chạy về Gia Định cáo cấp.
Trong khi đó, Tây Sơn Lê Trung tiến đánh Phan Rí khiến Nguyễn Huỳnh Đức phải lui về Phố Hài. Nguyễn Ánh vội sai Đức về giữ Ma Ly trao quyền cho Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Văn Tính, Mạc Văn Tô ở lại chống giữ.
Đầu năm Ất Mão (1795), Tôn Thất Hội đem binh ra Phố Hài, Phan Rí ngăn Tây Sơn. Nhưng Tây Sơn kéo quân đến đuổi Nguyễn chạy về Bà Rịa. Đây là lần cuối cùng Tây Sơn xâm nhập sâu vào nội địa quân Nguyễn nhất. Nguyễn Ánh tức giận cách chức Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành, bắt trao quân cho Tô Văn Đoái để ông này theo Tôn Thất Hội giữ Ma Ly. Mặt khác, quân Miên dưới quyền Nguyễn Văn Tồn cũng được đem từ Mang Thít lên đóng ở Bà Rịa án ngữ.
Tuy gió còn ngược, Nguyễn Ánh cũng để Hoàng tử Cảnh giữ Gia Định, tự đem quân cứu Diên Khánh. Và cũng như những lần khác, thuỷ quân cũng làm thế nương tựa cho quân bộ. Tôn Thất Hội đem bộ binh đi Phan Thiết thấy Lê Trung còn ở Phan Rí nên đóng lại Xuy Miệt. Trong khi đó, Trương Phúc Luật đem thuyền đến Ỷ Na đánh kho Phan Rang lấy gạo, còn Tống Viết Phúc thì phá thuỷ binh Tây Sơn từ vũng Diễn kéo tới.
Tháng 3, Nguyễn Ánh đến cửa Cầu Hin bắn đại bác cho Võ Tánh biết tin cứu binh rồi đi ra Sử Châu (Phú Yên) phân binh chiếm Phú Yên để chận đường về của Tây Sơn. Ông cho Võ Văn Lượng giữ núi Gian Nan, Mai Tấn Vạn, Nguyễn Văn Nguyện chiếm Thạch Thành rồi phân ba đồn dài từ núi Cổ Ngựa đến Đại Lãnh (đèo Cả) 25. Từ Phú Yên, ông tiến quân ngược về Nam, qua Hòn Khói, sai Nguyễn Văn Đắc đánh luỹ Lạp Trường 26, giết Đô đốc Gia, Binh bộ Tấn chiếm lĩnh Bình Khang.
Binh thế hai bên bây giờ thực đã đến lúc cài nhau mà tranh chiến. Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Xuyên tiến phá thêm luỹ Lò Đúc (Dã Lô) trong khi Lê Trung ở Bình Thuận đánh Xuy Miệt không thành.
Tháng tư, ở Phú Yên, Võ Văn Lượng, Mai Tấn Vạn mộ được dân Thượng hai đầu đánh ép Đô đốc Tây Sơn là Nguyên, Phượng, Quế ở sông Đà Rằng 27. Phượng bị chém, còn bao nhiêu chạy về Hội An. Đánh lâu lương thiếu, Ánh sai Hoàng tử Cảnh bắt điền hộ nạp thêm một kỳ thuế, lính không đi đánh giặc nạp mỗi người hai vuông gạo. Lê Trung cũng thiếu lương đưa thư cầu cứu Trần Quang Diệu thì người đưa tin bị bắt. Phan Rang bị quân Nguyễn chiếm nhưng chỗ đóng binh xa đường thuỷ, mất thế tựa nên Tây Sơn lại đến đuổi chạy về Ba Ngòi.
Hai bên vẫn còn dằng co nhau. Tôn Thất Hội chiếm sông Luỹ thì Lê Trung ở sông Cạn 28. Thượng đạo Tướng quân Nguyễn Long đem quân xuống khe Sương làm thế ỷ giác cho Diên Khánh để Võ Tánh lẻn ra đốt trại Lê Văn Lợi từ núi Sĩ Lâm đến cầu Hoa Vông. Nhưng Tây Sơn vẫn còn vây chặt, đủ mặt Tổng quản Trần Quang Diệu, Nội hầu Lê Văn Lợi, Tiết độ Nguyễn Văn Giáp, Đổng lý Nguyễn Văn Thận, Kiểm điểm Trần Viết Kết, nếu không có một việc vừa xảy ra ở Huế gióng hồi chuông báo tử cho quân tướng Tây Sơn.
Như chúng ta đã phân tích ở trên, Nguyễn Huệ mất đi, bọn quân tướng quen dưới quyền sai phái của một người chỉ thấy lệ thuộc nhau như những kẻ ngang hàng mà thôi. Cho nên ta đã thấy Nguyễn Hữu Chỉnh hục hặc với Vũ Văn Nhậm, Nhậm khinh lờn Ngô Văn Sở đem đến kết quả thảm thương. Đến bây giờ, Thái sư Bùi Đắc Tuyên mà tên chưa từng nghe đến trong chiến trận và tuổi đến 80 thì làm sao cai trị nổi bọn võ tướng dày dạn, sung sức?
Đắc Tuyên từ khi làm Thái sư thì lấy Thiền Lâm tự làm phủ riêng, mọi việc triều chính đều xét xử ở đấy (Rõ là lối làm việc co rút của một ông già). Ông lại tự quyền sanh sát. Kẻ bất mãn tăng lên, lại có dịp để kết tụ âm mưu.
Trần Văn Kỷ trên đường phát phối ra Bắc Thành gặp Vũ Văn Dũng ở trạm Mỹ Xuyên, bèn nói ít lời xúi giục. Dũng về Phú Xuân mưu với Thái uý Phạm Văn Hưng, Hộ giá Nguyễn Văn Huấn giả tiếng đem quân tế cờ rồi thừa đêm tối ập tư dinh bắt Đắc Tuyên. Tuyên trốn trong phủ Quang Toản, Vũ Văn Dũng đem quân đến đòi, dìm nước cho chết. Ngô Văn Sở ở Bắc thành, Bùi Đắc Thận, con Tuyên, và Ngự sử Chương, hơn 10 người đều bị luỵ. Chưa hết. Vũ Văn Dũng còn để Nguyễn Văn Huấn đem 500 quân trấn giữ Quy Nhơn 29 để án ngữ phản ứng của Lê Trung được coi là bè đảng Bùi Đắc Tuyên và cũng trông chừng luôn Trần Quang Diệu, người mà mối liên lạc thân tộc với Bùi Đắc Tuyên qua Bùi Thị Xuân thật không thể chối cãi.
Việc rõ ra là một mối nứt rạn thật lớn lao, đe doạ cả tương lai Tây Sơn.
Đang vây Diên Khánh, Trần Quang Diệu nghe tin, sợ vạ cho mình bèn họp các tướng bàn quay về dẹp loạn bên trong rồi sau sẽ trở lại. Nhưng quân Nguyễn đã chận ở mặt sau chắn nơi Lão Lãnh, Đại Lãnh, Gian Nan Lãnh. Cuộc rút lui cũng thật là gian nan.
Tháng 6, Trần Quang Diệu không qua sông Thị Nghi được tuy có toán quân của Nguyễn Văn Huấn được tiếng là vào Đà Rằng để trợ thanh thế. Lê Trung ở Do Lâm 30 phải bại binh leo lên thuyền chạy một mình về Diên Khánh. Họ họp nhau tiến đánh Gian Nan Lãnh nhưng không qua được đồn binh của Võ Văn Lượng chận ở đó.
Trong khi đó, quân Diên Khánh ở trong thành đã bắt đầu mỏi mệt. Võ Tánh, tướng sĩ đều mắc bệnh. Quân Nguyễn phải lo tấn công gấp rút. Vị trí của Tây Sơn trên núi Kho không chiếm được. Nhân bắt được tên du binh Nguyễn Văn Nho của Tây Sơn xin đi làm hướng đạo, quân Nguyễn tổ chức đánh phá. Đêm đến, 300 người lội qua sông Ngư Trường 31 cởi áo bò lên đốt trại, theo sau có đạo binh hò hét tiếp sức. Thành Diên Khánh được giải vây trong dịp này.
Nhưng Tây Sơn vẫn chưa lui được. Gian Nan Lãnh có thêm quân Nguyễn Ánh giữ chặt. Trần Quang Diệu dẫn quân vây Tu Bông 32 bị súng lớn bắn cản đường tiến của voi. Vừa Nguyễn Văn Thành đem quân tiếp cứu, Tây Sơn bỏ chạy.
Rốt lại, Trần Quang Diệu theo đường núi Như Tráp mà về Quy Nhơn.
Đem quân về thẳng An Cựu, Diệu đóng quân bờ nam sông Hương. Vũ Văn Dũng mang quân bản bộ cùng Nội hầu Tứ lấy lệnh Vua chống lại. Cả hai đều sai dâng biểu lên Quang Toản tố cáo tội lỗi lẫn nhau. Sứ Vua ra bảo 2 người vào chầu thì họ đều xin y như lời biểu của họ đã rồi nhiên hậu mới bỏ quân. Tình thế đương găng thì Phan Huy Ích đã thảo một tờ chiếu giảng hoà 33. Lý luận thuyết phục nhắm vào việc làm cho hai tướng nhận rõ mối nguy hại từ bên ngoài đưa tới, nhận rõ vai trò trọng yếu của họ trong việc giữ gìn, chống đỡ chế độ, trách họ đã đem việc công làm việc riêng, không chịu để triều đình thu xếp mà lại dùng binh ép Vua phải làm theo lời họ. Mềm mỏng, chặt chẽ, nhưng tờ chiếu cũng lộ ra mối lo sợ tan rã của kẻ chỉ huy yếu ớt khi nhắc đến việc bỏ qua tội bất tuân triều mệnh, phân trần không có lòng hại tướng thần và dè dặt chận trước việc có thể xảy ra là hai bên mang quân bản bộ bỏ đi. Thực là quá xa cái thời Quang Trung đòi "giết hết những kẻ nhị tâm, không tha một người nào".
Người chết không sống dậy được thì người sống phải tự lo. Cuộc triều kiến đưa đến kết quả giảng hoà. Bốn người chia nhau quyền binh làm Tứ trụ đại thần.
Theo nhận xét của người đồng thời, "họ đều là những tay có tài trị nước, can đảm và được dân chúng tín nhiệm" 34. Nhưng đổ vỡ đã xảy ra rồi thì khó hàn gắn được. Người chịu nạn trước tiên là Trần Quang Diệu, viên tướng biên thuỳ mà ở Kinh đô thì như con chim bị cắt cánh. Ông bị dèm pha, tước hết binh quyền chỉ còn cái chức hư không ngày đêm bên điện. Tướng sĩ tan rã, chán nản tới nỗi có kẻ lộ manh tâm hàng đầu như Lê Chất (1797) mà Lê Trung chỉ tìm cách cảnh cáo chứ không trừng trị hay ít ra tìm cách loại đi để bớt hại.
Thế rồi loạn Nguyễn Bảo làm chết Lê Trung. Thượng thư Hồ Công Diệu dèm pha chết Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn. Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng kết phe với Lê Văn Thanh định hại sủng thần Lê Văn Ứng của Quang Toản. Tất cả những rối loạn đó xô đẩy nhà Tây Sơn mau sụp đổ hơn, nhưng đều đã hiện ra từ đêm 29-7 Nhâm Tý lúc một ngôi sao vừa tắt vậy.
Tiết 17
DAO ĐỘNG Ý THỨC HỆ Ở GIA ĐỊNH
Cơ sở tín ngưỡng và đại giá của tiếp viện Tây phương ở Gia Định * Dao động ý thức hệ và cuộc tranh chấp quanh cá nhân Hoàng tử Cảnh * Ảnh hưởng cuộc tranh chấp tương ứng với việc tổ chức quan lại * Ảnh hưởng cuộc tranh chấp tương ứng với tiến triển quân sự.
Trong phần bàn về sinh hoạt tinh thần của dân chúng đương thời, ta đã điểm xét qua những tín ngưỡng. Chúng ta đã nói đến Thần giáo, Phật giáo bị Nguyễn Ánh ngăn chặn hoạt động. Nhưng điều đó một phần có nghĩa là chính quyền trừ khử bớt những hành vi tiêu cực cản trở việc tổ chức xây dựng Gia Định: Bắt bà đồng bỏ nghề đi xay lúa, giã gạo, cũng như bắt người Miên làm biếng ham chơi phải đi lính.
Cho nên cơ sở tín ngưỡng thông thường của dân chúng vẫn còn vững chắc. Thái hậu, Hoàng hậu sinh ra Hoàng tử Cảnh đều có thờ Phật. Cuộc sống tu hành khuất lấp, dửng dưng, có vẻ vô tội đến nỗi một người điềm chỉ cho Ngô Văn Sở đi bắt Chiêu Thống, đã tỏ cái dễ dàng của công việc bằng một câu ví tức cười: "Như vào chùa trói một lão sư đi mà thôi" 35.
Chính yếu của tín ngưỡng đó là sự tin vào con người có linh hồn, không phải là một thứ linh hồn vô tội, như một xuất hiện của bản ngã mà là một thứ linh hồn có quyền phép, có xúc cảm. Tín ngưỡng đó, ta còn thấy chung quanh ta, nhưng nghe một L.M tả cảnh xài phí của đám chuyển linh cữu Trịnh Sâm về Thanh, ta biết rõ hơn những điều đã gây nhạc nhiên cho người ngoại quốc:
"Vào tháng giêng 1783, người ta mang xác Chúa đến mộ, xa kinh thành vài ngày (...). Người ta khó mà tưởng tượng được đã tiêu phí như thế nào cho đoàn rước ấy. Ngoài một số nhiều bàn dọn ê hề mọi thứ đồ ăn cúng cho người chết mỗi ngày nhiều lần và phải suốt 3 năm theo tục lệ người ta thấy khắp chỗ vải vóc, tơ lụa quý báu để trang trí phần mộ và những cơ sở mê tín xây lên cho người chết.
Vàng lóng lánh trên ghế, trên kiệu, và trên mọi đồ dùng tang lễ; nhiều chiếc thuyền lớn đều lát vàng. Tất cả những gì tráng lệ đó cũng như tất cả những đồ dùng thường ngày của Chúa đều thiêu đốt đi để Chúa dùng bên kia thế giới" 36.
Thế giới đó, nơi trú ngụ của linh hồn người thường dân, là địa ngục, là âm phủ. Thế giới chúng ta sống là hạ giới. Khoảng vô hình quanh ta có những con ma ở kinh Đôi Ma trêu ghẹo quân lính Tây Sơn, con tinh, ông thần phò hộ cho người chài lưới Đà Nẵng được mùa cá. Còn linh hồn Trịnh Sâm chắc là lên thượng giới, nơi có Thượng đế, ông trời với cả một triều đình y như dưới này vậy.
Trên mảnh đất Đại Việt những bè phái có chống đối, chém giết nhau nhưng cũng đều chia xẻ tin tưởng ấy, rõ ràng hay mơ hồ, tràn trề tình cảm tôn kính sợ hãi hay cứng cỏi trong lý luận là còn tuỳ từng người. Nguyễn Ánh và Trịnh Hoài Đức đều ý thức rõ ràng nước ta không lấy Phật giáo làm quốc giáo như Xiêm mà gọi vua là Thiên tử, Thiên vương. Nguyễn Nhạc của Tây Sơn, giản dị, xuề xoà hơn, để cho dân chúng gói mình là "vua Trời".
Những ngày còn cướp bóc, phải phá nhà thờ, lấy chuông chùa, Tây Sơn vẫn giữ tục lệ thông thường như L.M Ginestar cho biết: "Bọn vô thần cấm tất cả mọi tôn giáo hành lễ trừ đạo đời Lê, nghĩa là đạo Trời dạy những gì là thiện và những phép tôn trọng tổ tiên" 37.
Chiếm được quyền rồi, họ chấn chỉnh đạo Phật nhưng cũng khoan dung với Thiên Chúa giáo, tuy rằng những khó khăn từ ngoài đưa tới và thái độ hướng về cựu Nguyễn của các giáo sĩ sẽ làm cho họ dè dặt hơn. Triều đại họ, như đã phân tích, vẫn phải kiếm lấy sức mạnh ngoài ảnh hưởng Tây phương, ảnh hưởng mà họ cố gắng thâu nhận cho hợp một phần với bản chất thương mại nội địa của tập thể họ dắt dẫn lúc ban đầu. Họ đã thất bại trong toan tính đó và kỹ thuật Tây phương lại dồn về cho một ông Hoàng còn sót lại của chúa Nguyễn Nam Hà. Chúng ta đã thấy sự hiện diện của người Tây phương, thương nhân cũng như giáo sĩ ở Gia Định. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, nước Đại Việt thu nhận một giám mục cố vấn cho Vua, trông coi Chế tạo cục, có các giáo sĩ giảng đạo công khai, theo quân đội chiến thắng thu tín đồ ở nhưng vùng mới chiếm (trường hợp các giáo sĩ Lavoué, Boisserand, Lelabousse ở Diên Khánh năm 1794) 38, có các binh sĩ Âu xây đắp thành trì, huấn luyện sĩ tốt, xây dựng một cơ cấu thuỷ quân làm mưa làm gió trên mặt biển Đông, loại trừ các thuỷ quân địch lẫn bọn giặc cướp Mã Lai, Tàu Ô làm trở ngại giao thương trên mặt biển 39.
Nhưng họ ở đây mang một nề nếp sinh hoạt, suy tưởng khác hẳn với chung quanh. Họ kiêu hãnh với kỹ thuật quân sự, tổ chức tiến bộ hơn nên thường tỏ thái độ kẻ cả - thái độ tuy vậy cũng được biện chính một phần nào. Đối lại, Nguyễn Ánh cùng binh tướng cũng đã từng chiếm được Gia Định trước khi họ tới, nên ý thức được địa vị chủ nhân ông của mình, khăng khăng bám lấy tin tưởng có sẵn. Cho nên trong khi Tây Sơn đang ở thế tan rã thì Gia Định cũng trải qua một cuộc khủng hoảng vì sự lớn lên của họ. Cơn khủng hoảng bắt đầu kín đáo từ 1789 nhưng bùng nổ quyết liệt vào 1794, 1796 và lan đến 1798, 1799.
Đầu tiên phải kể đến phản ứng trong dân chúng. Ở nơi này cũng như ở nơi khác trên mảnh đất có chiến tranh này, các giáo sĩ đều ghi những trường hợp trở-lại-đạo từ một ông thầy phù thuỷ, cô gái quê đến một người cô (dì?) của Nguyễn Nhạc, và ở Gia Định, một bà thứ phi của Nguyễn Ánh. Nhìn sự tiến triển đó với cặp mắt khoan dung là một chức việc làng có uy tín, một người cậu của Quang Toản (Trần Quang Diệu?) "tay chiến tướng giỏi nhất trong phe từ Bắc Hà tới Nam Hà", và chót hết, Nguyễn Ánh 40. Nhưng đã có những chống đối.
Tây phương từng tìm cách khoe khoang khoa học của họ, như trường hợp của ông Boisserand làm nảy tia lửa điện trước mặt các quan "như tay phù thuỷ", bắn ít phát súng lục trong điện vua, thả một quả khí cầu, và như các giáo sĩ khác, có chữa một ít bệnh cho dân chúng. Do đó, người ta đồn rầm lên là các giáo sĩ móc mắt người bệnh ra, nhét bông vào đó và dùng mắt làm ngọc cùng các vật dụng đẹp đẽ khác. Một ông quan dám đoan chắc với Nguyễn Ánh là có việc ấy ở nhà thờ.
Sự chống đối vì khác ý thức sinh hoạt có khi được lồng trong cuộc tranh đấu Nguyễn - Tây Sơn. Đồ đảng Tây Sơn có người tên là Phó Tín từ Bình Thuận vào Vĩnh Trấn giả bộ cảm vì uống thuốc tây và quả quyết rằng người Âu mưu bắt dân Gia Định để móc mắt. Bị tra tấn mới lòi ra rằng người Âu không can gì vào đấy hết. Có một người mướn anh ta với 80 người nữa để loan tin ấy ra. Phó Tín cùng 7-8 người đồng đảng bị giết 41.
Việc quấy rối Gia Định do chủ trương của một triều Tây Sơn yếu ớt như của Nguyễn Nhạc, sở dĩ xảy ra được vì chính đã gặp lúc dân chúng hoang mang, nghi ngờ. Hiện tượng này tất nhiên cũng có ở bộ máy trung ương.
