Trở ngại càng lớn, chiến thắng càng huy hoàng.

Moliere

 
 
 
 
 
Thể loại: Lịch Sử
Biên tập: Quoc Tuan Tran
Upload bìa: Son Vo Di
Số chương: 9
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6942 / 422
Cập nhật: 2016-06-04 04:55:13 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 4: Họ Nguyễn Trung Hưng
Tiết 10
NGUYỄN PHÚC ÁNH CẦU VIỆN TÂY PHƯƠNG
Nguyễn Ánh, Tây Sơn và giáo sĩ * Nguyễn Ánh và Bồ Đào Nha * Cuộc vận động của Bá-đa-lộc.
"Tháng 7... nghe Bá-đa-lộc ở Chân Bôn, vua sai người đi triệu về, bàn bạc việc cầu cứu nước Pháp…". Sử quan nhà Nguyễn chăm chú ghi chép việc xảy ra (năm 1783) theo ngày tháng, hẳn không lưu ý lắm rằng họ vừa đề cập đến một trong những sự kiện sẽ quyết định vận mạng chiến tranh.
Thực vậy, lúc bấy giờ trong ba phe đang chia nhau phần đông bán đảo Đông Dương, trừ Trịnh đang nghiêng đổ tuy vẫn còn chút bề ngoài huy hoàng, 2 phe còn lại, Nguyễn và Tây Sơn đều biết rằng nếu lôi kéo được về phía mình đám người mắt xanh da trắng đi trên những chiếc tàu đồng vững vàng ngoài đại dương kia, thì họ có cơ hội kết thúc chiến tranh mau chóng hơn. Nếu chiến tranh có làm các tay buôn xa lánh, không chịu chở tới đồng, sắt, lưu hoàng hay súng đạn, tàu bè thì Nguyễn, Tây Sơn cũng biết phải tìm nơi đâu: nhóm giáo sĩ Tây phương lẩn lút hay công khai dạy đạo Hoà Lan trong vùng họ cai trị.
Tây Sơn đã từng ve vãn giáo sĩ ở Quảng Nam (1774), ở Gia Định (1783), nhưng vì sự cần thiết của chiến tranh, chiến tranh nổi loạn từ chỗ không có gì khiến họ không những phải lấy nhà thờ làm nơi đóng quân, bắt tín đồ đi lính, còn phá chuông, tượng chùa để đúc binh khí tiền bạc, lôi sư sãi đi tòng quân. Cho nên từ chỗ nghĩ rằng Tây Sơn nổi loạn để khỏi bị bắt giẫm lên thập ác, eắt cỏ cho voi ăn, vì chúa Tây Sơn là một người đi đạo - ý nghĩ thật là ngây thơ giản dị - một người dân đã đi đến chỗ tưởng rằng "hắn ta mất đức tin, là kẻ thù của đạo Thiên Chúa lẫn đạo Thần tượng" 1.
Thực ra Tây Sơn cũng đã thu dụng được giáo sĩ: có 2 linh mục thuộc dòng Phăng-xi-cô, một người làm thầy thuốc, một người chỉ dẫn về toán học cho Nguyễn Nhạc đến gần giữa năm 1786 2. Nhưng Manille không phải là nơi đúng chiều hướng phát triển buôn bán, họ không thể có ích hơn 2 viên sứ giả của Nguyễn Ánh ở Gia Định năm 1783.
Trong trận chiến giành giựt giáo sĩ này, các L.M được thổi phồng khả năng và hoạt động thái quá đến có khi đem lại tai hại cho họ. Trường hợp của L.M Ferdinand là nhột chứng cớ. Nguyên L.M d’Arcet ở Quy Nhơn được Nhạc cấp một giấy phép cho tự do truyền giáo ở xứ này và để đổi lại ông đã hứa cuội với Nhạc là sẽ vận động giúp chiến cụ. Thế rồi L.M Ferdinand bị bắt ở Gia Định đưa về Quy Nhơn, không hiểu sao Nhạc lại nhận diện là d’Arcet - chắc là da trắng mắt xanh, râu ria xồm xoàm như nhau! Nhạc quát mắng rầm rĩ: "Kìa tên L.M phản bội... sau khi hứa đem đồng lại cho Ta, lại đi về nước rồi mang cho ông Chung đồng và các chiến cụ để phá xứ Ta. Hãy đóng gông nó lại cho Ta!" 3.
Thực là oan cho viên L.M này đã gánh chịu tức giận của Nhạc thấy binh sĩ mình chết vì lựu đạn, súng điểu thương gây ra, vì các giáo sĩ khác đã giúp Gia Định tích cực hơn. Sử quan ghi vắn tắt hai người: Gia-cô-vi và Ma-nộ-ê là dân Hi-ba-nho được lệnh sai đi Lữ tống xin binh giúp vào năm Quý Mùi (1783) 4. Chỉ sai có một chi tiết: Gia-cô-vi (tên thường dùng chỉ Jacques Liot) không có can dự vào vụ này. Hai người sứ của Nguyễn Ánh là L.M Ginestar và thầy giảng Emmanuel thuộc dòng Phăng-xi-cô.
Việc xảy ra ở Phú Quốc vào khoảng đầu tháng 7-1783. Nguyễn Ánh đến hỏi Bá-đa-lộc tìm cách giúp đỡ lấy lại nước. Giám mục quay lại hỏi các L.M Phăng-xi-cô ở đó xem thử Manille có thể giúp được gì không. Họ đều trả lời "không" vì Manille không có quân lính. Nhưng Ánh nói mãi, G.M mới quyết định gởi một người trong bọn đi Manille với một viên sứ giả để cầu viện hay ít ra cũng tìm được chỗ trú cho vua. Vừa lúc ấy L.M Ginestar và Thầy giảng Emmanuel muốn thừa dịp trở về Dòng nên nhận lời. Sứ bộ đi trên một chiếc ghe bầu chở đầy Calaim (cá lầm?) định để bán hay đổi lấy gạo.
Nhưng họ không thoát lưới Tây Sơn giăng. Họ bị bắt dẫn tới Phạm Công Trị (12-7-1783). Câu chuyện của P. Ginestar thuật lại cuộc gặp gỡ tra xét làm chúng ta chứng kiến được một cuộc đấu trí giữa những viên sứ giả sa cơ mà vẫn còn đủ khôn ngoan đối đáp vừa để tránh thoát tội mình, vừa trấn an kẻ địch khỏi hư việc vua và một bên những viên loạn tướng cũng đủ tư cách tướng soái để nhẹ nhàng khéo léo cật vấn kẻ thù cho biết tình hình đối phương.
Sau khi biết được mục đích đi sứ bại lộ nhờ tìm ra thư của Bá-đa-lộc giấu trong thuyền mà không bắt tội các L.M đã nói dối "chỉ trông thấy mặt vua đàng xa", Phạm Công Trị đem họ về Sài Gòn dùng làm đầu đề khuyến dụ giáo dân: "Ta không đòi hỏi các người đổi lại bằng tiền bạc gì hết mà chỉ để các người biết ơn Ta và giúp Ta lập lại bình yên trong xứ. Các người đã biết tại ai mà xứ sở lộn xộn rồi, nếu trong các làng các người có ai làm loạn, hãy chạy báo cho Ta biết..." 5.
Tuy nhiên như Phạm Công Trị đã tiếc, vụ bắt này làm thoát mất hai người quan trọng: ông Chủng và ông Cả. Ông Chủng thì đang do dự hết tính chuyện theo sứ bộ đi Manille lại toan chạy trở ra Phú Xuân nhưng sợ Trịnh không dung. Ông Cả thì đang tìm chỗ đặt 6 để đám tuỳ thuộc trong cơn biến loạn, nhưng Chantaboun rồi Bangkok vẫn không được lại phải lênh đênh trên các hải đảo.
Nhân vật này thực khá đặc biệt. Đức ông Pigneau (x), Pierre-Joseph-Georges Pigneau de Béhaine trong hiệp ước 1787, trong giấy chứng nhận là đại diện toàn quyền cho vua Pháp ở Cochinchine, Giám mục d’Adran, Bá-đa-lộc, Bi-nhu Quận công, đó là những tên được người ta gọi một giáo sĩ của hội Truyền giáo Ba-lê ở cái xứ xa xôi này, vị giáo sĩ muốn đóng vai một "Giám mục trong triều" của Nguyễn Ánh, người đã cố lẩn tránh khi người ta gán cho danh hiệu ấy và thực ra cũng không bao giờ có thể trở thành một Richelieu Đại Việt.
Cứ theo lời ông thì khoảng giữa tháng 12-1784, ông gặp Nguyễn Ánh trên hòn Thổ Châu và Ánh đã quyết định theo tàu Hoà Lan đi Batavia nếu không có ông cản kịp. Và trong khi trận Rạch Gầm chưa xảy ra thì ông đã ôm Hoàng từ Cảnh để cùng Phó Vệ uý Phạm Văn Nhân, Cai cơ Nguyễn Văn Liêm, Trần Văn Học với đám tuỳ tùng lênh đênh trên Ấn Độ Dương hướng về Pondichéry 7.
Đến bây giờ ông mới tỏ bày lập trường của ông. Ông muốn việc cứu viện Nam Hà phải về tay một cường quốc Công giáo, gạt ra ngoài bọn Thệ phản Hoà Lan, Anh. Ông muốn huấn luyện đứa bé ba tuổi trở thành một giáo dân kiểu mẫu để cho thần dân nó sau này sẽ bắt chước noi theo 8.
Tuy nhiên dù trước kia cố tình chối cãi, người ta đã đồn ầm lên từ cuối 1778 là Nguyễn Ánh sẽ đi Tây cầu viện với L.M Hồ Văn Nghị, một người thân tín của Giám mục 9, và khi qua Pháp vận động, Bá-đa-lộc đã đưa ra một tờ giấy uỷ nhiệm của Nội các Gia Định cho ông quyền hành vô hạn, lãnh ấn, hộ vệ Cảnh để xin viện binh Pháp; tờ giấy này làm ngày 10-7 Cảnh Hưng thứ 43 10 (18-8-1782) tức là khi Châu Văn Tiếp chưa lấy lại Gia Định trong tay Đỗ Nhàn Trập, Hộ bộ Bá. Ý định cầu viện Pháp quả đã định từ lâu.
