Ancient lovers believed a kiss would literally unite their souls, because the spirit was said to be carried in one’s breath.

Eve Glicksman

 
 
 
 
 
Tác giả: Tô Hoài
Thể loại: Tùy Bút
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 9
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 2327 / 57
Cập nhật: 2017-07-11 14:13:18 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Trở Lại Cam-Pu-Chia
ã lâu, năm 1963 - có lần tôi đến Căm-pốt, đứng trên bãi biển Kép nhìn về Hà Tiên.
Biển Hà Tiên nước tôi ngay trước mắt mà ngày ấy tôi đã phải đi vòng suốt nước Lào đến cực Nam Cam-pu-chia, thế mà cũng chỉ mới nhìn thấy Hà Tiên chứ không tới được. Hôm nay, tôi mới thật được thỏa thuê từ các vùng biên giới đến đây.
Từ Xa Mát tỉnh Tây Ninh lên Kông-pông Chàm.
Các bạn đã đi đường này bảo, qua hết cánh đồng trước mặt đã sang tới nước bạn.
Không thấy cánh đồng chỉ rặt cỏ tranh bốn phía.
Giữa đám cỏ tranh có một hàng giải khát. Hai cô bán hàng, áo bà ba trắng, duyên dáng hàng chợ như những chị em ta hay gặp ở chợ Hóc Môn, chợ Tân Định dưới kia. Không ngờ nơi đèo heo mà tiếng dữ còn ghê rợn đến hôm nay, mà cỏ tranh còn vờn qua đầu và quang cảnh tan hoang còn ngổn ngang quanh mình lại được gặp những nụ cười. Trong quán có cà phê đá, trà đá. Trời đương nắng đổ lửa.
Những ám ảnh, những ghê rợn, những bóng hình đã qua. Bây giờ sang bên cái ụ cao đầu chiến lũy đất, trông lên thấy trên ấy, bộ đội đã trồng khắp mặt lũy những dây khoai lang, lá non bò lòng thòng xuống vách hào.
Hai vọng gác nhìn sang nhau: một bên cờ đỏ sao vàng, một bên quốc kỳ hình năm ngọn tháp vàng. Hai lá cờ bay giữa trạm kiểm soát chỉ có một cây tầm vông chắn ngang. Xe bên nào qua, bộ đội bên ấy qua nhấc cái dóng tre hờ hững đơn sơ rồi giơ tay chào người đồng chí qua biên giới.
Những đường biên giới. Bao giờ tôi cũng tưởng tượng một cách ngây ngô: đường biên giới phân chia nước này, nước khác là không có thật - thế mà biên giới là có thật và thật là khác nhau. Bến Thà Dừa bên này, tỉnh lỵ Nong Khai bên kia sông Mê Kông giữa Lào và Thái Lan. Từ Bra-ti-sla-va sang bên kia cầu tới thành Viên Thủ đô nước Áo, bên ấy có quân đội Tây Âu và binh lính Mỹ. Ga Nhị Liên phía Trung Quốc, ga Chu-mu-it-ti-ga. Đường lạc đà, bên Mông Cổ, ga Bằng Tường kia và ga Đồng Đăng đây, dây thép gai bề bộn và đau lòng.
Còn như Xa Mát bên này, làng Ban Phnom nước bạn bên kia, hôm nay tĩnh mạc như tờ, nhưng ba tháng trước còn đầy khủng khiếp.
Xuống Xoài Riêng sang phổ huyện Gò Dầu - qua những nơi tan hoang từ dọc đường bên kia đến đây vì giặc Pôn Pốt, càng yêu thương quang cảnh đông vui ấm áp lạ thường. Bên sông Gò Dầu, thuyền đò san sát. Nhà sàn chăng cột chi chít mặt nước. Những dãy phố, những hàng quán nghìn nghịt người, những ruộng lúa chín vàng đang vào vụ gặt, những khoanh cũi đập lúa nhấp nhô giữa mặt ruộng vàng óng. Những cánh đồng nước xanh om, đều tăm tắp như những khung xanh. Lại không ai tưởng mới mấy tháng trước, có những trái đạn cối đã nhảy sang đây, một vùng mà cuộc sống sông nước, đò giang, phố và bến lúc nào cũng khao khát bình yên.