Mọi cuộc tranh chấp ở đây xoay quanh việc giành giựt linh hồn Hoàng tử Cảnh. Các quan triều cố giữ lấy đấng trừ nhị của họ trong khuôn khổ tư tưởng thịnh hành của quốc gia. Trong khi đó, các giáo sĩ, nhất là Bá-đa-lộc, hi vọng ở ông hoàng này tương lai sẽ thành một Constantin le Grand Đông phương.
Họ càng nhiều tin tưởng hơn khi Hoàng tử Cảnh qua 4 năm tuổi thơ sống bên Bá-đa-lộc, cũng như những đứa trẻ khác đã theo khuynh hướng tự nhiên mà hướng về Thiên Chúa giáo. Mới đặt chân về Gia Định, Cảnh đã tỏ lộ những tư tưởng, hành động gây rối loạn trong triều làm cho Pigneau, Lelabousse mừng nhảy lên, viết thư khoe khoang ầm ĩ 42 rằng "lòng thành kính của Cậu đối với Đạo càng ngày càng phát triển" và "ở đây cũng như ở Pháp, Cậu tiếp tục cho ta thấy hi vọng nhiều".
Trong buổi lễ trình diện trước bàn thờ tổ tiên sau những năm vắng mặt, Cảnh nhất định không lạy "những con quỷ sứ" vì "ông bà đã chết rồi không thể trở về hưởng được". Cảnh có thể nghe theo lời Phụ hoàng lạy bất cứ ai còn sống chớ không thể theo các tục lệ mê tín đó được. Những dỗ dành, hai ba cái tát tai của Hoàng hậu không lay chuyển được ý định đó và rốt lại Nguyễn Ánh phải lạy thay con mà cảm thấy ngượng trước triều thần vào con đường phản kháng, Cảnh vẽ hai dấu thập tự trên tượng Phật của Hoàng hậu mà kiêu hãnh rằng mình cũng như Phật đều từ Ấn Độ tới. Và ghép chung các tôn giáo khác vào đạo Thần tượng, Cảnh đã chỉ cho mẹ cậu trét phân bò trên tượng Thích Ca như cậu đã thấy làm ở một giáo phái nào đó.
Những tin tưởng của cậu bé 8 tuổi này có vẻ có căn bản lắm. Trong khi Hoàng hậu cho rằng chính cha cậu đã có quyền sáng tạo nên vạn vật, thì cậu nằng nặc quyết người đó phải là "Đức Chúa ở trên trời", bởi vì rõ ràng là cha cậu đã không đẻ ngay được một bầy 2000 con voi để chống với 300 voi Tây Sơn. Cậu hứa sẽ lấy một vợ thôi, vì Chúa đã sinh "có bao nhiêu đàn ông thì có bấy nhiêu đàn bà". Lúc đi ngủ, Cảnh lén đọc kinh lầm rầm. Pigneau không trực tiếp xúi giục mà lâu lâu lại dặn dò rằng đừng quên Chúa nhất là buổi chiều và buổi sáng. Chiến thuật khôn khéo đó được tung ra vì Pigneau thấy phản ứng của các quan, hoàng tộc và vì nó tỏ ra có hiệu quả ở lời đinh ninh cửa Cảnh: "Tôi không muốn làm vua và tôi muốn mai này trở về Pháp ngay nếu không có ý định làm cho cả dân tôi trở lại đạo đã giữ tôi lại".
Triều đình hoảng hốt, Nguyễn Ánh tức bực, nhưng già dặn, trầm tĩnh như bà Thái hậu thì thấy khác. Yêu quý cháu nội, ngăn không cho Hoàng hậu đánh con, bà nói: "Có gì lạ đâu con, thằng bé vừa mới về chưa nhận được chút giáo dục phong tục của ta, chỉ thấy toàn những điều trái lại thì làm sao nó làm theo lời ta bảo được. Để yên rồi lâu ý tưởng nó sẽ giống như của chúng ta". Lelabousse bảo bà ta lầm. Nhưng thực vậy.
Hai năm sau, ông cũng như Pigneau hoảng hốt viết thư báo động 43. Qua lời tâu xin của các quan, Nguyễn Ánh đem Cảnh về dạy dỗ. Ở giữa "một triều đình ngoại đạo, sống theo quy tắc của các thầy ngoại đạo, xung quanh có các viên Thượng thư Satan làm đủ cách để phá hoại sự vô tội của Cảnh", cậu Hoàng tử này trở về đời sống khuôn khổ của tầng lớp và dân tộc cậu.
Ngày Giáp Dần, tháng ba, Quý Sửu (30-4-1793), Nguyễn Ánh làm lễ phong Cảnh làm Đông cung, xây Thái học đường, đặt Đông cung Phụ đạo dạy Cảnh học hành. Một Thị giảng Giáo sư, hai Hàn lâm Thị học phụ tá, tám Quốc tử giám Thị học làm bạn, sáng chiều nhóm giảng kinh sử. Hai người được kể làm Thị giảng là Trịnh Hoài Đức và Lê Quang Định. Và chính Ánh bắt các quan ghi lời Cảnh nói, hằng tháng dâng lên ông kiểm soát để biết con học hành tấn tới ra làm sao4.
Tuy vậy, Ánh một mặt theo thiên tính, giáo dục vẫn quý trọng Bá-đa-lộc, một mặt cũng nhận thấy còn cần có người này để mở rộng kiến thức con mình, để giữ vững tinh thần quân sĩ, uy thế quốc gia, nên nhân dịp này bắt Cảnh lạy Bá-đa-lộc 44 lạy bảo đối đãi như bực sư phó 45. Tất nhiên sự hiện diện của Pigneau bên cạnh Cảnh cứ cành ngày càng làm cho các quan khó chịu. Cho đến khi nổ bùng ra vụ mà chúng ta gọi là vụ Tống Phúc Đạm 46.
Cho Cảnh ra giữ Diên Khánh, Nguyễn Ánh có dụng ý bắt các tướng vì sự hiện diện đó mà không bỏ thành chạy khi Tây Sơn tiến đánh. Nguyễn Ánh cũng nài nỉ Pigneau đi theo để tăng uy thế. Trong đám tướng cùng ra Diên Khánh có Giám quân Tống Phúc Đạm. Theo Liệt truyện, chính Đạm đã bày mưu dùng kế phản gián chia rẽ Phạm Văn Sâm và Nguyễn Lữ trước kia.
Pigneau nhận xét, bảo Đạm là người "nghiêm trang, trịnh trọng, cần mẫn và giản dị". Trong 8-9 tháng cùng Pigneau thảo luận, trao đổi tư tưởng về Khổng giáo, ông đã bị Pigneau quyến rũ, đến nỗi tâu xin Vua bỏ một số nghi lễ ở Triều đình mà ông cho là mê tín, theo như quyết nghị của Giáo hội La Mã về "nghi lễ Trung Hoa", đến nỗi sau khi giải vây mắc bệnh không về Gia Định được mà ông cứ nằng nặc quyết gặp Giám mục để phải bị chết dọc đường.
Muốn hiểu rõ thái độ này của Tống Phúc Đạm đã gây xúc động cho các quan như thế nào, ta phải phân biệt trường hợp Hoàng tử Cảnh và trường hợp Tống Phúc Đạm. Đạm là bậc huân cựu đại thần, tuổi đã lớn (59 tuổi lúc xảy ra chuyện), tư tưởng khuôn sáo đã thành nếp thế mà bị thuyết phục trong vòng không đầy một năm, thì cậu bé Hoàng tử sẽ ra sao nếu cứ luôn luôn ở bên Pigneau? Năm 1789 còn bảo Cảnh nhỏ bé, chưa từng ở quê nhà nên dễ nhiễm ý tưởng của Pigneau chứ rồi đây Cảnh càng ngày càng lớn, càng độc lập trong tư tưởng đã được uốn nắn một lần rồi mà nay lại theo Pigneau thì nguy hại biết mấy.
Các quan, và cả Nguyễn Ánh nữa đã thấy đe doạ mất tin tưởng truyền thống, quyền lợi riêng tư, một khi Cảnh bị lôi kéo như Tống Phúc Đạm. Gọi là các quan bị đe doạ mất quyền lợi riêng tư, thực đúng như Pigneau đã nói. Nhưng ta cũng khó tách biệt rõ ràng phần tranh đấu cho quyền lợi và phần phản ứng nào bị thúc đẩy bởi va chạm tín ngưỡng.
Ngày Cảnh không lạy ông bà, Nguyễn Ánh đã tìm gặp Pigneau 47 để phàn nàn sao Thiên Chúa giáo dạy tín đồ quên ông bà. Pigneau cãi rằng: "ở xứ này, thờ cúng ông bà vì tin rằng ông bà nhận lạy, ăn cỗ bàn, phù hộ con cháu sống lâu, giàu có". Vì lối thờ cúng đó nghịch với sự thực không được đạo ông công nhận là lẽ tất nhiên. Nhưng Nguyễn Ánh biện bác rằng Pigneau chỉ bằng vào tin tưởng của dân chúng, lúc nào và ở đâu cũng đầy tính cách dị đoan hết. Sự thực ông tin rằng lễ bái chỉ là chứng cớ để cho con cháu nhớ ơn cha mẹ, ông bà: "Khi tôi đi đến các chỗ lễ đó, tôi nghĩ rằng nếu tổ tiên tôi còn sống, tôi muốn đền đáp công ơn trong muôn một. Để chứng tỏ ý nghĩ tôi chân thành và có hiệu quả, tôi muốn ngay bây giờ làm những điều như là ông bà tôi còn sống. Tôi biết rằng họ không còn nữa và những điều tôi sắp làm không có ích lợi gì cho họ cũng như cho tôi. Nhưng tôi muốn tỏ cho mọi người biết rằng tôi không quên họ". Lý lẽ đến đây thì không còn thuần là tin tưởng mà lợi ích công cộng đã xen vào Tục thờ cúng ông bà có liên quan đến trật tự xã hội, uy quyền của Nguyễn Ánh.
Pigneau gọi là dị đoan lễ rước ông bà cuồi năm, tục đốt vàng mã, lệ thờ thần chủ coi như là nơi trú ngụ của linh hồn người khuất. Nguyễn Ánh cho rằng không thể bỏ được vì sợ gây loạn. Ông nói: "Tôi đã cấm phù thuỷ, thiên văn, tôi đã coi đạo Thần tượng là xấu và sai, nhưng tôi phải giữ đạo thờ ông bà như tôi đã trình bày, vì theo tôi đó là một trong những căn bản giáo dục của xứ tôi". Nguyễn Ánh xin Pigneau cho bọn tuỳ tướng Thiên Chúa giáo của ông được theo các cuộc lễ như mọi người, khỏi có hại cho uy tín của ông. Chỉ có một chút đó thôi được thoả mãn là không ai ngăn họ tiến lên những địa vị cao cả.
Thế mà lời yêu cầu không được chấp thuận. Tám năm sau, Nguyễn Ánh trong một lúc muốn dùng áp lực bắt Pigneau ra Diên Khánh lần nữa, đã cưỡng ép một ông quan lạy bài vị các tiên chúa với lý luận: "Ta nuôi ông lâu rồi, ban ơn phúc danh vọng cho ông nhiều rồi, sao ông không chịu lạy các đấng khuất của Ta (...), ông không từng lạy các thánh sao? Họ cũng đã chết rồi và không trở lại nữa. Ta cũng không tin rằng ông bà Ta hiện có trong đền, rằng họ có thể trở về đó ăn uống, nhưng chỉ lạy để tỏ lòng biết ơn của Ta trước mọi người thôi (...). Ông muốn Ta gởi đi Xiêm để phật vương bắt lạy Phật không?" 48. Điều khó khăn này các giáo sĩ cũng thấy là tế nhị. Những bức thư gửi đi 49 đều lưu ý đến tính cách thế tục, không có ý nghĩa tôn giáo của việc lạy xác, thờ cúng, và họ vạch ra rằng ở Pháp vua chết đi được liệm tử tế, đơm cơm để vài ngày mà không ai cho là mê tín cả.
Ông Boisserand kể lại cuộc hội đàm 1789 trên của Nguyễn Ánh, Bá-đa-lộc và tiên đoán rằng nếu người ta bài bác "thì sự thù hằn tăng thêm và mê tín càng vững chắc". Các giáo sĩ lại chống đối tất cả những tục lệ có sẵn mà họ cho rằng theo "nghi lễ Trung Hoa". Ngày đầu năm, mỗi vùng đều có góp tiền "theo dị đoan" để làm lễ Kỳ Yên, cầu cho quốc thái dân an. Pigneau sai Liot đề nghị hai người có uy tín, có ơn cũ với Nguyễn Ánh đến xin miễn cho những người Công giáo khỏi bị rầy rà, thì được trả lời theo kiểu "phép vua thua lệ làng": "Nếu các nơi không đòi người Công giáo phải nộp tiền thì tuỳ họ, nhưng nếu họ bắt buộc thì họ có quyền vì đó là tục lệ lâu đời rồi". Chưa hết, trong khi Pigneau đi Diên Khánh với Lavoué, Boisserand, Lelabousse, Nguyễn Ánh có sai trùng tu Văn Miếu, các giáo sĩ họp lại cử Hồ Văn Nghị và J.Liot vào tâu Hoàng hậu xin góp tiền cho quốc gia chớ không góp tiền xây cất Khổng miếu. Nguyễn Ánh bác đi vì cho rằng đó là dịp mọi người trả ơn cho người sáng lập, dạy dỗ đạo lý chữ nghĩa. Ra về, các giáo sĩ gởi thư đi các nơi bảo "cương quyết" không nạp. Liot ở lại thúc đẩy tinh thần các quan. Nguyễn Ánh phải chịu bỏ qua trường hợp một viên tướng cứng đầu. Và ở trong dân gian, các tín đồ cũng noi theo gương đó mà cưỡng lại 50. Uy quyền vị chúa tể bị xâm phạm nặng nề.
Như vậy, luôn luôn có những ganh ghét, thù hằn ngấm ngầm sôi sục. Nó chỉ bùng nổ khi bọn sĩ phu Gia Định thấy bị đe doạ thật sự. Đó là khi Tống Phúc Đạm xoay chiều. Và khi họ tấn công thì gặp được dịp tốt.
Từ 1792, những tin tức về cuộc cách mạng phản đế do bọn lái buôn Bồ đưa đến đã lọt vào tai Nguyễn Ánh. Giáo sĩ Lavoué nhận xét rằng: "Hình như các tin ấy có ảnh hưởng mạnh đến đầu óc ông Hoàng này và làm ông xa rời người Âu. Hiện nay (1795), ông tỏ ra ít dễ dãi đối với đạo hơn mấy năm trước" 51. Sửa soạn đi cứu Diên Khánh bị vây lần thứ hai, Nguyễn Ánh đã tống giam Dayot và một tuỳ tướng vì tội làm chìm chiếc tàu được giao trông coi hư hại đến nỗi không thể sửa chữa để dùng được gì cả. Nguyễn Ánh tức giận chửi lung tung. Đúng dịp ấy, 19 người đại thần, trong số đó có người chú vua (Tôn Thất Thăng?) và một người hoàng phái, dâng sớ bày tỏ mối nguy hại nếu cứ để Hoàng tử Cảnh cho Bá-đa-lộc dạy dỗ theo một tin tưởng khác hẳn mối tin tưởng cổ truyền. Họ cầu xin Nguyễn Ánh cắt đứt mối liên lạc ấy và để Cảnh cho các quan triều dạy.
Nghe chuyện, Bá-đa-lộc khôn ngoan ẩn tránh vài ngày. Thấy Nguyễn Ánh có vẻ nghe theo lời sớ, ông lên tiếng phàn nàn thì Ánh đến tận nhà đưa tờ biểu cho ông coi. Bá-đa-lộc nhắc lại công trình ông đã giúp Ánh và lưu ý Ánh rằng ông đến đây không phải với tính cách riêng tư mà là với tính cách đại sứ của vua nước Pháp. Thực ra, thoả ước Versailles đâu có áp dụng mà ông nêu điều này ra. Tuy nhiên, Ánh còn cần Bá-đa-lộc trong khi quân Lê Trung tiến vào cuối Bình Thuận, nên nghe Bá-đa-lộc đòi về, nhân dịp hai người có tên trong sở là Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành không đi cứu Phố Hài, ông kêu về tống giam vừa để trị tội, vừa để làm vừa lòng Giám mục 52.
Vụ Tống Phúc Đạm có thể coi như chấm dứt với việc Bá-đa-lộc xin phục chức cho Đức và Thành cho theo quân đánh giặc tháng 3 ất Mão (1795). Nhưng tranh chấp vẫn còn, Bá-đa-lộc trở nên dè dặt hơn vì nhận rằng xúc động của các quan có lý: "Các đại thần ở Pháp sẽ nói sao khi ông Hoàng của họ được đặt vào tay một người ngoại quốc có tôn giáo khác biệt?" Hi vọng của ông như đã ghi nhận ở lá thư 3 năm trước là "nếu dòng họ này nắm quyền thì tôn giáo sẽ yên ổn hơn ở các triều khác".
Trong lúc đó thì triều đình Gia Định càng ngày càng được củng cố theo mẫu mực Nho giáo.
Tháng chạp Ất Mão, khi cứu Diên Khánh về, Ánh định tháng 3 sang năm mở thi Hội. Theo lệ triều trước kỳ thi trải qua 3 trường, bây giờ các quan họp lại định trường nhất hỏi về hiểu biết kinh truyện, làm thơ, trường nhì làm văn sách, trường ba làm thơ, phú. Những người trúng cách được phân 3 hạng Giáp, Ất, Bính cho bổ quan chức hay miễn dao dịch. Người trúng trường nhất được miễn binh dao từ 2 đến 6 năm. Qua trường nhì, người trúng cách được bổ cao nhất là Lễ sanh, hạng cuối được làm Nhiêu học, miễn binh dao 4 năm. Ở trường ba, 3 hạng đầu là Cống sĩ, Huấn đạo, Lễ sanh; ba hạng sau là Huấn đạo, Lễ sanh, Nhiêu học (suốt đời). Khoa thi tháng ba Bính Thìn (1796) lấy đỗ 273 người 53.
Như vậy là tiếp với nhóm Bình Xương cùng các văn quan Bắc Hà, Phú Xuân về đầu, một nhóm cử tử thành đạt càng làm nho sĩ có đủ sức mạnh để bênh vực, khuông phò Khổng giáo. Bọn văn quan này noi gương Hàn Dũ, Trương Hán Siêu sẽ công kích Phật giáo rất dữ, hợp một phần với ý tưởng Nguyễn Ánh. Nhưng thực ra, nằm ở chừng mực tín ngưỡng trung bình, lễ tiết Phật giáo đã hoà lẫn với những tập tục bình dân mà ngay chính nho sĩ cũng không vứt bỏ được trong sinh hoạt hàng ngày. J. Barrow đã vẽ cho ta thấy hình một tượng Phật ở một động phía Nam Đà Nẵng (Ngũ Hành Sơn?) được đặt trên cây đa cao trông như ông thần cây vậy 54. Đó có thể là một suy đồi tín lý của Phật giáo nhưng đó cũng là sức mạnh của họ.
Trước sự đe doạ của ý thức hệ do các giáo sĩ đưa lại, Nguyễn Ánh với địa vị chủ tể càng ngày càng thấy phải trở nên khôn ngoan hơn để nghiêng dần về phía những tập tục cổ truyền. Cho nên, ta không ngạc nhiên như Lelabousse:
"Cho tới bây giờ, Đức vua không nhận tôn giáo nào khác hơn đạo thờ ông bà, thế mà từ 2 năm nay, ông đã xây cất nhiều Khổng miếu. Điều làm mọi người ngạc nhiên là ông hoàng này vốn không bao giờ chịu đựng đạo Phật đến nỗi đánh roi những người đem tượng vào phòng Hoàng hậu và đánh 100 roi những ông hoà thượng hành lễ, ông hoàng đó bây giờ lại đi chùa và dự những cuộc lễ của các vị sư mà ông đã luôn luôn ghê tởm" 55. Lelabousse giải thích là Nguyễn Ánh muốn làm vừa lòng mẹ, vợ và các phi tần, nhưng điều đó lại đánh dấu một bước lùi nữa trong chương trình của Pigneau.
thắng lợi quân sự tiếp theo đã đẩy Gia Định tiến mạnh trên con đường tổ chức xã hội theo khuôn khổ của Nho giáo để bọn sĩ phu. càng trở nên tự phụ hơn trước các giáo sĩ.