Mất công trông coi một đứa bé lên ba, Bá-đa-lộc được giữ trong tay một món hàng quý giá mà các nước Tây phương đều thèm muốn. Anh quốc sai người đến tận Pondichéry năn nỉ ông nhường lại Hoàng tử cho họ. Tiếng tăm về việc cầu viện cũng lan tận Goa. Sự thật từ tháng 4-1780, viên Toàn quyền Bồ ở Macao, O Fran Savier de Castro, đã gởi thư xin Bá-đa-lộc bảo Nguyễn Ánh gởi thư cho thành Goa chịu thông thương với điều kiện thuận lợi. Đổi lại Macao sẽ đảm đương lấy việc cung cấp cho Nguyễn Ánh những sự trợ giúp cần thiết 11. Việc không đi tới đâu nhưng khi Bá-đa-lộc ở Pondichéry cũng thấy rõ Goa thèm muốn Hoàng từ Cảnh nên vội viết bức thư ngày 8-7-1785 cho Nghị viện Macao để "dân Bồ khỏi làm rối các Phái đoàn".
Trong lúc Bá-đa-lộc ở Pondichéry thì một viên cai tàu Macao, Albert de Souza, đi Manille đòi tiền vua Xiêm trở lại Bangkok và gặp Nguyễn Ánh ở đấy. Ánh trao cho người này thư gởi cho Toàn quyền Goa. Không biết nội dung thư nói gì nhưng Bá-đa-lộc cũng gượng nói rằng nếu người Bồ giúp binh thì công việc truyền giáo của ông vẫn thuận lợi như thường 12 (vì ông tin rằng đã nắm được Hoàng tử Cảnh).
Việc cầu Bồ không phải chỉ vắn tắt giữa chừng như Thực lục đã ghi. Antonio Vicenti Rossa ngày 2 tháng 9 Bính Ngọ (23-10-1786) đến Vọng Các dâng thư của Toàn quyền Goa báo cho Ánh biết đã có sẵn 56 tàu chiến (?!) chờ ở đấy. Biết Ánh trong tay Rama I, Antonio đút lót cho vua Xiêm 28 khẩu súng điểu thương, 100 thước vải Tây để xin rước Ánh đi Goa 13. Tuy rằng Ánh có nói rõ với Bá-đa-lộc, cũng như với De Richery rằng ông không "nỡ lòng nào theo đó bỏ đây nên phải uyển ngôn từ tạ", nhưng tại sao ta lại thấy Antonio đi về mang theo hai viên quan, trong đó có một người tôn thất với 15 lính hầu? 14 Nguyễn Ánh không theo Antonio được không phải vì không nỡ lòng bỏ Bá-đa-lộc, nhưng vì "Xiêm vương hằng ngày cho người do thám" khiến ông "khó nỗi liệu toan" vậy. Vậy tất Ánh không đi được đã sai người đi thay.
Ở Macao, người ta cũng hay biết nhưng điều kiện của một thoả ước giữa đại diện Ánh và Toàn quyền Goa. Bồ Đào Nha sẽ giúp Ánh khôi phục ngôi báu. Mỗi năm Ánh sẽ trả lại "vua xứ Goa" 10.000 đồng bạc và cũng chừng ấy cho "Hoàng thượng" (Bồ). Thiên Chúa giáo được tự do truyền bá và được nhà cầm quyền giúp cất nhà thờ bất cứ ở đâu cần tới. Tàu thuyền, tiền bạc ở Cochinchine một mặt in phù hiệu Nam Hà, một mặt in phù hiệu Bồ. Ánh sẽ nhường các cửa biển, cho đặt đại sứ... Chi tiết về điều khoản "cho người Bồ lấy người Việt" và về việc phân biệt "vua xứ Goa" và Hoàng đế Bồ làm cho thoả ước có vẻ như thực, nhưng những đòi hỏi đền bù quá quắt như "trả lại mãi mãi", "cất nhà thờ bất cứ ở đâu" làm ta thấy tiếng đồn đã quá sự thực. Việc không đi đến đâu vì như Pigneau đã nói một cách khinh bỉ: "Tôi biết Macao không có một tên quân" và các sứ giả Nguyễn Ánh hẳn thấy tận mắt thực lực của Macao.
Ở Pondichéry, Bá-đa-lộc không nghe lời Phạm Văn Nhân vì cho rằng "Hồng-mao nhỏ nhen, không như Bút-tu-kê nhu thuận, chẳng nên cầu" 15. Quả thực ông là người Pháp! Nhưng nước Pháp với ảnh hưởng của Voltaire, của nhóm Bách khoa, "quốc gia lạc đường", nước Pháp đó không làm ông tin cậy bao nhiêu 16. Cuối cùng, tuy vậy ông vẫn chọn nước Pháp, nước Pháp còn vua, và trước nhất ông vận động ở Pondichéry.
Toàn quyền Charpentier de Cossigny thế Coutenceau des Algrains tỏ ra muốn giúp hơn 17, nên gởi chiếc tàu Marquys de Castries do Riehery điều khiển đi Poulo Panjang (hòn Thổ Châu) để tìm thư Nguyễn Ánh, nhân tiện thả ở đây 34 người đi theo Bá-đa-lộc trước kia, trong đó các Hồ Văn Nghị và Trần Văn Học. Nghị báo tin cho Nguyễn Ánh hay và tàu hứa chở Nguyễn Ánh đi Pondichéry vào tháng 12-1786. Ánh rối rít viết thư cảm ơn De Richery, De Cossigny, từ tạ không đi được vì Xiêm vương canh gác gắt gao. Nhưng chẳng may cho Ánh, tàu De Castries có nhiệm vụ khác là dò xét bờ biển Nam Hà từ vĩ tuyến 11-18, coi dân tình có theo Nguyễn Ánh hay không, tìm cách hoạ đồ bờ bể, vũng tàu, xem xét Ánh có khả năng gì, tướng tá theo có đông không; nếu Ánh vô tài yếu ớt, thuộc hạ ít, thờ ơ thì về báo cáo mà không hứa gì hết 18. Sức mạnh Tây Sơn lúc này đang nổi lên như sóng cồn ở miền Bắc trách gì khi De Richery trở lại Thổ Châu trong tháng 2-1787 khăng khăng không chịu chở Nguyễn Ánh!
Tàu De Castries qua Đông thì Bá-đa-lộc cũng đáp tàu Malabar qua Pháp để vận động trực tiếp với Triều đình (7-1786). Theo ông vẫn là Hoàng tử Cảnh, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn Liêm với 40 người hầu khác.
Thực là một dịp để cho đám thượng lưu Versailles có đề tài ăn chơi: họ tung ra một kiểu tóc, bài thơ phổ nhạc tặng ông hoàng Đông phương bé tí xíu mà phải sớm lao đao 19.
Rốt lại ngày 28-11-1787, thoả ước Versailles ký kết, một bên là hầu tước Montmorin đại diện Louis XVI và một bên là Pigneau de Béhaine thay mặt Nguyễn Ánh. Các điều khoản phần lớn đã được vạch rõ trong tờ tuyên bố uỷ quyền của Nội các Gia Định ngày 18-8-1782, đại lược có những khoản như sau: Pháp hứa giúp Nguyễn Ánh 4 chiếc tàu, 1.200 bộ binh, 200 pháo binh, 250 mọi Cafres (điều 2). Đổi lại, Nguyễn Ánh nhường luôn hòn đảo Hoi-nan đứng trấn đường vào cửa Touron (cù lao Chàm?), nhường cửa Touron để cho Pháp vương tuỳ ý xây dựng và cuối cùng thêm hòn Poulo Condore (điều 3, 4, 5). Pháp được quyền tự do thương mại và hơn nữa, độc quyền thương mại ở Nam Hà. Những chiếc tàu buôn ngoại quốc nào vào Nam Hà phải có giấy thông hành của Pháp và mang cờ Pháp (điều 6).
Đính theo thoả ước, Bá-đa-lộc còn được Louis XVI uỷ nhiệm làm đại diện toàn quyền bên cạnh Nguyễn Ánh 20. Mọi việc liệu định xuất quân, viên Tổng trưởng Bộ Hải quân, tướng De Castries, trao toàn quyền cho De Conway ở Pondichéry lúc bấy giờ đang trông coi quân lực ở Ấn Độ 21.
Mọi việc thu xếp xong, Pigneau xuống tàu Dryade về nước, rời Lorient ngày 27-12-1787. Viên chỉ huy tàu De Kersaint được lời dặn bảo Louis XVI "gởi gấm Giám mục và cậu bé Hoàng tử", cho họ "những phương tiện thuận lợi và thoải mái trong quyền hạn chủ tàu", cho những người hầu Hoàng tử ăn cùng mâm với sĩ quan 22. Cách đãi khách thật là lịch sự và chu đáo như trong hơn thế kỷ ăn chơi vừa qua của giới thượng lưu Versailles, nhưng Bá-đa-lộc có bớt tin tưởng không khi cố nhìn vào tình hình Pháp lúc bấy giờ, khi nhớ rằng quyền điều động đang trong tay một người bướng bỉnh, ương ngạnh như truyền thống Ái Nhĩ Lan của ông ấy đã chứng tỏ?
Tuy nhiên tình hình Nam Hà được thông báo cho Pigneau biết thực đáng khuyến khích: anh em Tây Sơn bất hoà. Nhưng Pigneau tin tưởng chừng nào thì De Conway dè dặt chừng nấy. Ông bảo đợi chiếc tàu của De Richery về báo lại. Ông gởi thêm hai chiếc tàu La Dryade và Le Pandour để dò xét tình hình, tìm hiểu các cửa biển, các đảo nhượng địa... 23
Thế rồi từ việc quốc gia đại sự, người ta đi đến những công kích riêng tư. Bá-đa-lộc nóng nảy, ngọt ngạo khuyên nhủ De Conway "phải biết coi thường những lời bàn tán giấu dưới cái gọi là thận trọng, kỳ thực chỉ che đậy yếu hèn" để De Conway nổi cáu trả miếng rằng ông "lấy làm kinh ngạc thấy một giáo sĩ đáng kính lại chê là yếu hèn những người mà ông không bổ nhiệm và ông cần phải tìm hiểu nữa". Bá-đa-lộc lại viết thư cho De Montmorin báo cáo về thái độ của De Conway "yếu kém sức lực và tinh thần, không phải chỉ không sửa soạn gì hết mà còn tìm đủ cách cho cuộc xuất quân thêm khó khăn" 24. Mới có một tháng sau ngày Bá-đa-lộc đến Pondichéry mà xảy từng ấy chuyện, tình trạng đổ vỡ thấy rõ ràng.