Tôi qua Châu Đốc. Vừa ra đầu thành phố đã thấy kênh Vinh Tế phù sa cạn đục lờ. Nhưng xa nữa chỉ còn đồng hoang rợn cỏ.
Người Chăm, người Chà “Châu Giang” ở ngoại ô, trước cửa nhà trồng hoa cúc vạn thọ. Những nhà sàn cao, thang nhà dựng đứng. Bao lâu nay, đền đài vắng ngắt. Cả đến tháng ra-ma-đam có lễ a-lat (ơn trời) cũng không bóng người. Cả làng Chăm đã chạy giặc. Ngày lễ thứ sáu bây giờ mới thấy trên sàn nhà có người trải chiếu, cả nhà ngồi trang nghiêm bái về La-mêc thành phố thánh ở hướng Tây.
Đạn đại bác còn in vết trên tường chợ và vết thủng trên các nóc nhà chung quanh. Ngay gần chỗ bị tàn phá, có đám cưới, trước cổng dán tấm giấy hồng viết ba chữ “Lễ tuyên hôn” to tướng. Tiếng cười, tiếng hát trong nhà sàn kề mặt nước. Những nhà ven kênh Vĩnh Tế dạo nọ phải sơ tán, dỡ đi, vừa được lợp lại, lại vui.
Ngày trảy hội “vía bà” núi Sam đông quá. Hội núi Sam, trước nay, người cả hai biên giới nô nức về. Mấy năm nay bặt hẳn. Bây giờ người trảy hội đông như bật lên, bù lại những năm mất hội. Cơ man các đoàn trai trẻ lên núi, đem theo túi bánh và thức ăn, vai vác đàn ghi-ta - một nét mới của hội “vía bà” núi Sam. Hội núi Sam bây giờ là ngày thanh niên chơi núi của An Giang và của tỉnh Tà-keo nước bạn.
Nhìn lại biên giới hai nước có lẽ chỉ còn sống sót vài cây thốt nốt đứng chơ chỏng.
Người trốn tránh đi đâu bây giờ mới loáng thoáng trở về dựng lều ở tạm trong vườn hoang. Trên mặt ao trước nhà, những bông hoa sen, đã mấy mùa nở, mấy mùa tàn tự nhiên. Bây giờ cánh sen đỏ thắm, bên những dây rau muống mới cấy, đã lên lá xanh eo éo.
Những hàng cây thốt nốt. Ở sông đào Vĩnh Tế hay bến phà Niếc Lương cũng như nhau. Người bên kia sông, bên này sông, người Việt hay Khơ-me, qua những cánh đồng liền hai nước, đời đời đã đi lại, chợ búa, trai gái hò hẹn, những đám cưới, ngày hội xa đến đâu cũng là gần. Thế mà năm năm tan nát cả.
Trên nét mặt mỗi người tôi gặp, người nào cũng còn thoáng ngơ ngác, còn phảng phất những nét đau của những ngày tháng rùng rợn vừa qua.
Ven đường từ Xuông lên Chúp, cánh đồng lác đác tra ngô, trong khi các làng biên giới phía dưới, ruộng còn bỏ cỏ mọc cao vượt đầu người. Trong cỏ còn nhiều mìn địch cài lại. Hôm nào cũng có trâu chết vì giẫm phải mìn. Các làng đã bị dồn cả vào phía trong. Xưa nay, những cánh đồng nuôi người, bây giờ chỉ thấy một giống cỏ lác. Gió lùa quanh bờ hào, những ụ súng bỏ không đã lở tở đổ từng mảng.
Bụi đỏ cuốn lên trong nắng. Những chiếc xe vừa bon qua. Tiếng con chim rừng xa kêu “bắt tép kho cà”, “khó khăn khắc phục”, ở rừng Việt Bắc hay ở đây cũng một con chim ấy.