Tháng 2 Bính Thìn (1796), Nguyễn Ánh tổ chức kiểm tra quân dân chặt chẽ bằng cách bắt dân phải mang "tín tích", một thứ tín bài của Gia Định. Tháng 7 năm đó có tăng tiến tổ chức thuỷ quân trên cơ sở có sẵn: trước kia chỉ có 3 doanh, nay thêm 2 là 5, đủ Tiền, Hậu, Trung, Tả, Hữu 56.
Nhưng như kinh nghiệm cho biết, trên bộ, đội tượng binh của Trần Quang Diệu còn làm e ngại quân Nguyễn. Từ mùa đông 1792, Gia Định bắt đầu tổ chức tượng binh, nhưng lực lượng vẫn còn rất yếu ớt. Số voi tăng dần nhờ bắt dân Chàm, Thượng cung cấp, nhờ Vua hay trao đổi bằng cống phẩm với Cao Miên, Xiêm La và bắt được của Tây Sơn. Người huấn luyện điều khiển ban đầu là Chàm, Thượng. Trong trận 1797, Nguyễn Ánh đề ra chiến thuật đánh tượng binh: ông bảo lính cố sức giết cho được tên nài và địch quân ngồi trên đó để cướp voi 57. Chiến thuật có vẻ thật là giản dị như Kiêu binh đã từng áp dụng để giết Quận Huy.
Nguy hại thêm cho Tây Sơn là tổ chức nội ứng của Nguyễn Ánh đã lan mạnh trong khu vực của họ. Chúng ta đã biết, theo với đà suy yếu từ trung ương, dân chúng càng lộ vẻ chống đối Tây Sơn. Một bài ngâm như Hoài nam khúc trong đó tác giả nói toàn những chuyến cũ kỹ từ 1774, 1775 mà cũng làm dao động Thuận Hoá và lan rộng đến miền Nam. Cho nên, từ tháng ba Tân Hợi (1791), sử quan đã hãnh diện về số tay chân thương hộ ra ngoài Bình Thuận, Thuận Hoá dò la tin tức 58.
Những chuyến đánh ra rồi lại rút về càng tăng thêm lòng nao nức của những người oán Tây Sơn, hướng vọng về Gia Định không kể đến sự thực ở miền trong. Tiếp tục lợi dụng tinh thần đó, trong tháng 7 Bính Thìn (1796), Nguyễn Ánh sai người về Quy Nhơn, Quảng Nam, Thuận Hoá chiêu dụ nghĩa binh làm nội ứng. Một đợt thứ hai những gián điệp như vậy cũng được tung ra vào tháng 11 cùng năm 59.
Mùa Xuân Đinh Tỵ (1797), Gia Định phát binh đánh ra ngoài. Họ vừa được Cai đội Nguyễn Văn Vân bạt thuyền bị bắt ở Phú Xuân năm 1793 nay trốn về báo cáo tình hình. Con đường từ Xích Ram đến Ma Ly được sắp đặt ngựa trạm để thông báo tin tức. Loạn Ba Phủ vừa tạm dẹp yên. Gió mùa nổi lên. Nguyễn Ánh sửa soạn tăng cường 200 ghe chiến nhẹ và lô ghe bầu chở 12 súng lớn.
Đội quân xuất phát vào tháng 4-1797 gồm một lực lượng hùng hậu tới 447 thuyền và 42.000 chiến binh trong đó chiếc frégate và chiếc corvette đều do người Âu chỉ huy 60. Do đó mà những trận đầu tiên trên biển và ở ngoại vi Quy Nhơn, chiến thắng có vẻ dễ dàng. Nguyễn Văn Trương dẫn thuỷ quân đánh Đô đốc Triêm ở Tiên Châu rồi phá Đô đốc Tính ở đầm Nước Ngọt. Trên bộ, Nguyễn Văn Thành dẫn Hậu quân đánh chợ Hội An (Phú Yên) đuổi Đô đốc Hiếu chạy về La Hai.
Nhưng quân Lê Trung đã dàn ra giữ vững mặt nam Quy Nhơn và cửa Thi Nại. Nguyễn Ánh đành phải bỏ đó đem hơn 100 thuyền ra cửa Đà Nẵng. Hiểu rõ thực lực mình, tránh giao chiến bất lợi, Thống lãnh Đặng Văn Chân rút hết binh thuyền vào trong cùng với bộ binh của Thiếu bảo Nguyễn Văn Huấn dàn hai bên bờ sông dựa nhau cự chiến. Một trận đổ bộ thắng nhỏ không phá vỡ được quân địch, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Thành, Trần Văn Tứ, Trần Văn Bố dẫn quân chiếm Câu Đê đến Hải Vân, sát cửa Kinh thành 61. Nguyễn Quang Toản sợ hãi vội vã sai Trần Quang Diệu giữ cửa Eo (Noãn khẩu) có Đô đốc Lê Văn An tiến quân trợ giúp.
Mặc cho hai quân đối đầu ở giáp giới Quảng Nam, Thuận Hoá, Nguyễn Ánh lo thanh toán vùng bên trong, nên sai Cảnh tiến vào cửa Đại Chiêm đánh Chiên Doanh (thủ phủ Quảng Nam), có Võ Tánh từ Phú Yên đến trợ giúp. Cảnh chiếm chợ Đông An, Hội An. Võ Tánh đánh Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ bắt tù binh cùng 30 tàu Ô ở Đại Chiêm.
Trên bộ, Tây Sơn phản công dữ. Lê Trung tung quân đánh Hội An ở Phú Yên khiến Nguyễn Văn Thành phải bỏ về giữ Bình Khang. Tháng 6 năm đó, quân Nguyễn thắng mạnh ở Quảng Nam. Nguyễn Văn Trương đánh viện binh của Lê Văn An ở gò Phú Gia chạy về Câu Thai. Võ Tánh đánh Tiết độ Nguyễn Văn Giáp ở sông Mỹ Khê. Hoàng tủ Cảnh thắng ở núi La Qua, để Phạm Văn Nhàn ở lại Đại Chiêm, kéo Vũ Bá Diên đến Phú Triêm. Đang đêm, Nguyễn Văn Khiêm và Olivier mang bọn Chiến tâm quân lẻn đốt thuyền Tây Sơn.
Quân Quảng Nam cố thủ và cầu viện ở Quy Nhơn. Lê Trung sai Đại Đô đốc Lê Chất, Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Xuân và một người tên Hàn đem 2.000 quân, 40 thớt voi tới cứu, bị đánh tan. Voi bị giết, Hàn bị trúng đạn chết. Tuy vậy Lê Trung còn là mối lo cho quân Nguyễn. Trong tháng 7, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Biện, Nguyễn Đức Thiện đổ bộ lên cửa Hợp Hoà đóng ở Bến Ván chận cứu binh Quy Nhơn. Đô đốc Lê Văn An của Tây Sơn cũng cố tiến chiếm Trạm Dã nhưng không được. Nguyễn Ánh hi vọng Phú Yên yếu, Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường có thể chiếm được, nên không nghe lời Nguyễn Văn Biện, Nguyễn Đức Thành xin đánh Trà Khúc sau khi phá được Đô đốc Gia ở Thạch Đậu.
Như vậy là hai nhóm quân Tây Sơn mạnh vẫn còn chiếm một ở Đà Nẵng, một ở Trà Khúc với Lê Trung nơi ấy đang trưng tập đàn để bổ sung quân sĩ.
Thấy khó đánh, Nguyễn Ánh tính đến kế phản gián, sai người bảo Tham tán Tây Sơn là Từ Văn Tú thuyết Tiểu triều Nguyễn Bảo giết Lê Trung. Mặt khác ông tính tuyệt lương địch bằng cách sai Nguyễn Văn Biện giữ Tam Kỳ còn Lê Tấn Tham thì theo sông Thanh Hà đốt luỹ cản trở tiếp tế giữa Nam, Ngãi.
Nhưng nếu Tây Sơn bối rối vì hụt lương thì Nguyễn cũng không hơn gì. Từ lúc mở chiến dịch, họ đã mang lương mễ hơn 12.700 vuông gạo, 500 vuông muối, hợp với 12.800 vuông gạo và 3 vạn quan tiền chở đến Cầu Hin tháng 6 năm ngoái (1796). Không may, Trương Phúc Luật đem thuyền tiếp tế bị gió cản, cướp biển đoạt (Tề Ngôi hải phỉ?), khiến quân Quảng Nam chỉ còn có 5 ngày lương. Cuối tháng 7 đầu, Nguyễn Ánh phải cho lui quân mà không hay rằng thuyền lương kế tiếp đã tới vũng Quất (Quảng Ngãi). Nguyễn Văn Thành chiếm được Phú Yên cũng đành bỏ.
Chiến tranh kéo dài trong 4 tháng, quấy đảo Quảng Nam, đe doạ Phú Xuân trong 3 tháng đã mang lại vui mừng, hi vọng cho các giáo sĩ cùng dân chúng ở vùng này, tưởng như sắp được thoát ách Tây Sơn. Họ thất vọng vì quân Nguyễn rút lui 62, nhưng binh tướng Gia Định thì lại phấn chấn tinh thần hơn lên.
Cuối năm Đinh Tỵ, Nguyễn Ánh dẹp được loạn Ba Phủ mới nổi. Đầu năm sau (Mậu Ngọ 1798), Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương định đem 7.000 quân giúp Xiêm đánh Miến Điện 63. Rõ ràng là Gia Định càng ngày càng tự thấy làm chủ mình và muốn làm chủ người nữa.
Đám nho sĩ khỏi lo về phía Hoàng tủ Cảnh. Đông cung sống đúng cung cách của một ông hoàng Đông phương: ông vừa có 3 vợ mùa xuân năm ngoái 64. Và tháng 3 năm nay (1798), chính ông đã xin làm truyện các bậc trung thần để người ta theo đó mà được dạy dỗ rộng rãi cho trung thành với quân quyền hơn 65. Còn nói chi đến Nguyễn Ánh. Tuy vẫn còn kính trọng Pigneau, ông đã bắt đầu biết lợi dụng ông này.
Ngày Tết năm Đinh Tỵ (1797), Pigneau đến chúc đầu năm thì Ánh đề nghị ông đi cùng với Cảnh theo quân. Nhớ lại chuyện rắc rối kéo dài ở Diên Khánh trong 2 năm trước, ông từ chối. Mười lăm ngày sau, Ánh mời đi chơi để nói lại chuyện đó nhưng ông vẫn khăng khăng không nhận. Ánh bèn giở thủ đoạn chính trị ra. Lúc trở về, ông tỏ thái độ không bằng lòng đối với Thiên Chúa giáo. Ông bảo rằng ông đã phải chịu đựng rất nhiều để cho đạo hoạt động trong nước chỉ vì ngưỡng mộ Pigneau, chỉ vì ông này đã làm ơn cho ông. Bây giờ thì nhất định phải xét lại vấn đề đó. Ông lôi một viên quan có đạo ra bắt lạy các bực tiên hiền cho kỳ được để khủng bố tinh thần Pigneau. Quả nhiên Pigneau chịu nhún, đành phải nhận lời đi Diên Khánh 66.
Bọn nho sĩ trong triều lại có thế để mà tuyên dương đạo học của họ lên. Sử quan kể một chuyện xảy ra trong tháng 5 Mậu Ngọ (1798) như sau, có thể tóm thâu được hết cả tình hình độc chiếm tư tưởng lúc bây giờ:
"Đất Gia Định chuộng đạo Phật. Có vị cao tăng phạm tội vua muốn giết. Gặp kẻ cản ngăn, lấy lẽ đó là bậc chân tu, Nguyễn Ánh trả lời rằng: "Chân tu thì có ích gì cho nước?" Ông bắt kiểm tra hoà thượng, đạo đồng chỉ miễn dao dịch cho những tăng chúng trên 50 tuổi mà thôi, còn dưới 50 vẫn phải làm xâu như dân thường. Quần thần can làm Ánh lưỡng lự, Ngô Tòng Châu bèn lấy tính cách phụ đạo Đông cung tâu lên Cảnh: "Quân thượng ngài ngại đạo Phật hưng thạnh mà quần thần không tán thành ý đó lại ngăn cản đi. Thần sợ việc làm nửa chừng rồi thôi thì kẻ kia lại bậy bạ ngông cuồng hơn ngày trước. Tăng nhân đối với thần không có ghét bỏ riêng tư, nhưng mà cái hại của Phật, Lão còn hơn Dương, mặc nữa, chẳng lẽ không nói". Hoàng tử Cảnh đồng ý. Tòng Châu bèn dâng sớ bài bác thậm tệ, Vua mới không phân vân nữa mà quyết thi hành việc kiểm soát tăng chúng".
Sử quan cũng nhân dịp này mà chêm vào một câu: Bá-đa-lộc nghe Châu bài bác "Tả đạo" trong lòng cũng ghét 67. Quả vậy, nho sĩ đã thắng thế rõ rệt. Tháng 10 năm đó, Pigneau đi Diên Khánh với Cảnh. Tuy rằng ở đó Tống Viết Phúc vào tháng giêng năm sau (1799) nói hỗn với ông còn bị cách chức lôi về Gia Định 68, nhưng hợp với lúc J. Dayot đã đi, V. Olivier sắp bỏ chức, uy thế Tây phương hạ xuống rõ rệt ở xứ này.
Nho sĩ dựa vào sự trù phú của Gia Định, gặp dịp Tây phương rối loạn trong những chuyển mình về kinh tế, xã hội, mắc lo nội bộ không rảnh phát triển về phương Đông 69, lớp nho sĩ đó của đất Việt đã thu thập được một ít kỹ thuật tiến bộ của Tây phương để lớn lên, nhưng chịu đựng được những dao động do sự tiếp viện đem lại để vẫn làm chủ được tình hình. Họ đã biết đem trùm lên trên phần đất miền Nam còn đầy phức tạp với những ảnh hưởng tứ xứ và bản thổ, một lớp sơn Nho giáo đem từ phương Bắc xuống mà tính cách cứng cỏi còn được ghi nhận đến mãi sau này và còn lưu dấu trong toàn thể chính sách quốc gia một khi nền thống nhất được lập lại.
Xung đột còn mãi đến 1801 khi người Bồ tố cáo L.Barizy đầu độc chủ tàu tên R.Henderson, và làm cho Barizy phải bị tù (Chuyện từ thư của Barizy cho Letondal, BAVH, Oct-Déc, t.380-384).
Tiết 18
ĐÁNH VÀ GIỮ Ở QUY NHƠN
Nỗi khó khăn và những phản ứng của Phú Xuân * Chiến thuật ngoại giao của Nguyễn Ánh * Chiến trận chiếm thành Quy Nhơn * Lòng quyết chiến của Tây Sơn ở Thang Mộc ấp của họ * Trận thuỷ chiến Thi Nại (1801).
Chiến tranh dữ dội trong 3 tháng ở Quảng Nam trả thù những thất bại của quân Nguyễn 24 năm về trước đã làm nức thế những người tự nhận là của phe Gia Định ở miền này và gây khủng hoảng thêm cho triều đình Phú Xuân.
Ta đã nói đến vai trò của các cựu thần, các phiên thần nhà Lê, nhà Nguyễn, nhưng dưới quyền Tây Sơn còn có một nhóm người mang tính cách chống đối ngay từ căn bản tư tưởng: nhóm đạo đồ Thiên Chúa giáo. Thực ra, hoặc vì mang tính cách xuề xoà của người Việt về vấn đề tôn giáo hoặc vì lý lẽ chính trị không muốn gây bất mãn trong dân chúng để nhờ cậy Tây phương qua các giáo sĩ, Tây Sơn đã từng để yên cho các giáo đồ hành đạo. Cuộc nổi loạn lấn chiếm của Tây Sơn có một phần nào bài bác những tin tưởng cũ đã được giáo sĩ Labarlette ở Thuận Hoá vui mừng ngóng đợi tương lai xán lạn cho tôn giáo của ông. Và cũng vì những lẽ đó nên có giáo sĩ mới cho rằng dưới triều Tây Sơn tôn giáo phát triển tiến bộ.
Nhưng ta lại đã nói thêm rằng dù Nguyễn Ánh, dù anh em Tây Sơn cũng đều chia sẻ ý thức hệ Việt Nam hỗn tạp những tin tưởng Nho, Phật, Lão, Thần cho nên sớm muộn gì cũng có xung đột với tin tưởng từ phương xa tới còn nhiều sắc thái khá khác biệt. Cho nên, Nguyễn Nhạc đưa ra một phụng truyền bắt phá các chùa nhỏ ở làng để lập chùa lớn mỗi tổng thì đồng thời cũng bắt phá các nhà thờ để lấy vật liệu cần thiết cho việc xây cất kia. Lệnh bài đạo năm 1785 được tung ra vì một xung đột nghi lễ, tục lệ. Nội dung sắc lệnh bài đạo ngày 17-8-1798 đưa lý lẽ: "Xét rằng kiến thức điều khiển quốc gia đều gồm trong tam cương, ngũ thường (...) trong khi đạo Hoa lang lại đầy mê tín, dối gạt dân chúng và đảo lộn trật tự xã hội" 70.
Thế mà những biến động chính trị còn làm cho vấn đề phức tạp hơn. Việc Pigneau xả thân vượt biển giúp Nguyễn Ánh đã được những thương nhân đi Macao về nói lại 71. Tây Sơn biết rõ ràng, tất nhiên họ nghi ngờ nhóm giáo sĩ dưới quyền họ. Về phần giáo dân và những người lãnh đạo, theo khuynh hướng cục bộ, họ cũng hướng về Gia Định 72 không cần biết rằng ngay ở đó đám nho sĩ đang chèn lấn các linh mục và đã thắng thế.
Những mâu thuẫn càng gay gắt hơn theo với tình thế. Quang Trung còn vững chãi nên chỉ dùng để làm phương tiện bóc lột các tín đồ, bù đắp thiếu hụt ngân sách thôi: tháng 7-1791, ông bắt giáo dân từ Phú Xuân trở ra phải nộp 10.000 cân đồng 73. Đến Cảnh Thịnh thì nguy cơ đã lớn hơn. Các đạo đồ theo thời thế đã chống đối rõ rệt. Với các nhà truyền giáo thì việc bức đạo ở Quảng Ngãi tháng 8-1798 thực là dã man. Nhưng họ cũng công nhận rằng Lê Trung bắt một thầy giảng là cốt để phăng lần đến tung tích cha Dominique do Pigneau gởi tới đang lẩn trốn ở Phú Yên 74. Tây Sơn nghi ngờ những người này có nhiệm vụ do thám binh tình cho chúa Nguyễn. Cũng như linh mục Emanuel Triệu tử vì đạo trong chuyến này vốn là người quê Tống Sơn, bái quận của nhà Nguyễn, sinh ở Phú Xuân, có cha chết trong khi chống Tây Sơn năm 1775, có gia đình vào Đồng Nai và chính ông cũng đã ở trong đội cận vệ của chúa Nguyễn 75. Nghi ngờ của vua quan Tây Sơn nếu không đích xác thì cũng có lý lẽ biện hộ.
Chiến thuật ngoại giao của Nguyễn Ánh cũng mang lại những tác dụng quấy rối đáng kể. Từ lúc ở Xiêm về, ông vẫn cố giữ lấy tình giao hảo với Phật vương để lấy thế tựa bên ngoài nhất là khi hiệp ước Versailles đã không được thi hành. Mỗi lần đánh thắng trận, mỗi lần có rắc rối ở biên cương - như với Chiêu-thùy Biện ở Cao Miên - ông đều sai sứ sang Xiêm với lời lẽ mềm mỏng. Sứ bộ 16-12-1797 gồm có Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Kế Nhuận, Ngô Nhân Tĩnh 76. Rồi tháng 8 năm sau (1798) lại có sứ sang Xiêm. Quan trọng hơn cả là sứ bộ tháng 2 Kỷ Mùi (1799) xin Xiêm vương đem quân Chân Lạp, Vạn Tượng đánh vào mặt sau của Nghệ An. Người trông coi việc vận động với Vạn Tượng là Nguyễn Văn Thoại (Thuỵ), Lưu Phước Tường... Từ Diên Khánh, Nguyễn Văn Thành cũng dâng mưu đem các thuyền cướp biển bắt được dâng với Thanh đế để chia rẽ với Tây Sơn. Sứ bộ Ngô Nhân Tĩnh đi làm việc đó, thêm việc dò Lê Hoàng vào tháng 6 Mậu Ngọ (1798).