Việc Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định, sai Hồ Văn Nghị đem tin báo xin viện binh cấp tốc tới cũng không làm cho De Conway thay đổi ý kiến: thoả ước Versailles chỉ là nhột trò đùa.
Việc không thi hành thoả ước làm cho các sử gia Pháp yêu nước sau này thấy mất một cơ hội chiếm thuộc địa Đông Dương sớm hơn gần một thế kỷ, nên nổi nóng gọi nhà cầm quyền lúc bấy giờ là "phản bội, lừa dối, phỉnh gạt" 25. John Barrow vài năm sau cũng tìm cách giải thích sự thất bại này của Pigneau và tìm ra nguyên nhân ở câu chuyện một người đàn bà. Viên tu sĩ Pigneau nhận quả có ghét một người đàn bà vợ viên phụ tá của De Conway đã lang chạ với chủ tướng, nhưng bà ta cũng mang tinh thần chống đối 1789 để nhạo báng De Conway phải chịu quyền chỉ huy của một Giám mục trong "đạo quân của Giáo hoàng" 26.
Nhưng duyên cớ chính phải tìm trong tình hình lụn bại của Pháp lúc bấy giờ. Thời gian Pigneau qua Pháp là lúc nội tình Pháp rối ren 27. Một mặt chính quyền thấy cần phải cải cách, một mặt phải chịu đựng phản ứng của những kẻ vẫn được hưởng đặc quyền nay bị truất đi: cuộc nổi loạn của đám quý tộc dòng dõi nổ tung ngày 20-8-1786, cuộc hội họp của Hội nghị quý tộc (tháng 3, 4-1787). Tài chính kiệt quệ tới nỗi mười ngày trước khi ký thoả ước Versailles Triều đình trù liệu vay 420 triệu đồng livres. Thêm nữa, trước đó hơn một tháng (tháng 9, 10-1787) một đạo quân Phổ đã tràn vào chiếm đóng Cộng hoà Batave đánh đổ đảng thân Pháp làm cho Pháp mất đồng minh trên mặt biển là yếu tố cần để giữ thuộc địa.
Cho nên, để Bá-đa-lộc đi rồi, viên Trưởng văn phòng bộ Thuộc địa mới bảo "do lệnh Vua", cho De Conway hay rằng "không tính tới chuyện viễn chinh Đông Dương" 28. Việc đó đến báo chí đồng thời ở Pondichéry cũng biết 29. Bá-đa-lộc có biết không? Không rõ điều đó, chỉ thấy lúc về ông nói lại với Nguyễn Ánh là "Quốc vương Đại Tây có tình thực giúp đỡ trong khi trấn quan hồ nghi chẳng quyết" 30.
Nhưng như nhận xét của tờ Gazette nationale "không bao giờ tình hình dễ dàng cho việc lập lại quyền bính cho ông vua mất ngôi đã trở về chiếm năm tỉnh phía nam như bây giờ". Thực vậy, tuy Nguyễn Ánh còn phập phồng lo sợ, nhưng cũng đã có thể để lấy danh nghĩa "An Nam Quốc vương" nói với Đại Tây quốc bằng một chút kiêu hãnh ngầm về cái ý tưởng thăng trầm quen thuộc của Đông phương: "Nghe rằng đạo trời bỉ rồi lại thái, vận nước tán rồi lại hưng, lý đã có thực vậy, thời nào lại không...!"
Tiết 11
NGUYỄN ÁNH VÀ TÂY SƠN CỦA GIA ĐỊNH
Tổ chức giữ Gia Định của Tây Sơn * Nguyễn Ánh và Phạm Văn Sâm * Tiếp viện của Nguyễn Huệ * Gia Định thoát khỏi tay Tây Sơn * Tổ chức cai trị, phát triển buổi đầu ở Gia Định.
Phê bình cuộc tranh chiếm ở Quy Nhơn của Nhạc và Huệ, sử quan nhà Nguyễn rút ra một kết luận chỉ rõ sự quan trọng của sự việc này như là nguyên nhân mở đầu cho thời trung hưng của Chúa họ: "Từ đấy giặc lo gườm nhau, thế giặc tan rã không rảnh để dòm ngó phương Nam nữa" 31. Chúng ta đã phân tích tình thế đó rồi. Tuy nhiên chúng ta phải xét xem Tây Sơn trong hai năm rưỡi chiếm đóng Gia Định đã làm gì để củng cố thế lực họ ở đây, để xoá nhoà dấu vết ông chúa cũ, để lôi kéo dân chúng về phía họ.
Dấu vết công việc còn lại thật là ít ỏi, nhưng cũng cho thấy tình trạng lúng túng, thụ động của họ. Chúng ta đã biết người giữ Gia Định sau trận Mang Thít là Đặng Văn Chân. Ông lo đề phòng biến cố có thể xảy ra do bọn di thần nhà Nguyễn lẩn lút trong dân gian, nên dời dinh trại lên trên vùng đất cao ở Cầu Sơn 32 cách phía bắc trấn 7 dặm để dễ bề chống giữ. Trong năm 1786, ông đắp dinh trại trên gò cao, còn dưới thấp thì xây cất phố xá, lùa các nhà buôn Sài Gòn vào ở đó. Nhưng công việc cưỡng ép này không đi đến kết quả nào như ta đoán biết, một phần vì nơi mới xa chỗ buôn bán quen thuộc cũ, một phần vì đầu năm sau (1787), Đặng Văn Chân đã phải ra cứu Nguyễn Nhạc, bỏ dở công việc 33.
Ở Gia Định bấy giờ còn lại Tham đốc Trần Tú coi sóc công việc. Oai võ đã hạ, binh thế đã yếu thì loạn lạc nổi lên: Lê Công Trấn, Phạm Điền mưu đánh úp Bến Nghé bị lộ phải chết, trong khi xa hơn, ở Biên Hoà quân khởi nghĩa của Nguyễn Văn Tuyết, Nguyễn Văn Nghĩa kéo dài tới ngày Nguyễn Ánh về 34. Ngoài ra còn phải kể tới Võ Tánh ở Gò Công mà lực lượng lan đến tận Kiến Hoà nhưng không hẳn với danh nghĩa phò Nguyễn.
Xung quanh trấn mà Tây Sơn không giữ được nói gì ở những nơi xa trong một xứ còn đầy rừng rậm, hoang vu với kênh rạch bùn lầy. Đám người Miên trong thời kỳ này tất được hưởng sự tự trị rộng rãi để sau này, trước sự đe doạ của quân Nguyễn Ánh, họ sẽ quay lại giúp Phạm Văn Sâm, người phụ tá cho Đông Định vương Nguyễn Lữ khi anh em chia đất. Nguy hơn cho Tây Sơn chính là sự trở lòng của binh tướng dưới quyền.
Tình hình đó được Giám quân Tống Phúc Đạm, Thị giảng Nguyễn Đô, Cai cơ Tống Phúc Ngọc, Cai bạ Nguyễn Thiệm tới Long Khâu (Vọng Các, địa điểm của làng Gia Long) trình bày cho Nguyễn Ánh rõ và xin Ánh trở về. Việc ra đi không dễ dàng gì vì như ta biết, Xiêm vương sai canh gác gắt gao. Ánh ở Xiêm, thuộc hạ có một số quân tướng theo hồi đầu 1785 và 600 người của Lê Văn Quân sau đó chia nhau lập đồn điền để tự cung cấp, đóng thuyền bè ở Giang Khảm để chờ cơ hội. Tất cả kéo nhau đi không thể làm lặng lẽ được.
Cho nên, lén về nửa đêm, để lại một số lớn quân sĩ ở Xiêm 35 Nguyễn Ánh tất đã nhìn vào tình hình chín muồi ở Gia Định, được khuyến khích bằng sự bội phản của Nguyễn Đăng Vân. Người này biết đâu không làm môi giới cho Nguyễn Văn Trương quay về hợp tác? Nếu không có thông đồng sẵn thì sao Trương lại sai bộ tướng Hoàng Văn Điểm đi đón từ ngoài biển rồi tự mình dem hơn 300 binh và hơn 15 chiến thuyền ra hàng? Như vậy là với 300 khẩu súng điểu thương do Mạc Tử Sanh đưa về đến Hòn Tre, tiếp thu bọn cướp biển Hà Hỉ Văn cùng bộ tướng Thiên Địa hội của ông ta 36, Nguyễn Ánh tiếp thu được vùng Hậu Giang chỉ tốn có trận đánh luỹ Trà Ôn do viên Tiên phong Chưởng cơ mới là Nguyễn Văn Trương điều khiển thôi.
Được chiến thắng dễ dàng khuyến khích, Ánh đưa binh vào cửa Cần Giờ trong tháng 9 âm lịch (1787) gây khích động dân tâm. Nguyễn Lữ lật đật bỏ chạy về gò Mụ Lượng (hay gò Vãi Lượng) 37 xây thành đất trú ẩn để Phạm Văn Sâm chống giữ Sài Gòn. Viên Thái bảo này kháng cự mạnh tới nỗi Nguyễn Ánh phải dụng mưu phản gián.
Nguyên quân Nguyễn có bắt được một chiến thuyền Tây Sơn chở viên Hộ đốc tên Lý và người thiếp tên Thị Lộc. Ánh không giết lại hậu đãi rồi giả mật thư của Nguyễn Nhạc nói Sâm kiêu hoành, sai Lữ dùng mưu giết đi. Thị Lộc được lệnh cầm thư đưa Sâm. Sâm tưởng thật vội kéo cờ trắng lên gò Lượng định phân trần. Không ngờ Lữ lại tưởng Sâm đã hàng Nguyễn Ánh bèn vội vã bỏ đồn chạy về Quy Nhơn chết ở đấy, chấm dứt cuộc đời đáng thương, lạc loài, bất đắc dĩ của con người dung thường giữa đám anh em vượt chúng, quấy đảo thời thế.