Trong bụi cỏ có bức tường đổ, vườn chuối chết cháy đỏ hắt. Tấm biển căm thù “Ở chỗ này, phản động Pôn Pốt giết cả xóm 320 người...”, “Chỗ này, hố chôn 152 người...”, “Ở đây...” Không biết con số nói về người Việt hay người Khơ-me.
Nhìn đến cuối chân trời vẫn những cây thốt nốt trần trụi như những chiếc ô xơ xác bị gió trở lật ngược.
Từ trong bụi cây, lò dò ra một con bò. Cam-pu-chia vốn đất nhiều bò, nhiều ngựa. Con bò bơ vơ này ở đâu ra? Nhìn kĩ, không phải bò hoang. Trong bụi rậm có những trẻ em chăn bò đương lấp ló nhìn ra.
Phải rồi, những em bé. Có phải các em đương muốn ra làm quen, mà còn e ngại với những người và chiếc xe vừa được đẩy lên qua khúc đường bị nước mưa làm ngập, dừng lại nghỉ đấy.
Bắt đầu làm quen với làn da cháy nắng của con người đất nước này. Những em bé đó, em trai em gái, lát sau đã xúm quanh chúng tôi. Các em, quần áo kỳ lạ làm sao. Những áo bà ba đen rách tơi, dài quá đầu gối. Đến đỗi thoạt trông không biết các em có mặc quần hay chỉ có cái áo dài trùm kín gối.
Rồi sau tôi biết tại sao các em bé hay mặc quần áo người lớn. Tôi được thấy những hố chôn người, có cả đống quần áo và dép bị lột lại. Những em bé gặp trên đường đã mặc quần áo của người chết. Cả nước một kiểu quần áo. Đến người lớn cũng không có gì thay, trẻ con lấy đâu ra cái mặc. Trẻ con cứ lụng thụng trong cái áo, tay rộng dài, hàng khuy xương dừa to thô lố.
Nước Cam-pu-chia vừa thoát chết còn đầy rẫy những lạ lùng đến rợn người.
Lát sau các em bé chăn bò đã mạnh dạn hơn, trèo cả lên thành xe ngồi.
Chúng tôi lấy bánh mì, cùng ăn với các em. Câu chuyện bắt đầu vui, mặc dầu quanh quẩn chỉ có mấy tiếng Khơ-me lõm bõm mới học được. Chỉ vậy đã khiến người qua đường có thể hiểu được ít nhiều đau khổ ghê gớm của những em bé tội nghiệp.
- On sa ri, em gái?
Bé gái gật đầu.
- On po ro, em trai?
Chú bé có đuôi tóc đỏ hoe cười nhe hàm răng sún.
- Au me, bố mẹ?
Bé trai, bé gái không cười. Rồi hai em cùng lắc đầu. Tôi trỏ tay vào làng:
- Au me?...
Hai em bé lại lắc đầu. Bố mẹ các em không còn? Bị giết? Bị ốm chết? Phải vào đội khổ sai đi tỉnh khác? Hay là các em quê ở nơi nào bị lùa đến đây? Không biết. Chỉ thấy những khuôn mặt xanh xám ngắt.
Em bé gái có bàn tay cụt hai ngón. Không hiểu tại sao em bé cụt ngón tay. Có điều chắc chắn phải là bởi một rủi ro đau đớn nào.
Xa xa, tiếng chim ríu rít. Nghe chim kêu, tưởng như con chim hiền lành ở đâu cũng có ấy đã phải trốn khỏi nơi này mấy năm, bây giờ mới dám cùng nhau trở lại.
Từ Xoài Riêng ra biên giới, chỗ nào cũng những cảnh hoang tàn mới được loáng thoáng thu dọn.
Một mẩu tường nham nhở hàng gạch mốc rêu. Có chỗ, còn cả một ô gạch hoa cạnh bụi cây cháy xém. Đôi ba vết chân người mới giẫm gãy túm cỏ gà.
o O o
Cả nước vẫn rộn rã dọn nhà.