Những hành động đó đã làm cô lập thêm Tây Sơn. Nhưng phía Nguyễn Ánh cũng gặp những khó khăn nội bộ. Loạn Ba Phủ đang còn là một thứ "tâm phúc chi ưu" dằng dai thì tiếp đó Cai cơ Thuận Thành là Nguyễn Văn Phong lại "làm phản" chiếm sóc Kha 77.
Tây Sơn lo tìm cách thanh toán bên trong. Đầu tiên là vụ Nguyễn Bảo. Nguyễn Bảo sau trận Quy Nhơn 1793 chỉ còn ăn lộc có huyện Phù Ly. Bị mẹ già nói khích, Bảo ấm ức chờ cơ hội. Lúc đánh ra Quảng Nam, Nguyễn Ánh đã saì người dụ Bảo tập kích Lê Trung. Thế rồi tháng 11 năm Mậu Ngọ (1798), viên Hiếu công Phù Ly này tung quân chiếm Quy Nhơn, Lê Văn Thanh phải bỏ cả quân lính, cạo trọc đầu, ăn mặc rách rưới, trốn chạy lên rừng.
Nguyên do tức thời của biến loạn có lẽ là vì sự khuyến khích của Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường lúc bấy giờ vừa đến đóng ở sông Đà Rằng. Mặt khác cũng vì rối loạn ở Phú Xuân. Trần Quang Diệu vừa bị tước hết quyền bính, Bảo tin rằng tiến quân ra sẽ phối hợp được với quân Lê Trung, người từng chiến đấu bên cạnh Diệu. Nhưng Quang Toản đã kịp thời sai Diệu dụ Lê Trung. Bảo phải rút về cố thủ ở thành Quy Nhơn, sai Đại Đô đốc Đoạn Văn Cát, Đô đốc Nguyễn Văn Thiệu đang đóng ở Hội An (Phú Yên) đưa thư xin hàng Nguyễn Ánh. Chính Quang Toản đích thân vây thành. Cuộc công hãm kết thúc nhanh chóng vì quân trong thành mới là của Quang Toản hôm trước nên đêm lẻn ra chỉ chỗ phòng thủ sơ hở cho bên ngoài. Cứu binh Nguyễn Văn Thành chưa tới kịp thì Nguyễn Bảo đã bị xử theo "tam ban triều điển" rồi. Việc này dẫn theo cái chết của Lê Trung, việc trốn tránh của Lê Chất 78 và chắc có ảnh hưởng xa gần tới cái chết của Nguyễn Văn Huấn nữa.
Tuy nhiên quân Nguyễn có muốn thừa thế tiến đánh nữa cũng phải gặp sức phản kháng kịch liệt của Tây Sơn vì đất từ nay họ phải chiếm là nơi phát tích của kẻ thù. Tây Sơn đã tổ chức cả phủ Quy Nhơn thành một đồn binh rộng lớn: dân biến thành lính, mỗi ấp chia thành đội ngũ, ai nấy đều được miễn thuế thân để nức lòng đánh giặc. Truyền thống chiến đấu bừng trỗi dậy gây kính nể cho quân Nguyễn. Mùa xuân 1799, trận chiến Quy Nhơn lại bắt đầu chuẩn bị ở Gia Định. Kho tạm ở Cầu Hin chứa 169.000 vuông gạo từ Gia Định tới hợp với 22.100 vuông gạo, 53.500 vuông lúa, 3.000 cân thuốc đến năm ngoái ở Diên Khánh dành phát cho chiến dịch. Nguyễn Văn Thành đem bộ binh đóng ở Diên Khánh trước.. Hoàng tử Cảnh được lệnh bảo Nguyễn Long giữ chặt Tam Lãnh không để lộ tin tức ra ngoài. Thuỷ binh thì theo Nguyễn Văn Trương.
Tháng 4 âm lịch, Nguyễn Ánh đến Cầu Hin phân phối kẻ giữ người tiến rồi theo thuyền ra cửa Thi Nại. Nguyễn Huỳnh Đức, Võ Tánh đổ bộ đóng ở Phủ Trung; quân Thần Sách qua sông Càn Dương đánh Tây Sơn ở gò Cũ rồi chiếm đóng suối Tre 79, đe doạ Thái phủ Lê Văn Ứng. Quân Nguyễn đổ bộ mau như vậy nhờ tình cờ lợi dụng một rối loạn nội bộ của Tây Sơn.
Nguyên Trần Quang Diệu vẫn có mối thù với Lê Văn Ứng về việc Ứng xúi Quang Toản giết Lê Trung nên bàn với Vũ Văn Dũng: "Lê Văn Thanh là phe ta, ta đem binh thuyền vào Thi Nại, mật ước với Thanh nghe súng hiệu ở cửa biển, lừa Ứng rằng quân Gia Định đánh, sai Ứng một mình đến cho ta tập kích bắt". Diệu tâu với Quang Toản rằng Quy Nhơn là đất căn bản cần phải cho bầy tôi thân tín giữ nên sai Ứng đi. Gặp lúc quân Gia Định ra bắn 3 phát súng, Lê Văn Thanh tưởng binh Diệu, Dũng mới không phòng bị mà sai Ứng đi như đã bàn trước. Không ngờ quân Nguyễn tiến chiếm cả vùng duyên hải, Thanh mới vội vã phân binh với Ứng đón ở Thốc Lốc 80, gò Dê.
Cũng như những trận đánh trước, Nguyễn Ánh thừa thế thuỷ quân tiến xa về phía Quảng Ngãi, sai Nguyễn Văn Trương tuần thám ngoài biển, để Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức Thiện đến Tân Quan giữ núi Cung Quăng, Bến Đá, Đoạn Văn Cát giữ núi Thái An, Vĩnh Thuận chặn quân tiếp viện của Diệu, Dũng.
Ghé đầm Nước Ngọt đốt lương, chém Đại đoàn luyện tên Giảng, Lê Văn Duyệt đến Bến Đá cùng dân ứng nghĩa Quảng Ngãi giữ hang Tối Trời, núi Sa Lung có dân Thượng phụ giúp bên trong. Võ Tánh, Nguyễn Huỳnh Đức tiến đến đồng Cây Cầy đuổi Thiếu uý Trương Tấn Thuý, bắt 13 voi, đuổi theo đến cầu Tân An giết Đô đốc Nguyễn Thực đổi tính mạng Vệ uý Hữu vệ của quân Thần Sách là Tôn Thất Nông. Ở Phú Yên, Tham đốc Nguyễn Văn Điềm hàng Nguyễn Văn Thành.
Chiến thắng làm dao động tinh thần binh tướng Tây Sơn. Bây giờ Lê Chất mới có dịp mang 200 quân ra hàng Võ Tánh cùng với Đại Đô đốc Vũ Đình Giai, Nguyễn Văn Điểm, Đô đốc Lê Văn Niệm, Hồ Văn Viện, Trương Văn Lân, Đô uý Mai Gia Cương, Nguyễn Văn Trí. Quân hàng được theo Nguyễn Huỳnh Đức ở suối Tre đánh giặc.
Lương thực thu tại chỗ, lấy thuế ruộng của dân chưa nạp cho Tây Sơn đem chứa vào kho Nước Mặn. Chính sách đó cũng tiếp tục trong tháng 5 khi Tây Sơn đánh đập Cát, lui toán binh Miên (Xiêm binh). Họ phải mất 20 voi trước thế hợp tác của lính Miên và đội chiến tượng của Nguyễn Đức Xuyên. Dân Tuy Viễn phải theo Nguyễn Văn Thái hàng tướng từ (1793) đánh giặc, ăn lương trong số thuế điền của 3 huyện Tuy Viễn, Phù Ly, Bồng Sơn.
Tháng 6, Nguyễn Văn Thành vượt qua sông Lò Gạch (Đào Lô), chiếm Ưu Đàm để phó tướng Trương Tấn Bảo chiếm An Giá, Đầm Sấu. Nhưng lúc bấy giờ Nguyễn phải lo chống với tiếp viện của Tây Sơn, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng đến Quảng Ngãi nghe Tân Quan bị chiếm bèn bỏ thuyền lên bộ. Diệu đóng ở Bến Đá để Dũng lén đem quân qua suối nhỏ tập kích quân Nguyễn. Sử quan kể rằng quân đi trong đêm có người la "con nai" rồi truyền đi thành "quân Đồng Nai". Binh rối loạn để Tống Viết Phúc đánh hôi lập được công. Thuỷ quân Gia Định lại thắng tiếp ở cửa Mỹ Á, truy kích đến Sa Kỳ.
Trần Quang Diệu giấu tin thất bại của Dũng, rồi bỏ Bến Đá về đóng ở Thanh Hảo chờ viện binh thuỷ của Trần Viết Kết. Nhưng Tống Phúc Lương phá được Thống binh Phiền Văn Tài coi đám Tề Ngôi ở Kim Bồng, truy kích mãi tận Phú Yên rồi trở lại với Tống Viết Phúc giữ chặt ngoài khơi đầm Mân Khê.
Trên đất liền, Lê Văn Ứng nghe tin viện binh đến bèn đem 6.000 quân cùng 50 voi lên Tây Sơn thượng lấy lương, bị Võ Tánh biết được điều động Nguyễn Văn Thành mang tướng hợp với Nguyễn Đức Xuyên, Lê Chất... đánh tan ở Kha Đáo. Viện binh ngoài không có, lương trong thành thiếu, Tổng quản Lê Văn Thanh, Binh bộ Thượng thư Nguyễn Đại Phác, thiếu uý Trương Tấn Thuý mang 10.300 người ra hàng (tháng 6 âm lịch 1799) 81.
Thế là căn bản Tây Sơn đã mất. Nguyễn Quang Toản ở Phú Xuân cũng nôn nóng phải thân cầm binh vào Trà Khúc sai Nội hầu Lê Văn Lợi đem 1.000 quân cùng 20 voi đến đầm Mân Khê. Trần Viết Kết đem 100 thuyền định tràn vào Sa Huỳnh đánh sau lưng Nguyễn Văn Lợi lúc bấy giờ đang cố chống với Lê Văn Lợi. Bị bão đắm thuyền, Kết bỏ quân chạy về Cổ Luỹ. Kinh nghiệm này làm Kết hết sức gàn trở dự định tiến quân đánh nữa của Quang Toản. Kết cục Toản về Phú Xuân, Diệu, Dũng về Quảng Nam, lưu Tiết độ Nguyễn Văn Giáp giữ Trà Khúc.
Nguyễn Ánh mệt mỏi nên cũng không đuổi nữa, chấm dứt chiến tranh trong tháng 8 để lo tổ chức cai trị Quy Nhơn, thu dụng năng lực nhân, vật vùng này.
Trước hết, như đã nói, đất Quy Nhơn đã được Tây Sơn biến thành một đồn quân khổng lồ. Nguyễn Ánh làm chủ mới phải lo thi hành một chính sách nhặt nhiệm khôn khéo. Vì chú trọng đến việc thu phục nhân tâm mà tháng trước đó quần thần đã can ông đừng thu thuế thân là thuế Tây Sơn đã tha cho dân chúng. Tướng Nguyễn Công Hu lên vùng Tây Sơn hiếp gái, lấy của bị đem trị tội ngay. Tiếp theo là việc kiểm soát dân, lính. Ánh sai quân Nguyễn hợp với bọn hàng tướng coi 6 thuộc của 3 huyện Quy Nhơn, phân hàng điểm duyệt 18.900 binh sĩ cũ. Chỉ những người bị thương mới không vào sổ đội ngũ mà thôi. Lại có một sổ riêng cho những người chỉ huy. Khi làm sổ rồi, ai ở đâu yên đấy, dời đổi một ấp, một thôn đều bị tội. Như vậy tạm thời Nguyễn Ánh kiểm soát đám dân binh Tây Sơn khỏi làm loạn. Ông lại còn dùng lợi nhử họ phản bội đồng ngũ cũ: dân Quy Nhơn ai bắt được lính Tây Sơn người Bắc, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thuận Hoá ẩn trốn trong thôn ấp, ngăn trở họ khỏi mưu chạy về Phú Xuân thì được miễn dao dịch. Ai chứa chấp, biết mà không tố cáo thì bị tội.
Nhưng tinh thần chiến đấu của dân binh nung đúc trong lò Tây Sơn đã làm cho Nguyễn Ánh thán phục. Ông lấy dân ở đây tổ chức thành Ngự lâm quân định lập một đội quân ưu tú nữa sau các đội Thần Sách. Chính sách hơi vội vã khiến có nhiều sơ hở. Sau này khi ra giải cứu Võ Tánh, bọn Ngự lâm quân bỏ chạy rất nhiều để chiến đấu chống đối lại tận lực. Nhưng điều đó không tránh khỏi càng tỏ rõ sự bao dung, sáng suốt của Nguyễn Ánh muốn mở đường cho quân địch về hợp tác, trái hẳn với thái độ hẹp hòi của bọn tuỳ tướng như Tống Viết Phúc chẳng hạn.
Sau khi cải thành Quy Nhơn ra thành Bình Định để tuyên dương công trận, khuyến khích tướng sĩ thấy trước thắng lợi cuối cùng, Nguyễn Ánh lo tổ chức cai trị ở đây, sai Võ Tánh giữ thành với một vạn binh Miên (Xiêm binh) cùng Ngô Tòng Châu, Trịnh Hoài Đức và bọn hàng tướng Lê Chất. Lúc Nguyễn Ánh đang chuẩn bị về Gia Định thì Bá-đa-lộc chết ở Mỹ Cang 82. Ánh rất thành thực khi phong tước Quận công cho Giám mục, sai người đến đọc điếu văn. Sử quan nhân dịp này cũng nhắc việc Bá-đa-lộc "tận tâm giúp đỡ" Đông cung Cảnh hồi đi Tây. Nhưng cái chết của ông xảy ra vào lúc Nguyễn Ánh thắng mạnh ở cội gốc Tây Sơn đã chấm dứt một quá khứ nhờ cậy, kêu xin. Vấn đề chính trị quan trọng còn lại chỉ là thái độ đối với tướng cũ Tây Sơn mà thôi.
Tháng 10 Kỷ Mùi (1799), Nguyễn Ánh ban sư về Gia Định. Việc mất thành Quy Nhơn cũng gây ra rối loạn về phía Tây Sơn, theo lẽ thường của một triều chính nghiêng ngửa có những kẻ giữ trách vụ nhưng không muốn đảm đương trách nhiệm. Ở Thuận Hoá, Kiểm điểm Trần Viết Kết, Phụng chính Trần Văn Kỷ, Thượng thư Hồ Công Diệu giả thư Quang Toản nói Quy Nhơn mất là tại Trần Quang Diệu, đưa cho Vũ Văn Dũng bảo Dũng giết đi. Không ngờ Dũng được Diệu ém nhẹm việc thua quân ở Quảng Ngãi, hàm ân nên mới đưa thư cho Diệu xem.
Trần Quang Diệu tức tốc kéo binh về bờ nam sông Hương vây thành. Kỷ đổ cho Kết, trốn mất để Hồ Công Diệu chịu tội thay. Ổn thoả nội bộ rồi, việc chính của Tây Sơn là lo lấy lại đất Quy Nhơn. Hai viên tướng nổi bật, được nhắc nhở từ đây là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, đến nỗi đối địch, Nguyễn Ánh truyền rao ai bắt được 2 người ấy, Chánh quản được phong tước Công, Phó quản thêm một hàm, thưởng tiền vạn quan. Danh tiếng Trần Quang Diệu có phần lấn át cả Vũ Văn Dũng. Giáo sĩ De la Bissachère 83 đã khen "viên tướng mà ngay ở Âu châu người ta cũng phải coi là dũng mãnh, anh hùng". Lực lượng dưới quyền ông tỏ ra vững mạnh đến nỗi khi gần tàn cục vẫn còn làm cho Giáo sĩ tưởng rằng đạo quân đó có những danh tướng chỉ cần ló mặt ra là quân Nguyễn phải rút về và đủ để đánh tan đạo quân gấp 3 lần quân chiến thắng luỹ Thầy!
Tháng Giêng Canh thân (1800), Vũ Văn Dũng đổ bộ lên Thi Nại, Trần Quang Diệu mang bộ binh đuổi Nguyễn Văn Biện đang giữ Bến Đá chạy về Bình Định. Võ Tánh trong thành gọi binh Phú Vên tới. Lưu thủ Hồ Đắc Vạn đã sai người vận lương tiền trước, nay sai thêm hàng tướng Phạm Văn Điềm cùng Sái Văn Long lấy du binh đi trước rồi tự dẫn quân theo sau. Đêm qua Cù Mông, Điềm cùng Đô uý Đỗ Văn Nguyệt, Ngô Văn Huyền, Đô tư Nguyễn Văn Soái, Hoàng Văn Tráng cùng các cựu tướng Tây Sơn, quay lại chiếm Phú Yên đuổi Cai bạ, Ký lục chạy về Bình Khang. Điềm làm hàng tướng Tây Sơn phản Nguyễn sẽ mở đường cho một loạt những hàng tướng trở giáo tiếp theo, gây khốn đốn cho Nguyễn Ánh nhiều nhất vì cái thế không lùi lại được của họ.
Sự trung thành này gây ra lo lắng và ngạc nhiên không ít cho phe Nguyễn. Nguyễn Ánh giải thích là lòng nhớ quê xúi giục họ. Nhưng điều đó chỉ hợp với binh tướng bị lôi về Gia Định chứ không hợp với hàng binh ở lại Bình Định và Phạm Văn Điềm. Nguyên do là Tây Sơn cũng đã tạo ra một lề lối sinh sống mà tướng binh họ còn quyến luyến. Họ hàng chỉ là thế bất đắc dĩ như trường hợp Lê Văn Thanh sau này đã lẻn mang một thuyền trốn về Tây Sơn. Tủi nhục của kẻ hàng đầu cũng khiến họ phải trở giáo: Tống Viết Phúc cứ thường chửi Từ Văn Chiêu là hàng tướng đến nỗi khi phản lại, Chiêu luôn chận đánh Phúc và giết được khi chiến thắng quân Nguyễn đã gần kề 84.
Riêng ở đây, Phạm Văn Điềm đã giúp ích Tây Sơn rất nhiều. Ông tổ chức Phú Yên trong thế tử chiến "bắt hết cả dân làm lính", đắp 9-10 luỹ chỉ trong mấy tháng khiến Nguyễn Đức Xuyên nghe thế mạnh không dám tiến nữa mà phải dừng lại ở Diên Khánh.
Ở Diên Khánh, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng quyết hạ Võ Tánh. Diệu bao vây 4 mặt từ mồng hai tết Canh Thân (26-1-1800) 85. Ông sai đắp thành đất một vòng ngoài dài 4.340 trượng để làm điểm tựa công kích. Trong ý chí quyết lấy lại đất cũ, Tây Sơn dùng đến hình thức khích động tinh thần quân dân. Phan Huy Ích làm bài hiểu dụ dán nơi quân thứ Quy Nhơn, đã đưa ra những câu kêu gọi đến ý thức địa phương, khiêu gợi niềm hãnh diện làm dân đất khởi nghĩa một dòng vua:
"Quý phủ ta: cội gốc nền vương, dậu phên nhà nước,
"Miền thang mộc vốn đúc non xây bể, mở mang bờ cõi bởi từ đây. Hội phong vân từng dìu phượng vịn rồng, ghi tạc thể quyền dành dõi để.
"Dấu cờ nghĩa đã sáng công dực vận, buổi xe nhung thêm dong sức cần vương.
"Mấy phen gió bụi nhọc con đòng, giúp oai võ cùng đều nhờ đất cũ. Ba huyện đá vàng đền tấc dạ, căm cừu thù chi để đội trời chung"
Chúng ta không có tài liệu để biết về sự sôi động của dân chúng Quy Nhơn khi Tây Sơn trở lại. Nhưng ngay chính ở đất Gia Định mà Ánh đã coi là căn bản, khoảng hơn năm sau, L. Barizy cho ta thấy nỗi lo sợ phập phồng của tướng Nguyễn giữa khung cảnh hiềm thù đe dọa vô hình:
"Lúc nào chúng tôi cũng trông tin Nhà Vua và mọi người ở đây đều xao động đến cực độ, nông công binh đều lo lắng. Bọn giặc ở đây có những bè đảng bí mật không ai hay biết và lâu lâu lại có một tin loan ra gây hoảng hốt và làm cho dân chúng xáo động.