Phạm Văn Sâm từ nay đơn độc ở Sài Gòn lo việc chống cự. Quân Nguyễn tưởng có thể lấn bước không ngờ bị đánh mạnh phải mở vây. Sử quan nhà Nguyễn ghi trận thua này như là tự ý phe họ rút đi nhưng rõ ràng là Phạm Văn Sâm đã thắng thế.
Trên đường rút về phía cồn Hổ 38 quân Nguyễn đã thanh toán những chướng ngại dọc đường. Ở sông Ba Vác, Điều phát Nguyễn Kế Nhuận của Tây Sơn phải ra hàng. Ở Ba Lai, Ngự uý Tây Sơn là Nguyễn Văn Đồn dàn thuyền trên mặt sông cản lại, Lê Văn Quân lẻn vào bên trong đốt lửa làm hiệu cho Hồ Văn Lân, Nguyễn Văn Trị, Trương Phúc Giáo, Nguyễn Văn Tồn phục bên ngoài biết mà ập vào hai mặt giáp công đánh phá 39. Tưởng có thể chuyển bại thành thắng, quân Ánh lại tiến đánh Mỹ Tho, gặp phải Phạm Văn Sâm đuổi vừa đến. Hai bên đánh nhau thật dữ dội vì đối thủ của Sâm là một kiện tướng cũ của Tây Sơn: Nguyễn Đăng Vân, con nuôi Nguyễn Huệ. Vân bị bắt, không hàng, mắng chửi rồi chịu chết. Nguyễn Ánh phải bỏ chạy ra cù lao Hổ, còn có 300 người và hơn 20 thuyền, còn Hà Hỉ Văn và bộ tướng thì lanh chân chạy tuốt ra Côn Lôn ở lì đó.
Tuy nhiên mặt trận mở rộng, Phạm Văn Sâm phải đương đầu với một tình thế nguy nan. Thuộc tướng Nguyễn bây giờ có mặt khắp nơi. Tháng 10, Hồ Văn Lân đánh ở sông Lương Phú đuổi Đô đốc Nguyễn Văn Mân về giữ Thang Trông 40 bỏ lại Chưởng cơ Chân, Tả hiệu Huấn trở thành Tiền phong cho quân Nguyễn. Nguyễn Văn Trương, Đỗ Văn Hựu ghi thêm một chiến công bằng cách đánh tập hậu ở sông Mỹ Lung đuổi Chưởng cơ Từ, thu thêm bộ tốt của Từ cùng vài mươi thuyền. Phạm Văn Sâm, Nguyễn Ánh bây giờ lại đối đầu, kẻ ở Ba Lai, người ở Mỹ Lung.
Quân Nguyễn phát triển lần lần. Sâm về sông Mỹ Tho rồi lại về Sài Gòn trong khi Tôn Thất Hội chiếm Ba Giồng, Hoàng Văn Khánh, Trương Phú Ngan, Nguyễn Văn Trương, Tô Văn Đoái đắp luỹ ở Nước Xoáy 41 dùng trái cau khô làm đạn bắn qua luỹ Tây Sơn bắt họ phải lui. Cho đến đầu năm Mậu Thân (1788), trừ việc Cai cơ Hà Văn Lục giữ giồng Sao bị Tây Sơn giết ở giồng Gầm, quân Nguyễn chia nhau chiếm giữ vùng Trà Lọt, giồng Triệu 42, giồng Sao, thu hẹp phạm vi hoạt động của Tây Sơn trong vùng Sài Gòn, Mỹ Tho. Dinh Trấn Biên cũng lọt vào tay Lưu thủ Khoa khiến cho Phạm Văn Sâm chỉ còn dựa vào thuỷ quân 43 bảo vệ cho một số địa điểm bám víu trong đồng. Nguyễn Ánh có thể tự phụ để viết thư khoe với J. Liot rằng: "Từ Ta đề binh phá Tây đồ, thì bộ binh thâu phục Gia Định phủ các xứ, còn thuỷ binh nó thì trụ tại Mỹ Tho cùng Bến Nghé, thắng phụ vị phân, thuỷ binh Ta thì ắt còn trụ tại Trà Lọt..." 44.
Tình cảnh nguy ngập cho Sâm như vậy mà tin tức Quy Nhơn vẫn im lìm. Nguyễn Nhạc không có phản ứng gì hết từ khi Nguyễn Lữ bỏ chạy về. Các giáo sĩ đương thời giải thích thái độ ấy, cho rằng: "Nhạc không dám đến đánh Nguyễn Ánh là vì sợ lúc vắng mặt, em ông có thể đến chiếm lấy kho tàng mà ông giấu ở ngôi thành độc nhất này" 45. Sự thực cả hai Nhạc và Huệ đều gườm nhau, giữ thế từng tí một, Huệ muốn đánh Nguyễn Hữu Chỉnh cũng không dám rời Phú Xuân, lại trao quyền cho Vũ Văn Nhậm mà bụng cứ phập phồng sợ viên Tiết chế này làm phản.
Tuy nhiên cả vùng Thuận, Quảng, Bố Chính, dân chúng đã lao xao về việc Nguyễn Ánh quay về Gia Định. Nguyễn Huệ tất phải lo ngại. Theo lời Nguyễn Ánh thì khoảng đầu năm Mậu Thân (1788), Tây Sơn - ta biết là Nguyễn Huệ đã gởi "Thằng Hưng" đem đại binh vào cứu "Thằng Sâm" ở Sài Gòn khoảng tháng 3 âm lịch trước khi họ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm. Số lượng quân đội này, Thực lục ghi 30 thuyền, Letondal tăng đến 3-400 thuyền và cho rằng mục đích chỉ đi lấy lương Gia Định cho mau rồi về thôi. Nguyễn Ánh cũng đề quyết với quân sĩ của mình như vậy và cho rằng Phạm Văn Hưng chỉ vào vận lương, cứ cố thủ đi vài tháng hắn ta sẽ lui về.
Nhưng lẽ nào quân Hưng vượt biển vào chỉ độc có việc lấy lương ở một nơi nguy nan như vậy khi Nguyễn Lữ đã chạy về từ tháng 9 năm ngoái? Có thể Ánh chỉ nói để trấn an quân sĩ. Việc Nguyễn Huệ giết Nhậm rồi vội vã về Thuận Hoá đợi tin Hưng chứng tỏ nhiệm vụ dò xét, giúp đỡ nếu có thể - của toán thuỷ binh này ở Gia Định.
Dù thế nào đi nữa, quân Thái uý Phạm Văn Hưng cũng đã hợp với Phạm Văn Sâm đánh nhau kịch liệt với quân Nguyễn dằng dai hàng nhiều tháng để ở Phú Xuân Nguyễn Huệ phải bồn chồn lo ngại 46. Nguyễn Ánh lúc đó cũng vừa thâu phục một tướng tài: Võ Tánh từ Gò Công, làm tăng quân số Nguyễn lên hàng vạn người. Điều đó cho Ánh tin tưởng để nói với J. Liot rằng: "Nội tháng sáu Ta cũng đánh được Sài Gòn mà chớ!"
Thực vậy, trong tháng tư, Nguyễn Ánh từ Sa Đéc sai Tôn Thất Huy, Lê Văn Quân đánh luỹ Trấn Định 47, dụ Cai cơ Tây Sơn là Viên mở cửa đầu hàng, bắt được Chưởng cơ Diệu. Thừa thắng họ tiến đến Thang Trông đánh bắt Đô đốc Nguyễn Văn Mân. Như vậy Tây Sơn đã mất căn cứ Mỹ Tho. Quân sĩ của họ chạy tán loạn vào trong dân gian gây ra một mối đe doạ an ninh cho thôn xóm, cho tất cả đất Gia Định một khi Nguyễn Ánh lấy được. Cho nên một mặt ông lấy lòng dân chúng bằng cách ra quân lệnh cấm binh sĩ sách nhiễu tiền bạc, vợ con dân gian, để từ đó dùng lợi lộc dụ họ đối đãi tốt với quân sĩ Tây Sơn, lôi kéo đám binh này về phe mình: ai mà nuôi một binh lính Tây Sơn bỏ chạy về làng thì được miễn binh dịch một nửa, hai người thì được miễn hết, ba người trở lên thì được thưởng. Mặt khác, ông dụ binh Thuận Hoá bằng cách kêu gọi tinh thần địa phương của họ, nhắc nhở đến mối liên lạc xứ sở của họ với dòng cựu Nguyễn xưa kia để họ an tâm phò tá, gợi lòng nhớ quê, xa xứ của họ để họ ra hàng tòng quân theo về đất cũ.
Tây Sơn càng bị siết chặt: ở Đồng Nai, họ bị Nguyễn Văn Nghĩa phá tan. Ở luỹ Ngũ Kiều, Đốc chiến Tây Sơn Lê Văn Minh bị Tôn Thất Hội vây chặt rồi lại phải thua trận hoả công do thuỷ binh Nguyễn Ánh từ Ba Giồng tiến lên. Thế là trận vây Sài Gòn bắt đầu.
Nguyễn Ánh đóng binh ở rạch Thị Nghè 48 trong khi Phạm Văn Sâm dàn binh từ chợ Điều Khiển đến chợ Khung Dung chống cự. Ánh sai Võ Tánh đi vòng phía nam đồng Tập Trận thẳng tới Bến Nghé để chận đường lui quân. Hai bên giáp công, Sâm không địch nổi phải bỏ chạy. Quân Ánh ca khúc khải hoàn vào Sài Gòn ngày Đinh Dậu tháng 8 Mậu Thân (7-9-1788).