Trên các nẻo đường tất bật người đi lại. Những chiếc xe bò bánh to kềnh càng, người đàn ông lầm lũi phanh áo, ngửa ngực kéo. Đằng sau lũ trẻ lùi lũi chạy theo. Không thấy có đàn bà. Vợ anh ấy chết hay lạc mất rồi. Trên thùng xe chất một bu gà, một bộ quần áo đen xỉn và cái chiếu cuốn. Tất cả ảm đạm như đống củi mục. Ngoài thành xe treo chiếc nồi nhôm bóng. Cái nồi mới được phát. Mấy năm nay mới lại được có cái nồi riêng thổi cơm, nấu nước. Người ta trở về làng với cái nồi mới sáng trắng trong ánh nắng gay gắt.
Bọn Pôn Pốt đã nói như điên: ‘‘Làm cuộc thay đổi độc đáo triệt để nhất thế giới”. Có nghĩa là chúng nó quấy trộn cả nước lên. Chúng xóa gia đình, chia người già, người trẻ, trẻ em, trai gái thành đội. Các làng, các huyện đổi tên ra con số. Người vùng này phải chuyển đi ở vùng khác. Tỉnh Ốt-đa Miên-chây phía Bắc đi hơn năm trăm ki-lô-mét xuống làm ruộng dưới Tà-keo. Các thành phố, các thị xã lên phá hoang vùng rừng núi phía Tây. Người Chăm và các dân tộc thiểu số ở rừng thì dồn về các tỉnh Cô-công, Puốc-xát phía biển. Không nhà nào được ở yên. Bỏ chợ, bỏ tiền, bỏ chùa, bỏ giấy khai sinh, khai tử…
Bởi vậy, niềm vui đầu tiên sau giải phóng: Người ta ngày đêm đi hàng trăm, hàng nghìn ki-lô-mét trở về làng. Rồi thì cha mẹ, anh em, vợ chồng đi tìm nhau.
Cả nước này, mấy năm qua, ai có đi làm mới được ăn và phát cho một quần, một áo - quang cảnh tiêu điều ấy y hệt ở Trung Quốc. Ở đây, đất thuộc địa Bắc Kinh còn kém Bắc Kinh một bậc. Bởi vậy, cảnh “đồng phục” còn thảm hơn bên kia nhiều. Đàn ông mặc áo bà ba vải thâm. Đàn bà, váy thâm, áo thâm, tóc cắt ngắn hở gáy. Ai cũng đen trùi trũi.Trên đầu đội chiếc nón cói Hải Nam. Người đi chân đất hoặc mang đôi dép râu, đế bằng lốp xe tải, dày hai đốt ngón tay. Cả nước một khuôn, một số phận: quần áo, xống váy đen. Dép lốp, mũ cói. Và một cái hố chôn chung.
Bây giờ còn lại khắp nơi trên đường, người đi lũ lượt đen dài. Ở những chợ vừa được nhóm lại còn xơ xác. Kông-pông Chàm hay Niếc Lương, hay ngã ba Kông-pông Thom, trăm nghìn người chỉ một màu đen ngòm như thế. Suốt một ngày đường, chỉ gặp một thanh niên mặc áo may ô trắng, tay xách chiếc đàn ghi-ta, mặt đàn gỗ đỏ bóng. Anh ấy người làng Kông-pông Bếch. Cái áo trắng và chiếc đàn vừa được một bà con người Khơ-me bên Tây Ninh gửi sang cho.
Thật ghê gớm, cả nước chỉ còn lại một màu đen lam lũ. Cả nước đen đủi và đầu tóc và chân tay sứt sẹo giống nhau. Cuộc sống thê thảm đến không thể nào cắt nghĩa nổi.