"Ngày 13 tháng này, lúc 2 giờ 30, lửa bắt đầu trong thành ở 5 chỗ khác nhau, nơi kho lúa gạo, kho vải vóc, kho tơ lụa, nhà của Vua và các Hoàng tử. Duy chỉ cháy có đồn Tả quân mà thôi" 86.
Nhưng ở Bình Định, những sự kiện thuần tuý quân sự cũng tỏ rõ được cái không khí đó. Tháng 4, hàng tướng coi Ngự lâm quân là Võ Văn Sự, Nguyễn Bá Phong, giết tướng mở cửa Bắc ra ngoài đầu, Võ Tánh thấy mình lo đúng khi sai Lê Chất đem quân bản bộ về Diên Khánh trước lúc bị vây, bây giờ bèn bảo bộ tướng Ngô Văn Sở cướp lại thành, chỉ để lọt có 400 người. Để phòng hậu hoạ, Tánh sai giết bọn hàng binh còn lại.
Nhưng bây giờ viện binh Gia Định đã ra. Đây là lần đầu tiên sử quan xác nhận vai trò quan trọng của những người Pháp trong thuỷ quân Gia Định. Tháng 2 năm đó, cho rằng người Hồng Mao (!?) "giỏi thuỷ chiến", Ánh sai Cai đội Ba-la-di họp thuyền bè, dự bị quân nhu, chiến cụ đợi lệnh. Đồng thời, lại cho Nguyễn Văn Chấn coi Phụng Phi Đại hiệu thuyền chở 26 đại bác, có Renon phụ tá. Tàu Long Phi của Nguyễn Văn Thắng có 32 đại bác, tàu Bằng Phi của Lê Văn Lăng có 26 đại bác, mỗi tàu chở trên 300 người, tất cả đều sửa soạn đi đánh giặc 87.
Chuẩn bị đâu đó rồi quân sĩ lên đường vào tháng 3. Những kẻ hăng hái chắc còn nghe vang vang lời khuyến dụ "thành Quy Nhơn chỉ bắc, đạp phá trùng vi; đô Thuận Hoá rung cờ, dẹp yên đảng nguỵ".
Tháng tư nhuận, trên bộ, Nguyễn Đức Xuyên, Đặng Trần Thường dẫn voi tiến đánh Phú Yên. Nguyễn Văn Trương vẫn coi thuỷ quân. Trần Quang Diệu vội vã sai thêm Đô đốc Đào Công Giản, Đô đốc Tuấn vào La Hai, Hội An phụ với Phạm Văn Điềm. Chỉ đợi Nguyễn Ánh đến vũng Trích sai Nguyễn Văn Thành đổ bộ Xuân Đài cầm quân trên đất là trận tấn công bắt đầu.
Ở Phú Yên, chiến thắng tương đối dễ dàng. Nguyễn Văn Thành sai Đô thống chế Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tấn Bửu phân binh 3 đạo đánh Đất Đỏ, Thạch Kỳ rồi tiến về Hội An. Đô đốc Tuấn và Phạm Văn Điềm phải lui về gò Ải Thạch dựa núi chống lại. Giáp trận với quân voi của Nguyễn Đức Xuyên, họ lui thêm về giữ La Hai. Thành sai binh đi vòng đánh tập hậu đuổi bắt được Giản, Tuấn. Điềm trốn thoát lên núi chờ cơ hội xuống quấy rối.
Quân Nguyễn cũng gặp khó khăn vì hàng ngũ mới kết hợp dần dần tan rã. Thực ra binh đã trốn nhiều từ tháng tư đầu nhưng càng đi sâu vào nội địa Tây Sơn, dân lính Tây Sơn trong quân Ngự lâm càng thấy có cơ hội để đào ngũ hơn. Lính trốn nhiều đến nỗi Nguyễn Ánh phải lo vỗ về an ủi Lê Chất và khi cho Ngự lâm quân tiến đến Cù Mông, ông phải sai Nguyễn Huỳnh Đức ra cầm quân cho chắc dạ.
Tuy nhiên trong tháng năm âm lịch đường đến Bình Định đã mở. Khi Võ Tánh nghe tin viện binh tới, bèn mở cửa Nam ra đánh một trận định liên lạc với bên ngoài nhưng không được, thì mặt trận đồng Cây Cầy (còn gọi là Gò Cầy) bắt đầu và kéo dài đến nửa năm.
Phải dừng lại để điểm xét địa thế của vùng phía nam thành Chà Bàn, nơi xảy ra trận chiến quyết liệt, nhiên hậu chúng ta mới theo sát cuộc so tài này. Đường đi từ Phú Yên ra có hai lối. Một men theo gần biển qua đèo Cù Mông dọc thung lũng sông Phú Huề, từ đó có thể đến đồng Bình Thạnh, Phú Trung ở mặt sau Thi Nại để lên Thành. Về phía tây, nơi thung lũng của hai sông La Hai đổ xuống phía nam (Phú Yên) và sông Hà Thanh ngược hướng đông bắc (rồi đổ vào đầm Thi Nại), có đường thông thương ngày nay làm đường liên tỉnh và thiết lộ. Vẫn ở phía tây, các khe nguồn hợp nên sông Kỳ Lô có những ngõ ngách giữa núi Chúa, đồng Cây Cầy, nơi quân Nguyễn - Tây Sơn đang giằng co nhau, nơi mà lần nào tiến quân ra, quân Nguyễn cũng phải tử chiến mới xô đuổi được Tây Sơn để uy hiếp thành Chà Bàn.
Lúc mới tấn công trên đất Bình Định, Nguyễn Văn Thành sai Nguyễn Đình Đắc, Lê Chất đi hai bên, Trương Tấn Bửu đi giữa để ông cùng Nguyễn Đức Xuyên đem voi ứng tiếp đánh núi Lão Hương. Tây Sơn lui về núi Chúa, nhưng viện binh của họ tới tăng tinh thần binh sĩ. Nguyễn Văn Thành đổ ra đánh từ mờ sáng tới trưa. Rốt lại chỉ làm cho Nguyễn Văn Sử chết, tướng nản. Lương Văn Cương, Nguyễn Văn Vân 88 đang trông coi Ngự lâm quân mang cả 200 thuộc binh chạy về phía Tây Sơn để tiếp tục chiến đấu.
Lúc này, Tây Sơn cũng bối rối ở Nghệ An. Ta đã biết việc Nguyễn Văn Thụy (Thoại), Lưu Phước Tường, Nguyễn Hoài Châu, Lê Văn Xuân đem 150 người dụ Vạn Tượng đánh sau lưng Nghệ An. Phái bộ đi từ tháng 4 năm ngoái, đến Viên-chăn vào lúc Nguyễn Ánh sắp rút về nên vua Lào không quyết tâm giúp. Tháng 3 năm nay, Thụy lại về Gia Định xin thêm người, đến tháng 6 thì đem binh tràn xuống Nghệ An đánh Nguyễn Đình Lạc ở Đồn Bố, đuổi Phò mã Nguyễn Văn Trị ở Đồn Lam chạy về Thanh. Chiến dịch có lẽ không lấy gì làm dữ dội, nhưng có tiếng vang lớn vì đánh ngay trong nội địa Tây Sơn. Các thổ hào, phiên liêu như Hà Công Thái ở Thanh Hoá, Phan Bá Phụng ở Hưng Hoá cùng khắp nơi Bắc Hà nhân dịp này nổi dậy đánh phá.
Ở Bình Định, Tây Sơn vẫn chưa bị lay chuyển. Nguyễn Ánh thấy đồng Cây Cầy vững chắc muốn chuyển mũi dùi tiến quân về dưới đồng bằng. Ông sai Lê Văn Duyệt với Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành mon men ra Phú Trung. Thực lực không đủ, ông mới đưa thư bảo Nguyễn Văn Thành chia một nửa voi đi gặp Duyệt. Thành không chịu vì một mặt ông phải lo đối phó với Tây Sơn đang biết rõ ông vì hàng ngày vẫn có người bỏ qua bên kia, mặt khác ông phải lo kềm giữ chính quân ông vì "bọn ở lại cũng không đủ tin".
Chiến trận càng kéo dài thì tinh thần binh tướng càng lung lay, nhất là ở những phần từ chưa đồng hoá. Tháng 7, hàng tướng coi Ngự lâm quân là Từ Văn Chiêu làm phản với Nguyễn Văn Điểm cùng 500 thuộc binh. Tây Sơn lại được thêm một viên tướng có tài, liều lĩnh, ngăn chặn không biết bao nhiêu trận tấn công của Nguyễn. Ánh phải vội vàng an ủi Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Trương. Nhưng cũng không ngăn được 150 quân Ngự lâm nữa trốn đêm ở Hội An, Ánh gượng giải thích: "nhớ quê, nhớ nhà, ai lại không vậy".
Chưa hết bối rối cho Gia Định. Nơi đồng Cây Cầy. Thành sai người đến núi Chúa chôn thuốc nổ đốt, nhưng không lui được giặc mà còn làm chết thêm Nguyễn Công Trọng. Khi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng nghe chuyện Nghệ An, muốn kéo binh đánh rốc một lần ở núi Hoa An nơi mà Lê Văn Duyệt vừa đuổi Tư khấu Định tháng trước, thì viên tướng Miên Cao-la-hâm-sâm của Thành lại tư thông với Tây Sơn khiến Ánh vội vã trả lại cho Thành tướng Nguyễn Đức Xuyên (vừa đem voi và Lê Chất xuống) để đổi quân Miên về giữ Cù Mông.
Chiến tranh dằng dai thì vấn đề lương phạn, tiếp tế đạn dược phải gặp nhiều rắc rối, bất ngờ. Tây Sơn bị Nguyễn Văn Trương cướp mất ở Đề Di 3 vạn vuông lúa cùng thuốc đạn, khí giới chở từ Thuận Hoá, Bắc Hà vào trên 150 thuyền. Thống lãnh tên Thụy bỏ thuyền lên bộ chạy báo tin chẳng lành cho Diệu.
Nguyễn Ánh cũng gặp trở ngại. Ông có lương ở kho Diên Khánh, phụ thêm ở phủ Thuận Thành, ở kho La Hai, Hội An (đánh thuế điền, đinh nơi lính, dân Phú Yên), ở kho các nơi khác bằng cách lấy trước thuế năm sau. Lương chở đường thuỷ thường gặp các thuyền Tề Ngôi cướp phá. Từ khi Trần Quang Diệu vào Quy Nhơn thì đội thuỷ quân đặc biệt của Tây Sơn này đã lảng vảng vào đến tận Hòn Khói. Họ lẩn lút trên mặt biển cướp thuyền, thuốc đạn vật dụng của Nguyễn Văn Yến chở từ Cầu Hin đi. Họ chân đánh thuyền chở cá muối của Bình Thuận. Một mối cản trở khác chờ đợi Nguyễn Ánh là các luồng gió bấc: trong tháng 10, thuyền lương chở qua vũng Ma Văn (vũng Nại, Ninh Thuận) bị gió lớn lật úp, chết hơn 100 người, hao hơn vạn quan tiền, 4 vạn vuông gạo.
Thiếu lương, Ánh sai Lưu Tấn Hoà đi Bình Thuận, Bình Khang thu thuế với lời dụ đặc biệt: "cứ tuỳ tiện làm việc không nệ nơi lệ thường". Cần gạo, Ánh tính lấy gạo cả nơi người Thượng ở Đồng Hương nữa. Tháng 11, điền tô tăng. Khó khăn như vậy không trách trong tháng 9 khi Lê Văn Thanh trốn đi, Vệ uý Hồ Văn Huệ bị Tây Sơn bắn chết ở núi Chúa, Nguyễn Đức Xuyên đã dâng sớ xin dừng binh chờ sang lăm gió hơi thuận sẽ đánh.
Nhưng một may mắn đã đến với quân Nguyễn. Nhờ hỏi dò dân Thượng biết được có đường đi vòng đánh tập hậu, Nguyễn Văn Thành xin thêm Tống Viết Phúc và Lê Văn Duyệt. Nguyễn Ánh đẩy Lê Chất về La Hai và cho tin quân Cù Mông chuẩn bị. Ngày 5-1 (1801), trận đánh xảy ra: Lê Văn Duyệt mặt trước, Nguyễn Văn Thành mặt sau, quân Nguyễn tấn công với một đội súng thuần thục và độ 20 đại bác cỡ nhỏ bắn gần được. Tây Sơn phải bỏ chạy đi nguồn Cơ, Đô đốc Hoan bị giết. Tiếp tục truy kích, quân Nguyễn gặp Tây Sơn góp quân lại đánh ở Tuần Dã (đồng Vòng?) ngày 11-1. 89 L. Barizy đếm số địch quân đến 223.000 người. Thật quá nhiều. Viên tướng chống đối là Từ Văn Chiêu đã bày tỏ gan dạ Tây Sơn. Họ đánh rất dữ nhờ chiếm được địa thế tốt, chỉ phải chịu thua vì súng lớn, súng nhỏ của quân Nguyễn thôi. Chiêu thua bỏ chạy để Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành mở tiệc ăn mừng, quá hăng say chiến thắng, khích bác nhau, để hiểm thù kéo dài mãi về sau.
Những trận tiếp theo chỉ là những cuộc thanh toán nhỏ, Nguyễn Văn Thành đến đồng Dài sai Tống Viết Phúc đánh núi An Tượng. Tiếp theo là các trận Đầm Sanh, Sơn Chà. Tây Sơn bỏ từ núi Đá Mài đến Hoa An, Hoa Lục. Như vậy 90 đạo binh Cây Cầy đã thông được với nhau. Họ đóng binh dọc sông Hà Thanh, từ Quán Rạp đến Vân Sơn. Thành Bình Định bị vây tính gần tròn năm. Lực lượng Gia Định tuy đã tiến nhiều nhưng không đủ uy hiếp mặt sau của Thi Nại nên một số quân quan trọng của họ còn kẹt ngoài khơi với 91 thuyền và 50.000 người2. Bộ, thuỷ Tây Sơn còn đóng ở Thi Nại cản đường quân Nguyễn Ánh đổ bộ lên, và đe doạ phía sau lưng quân Nguyễn Văn Thành nữa. Nhìn vào bản đồ vụng về của L. Barizy vẽ rồi so sánh các tài liệu khác cùng địa thế thực tế, ta thấy vị trí chống đánh của hai đối phương trước của Thi Nại. Đường nước bên trong đầm đã hẹp mà Vũ Văn Dũng đem hai chiếc Định quốc Đại hiệu thuyền chở từ 5 đến 60 khẩu đại bác chắn ngay cửa với dày đặc bên trong là 40 tàu lớn, 20 tàu nhỏ hơn, 100 ghe chiến đậu san sát đến cửa sông đưa vào Nước Mặn. Ông còn đặt đại bác trên núi Tam Toà, trên đất liền, bãi Nhạn (phía thành phố Quy Nhơn bây giờ) dựa vào núi cao chĩa xuống bảo vệ đoàn thuyền trấn giữ. Trên bộ còn hơn 60 voi với quân lính.
Nguyễn Ánh lúc bấy giờ đang ở hòn Nần 91. Từ tháng chạp Canh Thân (15-01 - 12-02-1801), ông đã dự tính sắm sẵn thuyền nhỏ, chất đồ dẫn hoả rồi móc lấy thuyền Tây Sơn đốt. Tống Viết Phúc xin đảm nhận việc đó. Ánh báo cho Thành biết mưu tính để hợp lực ngăn chặn bộ binh không cho tiếp cứu. Theo ý Thành, Lê Văn Duyệt được cử thay Phúc. Tướng sĩ lâm trận được khuyến khích bằng một lời dụ: "Đây là lúc các người báo đền ơn nước, sống thì phú quý đồng hưởng, chết thì ân điển chẳng quên; anh em trong quân, nếu anh chết em lên thay chức…". Sử quan cũng ghi thêm rằng: "mọi người đều nức lòng đánh giặc".
Chiến trận xảy ra vào đêm 16 tháng giêng Tân Dậu (28-2-180 92 ). Tiền chi Hoàng Văn Khánh đem bộ binh lén đến Vũng Dừa đợi ở Tiêu Cơ lửa cháy thì tiến lên công hãm trại giặc và đi vòng núi mai phục để cản tiếp viện (theo vùng đèo Son bây giờ?). Quân Nguyễn qua Tiêu Cơ bắt được thuyền tuần Tây Sơn, truy ra khẩu hiệu. Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương bèn đem thuyền nhỏ nhắm Hổ Cơ xông vào, đốt thiêu thuỷ đồn làm hiệu.
Và trận tấn công bắt đầu. Theo Lelabousse, quân Nguyễn chỉ dùng có 4.000 người trên 26 ghe chiến và 100 thuyền nhỏ. Lúc đó quân Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đã đổ bộ rồi. Các ghe chiến còn lại chở ông Tổng thuỷ "to họng"1 Võ Di Nguy đi trước.
Quân lính "thừa đêm tối và gió xuôi, tiến vào tàu thứ nhất, nhảy lên đốt phá. Họ xông vào cửa biển, ném vung các bó đuốc và đổ dẫn hoả ra". Thế rồi trận đánh trở nên dữ dội. Quân Tây Sơn từ trên núi và từ các tàu bắn vãi đến. Hà tiện lời như sử quan mà cũng tả ra là "tiếng súng vang trời, đạn bay như mưa". Võ Di Nguy trúng đạn ngã lăn ra chết. Lê Văn Duyệt không quay đầu lại, đánh mạnh hơn đến Nguyễn Ánh bảo lùi cũng không chịu. Đám sĩ quan Tây phương: Chaigneau, Vannier, de Forçan đưa các ghe chiến vào rồi quay lại bảo vệ Nguyễn Ánh khi trận chiến xảy ra. Nhưng nóng lòng, sốt ruột, máu chiến sĩ nổi lên, de Forçan lẻn đi trong đêm tối, tự mình đốt được 7 ghe chiến địch. Chiến trận kéo dài 3 giờ sáng đến đứng trưa 1-3-1801 ("Dần tới Ngọ" của Thực lục). Thuyền Tây Sơn cháy tan, nhưng họ còn cố chống giữ trong các giàn súng tới khi cuối cùng đám cháy lan đến các thùng thuốc súng làm nổ tung hết lên. Như lời Chaigneau báo cho Barizy biết chiến thắng, "ta đốt hết cả thuỷ quân giặc, không sót một chiếc thuyền nhỏ nào" 93.
Ông thấy rằng "người Nam chưa bao giờ phải đánh trận dữ dội như vậy" và sử quan cũng không quên kết luận: "Người ta gọi trận này là đệ nhất vũ công".
Ngày đó, Nguyễn Ánh đổ bộ lên chợ Giã 94, ra dụ chiêu an rồi sai người đi báo cho Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận biết. Ông lại bảo Gia Định truyền sứ cho tin đến tận Cao Miên, Xiêm La. Tuy vậy, Ánh cũng mất đến hơn 600 người. Tướng thì ngoài Võ Di Nguy còn có Cai cơ Hoàng Văn Định, Phó Tiền thuỷ dinh và Phó Vệ uý Nguyễn Vĩnh Hựu của đạo Thần Sách.
Phía Tây Sơn, họ "chống giữ đến chết" như Chaigneau nói, cho nên toàn bộ thuỷ quân đều bị tiêu diệt. Từ nay họ không còn chút uy thế nào trên mặt bể nữa, trước cả khoảng tháng 4 âm lịch khi Đông hải vương Mạc Quần Phù cùng các tướng bị bắt lúc bị gió dạt ngoài khơi Thi Nại. Họ hoàn toàn không kiểm soát được mặt bể để tha hồ cho thuỷ quân Gia Định tung hoành ra lấy Phú Xuân mà không sợ một lực lượng lưu động nào theo kịp ngăn trở nữa. Trần Quang Diệu còn bức được Võ Tánh chết, nhưng sự thực đám quân tướng Tây Sơn ở đây mấy tháng sau phải tan rã trên rừng chính vì không thể nào di động theo các đồng bằng dọc biển mà không có yểm trợ của thủy quân, chính vì sự tan vỡ ở trận Thi Nại này vậy 95.
Tiết 19
CHIẾN TRANH Ở PHÚ XUÂN VÀ BẮC HÀ
Cuộc tử thủ của Tây Sơn ở Quy Nhơn và ý kiến giải vây cho nơi này * Trận chiếm Phú Xuân * Cố gắng tuyệt vọng của Tây sơn ở Quy Nhơn và luỹ Thầy * Kết thúc chiến tranh ở Bắc Hà.