Phạm Văn Sâm ra cửa Cần Giờ không được vì Lê Văn Quân đã chận ở đó rồi bèn về Hàm Luông rồi về Ba Thắc binh hai bên bờ sông đắp luỹ cự chiến. Ông còn dựa vào đám binh Miên nổi loạn ở Trà Vinh, Mang Thít để làm thế nương tựa chống đánh. Nhưng Nguyễn Ánh đến, Miên binh hàng phục. Việc binh ở đây giao cho Tôn Thất Hội quản lãnh Vĩnh Trấn trông chừng Sâm không cho thoát ra các cửa biển về được Quy Nhơn. Sâm ở đây cố thủ từ tháng 9 đến tháng giêng năm sau (Kỷ Dậu 1789) không hi vọng gì ở cứu binh cả vì Nguyễn Nhạc thì lặng yên còn Nguyễn Huệ thì bận chiến tranh với quân Thanh. Ẩn hết mùa gió bấc, đầu năm Kỷ Hợi, Sâm muốn đem quân ra biển chạy thì bị phá ở cù lao Hổ. Đến lúc này Ánh cũng muốn thanh toán xong Ba Thắc, "Nhứt chiến cho tuyệt hậu ưu" 49. Các danh tướng của Ánh đều có mặt nơi đây: Lê Văn Quân, Võ Tánh, Tôn Thất Hội, Nguyễn Văn Trương. Ở cù lao Hổ họ giết được Đô đốc Nguyễn Hùng, nhưng đổi lại Cai cơ Nguyễn Văn Mai và Đỗ Văn Hựu bị súng bắn chết. Ở Ba Thắc Nguyễn Ánh nhờ một viên tướng cũ tên Thanh Hàm hàng Tây Sơn nay phản lại nên đuổi được Sâm chạy về sông Cổ Cò 50. Còn một toán binh cuối cùng ở cửa Mỹ Thanh lên tiếp cứu dưới quyền Tham đốc Trần Hiếu Liêm, Chỉ huy Nguyễn Chuẩn thì bị phá tan. Chuẩn chết, Liêm hàng, Sâm thế cùng lực kiệt cùng với bộ tướng đem thuyền bè khí giới mang gông ra phủ phục hàng kẻ chiến thắng 51.
Thế là sau hơn một năm trời lao khổ, Nguyễn Ánh đã quét sạch Tây Sơn để làm chủ Gia Định. Trong khi hiệp ước Versailles chỉ còn có giá trị của một tờ giấy lộn thì Nguyễn Ánh vẫn nghĩ rằng viện binh sắp về để tăng tiến thực lực của ông. Kinh nghiệm những ngày chiến bại cũ làm ông quá lo lắng. Nhưng bọn tuỳ tướng của ông như Nguyễn Văn Thành thấy cái hại của việc cầu viện người ngoại quốc nên từ độ còn ở Xiêm đã khuyên ông không nên trông chờ gì ở ngoài.
Việc Nguyễn Ánh về Gia Định thắng ở đây trong khi nước Pháp không đủ sức gởi viện binh đã là một sự kiện quan trọng.
Như nhận xét của L.M Castuera "dù là người Pháp không tới nữa thì cũng gần như chắc chắn là trên bộ hay dưới nước gì người Tây Sơn cũng không thắng được Vua, vì hai anh em họ bất hoà nhau và vì cuộc chiến mà một người em phải chống với Tàu". Quyền đã về tay Nguyễn Ánh ông phải tổ chức Gia Định như một người chủ, biến đám đánh mướn dưới quyền Bá-đa-lộc thành bộ hạ tay chân, đưa kỹ thuật mới vào trong nước cần thiết cho chiến thắng mà không có địa vị uy danh gì để làm đảo lộn trật tự trong nước. Ý thức hệ cũ vẫn làm nền tảng cho tổ chức xã hội đương thời. Dù Nguyễn Huệ, dù Nguyễn Ánh không ai có thể làm khác hơn được.
Từ khi về, mỗi lần lấy một nơi chắc chắn là Nguyễn Ánh lo tổ chức cai trị. Đất Hà Tiên bị tàn phá vì vốn là một đầu mối gây bất hoà với Xiêm nên Nguyễn Ánh phó cho Mạc Tử Sanh, người vẫn tỏ lòng trung thành với vị chúa của cha mình nhưng lại được Phật vương nuôi dưỡng, kẻ trung gian rất tốt trong tình giao hảo Xiêm - Việt. Sanh chết, Ánh dùng một người Xiêm là Ngô-ma cho làm Cai cơ trông coi trấn đó (hay là chấp nhận trấn thủ của vua Xiêm đề cử?) Vĩnh Trấn dinh yên ổn hơn nên được đặt công đường cho Phạm Văn Thận làm Ký lục giữ.
Nhưng chiến tranh tiếp diễn thì ta thấy các tướng quân lãnh trông coi luôn việc hành chính. Cho nên vừa đánh được Mỹ Tho lập công đường dinh Trấn Định thì giữ việc dân, binh là các tướng Tôn Thất Huy, Tống Phúc Đạm, Phạm Văn Sĩ. Việc đó chỉ là tạm bợ. Ở Sài Gòn, Nguyễn Ánh lựa các viên Tham mưu quân đội chuyển qua các bộ Lại, Hộ, Hình để lập một triều đình. Việc khá quan trọng là ông đã thu phục đám nhân sĩ do Võ Trường Toàn đào tạo hay ảnh hưởng gồm cả người Việt, người Minh Hương, để giúp việc từ lệnh buổi đầu: Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, Ngô Tòng Chu, Hoàng Minh Khánh... Noi theo tiết tháo của thầy, hành đạo ẩn dật trong thời loạn, nay ra giúp việc, giúp đời, họ sẽ có đủ khả năng và cứng rắn, tự tin để bênh vực đạo Thánh. Họ sẽ họp thành một khối vững vàng để bảo vệ ý thức hệ Khổng giáo chống mọi xâm nhập khác.
Về việc cai trị ở đây, Nguyễn Ánh cũng gặp khó khăn gây ra vì nhóm người Miên. Thực ra Miên binh dưới quyềncủa Nguyễn Văn Tồn ở Trà Vinh 52 cũng giúp Nguyễn Ánh rất nhiều trong việc đánh Phạm Văn Sâm. Nhưng họ bất thường nay đầu mai đánh thật khó mà liệu định. Tướng Ốc nha Ốc theo Phạm Văn Sâm bị đánh đuổi chạy về Cần Thơ gặp Nguyễn Văn Phong bắt giết. Lê Văn Quân và Võ Tánh giữ Ba Thắc cũng không yên. Nguyễn Ánh đành phải đặt kế hoạch cho tự trị: ông đòi hai tướng về rồi cho viên quan Miên về đầu là Gia-tri-giáp trông coi xứ ấy, phủ Trà Vinh thì giao cho Ốc-nha Chích cai trị.
Tính cách phức tạp về chủng tộc, về quê quán làm cho việc kiểm tra dân số cũng thêm phần phiền nhiễu. Việc kiểm tra lại cần có để giữ an ninh, để định binh số mà bắt lính, thu thuế. Trước nhứt người ta kiểm điểm lập danh tính những người tòng quân: quan quân các chi, hiệu, đội, thuyền cứ bằng vào tên tuổi, chức sắc mà đưa về quê quán làm sổ sách. Về phía các tổng xã thôn phường đều phải ghi vào sổ những người ở ngụ, ẩn lậu cùng với lính Tây Sơn trốn về. Đám người không tư sản thì được ghép vào hạng cùng cố, miễn nạp các thức cần cho binh vụ nhưng vẫn phải làm xâu như mọi người. Để đẩy mạnh việc kiểm tra dân lậu, từ tháng 5 nhuần Kỷ Dậu (1789), Nguyễn Ánh lại cho phép thưởng người tố cáo: dân tố cáo thì được miễn một năm xâu, lính thì được thâu nơi ấp trưởng, người chứa chấp 40 quan tiền. Về mặt xã hội, các loại phù thuỷ, đổ bác, đồng bóng, hát xướng đều bị cấm chỉ.
Tất cả những biện pháp khắc khổ đó đều để nhằm vào việc tổ chức một quân đội mạnh đủ để giữ vững Gia Định. Việc tuyển binh cho ta thấy rõ sự cần kíp đó. Từ tháng 10 Mậu Thân (1788), sau khi vào Sài Gòn, Nguyễn Ánh buộc dinh Phiên Trấn tiên khởi trong việc bắt tráng đinh, cứ hai người lấy một lập thành phủ binh, chia đội ngũ ra chỉnh bị đánh giữ. Quân được hưởng ưu đãi nhất là quân bảo vệ Nguyễn Ánh. Theo lệ mỗi tháng họ được cấp một vuông gạo, 1 quan tiền, áo quần hai thứ, lại được cấp riêng cho một người dân có tên trong sổ bộ để sử dụng. Nhưng rõ ràng là không phải ai cũng được hưởng ưu đãi đó nên lính trốn thật nhiều đến nỗi quan phải ra lệnh cho dân, quân ai bắt được thì thưởng tiền, miễn xâu.
Những hoạt động binh vụ phải tựa trên một nền kinh tế dồi dào mới có cơ trường cửu được. Ánh lại có kinh nghiệm cũ về những chuyến thương thuyền Trung Hoa đem lái thịnh vượng cho đất này nên mở mang ngay một chính sách mời mọc và kiểm soát các thuyền buôn. Theo bảng thuế lệ liệt kê ra, ta thấy đến cập bến có các tàu Hải Nam (chịu thuế nhẹ nhất: 600 quan, ngoài lễ lạc khá nhiều), Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông, Thượng Hải (cả hai chịu thuế nặng nhất: 3.300 quan). Quan quân chú ý những vật có liên quan đến binh dụng như đồ đồng, chì, diêm tiêu, lưu hoàng, không cho buôn bán riêng tư các loại này. Các sản vật trong nước cũng không được trộm chở đi. Ai thông đồng mua bán riêng tư với nhau thì bị đánh 100 roi cấp làm dịch phu 3 năm, tịch thu tài sản. Nói tóm lại đó là một chính sách kiểm soát khắt khe làm sao quân đội được sử dụng tài lực trong nước đến mức tối đa.
Không ngồi đó để trông chờ tàu buôn đến bán binh khí, Nguyễn Ánh sai các người trong nội viện đi Châu Thái 53 mua súng lớn, đạn dược, lưu hoàng, diêm tiêu... Ông viết thư cho J. Liot bảo ông này mời gọi tàu Tây tới bán binh khí khỏi chịu thuế 54.
Việc phòng thủ cũng được tổ chức chu đáo, nhất là về phía biển, nơi đột nhập của địch quân: các phong hoả đài được dựng lên ở Cần Giờ, Đồng Tranh, Vũng Tàu. Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành lo đi tuần tiễu các cửa biển. Thành Cá Trê, Vàm Cỏ được xây lại. Lê Văn Quân được phái đi đóng giữ Bà Rịa. Cuộc tổ chức mới ở năm đầu mà cũng có vẻ vững chắc lắm 55.
Tiết 12
TIẾP VIỆN CỦA BÁ-ĐA-LỘC
"Je ferai seul la révolution" * Các tay phiêu lưu Tây phương ở Việt Nam: vai trò, địa vị và ảnh hưởng của họ.