Chiến thắng Thi Nại làm nhẹ bớt nỗi "uất uất không vui" của Nguyễn Ánh. Nhưng lực lượng bộ binh của Tây Sơn vẫn còn nhiều hùng khí. Khi Ánh sai Lê Văn Bản đem quân đi hai vũng Nồm, Bấc đóng giữ tuần phòng thì Vũ Văn Dũng đã hợp với Trần Quang Diệu chia người trấn giữ: Tư khấu Định đóng ở Bến Đá, Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ giữ đầm Nước Ngọt, Đô đốc Vũ Văn Sự trấn Tân Quan ở giữa. Hàng phòng vệ ấy dùng để cản sao cho họ rảnh tay công thành sau khi họ đã tụ tập quân lính thề chiếm lấy cho kỳ được.
Quân Nguyễn nhân đà thắng cũng muốn tiến lên phá vỡ vòng vây cho Võ Tánh. Nguyễn Văn Thành sai Tống Viết Phúc đóng ở Càn Dương. Binh Tây Sơn đánh giết Vệ uý Trần Văn Xung ở chợ Chánh Lộc. Quân Phúc kéo đến thì Tây Sơn lui. Rượt đuổi đến Thạch Cốc 96, Phúc rủi gặp kẻ thù. Đô đốc Từ Văn Chiêu vẫn hậm hực về tiếng gọi "hàng tướng" của Phúc, có dịp để trả thù bằng một trận phục binh chiến thắng lớn lao. Phó Đô thống chế Phạm Văn Cơ, Vệ uý Nguyễn Văn Tri bị bắt, hai Vệ uý Hoàng Phúc Bảo, Hoàng Văn Tứ bị giết khiến Phúc phải bỏ quân chạy về Thi Nại. Như vậy rõ ràng chiến thắng thuỷ trận mới đó chưa đủ làm điên đảo Tây Sơn trên bộ.
Mọi người hoang mang. Lúc bấy giờ chính ai đã đề nghị ra đánh Phú Xuân để không những cứu gỡ cho tình thế mà còn làm cho chiến thắng trở nên quyết định như lời De la Bissachère? Theo ông này, Nguyễn Ánh bị thúc đẩy bởi các tướng Bắc Hà đang chán nản vì phải đánh lâu quá bắt đầu muốn bỏ rơi ông và cũng được vài người Pháp khuyến khích, nói rằng đánh ra Phú Xuân vẫn là ý kiến của Giám mục d’Adran. Với sử quan thì người bày mưu đó với người đề nghị đốt Thi Nại cũng là một: Đặng Đức Siêu, người Bồng Sơn, phủ Quy Nhơn, đồng hương với chúa Tây Sơn 97. Họ cũng có ghi thêm ý kiến của Võ Tánh, nhưng ta có thể coi lời Võ Tánh như một sự chấp nhận hy sinh hơn là một sáng kiến. Vinh dự đó có lẽ để dành cho mưu thần Việt thì phải hơn vì cái thế "vây Nguỵ, cứu Triệu" đầy dẫy trong binh pháp Đông phương.
Cho nên, sau khi lên Vân Sơn coi đồn trại địch một ngày rồi về 98, bắt đầu tháng 2 âm lịch, Nguyễn Ánh sai Cai cơ Tống Phúc Chu về Gia Định hợp với Lưu trấn ở đó là Nguyễn Văn Nhân tuyển thêm một vạn binh, nếu cần bắt cả lính đồn điền. Rồi cũng có việc xét dân bắt lính ở Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận. Ánh có nói rõ mưu mô dự tính cho Nguyễn Văn Trương để đem binh thuyền đánh Quảng Nam, Quảng Ngãi trước.
Nhưng cuộc vét dân đã gây phản ứng về phía dân chúng. Phạm Văn Điềm chạy lên rừng từ hồi quân trong mới kéo ra, nay tụ tập được 500 bộ đảng đánh đốt Hội An, đuổi Lưu thủ Phan Tấn Tuấn chạy ra Xuân Đài nhờ cậy thuỷ binh của Tống Viết Phúc, Nguyễn Đức Xuyên được phái tiếp viện.
Mối loạn Phạm Văn Điềm là khó khăn mới cho Nguyễn Ánh, dằng dai, làm nhọc mệt quân Nguyễn không ít. Trong tháng ba, đánh rồi chạy, chạy rồi lên đánh Điềm đã quấy rối Phú Yên trước mặt danh tướng Lê Chất. Lưu Tấn Hoà giữ Hội An bị Điềm lén đốt phong hoả đài tuyệt đường thông tin, đánh úp giết chết. Nguyễn Long đóng ở La Hai định chiếm lại Hội An lại bị đánh lén phải bỏ cả lương phạn, khí giới chạy về sông Đà Rằng. Tội nghiệp cho viên Thượng đạo tướng quân 20 năm trên rừng, mới làm chỉ huy lần đầu đã phải bại vong. Lê Chất ra tay, hợp binh với Hoàng Văn Khinh người thay Long, tiến đánh bắt Đô tư Nguyễn Nhiễu ở bến Gạo (Mễ Tân). Điềm bỏ chạy lần nữa nhưng vẫn còn sẽ gây khó khăn trong tỉnh, sau lưng quân Nguyễn Văn Thành.
Trong lúc đó thì tiến triển thuỷ quân Nguyễn vẫn khả quan. Nguyễn Văn Trương đổ bộ Cổ Luỹ, đốt kho Trà Khúc đuổi Đô đốc Tuấn chạy, rồi ra cửa Đại Chiêm đánh Hội An, Phú Triêm bắt 24 voi. Ở La Qua, ông đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Xuân, Lưu thủ Thiếu uý Lưu Tấn Thể lấy hơn 80 đại bác, binh thuyền, khí giới 99. Nghe tin, Nguyễn Ánh phái thêm Tống Viết Phúc đem 1.000 binh và 30 ghe chiến đến giúp. Ông còn cho cả Phạm Văn Nhân lãnh 3 chiếc Long, Phượng, Bằng trong đội cận vệ của ông ra Đà Nẵng.
Để việc rút quân khỏi tiết lộ, Nguyễn Ánh sai Nguyễn Công Nga đem 15 thuyền ngày đêm tuần tiễu từ cầu Tân Hội tới Nước Mặn, từ sông Tam Kỳ (?) tới sông Dinh, Gò Bồ (Phù Sa), cấm dân chúng lai vãng, xầm xì tin tức.
Ngày 27-5-1801, binh thuyền Gia Định tới Quy Nhơn với 10.900 bộ binh, trên 27 ghe chiến và nhiều ghe trí súng 100. Quân ở vài ngày, Ánh đưa mật thư bảo Võ Tánh lén bỏ thành chạy ra và đồng thời tuyên lệnh ban thưởng cho những người nào bắt được vua tôi Quang Toản. Ngày 3-6, quân Ánh rút đi sau khi đốt lửa ở núi Một báo tin cho Nguyễn Văn Thành ở Vân Sơn biết và để giã từ viên Phò mã Hậu quân, người anh hùng cuối cùng của Gia Định Tam kiệt. Ngày 7-6 quân đến Đà Nẵng, Ánh sai Nguyễn Văn Trương, Phạm Văn Nhân đem thuyền đi trước đến cửa Eo (Noãn khẩu, cửa Thuận An). Trận đánh Phú Xuân bắt đầu 101.
Tám giờ sáng ngày 11-6, thuỷ quân Nguyễn đến dàn trước mặt cửa sông Hương chia làm 2 đạo: các tàu và thuyền trí súng dưới quyền Phạm Văn Nhân hướng vào cửa Thuận An, 42 ghe chiến và 300 ghe nhỏ chở 15.000 bộ binh theo Nguyễn Ánh, Lê Văn Duyệt, Lê Chất nhằm vào cửa Tư Hiền (Tư Dung, hay nôm na, cửa Ông theo bản đồ của Barizy). Người giữ cửa là Phò mã Nguyễn Văn Trị đóng trên núi Quy Sơn (núi Linh Thái) với 10.000 người dựa thế hàng cọc gỗ đóng chặn bên bờ sông ngăn ghe thuyền địch.
Năm giờ sáng ngày 12, cuộc tấn công bắt đầu. Binh Tây Sơn trên núi cao bắn xuống rất dữ, các ghe thuyền lại mắc phải cọc chìm khá nhiều. Trận chiến kéo dài đến suốt ngày (từ Thìn tới Dậu): 7 giờ sáng tới 5 giờ chiều. Lê Văn Duyệt bàn với Lê Chất rằng không đánh tập hậu không được. Đêm đến, ông đem 20 thuyền lén vượt bờ cát, trước sau ập lại, bắt được Nguyễn Văn Trị cách đồn độ 500 thước. Đô đốc Phan Văn Sách cùng 500 người phải hàng.
Trong lúc trận chiến tiếp diễn ở cửa sông thì trên Kinh thành một âm mưu nội tuyến của giáo đồ bị tiết lộ 102. Một người thợ mộc ở Phú Xuân đã lén thuyết phục Nguyễn Ánh rằng các giáo sĩ và giáo đồ có thể giúp ông được. Ông bèn gửi thư cho Giám mục (có lẽ Labartette) và các giáo sĩ báo tin quân ông đến và xin các ông này cầu nguyện cho. Lúc trở về người thợ mộc bị bắt và khai tất cả. Dưới sự thúc đẩy của Nội hầu Lê Văn Lợi (Barizy viết "Hoe Hanh Loi": Lê Văn Lợi, hay "Noé haw Loée": Nội hầu Lợi), một lệnh truyền tru diệt những người Thiên Chúa giáo trong vùng được tung ra ngày mồng 5 - 5 (tết Đoan Ngọ), nếu quân Nguyễn Ánh không vừa tới kịp 103.
Trong sông, quân Nguyễn gặp một số tàu trong 64 chiếc từ Bắc vào tiếp viện dưới quyền một viên Tư mã mà Barizy gọi là "Noe". Hai mươi bảy thuyền có trí súng của Tây Sơn có mang cờ lụa đỏ tiến đến ngăn chặn đội thuyền Phấn Dực, chỉ trong phút chốc đã bị đánh thua chạy. Ba giờ chiều mồng ba tháng 5, ghe thuyền quân Nguyễn vào bến Phú Xuân 104. Quang Toản vội vã mang vàng bạc, bỏ cả sắc ấn nhà Thanh lại để chạy cốt thoát lấy thân với em là Thái tể Quang Thiệu, Thái sư Quang Khánh cùng Đại tư mã Tứ, Đô đốc Trù. Ở lại hàng có Nội hầu Lê Văn Lợi, Trung thư lệnh Trần Văn Kỷ cùng các Phụng nghi, Thị lang bên văn, Đô đốc, Đô tư bên võ. Barizy đi thăm người bị bắt thấy có mặt mẹ Trần Quang Diệu, em vợ ông, vợ Vũ Văn Dũng với các con Ngọc Hân mà ông không tiếc lời khen ngợi vẻ mặt ưa nhìn cùng thái độ cứng cỏi của họ (đây là Quang Cương, Quang Tự, Quang Diệu của Thực lục).
Nghe tin quân Nguyễn đánh Phú Xuân, Trần Quang Diệu sai Tư khấu Định đem 5.000 quân vòng đường núi về cứu. Quân đi 12 ngày đường bị người Thượng ngăn trở, Định tới thì Phú Xuân đã mất liền đóng quân cách đấy nửa ngày đường, người ngựa mệt nhọc lăn ra ngủ. Lũ chăn trâu về báo, Nguyễn Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất đem quân bản bộ tiến đánh thì bị vây ở vùng núi gần đó. May sao 4.000 quân hậu tập đến vừa kịp phá tan vòng vây. Định bỏ chạy chết trong rừng. Ba Đô đốc bị bắt, trong đó có Đại Đô đốc Lê Văn An mà tuổi trẻ và khí vũ hiên ngang khiến Nguyễn Ánh phải mến phục 105.
Ở Quy Nhơn, Trần Quang Diệu cũng lo công kích thành gắt gao. Võ Tánh đánh ra một lần cuối rồi tự đốt chết sau khi bảo Lưu thủ Nguyễn Văn Thanh đưa súng cho Trần Quang Diệu gởi gắm tướng sĩ. Như vậy Tây Sơn đã thanh toán xong đạo quân trong vòng vây để rồi phải lo phá vòng vây.
Trong nửa năm sau 1801, phía bắc không có gì đáng lo lắng cho Nguyễn Ánh. Ông đã sai Nguyễn Văn Trương đuổi theo vua tôi Quang Toản đến sông Gianh chận bắt 2.000 quân chạy trốn. Thế mà Tây Sơn còn ráng thắng một trận để chặn đường cho vua họ chạy thoát. Nguyên khi Tây Sơn đến Hoành Sơn, Trương sai Nguyễn Kế Nhuận đem 7.000 binh thuỷ bộ chận đánh. Đến núi Thần Đầu bị phục binh, Nhuận phải chạy bỏ quân chết quá nửa 106. Viên hàng tướng Tây Sơn từ đất Gia Định nay bị Nguyễn Ánh kể tội đem ra giết chết.
Tuy nhiên mặt nam mới là đáng chú ý tới 107. Nguyễn Ánh bảo Nguyễn Văn Trương sai Hoàng Văn Điểm giữ Thanh Hà rồi về Đồng Hới sửa luỹ phòng thủ. Thu thêm 52.000 binh Tây Sơn nhập binh mình, Ánh sai Lê Văn Duyệt, Lê Chất, Tống Viết Phúc đánh vào. Đến Trà Khúc, Phúc lập được công lớn: đánh bắt Đô đốc Nguyễn Văn Khôn, Tham đốc Hồ Văn Tự cùng 3.000 quân. Nhưng ông rủi ro lại gặp kẻ thù: viên tướng do Trần Quang Diệu phái ra với Đại Đô đốc Lê Danh Phong (sau ra hàng) lại là Từ Văn Chiêu, nên đã phục binh giết chết Phúc, ngăn hẳn con đường tiến quân của Duyệt, Chất đang đóng từ cửa Mỹ Á giăng lên núi 108.
Phía nam chiến luỹ đó, 30.000 quân (ước lượng của Barizy và tính toán của Nguyễn Ánh) của Nguyễn Văn Thành cũng đang mệt nhọc với quân Dũng, Diệu và bọn hàng tướng trong thành Bình Định 109. Ở phú Yên, thỉnh thoảng Phạm Văn Điềm cũng làm rối 6-7.000 quân của Tiên phong Hoàng Viết Tuyển.
Tháng 8 Tân Dậu (1801), Tây Sơn muốn đánh Hoa An, Hoa Lộc để thông với Phú Yên bèn đàn áp thật mạnh ở Sơn Chà 110, tiến đến sông Dinh, sát núi Một, nhưng không kết quả. Trần Quang Diệu lại chuyển 18.000 quân ra phía Bắc, mưu sai Từ Văn Chiêu đem 2.000 quân đánh úp sau lưng Lê Văn Duyệt để phá thế bao vây mà tìm đường ra Bắc Hà nhưng cũng không toại nguyện. Mặt nam Bình Định, Nguyễn Văn Thành lại tung quân đánh mạnh từ luỹ Lò Giấy (Lô Chỉ) đến Tân An khiến Diệu phải trở vào tiếp tay với Vũ Văn Dũng tận vét dân binh chống cự 111. Trận chiến cứ dằng co như vậy trong tháng 10.
Trong khi đó ở Bắc Hà, Tây Sơn cố gượng dậy. Quang Toản cải hiệu Cảnh Thịnh làm Bảo Hưng, hạ chiếu tự cải lỗi để uy phủ các trấn, sai đắp gò tròn nơi cửa ô Chợ Dừa và đầm vuông nơi hồ Tây để hạ chí, đông chí ra đó tế trời đất. Công việc thật có vẻ của thời thái bình thịnh trị khiến cho Nguyễn Huy Lương phải làm bài phú Tụng Tây Hồ, ca ngợi công đức Tây Sơn một cách quá muộn màng. Nhưng Nguyễn Văn Trương ở sông Gianh cũng nghe điệp báo nói Bắc Hà "xứ xứ lũ động" nên hi vọng của Tây Sơn tranh đoạt lại đất đai thật là mỏng manh.
Tuy vậy, tháng 8 âm lịch, Quang Thùy cũng dẫn quân bản bộ đi Nghệ An trước. Ở Bắc trong 3 tháng, Quang Toản đốc 3 vạn binh tứ trấn cùng Thanh Nghệ, lưu Quang Thiệu, Quang Khánh lại Thăng Long rồi kéo quân vào Nam. Từ tháng 11 Tân Dậu ra đi mà tới 1-1 Nhâm Tuất (1802) mới xảy ra trận đánh luỹ Trấn Ninh, thật quá xa thời Quang Trung tung quân.
Những danh tướng Tây Sơn mắc kẹt ở Quy Nhơn để ở đây nổi bật lên hình bóng một anh thư mà giáo sĩ De la Bissachère đã hết lời ca tụng đến nỗi đem tăng quân số bản bộ từ khoảng 5.000 lên đến 300.000! Thuỷ quân Tây Sơn do Thiếu uý Đặng Văn Đằng và Đô đốc Lực dàn trên 100 thuyền bày trận ngoài cửa Nhật Lệ. Trên bộ, Quang Thuỳ, Tổng quản Siêu thẳng lên luỹ Trấn Ninh. Và ở mút phía Tây luỹ, nơi núi Đâu Mâu có Tư lệ Đinh Công Tuyết và Đô đốc Nguyễn Văn Kiên cáng đáng. Chiến tranh xảy ra như 150 năm về trước cũng nơi đất này, tuy các vai trò đã đổi thay.
Nguyễn Ánh sai Nguyễn Văn Trương đánh ngoài biển, Phạm Văn Nhân, Đặng Trần Thường phản binh cự. Quân Tây Sơn bị chết cả ngàn vẫn leo lên núi Đâu Mâu như kiến. Nguyễn Ánh sai thả đá xuống vẫn không ngăn được. Bùi Thị Xuân đốc thúc voi, binh tử chiến từ sáng tới trưa, đã phá đổ một vài mảng thành. Ngôi vị Nguyễn Ánh tưởng bị đe doạ lần nữa. Nhưng ngoài biển, Nguyễn Văn Trương phá tan được thuỷ quân Tây Sơn. Trên đất, Nguyễn Văn Kiên tiến quá sâu với 8-900 bộ binh bỗng nhiên chịu hàng. Thế mà Bùi Thị Xuân còn đánh mãi tới xế. Thuỷ quân Nguyễn theo đà thắng đổ bộ đánh tập hậu. Quang Toản vội vàng rút lui, bỏ quân Bùi Thị Xuân rối loạn theo. Thế trận đánh tan rã đánh dấu lần quật cường cuối cùng của Tây Sơn 112.
Trận Trấn Ninh cũng làm tiêu tan hi vọng của quân Tây Sơn ở Quy Nhơn. Trong hai tháng đầu năm Nhâm Tuất (1802), họ đã phục binh giết được Phó tướng Nguyễn Văn Huệ và cố gắng cầm cự với quân Nguyễn Văn Thành hợp với Lê Văn Duyệt vào đánh luôn trong 7 ngày. Vùng dưới biển gần Thi Nại, từ sông Dinh lên núi Kỳ Sơn đều bị quét sạch đến mãi Vườn Cau. Vũ Văn Dũng đem nhiều binh đến đánh, không chiếm được mà còn hao các Đô đốc nữa. Cảnh quân Lê Văn Duyệt, Lê Chất đánh ép vào Bến Đá, thuỷ binh đổ bộ Tam Quan, Đề Di.
Nhưng cái nguy nữa cho Tây Sơn chính là thiếu lương. Hồi tháng 2 họ định vượt núi Nha Tham lén cướp Phú Yên nhưng đã bị Nguyễn Văn Thành chặn lại được. Bây giờ cho dù Trần. Quang Diệu và Vũ Văn Dũng có muốn đi cướp Gia Định như giáo sĩ De la Bissachère nghe đồn cũng không được nữa 113. Tháng ba năm đó, hai người đều hết lực bỏ thành đem quân đi vòng trên núi ra Bắc với 80 tướng, 3.000 binh mạnh và 86 voi.
Tháng 5, Nguyễn Ánh lên ngôi tôn, niên hiệu Gia Long. Đối với chúng ta, ý nghĩa chính là ở chỗ cuộc chiến kéo dài 30 năm đã sắp chấm dứt.
Từ lâu trong quân đội Nguyễn Ánh có những người Bắc Hà đầu quân mưu khôi phục nhà Lê. Nguyễn Ánh vẫn mập mờ dùng niên hiệu Cảnh Hưng trong các văn thư. Các cựu thần nhà Lê lại thường tổ chức những cuộc xâm nhập Bắc Hà để quấy rối hậu cứ Tây Sơn. Nhưng khuynh hướng phò Lê theo với thời gian đã trở thành lỗi thời, quần thần nhà Nguyễn xuất thân ở Nam Hà tranh quyền bằng xương máu của mình hẳn không phải để đặt lên ngai vàng một ông vua lưu vong chưa từng chia xẻ gian khổ với họ. Ý nghĩa việc đúc tiền năm 1796 với danh hiệu Gia Hưng riêng biệt cũng là một dấu vết phủ nhận từ Nguyễn Ánh 114. Việc Tây Sơn cầm quyền xứ Bắc trên 13 năm đã xua tan thành kiến ranh giới sông Gianh. Tây Sơn chịu tiếng cướp nước, nhưng sẽ mở đường cho kẻ sau vượt tiếp mà không thấy trở ngại nhiều. Bởi vậy, khi Nguyễn Ánh đánh Bắc mà phân vân "Bắc Hà vốn là đất của nhà Lê" thì Đặng Đức Siêu, Trần Văn Trạc mới có thể lý luận: "Đất Bắc là của Tây Sơn rồi... Lấy đất Bắc là lấy của Tây Sơn chứ lấy gì của Lê!" 115.
Lên ngôi xong là Nguyễn Ánh đã dứt khoát sau khi chuẩn bị đầy đủ cuộc vận động tâm lý quần thần. Những người Bắc Hà đã được dự bị từ lâu để theo quân ra: văn thần có Đốc học Nguyễn Gia Cát, Hàn lâm viện Mai Huy Đường đã chờ sẵn từ tháng 6 âm lịch (1801), Đặng Trần Thường cũng được rút từ quân thứ Bình Định đến với Tham quân Hậu dinh là Nguyễn Trí Hoà 116. Quân Bắc phạt gồm cả một lực lượng hùng hậu. Tiền quân mang 60.000 binh, Tả quân Lê Văn Duyệt dẫn 86.000 người, Hậu quân Lê Chất 50.000 người; Nguyễn Văn Trương mang 50 tàu, hơn 100 ghe chiến. 800 thuyền có trí súng, 500 thuyền nhỏ hơn chở 50.000 người, tất cả rầm rộ tấn phát 117.
Quân đi dũng mãnh nhưng đã có bài "Hịch dụ các người trung nghĩa ngoài Bắc thành" 118 để chứng tỏ là Vương sứ đến. Lời kêu gọi nhắm vào việc động viên người Bắc hưởng ứng quân Nam, phục thù cho nhà Lê:
"Trước để sanh hồi miếu xã - sau là chửng cứu sinh linh.
"Khuyến người trung nghĩa ngoài này - rõ ý không phù trong ấy".
Nhưng chúng ta hãy nghe tiếp:
"Nghe võ hịch một lòng ứng Hán, giúp cơn đông lạc thuở trùng hưng;
"Dựng can kỳ bốn mặt công thành, từ thuở sơn man thất thế".
Nhắc chuyện bạo Tần tức là nhắc chuyện dời đổi triều đại, tuyên xưng cho một phía là nhà Hán, tức là bắt mọi người phải công nhận quyền uy của triều đại mới, người viết hịch trong ước mơ của một di thần Lê Trịnh cũng đành phải vô tình nhận rằng phân tranh sắp chỉ vào là dĩ vãng và nhà Lê chỉ còn là bóng mờ mà thôi.
Cho nên cuộc Bắc phạt thành công thực dễ dàng. Nguyễn Văn Trương đi trước đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ, rồi cùng với bộ binh của Lê Văn Duyệt, Lê Chất hợp nhau quét sạch xứ Nghệ. Trấn thủ Nguyễn Văn Thận, Hiệp trấn Nguyễn Triêm, Thuỷ quân Thống lãnh tên Đại, Thiếu uý Đằng đều bỏ chạy. Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng, Từ Văn Chiêu, Nguyễn Văn Mân, Nguyễn Văn Giáp, Nguyễn Văn Điểm, Lê Công Hưng (phần lớn đều là hàng tướng cũ lại trở về), theo đường thượng vừa đến. Diệu qua đèo Quy Hợp vào Nghệ An thì nơi này đã mất, bèn qua Thanh Chương, vượt sông Thanh Long. Lính theo hao mòn vì thiếu ăn, bệnh tật, nên bỏ rơi tướng họ sa vào tay bọn nông dân ham tiền. Cuộc đời dõng mãnh, thanh cao rồi sẽ cùng chấm dứt với người vợ hiếm có. Phần Vũ Văn Dũng cũng không thoát tay dân Nông Cống 119.
Quân Nguyễn qua Thanh Ba bắt Quang Bàn và Văn Thận. Đằng và Hổ đem nhau ra hàng. Đến Sơn Nam hạ, Nguyễn Văn Trương lùa được bọn Thống binh Tề Ngôi lên bộ, bắt Dương Thất Nguyên, Ngô Tam Đồng. Ngày 15-7-1802, Thiếu uý Nguyễn Văn Thọ mở cửa thành Thăng Long ra hàng. Quang Toản, Quang Duy, Quang Thiệu, các Đô đốc Nguyễn Văn Dụng, Nguyễn Văn Tứ, Tú (Từ Văn Tú?) vượt qua sông Nhĩ Hà chạy trốn. Họ không may mắn hơn những người trước. Đêm ở Xương Giang, dân chúng đón bắt, Quang Thuỳ, Đô Đốc Tú và vợ cùng tự vẫn. Còn Quang Toản bị dân Phượng Nhỡn bắt, chấm dứt đời Tây Sơn.
Ngày 20-7, Nguyễn Ánh ra tới Thăng Long, đặt chân lên nơi mà hơn 200 năm trước, tổ tiên ông phải giả tiếng mới về Nam được. Thăng Long, Thanh Hoá, Phú Xuân, Gia Định rồi nối vòng Gia Định, Phú Xuân, Thăng Long, con đường thật dài, thật đầy gian nan, cực nhọc mà cũng đầy vinh quang. Đất nước mệt mỏi vì chiến tranh nay đã tìm được đường thoát trong thống nhất, yên nghỉ. Một giai đoạn mới bắt đầu với Nguyễn Ánh - Gia Long.
--------------------------------
1 Bức hình có in lại nơi trang bìa 2 của quyển Việt Nam thời bành trướng: Tây Sơn. Đôi câu đối ở trang bìa 3
2 "Tây sơn thuật lược": Tạ Quang Phát dịch, Sử Địa số 9-10, t. 165
3 Hoàng Lê, t. 92
4 Hoàng Lê, t. 82
5 Thư Labartette gởi cho Letondal, 6-10-1797 (A. Launay, III, 1. 244).
6 Hoàng Lê, t. 89, 90, t. 162, 163, t. 167
7 Hoàng Lê, t. 252
8 Liệt truyện, q30, 17b.)
9 Có trích trong các sách đã dẫn: La Sơn phu tử, Quốc văn đời Tây Sơn
10 Do An Khê sao lục trong Nam Phong, XIV: Fév, 1924, có trích lại ở Việt Nam văn học sử yếu, sđd, t. 73-75
11 La Sơn phu tử, sđd, t. 42, đạo sắc phong thần Đỗ công đại vương trưng bày ở Hội chợ Hà Nội 1941
12 Le séjour de l’ambassade... sđd, t. 28
13 Thư Le Roy ở Kẻ Vĩnh (Ninh Bình), 6-12-1796 (BEFEO 1912, t. 8 ). Tờ phụng truyền được dịch trong Le peuple annamite. E. Langlet, 1912. t. 50, 51.
14 Thư ngày 12-5-1787 (RI, XIV, Juil-Déc. 1910, t. 44).
15 La Sơn phu tử, t. 160
16 Liệt truyện q30, 47b. Thực lục q6, 7b, 8a.
17 Hoàng Lê t. 272. Liệt truyện q30, 45b. Quang Toản tên là Trát. Thư các giáo sĩ vẫn ghi là "Hoang trot". Tên Trát chắc là chuyển biến theo giọng Quảng Nam của một dấu vết thân xác của Toản (Toản môi trớt, theo Tây Sơn thuật lược, bđd, t. 165. P. Ký cũng xác nhận tên Hoàng Trớt trong "Souvenirs historiques sur Sai gon et ses environs", Excursions et Reconnaissances, 1885 t 26). Phái bộ Macartney có tham dự lễ sinh nhật Vua ngày 4-6. Tính ra 4-6-1793 là ngày 26-5 Quý Sửu; ngày 26-5 Quý Mão tương đương với ngày 25-6-1783. Đó là ngày tháng, năm sinh của Quang Toản.
18 Thư J. Liot ở Tân Triệu, 18-7-1792
19 Thư Lavoué, Saigon ngày 31-7-1793
20 Thư Lavoué cho các ông Boiret và Descourvières, Tân Triệu, 13-5-1795, thư G.M Gortyne, Tonkin Occidental, 22-4-1794 (BEFEO, 1912, t. 32, 33). Hoàng Lê. t. 277, 78. Thực lục q6, 31ab. Liệt truyện q30, 16a.
21 Thực lụcnói Quang Toản sai nhưng ta biết (q6, 8a) mọi việc đều do Bùi Đắc Tuyên, cậu Toản quyết định. Vả lại Hoàng Lê cũng nói khi đi Qui Nhơn có Đắc Tuyên theo làm Tán nghị giữ thành. Vậy chính Tuyên vào Qui Nhơn để trông coi việc đánh phía nam, chia quyền quân quốc với Phạm Văn Hưng (Liệt truyện q30, 44b).
22 Thực lục q6, 35b. Trước đó, tháng 11 âl (3/12/1793-27/1/1794), Nguyễn Văn Thành từ Bình Khang về. Hoàng tử Cảnh ra trấn Diên Khánh với Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành, Tống Phúc Đạm, Phạm Văn Nhân. Sau đó, Ánh kêu Nguyễn Huỳnh Đức về, lưu quân Chân Lạp, Chà-và lại Diên Khánh. Tôn Thất Hội cũng về để Võ Văn Lượng. Nguyễn Long, Nguyễn Văn Nhân trấn Phú Yên có Mạc Văn Tô, Nguyễn Đức Thành của Cảnh sai phụ giúp. Thư Pigneau gởi cho Letondal từ Phú Yên, 16-6-1794 (A. Launay, III, t. 287) nói bị vây vào cuối tháng Avril. Thư Lavoué cho Letondal (A. Launay III, t 233-34) nói rõ hơn vì Lavoué lúc bấy giờ ở Nha Trang có chứng kiến trận đánh.
23 Thư Lavoué cho Letondal 27-4-1795 (A. Launay, III, t. 287).
24 Theo ĐNNTC, tỉnh Bình Định, tả sông Vân Sơn thì đó là trung lưu sông Hà Thanh. Vùng này có một cái chợ nổi danh là chợ Vân Hội (chợ Cây Gia), không biết có phải địa điểm Vân Sơn này không
25 Gian Nan là núi Cục Kịch. Còn khi nói Đại Lãnh, chắc sử quan muốn chỉ một hòn núi, vì lẽ đó có thể gọi là "đèo Cả" chứ không phải địa điểm Đại Lãnh hiện tại ở dưới chân đèo Cả, phía tỉnh Khánh Hoà
26 Vùng Vạn Ninh bây giờ?
27 Thực lục: Đà Diễn; nhưng ĐNNTC, q10, Phú Yên, 11b: "Đà Diễn cũng gọi là Đà Rằng".
28 Một nhánh tả ngạn của sông Luỹ, thượng lưu được gọi bằng một tên quen thuộc vì chảy qua một nhà ga cùng tên: sông Mao
29 Thực lục q7, 33ab; Liệt truyện q30, 46ab; Hoàng Lê, t. 278. gọi trạm Hoàng Giang, Thái bảo Hoá thay vì Mỹ Xuyên, Nguyễn Văn Huấn. Một chứng nhân đương thời, Lapavée, thì lại cho rằng Bùi Đắc Tuyên muốn giết 3 con Quang Trung (Quang Thuỳ, Quang Toản, Quang Bàn?) để cướp ngôi cho con ông (Bùi Đắc Thận?) nên mới âm mưu với Ngô Văn Sở để hành dộng. Sứ giả gởi đi bị Vũ Văn Dũng chận lại. Âm mưu vỡ lở (Sử Địa số 13, t. 160-161).
30 Có thể là Karom, tiếng Việt bây giờ là Du Long (Ninh Thuận). Ta biết địa điểm Ma Lâm (Bình Thuận) cũng được bình dân gọi là Mằng Long.
31 Núi Kho là hòn Trại Thuỷ ở Nha Trang, hiện có đặt Kim thân Phật tổ. Sông Ngư Trường là phân lưu của sông Cái chảy xuống cầu Hà Ra (Nha Trang). Xét theo diễn tiến trận đánh và vị trí các nơi liên hệ thì quân Nguyễn từ mặt bắc đánh vào.
32 Chữ của Thực lục là Tu Hà 修 蝦. Chúng ta nghĩ Tu Hà giống chữ Tu Hoa đã sinh ra chữ Tu Bông bây giờ. Vậy Tu Bông không phải từ chữ Tụ Phong mà ra.
33 Sơn Tùng Hoàng Thúc Trâm. Quốc văn đời Tây Sơn. sđd, t. 26-31, đề là "Dụ Nhị Suý Quốc âm chiếu văn".
34 Thư Le Gire gởi các ông Boiret, Chaumont, Blandin, từ Kẻ Tương (nam Quảng Bình), 12-1-1796 (BEFEO, 1912, t. 36).
35 Hoàng Lê, t.211.
36 Thư Giáo sĩ Serard, 6-1783, RI, XIII, t. 521
37 Thư trích trong La guerre et la révolle, bđd, t. 91
38 Thư J. Liot cho các Giám đốc Chủng viện Phái đoàn Truyền giáo, ngày 20-6-1795 (A.Launay, III, t.237).
39 Thực lục chẳng hạn, q6, 10a, đầu 1793; đáng chú ý ở q8, 27a, tháng 8 âl 1796: "Giặc Chà-và đánh Kiên Giang. Nguyễn Ánh sai Nguyễn Đức Xuyên đánh ở Hòn Tre giết giặc, đoạt thuyền; từ ấy Chà-và sợ mất vía không dám xâm phạm, đường thương mãi được thông suối vậy". (chính chúng tôi nhấn mạnh).
40 Rất nhiều trong A. Launay, tập III, sđd
41 Thư Lelabousse cho Letondal, 24-5-1791 (A.Launay, III, t. 291, 292); Thực lục q5, 18b, chuyện tháng 2 âl 1791; lời chú (a) của De la Bissachère về bài hịch của Quang Trung đã dẫn.
42 Thư Pigneau cho Letondal, 11-8-1789, thư Lelabousse cho M.... 13-12-1790 (A, Launaỵ, III, t. 277-281).
43 Thư Lelabousse cho Grine, 6-1792, cho Letodal, 17-6-1792; thư Pigneau cho Boiret, 18-6-1792; thư Guillet cho Boiret, 20-6-1793, Lelabousse cho Boiret 6-1793 (A.Launay. III, t. 283-285).
44 Thực lực q6, 14b, 15ab
45 Thư Lelabousse cho Letondal, 12-6-1793 (A-launay, III, t.289) có câu Nguyễn Ánh bảo Cảnh: "Le Maitre est plus ton père que Moi", đó là thứ bực Sư, Phụ của Nho giáo: Thực lực, q11, 16a
46 Việc xác định danh tính Tống Phúc Đạm trong vụ cũng như sự việc xảy ra lấy ở Thực lực q6, 35a, Liệt truyện q8, phần cuối: truyện Tống Phúc Đạm, thư Lavoué cho Letondal, 21-4-1795 thư Pigneau cho Boiret, 30-5-1795 (A.Launay. III t. 301-305)
47 Thư Gpigneau cho Letondal, 17-8-1789 (A.Launay, III, t.320, 321).
48 Thư Pigneau cho Boiret, Saigon, 12-4-1797 (A.Launay, III, t. 311).
49 Thư Boisserand, 11-8-1789, thư Pineau cho Boiret, 15-6-1798, Pineau - Labartette, 5-6-1796, Labartette (ở Bố Chính) cho các Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 12-11-1800 (A.Launay, III, t. 322, 328, 332, 335)
50 Thư J.Liot gửi cho Giám đốc trường Dòng của Phái đoàn Truyền giáo, 20-6-1795) (A.Launay, III, t.336 - 338). Thực lục, q7, 3b, mục tháng 2 Giáp Dần (1794) có nói đến việc trùng tu Văn Miếu ở Trấn Biên đúng vào chuyện này
51 Thư Pigneau cho Boiret, 20-6-1792; thư Lavoué cho Giám đốc trường Dòng (A.Launay, III, t.306, chú (I)).
52 Xem lại tiết trước. Chuyện xảy ra vào đầu năm 1795. Tên Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành được xác nhận vì một đằng so với Thực lục (q7,23b, 24a, 27b), một đằng thư Lavoué kể trước có nói: (Ánh) đến nhà Bá-da-lộc trước khi đi đánh Tây Sơn và 2 trong những người tố cáo đang làm quan lớn bị tống giam vì đã bỏ rơi 2 quan khác khi Tây Sơn tiến đánh
53 Thực lục, q8, 12b, 13a, 15a
54 Hình chụp lại trong Iconographie historique..., sđd, IX, 13
55 Thư Lelabousse cho Boiret, 12-7-1796 (A.Launay, III, t.225).
56 Thực lực, q8, 14b, 23ab
57 Thực lục, q9, 21ab
58 Thực lục q5, 9ab. 33a.
59 Thực lục q8. 26b, q9, 5b
60 Chi tiết về số lượng thuỷ quân do bức thư của Olivier gửi cho St. Lefèbre de Tranquebar, 16-4-1798, trích của A.Slles. "Les Français au service de Gia Long. J.B.Chaigneau", BAVH, Janv-Mars 1923
61 Thư Labarlette cho Letondal, 6-10-1797 (A. Launay, III, t.242)
62 Thư Labartette cho Letondal. 6-10-1797 kể trước. Chuyện tiến quân lấy ở Thực lục, q9, 19b - 27a
63 Thực lục q9, 37a, q19, 2a
64 Thư Lelabousse cho Boiret, 5-1797 (A.Launay, III, t.288)
65 Thực lục q10, 3a
66 Thư Pigneau cho Boiret, 12-4-1797 (A.Launay, III, t.310, 311).
67 Thực lục q10, 12b, 13a
68 Thực lục q10, 14b-20a
69 Pháp không thi hành được hiệp ước Versailles chỉ để bốn phiếu lưu giúp nên cạnh tranh nhau, tố cáo nhau làm mất mặt Tây phương trước dân bản xứ. Chúng ta đã thấy vụ Mãn-noàỉ chứng tỏ sự xung đột Bồ - Pháp về Đạo cũng như về Đời trên đất Gia Định. Xung đột còn mãi đến 1801 khi người Bồ tố cáo L.Barizy đầu độc chủ tàu tên R.Henderson, và làm cho Barizy phải bị tù (Chuyện từ thư của Barizy cho Letondal, BAVH, Oct-Déc, t.380-384).
70 Thư giáo sĩ Longer cho Giám đốc nhà Dòng các Phái đoàn Truyền giáo, Tonkin, 3-6-1799 (A.Launay, III, t.250.)
71 Thư Longer gởi cho Dufresne, 1-5-1786, cho Letondal, 9-8-1786, Labartette cho Descourvières, 16-5-1788, cho Letondal, 18-6-1788 (A.Launay, III, t 162).
72 Thư Le Gire gởi cho cha mẹ, 11-1-1796, cho Boiret từ Kẻ Lương, Thượng Cochinchine, 12-1-1796, có câu: "Chúng tôi nóng đợi Vua tới... người ta quá hi vọng Vua từ Đồng Nai tới khiến chúng tôi sai lầm... (A.Launay, III t 239, 240).
73 . Thư Longer cho Giám đốc Nhà dòng các Phái đoàn Truyền giáo 14-4-1792 (A.Launay, III, t.239).