Phút đâu tàu đã chạy lên,
Buồm trương gió du [?] hai bên kéo lèo.
Tới nơi Bến Nghé gieo neo,
Dưới trên buồm cuốn xả lèo răng răng.
Đùng đùng súng bắn liên thanh
Chiêng cồng mừng rỡ vang râng dầy dầy.
Hai bên tứ diện đông tây,
Dưới trên thiên hạ dầy dầy đều coi.
Mừng tàu rày đã tới nơi,
Mừng Thầy lại với Con người đã sang 56.
Đó là những lời thuật chuyện đón rước Bá-đa-lộc và Hoàng tử Cảnh của một tác giả vô danh nào đó. Cả hai cùng đoàn tuỳ tùng và 4 giáo sĩ bước lên chiếc tàu La Méduse quá giang về. Ngày 28-7-1789 họ cập bến Vũng Tàu, ở đó đã có Tôn Thất Hội đón rước 57. viên thuyền trưởng, Hầu tước De Rosily Meros cho bắn 15 phát súng, cho De Béhin và vài sĩ quan đưa lên. Luôn thể ông cũng tỏ một cử chỉ bặt thiệp: "Tôi tưởng có bổn phận phải thêrn vào cho sứ bộ nhỏ bé này 2.000 cân thuốc súng để cho cậu Hoàng tử không có dáng trở về với hai bàn tay không và để làm vui lòng Giám mục đã tỏ vẻ ước muốn chúng lắm" 58.
Hai chứng nhân ở hai địa vị có hai lối nhìn riêng về cuộc đón rước. Nhưng tất cả đều là sự thực bởi vì chúng lộ cho ta thấy nhưng khía cạnh khác nhau của sự thực. Sự thực là một bên ở phía Gia Định, ngoài tấm lòng của một người cha "quan sơn vạn lý hoài niệm", nay hân hoan thấy mặt con, còn có những người dân lính, quan vua mừng rỡ được thấy bạn bè tiếp sức, đem từ phương xa lại sự tin tưởng thắng lợi ở ngày mai. Sự thực là đám người trở về đó có lúc cũng đã tin tưởng như đám người đón rước họ bây giờ, mà rốt lại lúc này chỉ là "một sứ bộ nhỏ bé", đi không lại trở về không.
Nhưng sự việc đã ném tung ra rồi thì nó sẽ mắc nối để lôi cuốn các sự việc khác xảy ra tiếp. Cảnh đi cầu viện, các nước Tây phương đều biết. Duy họ không can thiệp được vì chính họ đang phải lo gỡ rối cho họ, gỡ mối bòng bong mà chính nền văn minh họ đã tạo ra.
Chính phủ đã không giúp ích gì được thì các tư nhân phân tích tình hình theo lối nhìn riêng của họ đã bày tỏ sự tán đồng can thiệp. "Người Pháp không can thiệp vào Nanh Hà thì thiếu dịp khác để thành lập một cơ sở vững chắc và quý giá trên một xứ sở sẽ đem lại cho quốc gia một nền thương mại độc quyền hơn 20 triệu đồng và đặc biệt là việc giao thương với Trung Hoa mà khỏi cần qua Quảng Châu" 59. Chính khi những dư luận đó trở thành những đề nghị cụ thể thì Bá-đa-lộc mới có thể giận dỗi De Conway để nói thẳng vào mặt ông này là "Một mình tôi cũng đủ làm nên việc đảo lộn".
Trong chuyến từ Pháp về, Bá-đa-lộc ghé Ile de France viết thư cho De Montmorin: "Ở đảo này, tôi đã thấy các nhà cầm quyền sẵn sàng nhận lãnh quan điểm của Triều đình. Tất cả những gì có liên quan đến cuộc viễn chinh ở Cochinchine đều phải tiên liệu từ chỗ này và đã xong rồi" 60. Thực vậy, Bá-đa-lộc tiếp tục đường về thì trong cuộc hội nghị ở Port Louis ngày 3-9-1788, các nhà cầm quyền ở các đảo Ile de France, Bourbon đã ra tuyên ngôn xin tự do giao thương với Cochinchine. Thế rồi trong một tờ trình gởi cho Quốc hội Pháp ngày 2-12-1790, dân chúng (?) các đảo đã nói: "Ở đây có những tay tình nguyện, những bọn Cafres, tàu bè khí giới cho cuộc viễn chinh đó. Nhiều nhà buôn yêu nước của thuộc địa này đã dâng cho Giám mục d’Adran tài nguyên của họ để giúp ông thi hành một dự tính thật có lợi cho quốc gia Pháp" 61.
Quần đảo Côn Lôn nằm ngoài biển là nơi thuận tiện nhất để đón chào các tàu thuyền Tây phương. Từ năm 1779, Nguyễn Ánh đã đặt ở đây những viên quan mang chứng minh thư của "P.J.G. Giám mục d’Adran" giới thiệu với các thuyền trưởng Tây phương, mời họ vào bến, cho tin tức. Chủ đích của Pigneau là đón tàu Pháp nhưng Gia Định không cần phân biệt điều đó mà chỉ cần tàu Tây để giao thương thôi 62. Chính ở Côn Lôn là nơi vào tháng 9-1788 chiếc tàu La Dryade trong sứ mệnh dò tình hình Nam Hà đã thả lại Hồ Văn Nghị và 1.000 khẩu súng mua cho Nguyễn Ánh 63. Lính thuỷ tàu Tây trốn xuống ở đây. Cũng ở đây vào cuối năm 1790 Nguyễn Ánh dùng làm nơi nuôi ngựa cho quân đội dùng 64.
Nhưng khi Gia Định đã bình yên thì Vũng Tàu hay chính Bến Nghé sẽ là nơi đón các tàu, thuyền tiếp viện. Bá-đa-lộc gom góp tiền bạc, khí giới lương thực chất lên các tàu ông thuê ở Ile de France và cả ở Pondichéry nữa nhờ sự giúp đỡ của các nhà buôn như đã biết. Nguyễn Ánh làm chủ Gia Định rồi sẽ có đủ tiền bạc mà đeo đuổi chiến tranh. Qua lời thư của De Guignes, Viên Lãnh sự Pháp ở Macao, ta thấy ông đã làm trung gian mua cho Nguyễn Ánh nhiều chiếc tàu. Và cũng từ Macao trong những tháng cuối năm 1789, 8, 9 chiếc tàu đi buôn ở Cochinchine đã mang theo nhiều thứ khí giới quân dụng. Một trong những chiếc tàu đó là chiếc la Garonne đã bán cho sứ giả Nguyễn ở Xiêm hai khẩu đại bác 65. Tất cả những chuyến mua bán đó làm cho Nguyễn Ánh có dưới quyền một số tàu chiến Tây Phương quan trọng. L.M Jean de Jesus Maria viết thư từ Chợ Quán ngày 4-3-1790 ghi nhận Ánh có "khoảng 10 chiếc tàu Bồ và 1 chiếc tàu Pháp tất cả đều là tàu buôn nhưng võ trang với đầy đủ khí giới quân dụng" 66. Nhưng quan trọng hơn cả là việc có đám người Tây phương giúp. Ở Gia Định có đến 140 sĩ quan và 80 lính Pháp. Một bức thư của Bá-đa-lộc ngày 18-7-1794 nói đến 40 người Âu trong bộ binh, thêm vào chừng ấy nữa trên các tàu đồng 67. Và không phải chỉ có người Pháp mà thôi. Crawfurd vào Huế tháng 10-1822 thấy ở đó một bài vị người Irlandais 68. M. Đức Chaigneau ghi nhận có cả người Anh, Irlandais 69.
Binh lính Pháp phần nhiều là thuộc các đội thuỷ quân tình nguyện, thu nhặt ở những gia đình trung lưu đã được hưởng một nền giáo dục tự do nên chịu sự quyến rũ của khung cảnh xa xứ lạ để lăn mình vào những chiếc tàu đi đây đi đó 70. Số đông này kẻ trước người sau, có khi kẻ tới chán bỏ đi, người mới lại lăn vào, tựu trung có một số hoạt động hơn cả mà sử quan Nguyễn còn ghi lại là Đa-đột (Jean Marie Dayot), Ô-li-vi hay ông Tín (Alexis Olivier de Puynamel), Ba-nê-ô hay Nguyễn Văn Thắng (J.B.Chaigneau), Lê Văn Lăng (De Forçan), Ba-la-di (Laurent Barizy), Nguyễn Văn Chấn (Philippe Vannier), tất cả đều được chức Cai đội 71.
Dayot được phong làm Trí Lược hầu tháng 6-1790. trông coi chiếc tàu "Đồng Nai" và có dự trận thuỷ chiến Thi Nại 1792, là "linh hồn và chủ tướng của thuỷ quân Nguyễn" như Giáo sĩ La Bissachère đã nói. Có thể tin được điều này vì chính ông đã từng là chủ tàu Adélaid năm 1786. Nhân dịp theo thuỷ quân Gia Định đánh Tây Sơn, ông đã đi dò xét các hải cảng xem nông sâu, trong khi Olivier cũng làm việc tương tự định vị trí trên đất liền 72.
Với chức Vệ uý Thần sách Vệ ban và sau đó, Thuộc nội Vệ uý, làm Cai đội trong quân Thần sách, một thứ chủ lực quân, Olivier đã có mặt nhiều nhất trong sử sách nhà Nguyễn 73. Chỉ là một binh nhì trên tàu La Dryade, ông trốn ở Poulo Condore ngày 19-9-1788 rồi theo Hồ Văn Nghị phục vụ Nguyễn Ánh khi mới 20 tuổi dư hơn tháng. Ông dùng hoạ đồ của Le Brun - Khâm sai Cai đội Thạch Oai hầu - và cùng ông này xây thành Gia Định theo kiểu Vauban. Ông tổ chức quân đội - có lẽ trước hết là quân dưới quyền ông - theo lối Tây phương.