74 vụ Nguyễn Bảo kể sau
75 Giáo sĩ Labartette kể lại (A.Launay, III t.251-256), thư Longer 3-6 kể trên
76 Hai tờ chiếu sai của Nguyễn Ánh, một có ghi chi tiết lễ vật, tất cả để ở từ đường họ Nguyễn Huỳnh, xã Khánh Hậu, tỉnh Long An
77 Thực lục q10, 13b
78 Chuyện Nguyễn Bảo tổng hợp của Thực lục q10, 16ab, 17b, Liệt truyện q30, 17ab, 46b, 47ab, Hoàng Lê, t.279, 280, thư của Lelabousse cho Giám đốc Nhà Dòng các phái đoàn Truyền giáo, tháng 6-1799, thư khác ngày 24-4-1800 (A.Launay, III, tr.259, 260). Về nguyên nhân, Hoàng Lê ghi Diệu đưa mật thư bảo Lê Trung phò Bảo. Trung đã kéo quân về đến Quảng Nam "trong ngoài khiếp sợ". Còn Liệt truyện cho biết nhân dịp Lê Trung vắng mặt ở Qui nhơn, Nguyễn Bảo mới chiếm thành. Có lẽ ở Phú Xuân người ta hoảng lên vì cuộc điều động quân của Nguyên Bảo và Lê Trung chớ chắc Trung chưa có hành động nào rõ rệt là theo Bảo mới dám theo Diệu về ra mắt Quang Toản rồi đi vây Qui Nhơn. Tuy nhiên, thư Lelabousse có câu "(Bảo) profitant de la division qui était entre les grands mandarins", ta mới có câu kết tạm như trên. Về tên người và diễn biến, Thực lục cho Lê Trung chết ở Thuận Hoá vì Trần Văn Kỷ xúi giục Quang Toản giết. Hoàng Lê cho là vì Thái phủ Màn, và Trung chết ở Qui Nhơn. Liệt truyện cho Trung chết vì Lê Văn Ứng (Thái phủ Màn) dèm pha. Lelabousse không nói đến tên, nhưng nói đến một người bị cách chức rồi bị chết thảm khốc: "chặt 4 chân tay, chém sả đầu, bêu lên, mình đốt ra tro vứt khắp nơi", là một "chiến tướng có tài, lên chức cao bằng sức mình" - chắc ông chỉ Lê Trung. Người giữ thành khi Nguyễn Bảo làm loạn, Thực lục ghi Nguyễn Văn Hưng (Phạm Văn Hưng), Hoàng Lê cho là Lê Trung thay Thái bảo Hóa (Nguyễn Văn Huấn) từ khi Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng giảng hoà, Liệt truyện nói Diệu xin Lê Trung giữ Qui Nhơn thay Huấn. Khi Trung dẫn quân về Phú Xuân thì để lại thành cho Uyên Thanh hầu ở lại giúp Bảo, Bảo nghe lời mẹ xúi và tin lời hứa của Nguyễn Ánh "tội cha không bắt đến con" nên mới nổi lên bắt giam Thanh Uyên hầu, chiếm Qui Nhơn. Lelabousse kể chuyện viên trấn thủ ở đó phải cạo đầu chạy trốn trên rừng, rồi sau ra lệnh giết Lê Trung "thay mặt Thượng đế trừng phạt ông này" về tội bắt giáo sĩ(!). Riêng chứng cớ này còn tỏ rằng Trung chết ở Qui Nhơn. Liệt truyện dùng lẫn lộn Uyên Thanh hầu và Thanh Uyên hầu nhưng chắc cũng chỉ một người, có thể là Lê Văn Thanh, người được Quang Toản cho giữ Qui Nhơn khi dẹp Bảo xong (Tây Sơn cũng từng có 2 tên Hô Hổ hầu và Đô đốc Hô chắc cũng chỉ một người). Chắc Thanh nghe lệnh giết Trung, nhưng vẫn giữ cảm tình đồng liêu, nên che chở cho Lê Chất khi Chất giả chết bị lộ về đầu. Mọi oán thù trút cho Lê Văn Ứng nên Thanh, Diệu, Dũng lập mưu giết Ứng (xem sau) và sau này Lê Chất hàng Nguyễn Ánh mới tìm Ứng đánh đuổi để lịch sử ghi lại cả ở Hoàng Lê lẫn Thực lục.)
79 Trúc Khê của Thực lục, một nhánh của sông La Tinh chảy vào đầm Nước Ngọt
80 ĐNNTC, tỉnh Bình Định, gọi là "Phúc Lộc". Chữ của Thực lục là "Ngốc Lộc, Thốc Lộc". Hình như chính chữ là "Trọc Lóc".
81 Các giáo sĩ cho biết thành có 40.000 quân tinh nhuệ ra hàng với vũ khí và 120 chiến tượng (A.Launay, III, t.292).
82 Nhà thờ này ở làng Mỹ Cang quận Tuy Phước (Bình Định).
83 Ch. B. Maybon, La relation sur le Tonkin..., sđd, t.112, 113
84 Liệt truyện q13, 10a. Lê Chất (Liệt truyện, q24) cũng phải chịu cảnh nhục nhã đó tuy không thể phản bội được: khi Bắc phạt, Chất được coi Hậu quản, phong Bình Tây tướng quân, có người nói "Chất bình Tây thì ai bình Chất?"
85 Chi tiết theo lời dẫn bằng chữ Nho đặt trên đầu bài dụ trích trong Quốc văn đời Tây Sơn, sđd, t.44 - 49.
86 Thư của L. Barizy gởi cho Letondal, Marquini, 16-4-1801, dẫn bởi G.Taboulet, La geste française, sđd, t. 253, 254, bởi L. Cadière trong BAVH, Oct-Déc, 1926, t. 397-400. Taboulet trong lời chú (1) của ông cho rằng nơi nói đến là thành Qui Nhơn, dựa trên lẽ Barizy trong thư 16-7-1801 có dẫn thư ngày 8-5 nói chuyện lấy Tourane hôm 8-3 mà cho ông này có tham chiến ở đây. Thực ra, thời gian viết thư 16-4, Barizy còn ở Gia Định, mới ở tù ra. Ngày 17-5 dl, ông mới theo quân tiếp viện Gia Định ra tới Qui Nhơn. Có lẽ ngày 8-3 là ngày âl vì tuy Barizy có viết rõ "8 Mars", nhưng vẫn kể chuyện trong các thư bằng ngày tháng âm lịch khi có liên quan đến trận đánh (như chuyện đồng Cây Cầy), vì lẽ giản dị là quan, dân ta dùng âm lịch, 8 Mars tương đương với 21-1 Tân Dậu không hợp với trận đánh nào hết ở Quảng Nam. Chỉ có 8-3 âl (20-4-1801) mới hợp với trận Tourane mà sử quan ghi vào đầu tháng 3 âl thôi. Và thành Qui Nhơn chưa giải vây thì Barizy có ở Thi Nại cũng làm sao vào trong đó được? Thực lục q12, 16a ghi: "Cho Ba-la-di về nước, cấp 1 thuyền" là chỉ việc cho chiếc thuyền chìm đã làm ông ấm ức chớ ông vẫn còn có mặt ở Thi Nại ngày 27-5 như đã nói, và ở Đà Nẵng sau đó.
87 Thực lục, q12, 4b, 5a.
88 Không phải Nguyễn Văn Vân, con Nguyễn Văn Trương, bị bạt gió năm 1793, về năm 1797. Nguyễn Ánh tổ chức 5 đồn quân Ngự lâm quân, lấy hàng tướng chỉ huy lính cũ Tây Sơn, dưới quyền tướng Ánh. Trong danh sách có tên Lương Văn Chương, nhưng không có Nguyễn Văn Vân, vì ở đây (Thực lục q11, 10a 0 12b) chỉ liệt kê Đô thống chế, Thống chế đồn, Trưởng, Phó chi mà không nói đến Trưởng hiệu, cấp bực của Vân. Trưởng hậu chi của Vân là Nguyễn Văn Lân
89 Thời điểm "21-11 âm lịch", "27-11 âm lịch" là của Barizy trong bức thư kể sau.
90 Theo ước lượng của L. Barizy trong bức thư gởi cho Letondal ngày 11-4-1801. Đáng lưu ý là Barizy không có dự vào trận Thi Nại. Cũng trong thư này ông phàn nàn về việc bị các quan bắt đóng gông, nhưng hai tháng sau ông đã có mặt ở Quảng Nam trong đoàn thuyền với Chaigneau, Vannier, de Forçan... Trận Thi Nại sắp kể đây dựa vào các tài liệu: Thực lục q13,3b-6b, thư của Chaigneau (có dự trận) cho Barizy, 2-3-1801, ngay ngày sau lúc đánh nhau, thư của Lelabousse cho Nhà Chung từ Nha Trang, 20-4-1801 (G. Taboulet, La geste française..., sđd, t. 259, 260. Thư Barizy kể trên L.Cadière "Les Francais au service de Gia Long - II - Leur correspondance" BAVH, Oct - Déc 1926, t,373- 391) có kèm bản đồ vẽ cửa Thi Nại. Về thực lực đôi bên, Barizy đã ước lượng Tây Sơn như sau: 1.800 thuyền với 6.000 khẩu đại bác? Ta phải ước giảm bớt vì nhớ rằng Barizy không dự trận và vốn có tính dễ xúc động. Chaigneau viết thư cho ông chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên vì khả nàng chống cự của thuỷ quân Tây Sơn thôi. Lelabousse kể chuyện có những điểm sát với Thực lục. Ví dụ ông đã chỉ đích trận từ 10 giờ đêm đến 10 giờ sáng, việc thuyền Nguyễn nhờ đêm tối và gió tiến đến gần thuyền địch đốt cháy theo kế hoả công.
91 Sử quan viết là Nan Dự. ĐNNTC, tỉnh Phú Yên gọi là Bàn Than Dự, và còn chỉ thêm một hòn đảo khác tên là Than Dự trên có khắc chữ "nan" "không biết từ thời nào". Hòn Bàn Than và hòn Nần là một vì đều được xác nhận là một hòn đảo bên trong vùng Cù Mông, có miếu Công thần. Nguyễn Ánh ở đó điều khiển quân tướng tránh được sóng gió mà cũng cách biệt với quân thù hơn. Duy lúc đánh trận Thi Nại thì chắc ông phải dời ra đóng ở hòn Đất ngoài cửa biển Qui Nhơn. L. Barizy chỉ "Ile ông Datte", L.Cadière gọi theo âm đọc "hòn Đạt" là sai. Đó là một trong 3 hòn: hòn Khô, hòn Đất, hòn Ngang (Khô dự, Thổ dự, Hoành dự) của ĐNNTC. q9, 15b.
92 Biệt hiệu của người Tây gọi Võ Di Nguy, theo Barizy. Cũng Barizy cho biết người ở tiền tuyến là "ông Yun koun" (Giám quân) mà Cadière chỉ là Phạm Văn Nhân, người giữ chức Giám quân của 5 đội quân Thần Sách (Thực lục, q10, 8a). Thực ra, Nguyễn Ánh đã cắt Nhân nằm ở Cù Mông. Người ở tiền đạo, như ta đã biết, là Nguyễn Văn Trương và Tống Phúc Lương. Nguyễn Văn Trương có hồi cũng làm Giám quân dinh Trung thuỷ, rồi coi dinh Trung thuỷ, kiêm cả Tiền, Hậu thuỷ (Thực lục, q7,26b), coi cả thuỷ quân suất các chiến dịch về sau. Cho nên, ông Giám quân Barizy nói ở đây là Nguyễn Văn Trương vậy.
93 L.Barizy còn viết thư ngày 11-4-1801 nhận Nguyễn Ánh mất 4.000 người, Tây Sơn mất 50.000 người, toàn bộ thuỷ quân và thuyền bè chuyên chở trên 1.800 chiếc, 6.000 khẩu đại bác. Tưởng chỉ nên lưu ý đến tính cách tiêu diệt hoàn toàn thuỷ quân Tây Sơn mà thôi.
94 Barizy ghi tên trên bản đồ đầm Thi Nại là "port de Qui nhon autrement Choya" (Chợ Giã). Thị xã Qui Nhơn hiện vẫn thường được dân quê gọi nôm na là "Giã", tên một thứ thuyền, lưới bắt cá dân chài thường dùng
95 Tiết này, ngoài những chứng dẫn khác có ghi rõ, đều lấy từ Thực lục q10, q12, q13, 1a-6b
96 Có Thạch cốc tự, gọi nôm là "chùa Hang" nổi danh, thuộc xã Mỹ Hoà, quận Phù Mỹ, Bình Định.
97 Liệt truyện, q10, từ tờ 6b, truyện Đặng Đức Siêu
98 L.Barizy trong thư 11-4-1801 dẫn việc Nguyễn Ánh có mặt ở trận "Dung thi" (Đồng Thi, đồng Cây Cầy) tháng 11, 12 âl năm ngoái, "tay mang ống viễn kính". Barizy lúc bấy giờ còn ở Gia Định, mới vừa ra tù nhờ lệnh hoàng tử Cảnh trước khi chết (20-3-1801), không biết có được tin đích xác không. Vì sau trận đồng Cây Cầy, Vân Sơn thuộc về quân Nguyễn, nhưng Thi Nại chưa bị phá, Nguyễn Ánh có bỏ hòn Nần lên bộ thám sát không? Cho nên chuyện lần này có vẻ đáng tin hơn chuyện lần trước. Còn địa điểm Vân Sơn theo lời tả của ĐNNTC, tỉnh Bình Định, mục "Vân Sơn giang" thì chắc là vùng Vân Hội, quận Tuy Phước (đã nói) chớ không phải gò Vân Sơn (có nhà ga cùng tên), gần Chà Bàn, nơi nổi tiếng nhờ Chế Lan Viên ngồi khóc dân Chàm
99 Thư Barizy cho các ông Marquini, Letondal, 16-7-1801 (BAVH, Oct - Déc 1926, t. 401) kể trận đánh lấy Huế, có nhắc trận Đà Nẵng hôm 8-3 lấy 30 voi, 84 đại bác, kho gạo, áo quần. So với số súng và voi thu được với Thực lục ở đây, ta chắc 2 trận của 2 tài liệu chỉ là một.
100 Thư Barizy đã kể, danh xưng về các thuyền lộn xộn quá: galère, chaloupe canonnière, demi-canonnière rồi "ghequienne"! Chuyển tiếp viện này không thể lẫn với chuyến đầu năm do Trần Công Thái dẫn Hậu quân Gia Định ra (Thực lực, q10, 3b). Số lượng 10.900 quân ghi ở đây, 10.000 ghi ở thư khác, ngày đến Qui Nhơn cho ta quyết chắc là chuyến chuyển quân vào tháng 4 âm lịch của Thực lục (q13,22a)
101 Trận Huế, ngoài Thực lục, thư Barizy kể trên, còn có tài liệu ở Liệt truyện q7, 17b, về Phạm Văn Nhân, q8, 8a về Nguyễn Văn Trương, q21, 20b, Nguyễn Văn Thành, q22, 6b Lê Văn Duyệt, q24, Lê chất, q30, 51ab Nguyễn Quang Toản.
102 Thư Girard gởi cho Letondal, 25-6-1801, thư Barizy cho Marquini, 15-7-1801 (A. Launay, III, t. 422, 423).
103 Thời điểm lấy của Barizy vì chi tiết vẽ rõ hơn, Thực lục có nói đến lúc rời Qui Nhơn ngày Canh Ngọ (5-6-1801), đến Đà Nẵng ngày Quý Dậu tháng 4 âl (8-6-1801).
104 Theo Barizy tả biến chuyển thì 3 giờ chiều 13-6 trùng với 3-5 của Thực lục (q14, 1b). Nhưng Nguyễn Ánh ở dưới thuyền ngự đến 8 giờ sáng 15-6 mới vào Kinh thành có lẽ vì muốn chờ tết Đoan Ngọ (tốt ngày? long trọng?). Vì lẽ đó nên Girard mới nói đến chuyện giải phóng Huế ngày 15-6.
105 Thực lục q14, 10ab, Liệt truyện q22, 7ab. Thư Barizy do Cadière đã kể có nhắc tên 3 Đô đốc hàng là Do Doue Cane (giải thích là Lương Văn Canh như Cadière là sai), Boune và Banaa. Lê Quốc Cầu và Lê Văn Từ bị bắt trong trận không có âm tên giống như vậy, Duy Boune có lẽ là Tống Phúc Phượng (Liệt truyện, q25) hơn là Nguyễn Bá Phong như Cadière đã theo lời chỉ dẫn của Ch. Maitre. Phượng cầm cánh quân riêng 1.000 người và tự đi đầu hàng trước.
106 Liệt truyện q8, 9a.
107 La relation sur le Tonkin...., sđd: t.108, 109. Thư Langlois cho Boiret. 3-9-1802 (BEFEO, 1912, t.55)
108 Con số 52.000 là của Barizy. Thực lục q14, 16b - 18b, Liệt truyện q13, 9b, 10ab
109 Trường hợp Nguyễn Văn Tồn (Liệt truyện q28, 3ab) khi thành Bình Định mất theo Tây Sơn đánh rất hăng, quân Nguyễn kêu không ngó lại, đến khi trở về, người ta hỏi, ông trả lời: "Đánh hăng cho giặc khỏi nghi". Ấy vậy mà không biết sử quan nghe ở đâu lại nói có người khen là "có trí".
110 Theo sự kiện kể ở đây thì chắc là hòn Chà vùng nam sông Vân Sơn (Vân Hội) chớ không phải núi Trà (Trà Sơn), Chà Rang (Trà Lang Sơn) ở Phù Cát, tây bắc Chà Bàn của ĐNNTC.
111 Thực lục q15, 1b, 17a, 20ab
112 Trận Trấn Ninh: Thực lục, q15, 28ab, q16; Liệt truyện q8, 11b-13a, q30, 53ab, 54a; La relation sur le Tonkin... sđd t.108-111. Tuy De la Bissachère quá tán tụng Bùi Thị Xuân nên mới lo sợ giùm cho Nguyễn Ánh, nhưng đã có những chi tiết đúng như: voi phá vài nơi của luỹ Thầy (Liệt truyện: "Bùi Thị Xuân suất tượng khu chúng"), đánh tới 2 giờ chiều ("quá trưa" của Liệt truyện). Duy ông không biết đến tên viên tướng phản bội mà ta gán cho Nguyễn Văn Kiên vì ông này có mặt trong trận và có tên trong danh sách hàng tướng.
113 La relation sur le Tonkin, sđd, t. 113. Có thể vì toan tính đánh ở Phú Yên trong dịp này mà người ta đồn tới tai De la Bissachère rằng Trần Quang Diệu muốn vào lấy Đồng Nai chăng?
114 Thực lục, q9, 6a
115 Thực lục q16, 17b.
116 Thực lục q14, 20b, 22b
117 Số lượng quân trong thư Barizy gởi cho Marquini và Foulon, 15-6-1802 (BAVH, Oct-Déc 1926). Chuyện Bắc phạt: Liệt truyện q8, 13ab, q30, 54ab, Thực lục q17, 11b-18a.
118 Tác giả Vũ Huy Dao, trích trong Morceaux choisis... t.254, 255.
119 La relation sur le Tonkin, sđd, t.114, 117; Liệt truyện q.30, 54b, 55a. Trong tập Bình Định (1964), Ty Thông tin Bình Định, trang 13, 24 có đoạn xác nhận rằng Vũ Văn Dũng là người địa phương (thôn Phú Mỹ, xã Bình Phú, quận Bình Khê), sau khi bị bắt bèn trốn thoát, cải danh là Vũ Văn Độ, mất ở An Khê năm 1853. Nếu ông Độ có thật thì chắc là một người bà con lưu lạc chớ chuyện Vũ Văn Dũng trốn thoát là điều khó tin (Dũng không quá trẻ để đến mãi năm 1853 mới chết!). Trần Quang Diệu nhờ tha chết cho binh tướng Võ Tánh mới được đặc ân uống thuốc độc, khỏi bị voi xé như vợ con. Còn Vũ Văn Dũng mà đầu cũng treo giá đồng thời với của quan Thái phó thì làm cách nào thoát khỏi nanh vuốt của Nguyễn đang thắng được? Dũng là người Hải Dương đã có bằng cớ hẳn hoi nơi tước Chiêu Viễn hầu như ta đã nói trước.
Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802 Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802 - Tạ Chí Đại Trường Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802