Chaigneau, Thắng Toàn hầu, đến chậm nhất (1794) và lại ở Việt Nam sau rốt, đã thay J.M. Dayot vào cuối năm 1796 trông coi tàu Phi Long, có dự vào trận Thi Nại 1801, hoạt động ở Quảng Nam, Huế sau đó và trông coi việc tiếp tế cho quân đội ở Phú Xuân (sắc ngày 16-3-1802) 74. De Forçan coi chiếc Phi Bằng trong chuyến tấn công Quảng Nam, Huế (1801). Barizy, con người sôi nổi, càu nhàu bất mãn nhất trong đám, đến Gia Định năm 1793. Ông đã từng được phong Thành Trí hầu, giữ việc tiếp tế cho quân đội bằng cách liên lạc mua bán với Ấn Độ Manille, Malacca. Ông sẽ giữ chiếc Thoại Phụng trong chuyến chiếm cửa Thuận An (1801). Vannier tới năm 1789 cùng với Felix Dayot - em J.M. Dayot, chỉ coi việc tiếp tế - ông coi chiếc tàu Phi Phụng với chức Cai cơ (1801) cho đến cuối năm 1802 thì được phong Chưởng cơ Chấn Võ hầu.
Những người khác ít được biết hơn là J.M. Despiau, thầy thuốc trong quân đội (sắc ngày 21-4-1799), người đã săn sóc cho Pigneau lúc cuối cùng, và Desperles, viên thầy thuốc giải phẫu của tàu Le Pandour.
Tất nhiên ta không quên vai trò của Bá-đa-lộc và những vị linh mục khác. Đám quan binh Tây phương hoạt động cho đến khoảng 1793-1794 thì rút đi gần hết. Có nhiều lý do, trong đó có lý do tin Cách mạng Pháp chuyển sang giai đoạn phản đế gây xáo trộn tư tưởng của họ và gây nghi ngờ cho Nguyễn Ánh. Nhưng chính yếu là lý do họ thất vọng khi phục vụ ở Gia Định.
Chúng ta đã phân tích tâm lý đám người phiêu lưu Tây phương mong mỏi nối bước Dupleix, Clive tới địa vị sang giàu của Đông phương thần tiên. Họ cũng có thể thoả mãn chút ít nếu họ chịu phục vụ tới sau khi thắng trận như Chaigneau, Vannier, De Forçan được thăng chức, cấp lính tráng hầu hạ... Nhưng họ đến trong thời chiến tranh và phải phục vụ trong một xứ nghèo nàn, ở đó, chưa kể tới đâu, người lính vừa đem thân đánh giặc vừa phải nộp thuế, rút lương riêng để cung cấp quân nhu. Họ thất vọng là phải như Olivier đã nói năm 1793: "Chúng tôi đã phục vụ vô ích cho Chúa xứ Nam Hà". Ông than phiền rằng làm việc cần mẫn, chiến thắng nhiều trận mà không giàu có được chút nào 75.
Đằng khác, chúng ta cũng nên lưu ý đến tư cách của bọn này. Thực lục kể đến trận đánh Quy Nhơn 1793, khi binh ra tới Bình Khang, có nói đến đám Tây-dương-nhân chung với lính Miên, lính Tàu đều tính "dữ tợn, hay rượu, khó cầm" 76. Các L.M đương thời chỉ khen có Chaigneau còn thì chỉ trích lối sống sa đoạ của Olivier và của những người khác, sống "vô đạo như đồ đệ của Voltaire". Không nên lấy làm lạ, đó là đặc điểm của lính đánh giặc mướn.
Tuy nhiên, Nguyễn Ánh còn cần tới họ nên đã cho phép họ được buôn bán riêng lấy lợi khỏi thuế má. Olivier được buôn bán dọc bờ biển vùng Nguyễn; năm 1799 ông đi Malacca bán một thuyền cau được 3000 đồng. Despiau năm 1800 đã mua được của ông Chưởng dinh Hữu quân (?) một chiếc ghe chiến và xin phép Nguyễn Ánh mua muối, các vật dụng khác và 30 vuông gạo để đi Ấn buôn mang cờ hiệu Gia Định 77. Chính đó là một quyết định khôn ngoan của Ánh: làm việc cho họ mà đám phiêu lưu này vẫn có ích cho Ánh vì chính họ đã đóng vai trung gian cung cấp vũ khí cho Ánh, tuyên dương uy thế của Ánh ở nước ngoài, nhất là các nước lân cận 78. Cũng ở nhiệm vụ giao dịch đó, chúng ta thấy họ cùng các linh mục là những kẻ dò la tin tức Tây Sơn rất đắc lực vì họ có mặt khắp nơi trong, ngoài nước, hiểu rõ tình hình vì ở lâu, biết đích xác sự việc, nhờ thói quen chuyên tâm chú ý quan sát của người Tây phương. Hãy nghe Olivier trong một bức thư, nhờ Letondal ở Macao dò la tin tức xung đột giữa quân Thanh và Tây Sơn (15-7-1789): "Chính vì muốn biết trong chi tiết mới nhất về trận đánh ấy mà Hoàng thượng hôm qua đã bảo tôi viết thư cho Cha, nhờ viên thuyền trưởng Antonio Vincenti. Ý định của Hoàng thượng là muốn biết có gì đã xảy ra trong trận đánh ấy, ý định người Tàu ra sao, lực lượng của họ thế nào. Ngài cho rằng nhờ nơi hiểu biết về người Trung Hoa của Cha mà Cha có thể cho biết những tin tức chắc chắn hơn từ nơi nào khác..." 79. Cũng vậy, tin từ vùng Tây Sơn có thể vô tình tới Gia Định bằng những cánh thư của các giáo sĩ Labartette, Longer, Doussain ở Bố Chính, Thuận Hoá gởi cho Letondal ở Macao, Le Blandin ở Paris chẳng hạn.
Nhưng quan trọng hơn nữa là việc quân nhân, giáo sĩ Tây phương có mặt ở Gia Định cũng tức là đã mở cửa cho văn minh Tây phương tràn vào. Những điều nói trên đã dẫn chứng một ít rồi. Chúng ta có thể nói thêm. Giáo sĩ De Labissachère cho biết Pigneau đã dịch từ chữ Pháp ra nhiều quyển sách nói về chiến thuật và cách phòng thủ cho Nguyễn Ánh đọc. Năm 1819, Chaigneau và Vannier cho một du khách Anh tới Huế biết là Bá-đa-lộc đã dịch ra tiếng Việt nhiều đoạn có ích nhất của tập Bách khoa và nhiều quyển sách khác dùng cho việc cai trị quốc gia. Chưa hết, Giáo sĩ Cadière còn tìm thấy một tấm bản đồ ở Nội các ghi tất cả những phần chính của một vị trí phòng thủ với một loại súng pháo binh, vẽ từ một quyển sách nói về Vauban, xuất bản năm 1773.
Ảnh hưởng sự du nhập kỹ thuật, tư tưởng này thật là quan trọng trong những ngày sắp tới, khi Nguyễn Huệ còn bận bịu củng cố phía bắc, bỏ lơ cho Nguyễn Ánh có thì giờ khai thác Gia Định để lớn mạnh lên.
--------------------------------
1 Thư Pigneau. Pondichéry. 20-3-1785 (A. Launay III: t. 85
2 Thư Longer gởi cho Dufresne, 1-5-1786 (A. Launay III, t. 121).
3 Thư P.Ginestar. 1784, BSEI. XV. t. 90, 91. Thư Pigneau, Bangkok. 5-12-1783 bổ túc tên Ferdinand bằng Olmédilla. Theo ông, P. Ferdinand chết vì một vụ mê tín đàm tàu. Người giết ông là "Ông Doc lanh"(?) vốn tàn ác, đã từng cướp bóc các người Trung Hoa nên bị "Ông Long nhuong" kêu về Gia Định chém đầu. Chúng tôi phối hợp theo tin của Ginestar, tuy viết thư sau nhưng ở Sài Gòn vùng Tây Sơn, tất rõ chuyện hơn Pigneau ở Bangkok. Ông Chung: Ông Chủng. Nguyễn Ánh.
4 Liệt truyện q28, 8b, 9a. chuyện Bá-đa-lộc
5 Thư Pigneau 20-3-1785 dẫn trước; thư L.M Ginestar 1784. L.M Castuera gởi cho L.M Trưởng tỉnh 11-7-1784 (BSEI, XV, t. 92-96). Lưu ý rằng theo Pigneau thì việc đi sứ là do 2 L.M chứ không phải ông đề xướng. Thái độ thật là dễ hiểu: Pigneau vẫn còn muốn tránh tiếng mình đã can thiệp vào chính trị. Chúng ta theo tài liệu của người trong cuộc để thấy phần do dự, phần chủ xướng của Pigneau. Hai người sứ còn sống chứ không phải bị giết như tin của Liệt truyện.
6 Thư Langenois gởi cho Descourvières 14-11-1783: Pigneau gởi cho Descourvières. Bangkok, 5-12-1783, thư Castuera nói trên
7 Thư Pigneau ở Pondichéry 30-3-1785 (A. Launay, III, t. 92). Thực lục q2, 4b. Liệt truyện q15, 17a.
8 Thư Pigneau kể trên và thư ở Pondichéry 6-7-1785 (A. Launay, III, t. 154). Liệt truyện q15, 17b
9 Thư Mgr Le Bon cho hội Truyền giáo 21-12-1778 (A. Launay, III. t. 94).
10 A. Launay. III, t. 158, 159, 160
11 A. Launay, III. t. 154
12 Thư từ Ariancoupam, 12-3-1786 (A. Launaỵ. III, t. 161, 162)
13 Thư Ánh viết cho Bá-đa-lộc, cho Toàn quyền Pondichéry, cho De Richery (xem Phụ lục). Thực lục q3, 1ab, ghi việc vào tháng giêng Đinh Mùi (1787) so với tài liệu trên rõ là sai với ngày tháng của các tài liệu đích xác khác kể trên. Hoặc có thể sử quan ghi ngày Antonio lui tàu chăng?
14 Nhật ký của ông Letondal ở Macao 1786 (A. Launay, III, t. 156). Thoả ước ở Macao kế tiếp sau cũng ở sách này, các trang 157, 158. Bức thư chữ Nôm thứ 8 có câu: "Vả việc Cô-á Quốc sai tàu sang cùng việc Ta sai phục sứ thì đã sai Khiêm Hoà hầu, Thiệm Mẫn hầu dụ tường để sự" (chúng tôi nhấn mạnh)
15 Liệt truyện q15, 17ab
16 Thư Pigneau từ Pondichéry 6-7-1785 đã dẫn
17 Correspondance générale, vol VII, t. 571 dẫn bởi Maybon (Histoire moderne. sđd, t. 213)
18 Correspondance générale. vol VII. t. 567, dẫn bởi Maybon, sđd, 1. 216
19 A. Launay III, t. 174. 175
20 A. Launay, III: t. 168. 169, 170...
21 A. Launay, III. t. 197. 198, thư của bộ Hải quân gởi cho De Conway - 12-1787
22 A. Launay. III. t. 177-. Sự thực Nguyễn Văn Liêm, Phạm Văn Nhân. hoàng tộc và võ tướng đâu phải là tôi tớ thông thường!
23 A. Launay, III, t. 183
24 A. Launay, III. t. 184, 185, 187
25 Trích dẫn bởi bài bình luận sách Mgr D’ Adran của L.C. Louvet trong BEFEO, 1901, t.261. Ví dụ như tiếc rẻ của Luro de Cultru trong Histoire de la Cochinchine française des origines à nos jours, 1910, t.22
26 . G. Taboulet, "Le traité de Versailles et les causes de sa non-exécution", BSEI, XIII. t. 105.
27 Histoire de France, II, Larousse. 1954, t. 72.
28 A Launay, III, t. 198
29 Tờ Gazette nationale ở Pondichéry, ngày 14-6-1789 (A. Launay, III, t. 1999).
30 . Bản chụp ảnh bức thư chữ Hán của Nguyễn Ánh gởi Louis XVI chữ được chữ mất (A. Launay, III, t. 204). Nguyên bản dịch do G. Taboulet đăng trong La geste française, I, sđd, t. 214, 215
31 Thực lục q2, 22a, Liệt truyện q30, 14b.
32 Vùng Cầu Sơn còn tên ở Thị Nghè phía đường Hàng Xanh xa lộ bây giờ. Lưu … Sài Gòn thời bấy giờ ở quanh vùng Chợ Quán
33 Trịnh Hoài Đức, "Thành trì chí", Trần Kinh Hoà dịch, Đại học số 6 tháng 12-1961, t. 52.
34 Thực lục q2, 22ab cho việc Tây Sơn bất hoà xảy ra vào tháng 7 âl (1786) và việc loạn ở Gia Định vào tháng 9 nhuận năm đó (sao không là nhuận tháng 7?). Chiến tranh bất hoà thực sự xảy ra vào mùa xuân 1787 (xem chương trước). Trịnh Hoài Đức cũng đồng ý như vậy. Biến loạn ở Gia Định có thể âm thầm nhen nhúm từ năm trước
35 H. Cordier, Correspondance générale de la Cochinchine, t. 209.
36 Liệt truyện q6, 12b
37 Lượng Phụ của Thực lục, Liệt truyện.
38 Hổ Châu của Thực lục, ở cửa sông Hàm Luông. Xét theo đường lui quân, có lẽ không phải là địa điểm ở Sa Đéc như tin tưởng thông thường. Địa điểm Hổ Châu của Phạm Văn Sâm sau này cũng chứng tỏ như vậy: không lẽ Sâm ở Ba Thắc muốn về Bắc lại ngược dòng Tiền Giang?
39 Ngoài Thực lục, xem truyện Lê Văn Quân, Liệt truyện q27, 2b, 3a
40 Thán Lung của Thực lục. Đó là tên đất Nôm theo âm đọc miền Nam: Than(g) Trông, địa điểm ở làng Phú Kiết, Bến Tranh, Định Tường. Gọi như thế là vì ở đó, theo truyền thuyết, quân Nguyễn có làm một vọng gác dò chừng Tây Sơn. Cũng vì xuất xứ địa danh như vậy nên ở Hậu Giang cũng có Thang Trông, Vọng Thê (quận Huệ Đức, An Giang). Ta dò theo tình hình chiến sự ở đây mà nhận địa điểm ở Định Tường, loại bỏ địa điểm An Giang.
41 Hồi Oa của Thực lục. Đó là địa điểm Vàm Nao ở Tân Châu
42 Giồng Phú Triệu ở Cái Bè?
43 Thư chữ Nôm đánh số 9, đề ngày 6-1 Cảnh Hưng 49 (1788).
44 Thư số 10 đề ngày 15-1 Cảnh Hưng 49 (1788).
45 Thư Lavoué gởi cho Boiret. Descourvières ở Paris từ Tân Triệu 13-5-1795 (BEFEO, 1912, t. 32).
46 Thư số 11, 20-5 Cảnh Hưng thứ 49 (1788). Thực lục q3, 7b đặt chuyện vào tháng 10 âm lịch Đinh Mùi (1787), thật quá sớm. Ông Letondal (RI, XIV, 1910, t. 53) viết thư ngày 7-11-1788 bắt đầu chuyện này bằng câu: "Vào tháng 7-1788 viên bạo chúa ấy rất lo lắng về 3 hay 400 ghe mà ông gởi vào Đồng Nai". Ông viết theo thư Labartette cho biết, như vậy việc Nguyễn Huệ gởi quân đi vào Nam xảy ra trước tháng 7 dương lịch nhiều tháng đúng như xác nhận của Nguyễn Ánh trong thư gởi cho J. Liot kể trên. Thực lục cho rằng quân cứu từ Qui Nhơn vào, nhưng Hưng là tướng của Huệ vì ta thấy sau này (1793), ông cầm quân Phú Xuân vào cứu Qui Nhơn. Nguyễn Ánh chỉ viết "Tây Sơn là thằng Hưng", Letondal không biết tên Hưng, nhưng Olivier viết cho Letondal (thư ngày 15-7-1789, BAVH, Oct- Déc 1926. t. 362) có nói Nguyễn Ánh bắt một tướng "do loạn tướng Huệ gởi đến, tha tội rồi nghi ngờ gì đó, ông dem chặt đầu". Olivier lầm Hưng với Phạm Văn Sâm, nhưng lời đó thêm chứng cớ rằng Hưng đã được Huệ gởi đến. Có lẽ thấy cứu không được, Hưng đã bỏ về trước khi Sài Gòn bị vây (tháng 6 âl) nên mới thoát được.
47 Vùng Tân Hiệp bây giờ
48 Nghi Giang của Thực lụcTên các chợ thấy ở ĐNNTC, Lục tỉnh Nam kỳ cũng như ở Thành trì chí của Trịnh Hoài Đức
49 Thư Nôm số 12
50 Cảnh Lộ giang của Thực lục
51 Thư Castuera từ Chợ Quán 11-6-1789 (BSEI, XV, La révolte, bđd. t. 100, 101).
52 Truyện Nguyễn Văn Tồn, Liệt truyện q28, 3a-4b
53 Không biết ở đâu. Theo nghĩa duy danh của chữ Châu Thái 珠 揉 có phải là một nơi khai mỏ ngọc, châu báu ở bờ biển Xiêm, Mã Lai, Miến Điện?
54 Thư số 11 ở Phụ lục
55 Những sử sự kể trong tiết, trừ các xuất xứ khác có ghi, đều lấy từ Thực lục q2, 18b đến hết, q3, q4, 1a-15a
56 Trích lại của Thanh Lãng. Biểu nhất lãm Văn học Cận đại, Tự Do xb, 1958, bài văn "Nhựt trình Đông cung ký vãng Tây bang, tái hồi bổn quốc", trang 51
57 Thực lục, q4, 15b
58 Trích lại của G. Taboulet, "Le traité de Versailles", BSEI. XIII. hđd, t. 103
59 Tờ Gazette nationale đã dẫn
60 Thư ngày 14-4-1788 (A. Launay, III, t. 178).
61 Văn khố Ngoại giao Á châu, trích bởi Ch. Maybon, Histoire moderne, sđd, t. 268
62 L. Gaide. "Notes historiques sur Poulo Condore", BAVH, Avr. 1925 t. 88. Chứng minh thư ghi Sài Gòn ngày 10-8-1779.
63 V. Imbert. Le séjour en Indochine de l’ambassade de L. Macarney. sđd, t. 2
64 Thực lục q5, 7b.
65 Thư ngày 16-12-1789 (A. Launay, III, t. 158, chú số l) Ch. Maybon, Histoire moderne, sđd, t. 270. H. Cordier, Correspondance générale, sđd, t. 209
66 "La révolte..." bđd, BSEI, 1940, t. 101, 102.
67 Dẫn bởi G. Taboulet. La geste française... sđd, t. 204
68 Chuyện. J. Crawfurd do Ch. Maybon dẫn
69 Souvenirs de Huế, t. 18
70 L. Malleret trích lại của A. Faure. BSEI. X. chú số 1. t. 37.
71 Liệt truyện q28, 8b, 9ab. Thực lục q6, 35a. Liệt truyện đã lầm gọi Dayot là Nguyễn Văn Chấn. Thực lục có ghi Chấn coi tàu Phi Phụng mà theo Barizy người coi đó là Vannier. Vậy Vannier là Nguyễn Văn Chấn. Dayot có tước là Trí Lược hầu có tên Việt thì phải là Nguyễn Văn Trí. Thực lục q9, 3a có 2 tên Ba-lang-hi, Ba-la-di, Cai đội. người Hồng mao (?), chắc cũng chỉ là Barizy.
72 G. Taboulet. La geste française..., sđd. t. 250
73 Thực lục q6, 35a, q7, 26a, q10, 18a
74 BAVH, Avr-Juin, 1922, t. 139 trở đi; Janv-Mars 1923, t. 43 trở đi.
75 G. Taboulet. Le geste française... Sđd, t. 248
76 Thực lục q6, 19a
77 G. Taboulet, sđd. A. Cadière, "Les Français au service de Gia long: Despiau". BAVH, Juil-Sept 1925, t. 185
78 Thực lục có nói đến việc cổng của các xứ Tà-nê ngoài các xứ Xiêm, Miên, Vạn Tượng. Thư Olivier 10-4-1798: "Vua phải liệu có vài người Âu bên cạnh để cho các nước tin cậy". (BAVH Janv-Mars 1923, về Chaigneau).
79 . L. Cadière, "Les Français au service de Gia Long: leur correspondance", BAVH, Oct-Déc 1926, t. 363, 364.
Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802 Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802 - Tạ Chí Đại Trường Lịch Sử Nội Chiến Ở Việt Nam Từ 1771 Đến 1802