Trên những con đường liên tỉnh, nhễ nhại nắng, không một bóng cây. Những cây ô môi, cây mù u cổ thụ, những cây sau sau to lớn, hai người ôm chưa kín thân, tất cả đã đứng chết khô. Đường từ Phnôm Pênh xuống Tây Ninh hơn hai trăm ki-lô-mét, mọi cây cao bóng mát hai bên đường đều chết đứng như thế. Giặc đã giết cả cây. Chúng bắt dân phải xem lại, thấy cây nào trong vườn, ngoài đường không phải cây ăn quả, đều chặt bỏ. Chúng đang làm thế ở Phnôm Pênh. Chúng định giết tất cả những dãy phượng, ô môi, lim, mù u khắp các phố.Chúng đã trồng dừa khắp các phố. Chúng định dừa lên độ năm năm thì bỏ hết các cây khác. Nhưng những cây dừa đem trồng hàng loạt, vẫn còi cọc, lỏa tỏa, chưa cao nổi ngang người. Rồi thành phố được giải phóng. Thế là cây cối ở Phnôm Pênh mới chỉ bị đánh dấu chỗ cưa như vết thắt cổ, được thoát chết.
Suốt ngày đằng đẵng nắng, chúng tôi đi giữa những thân cây hai bên đường chết đứng.
Qua ngã ba Suông đến đầu làng Xtâng, gặp một cái chợ lác đác người. Trông thấy đầu xóm, có miếng vải dù che làm rạp trong bóng cây xoài. Trong rạp, bàn ghế, mâm đĩa, thịt gà và xôi nóng khói nghi ngút, cạnh những hũ rượu thốt nốt trắng sữa. Đấy là một đám cưới.Ngày nào cũng gặp đám cưới. Đến gần công trường làm đường ra cầu Prếch-đam, đám cưới còn có cả máy nổ của công trường cho mượn, quay băng tụng kinh vang khắp làng.
Thấy xe qua trên đường, người dưới đám cưới vẫy lên lia lịa. Không quen nhưng biết đấy là cán bộ cách mạng Khơ-me, là cán bộ, bộ đội Việt Nam, những người anh em ta. Cam-pu-chia - Việt Nam xa-ma-kì- chăy-dô: Cam-pu-chia - Việt Nam đoàn kết muôn năm. Xuống đây, xuống đây, xôi mới đơm, rượu mới cất, con bò choai mới ngả thịt. Ngày vui của vợ chồng mới cưới, của hai họ đôi bên. Nhưng cũng là niềm hân hoan của mọi người, của đất nước thoát khỏi bàn tay tội ác khủng khiếp.
Gần tới sông Mê Kông, bên kia, tỉnh lị Kông-pông Chàm. Chúng tôi nghỉ lại ở làng Kông-pông Bếch.
Buổi chiều, trông sang, thấy một dải hoa phượng đỏ rập rờn ngang trên nóc nhà, như mọi thành phố bến. Nhưng hôm sau qua Kông-pông Chàm, tôi chỉ gặp những đường phố rỗng không. Hoa phượng trên thành phố đỏ rợn như những vòng hoa tang phủ nấm mồ chung của những người dân thường đã bị giết, vẫn còn bao nhiêu hố chôn người ở đấy.
Ngày đi cật lực của chúng tôi được kết thúc bằng một cuộc thoải mái tắm sông.
Sông Mê Kông xuôi trên nghìn dặm đến quãng này mang vẻ phẳng lặng dị kỳ. Tôi đã có dịp được qua nhiều quãng khác nhau trên con sông hùng vĩ này, kể từ chỗ đầu nước Mè Khỏng vào rừng núi thượng nguồn tỉnh U-đom-xay. Trên Bắc Lào, Mê Kông là cô bé đang tuổi thiếu niên, nghịch ngợm, không chịu đi đứng ngay ngắn, chốc lại vật vã vào bờ đá. Xuống đến Xê-phan-đon, mặt nước trải ra bốn nghìn hòn đảo, như rừng xanh trong nước. Đến đồng bằng miền Nam Việt Nam. Mê Kông mênh mang tẻ chín nhánh rẻ quạt, sóng đưa ngược từ cửa biển vào, các ngách nước như hồ lớn đẩy ra những khóm lục bình lênh đênh trôi ngang lên tận thành phà.
Đến Kông-pông Chàm này, Mê Kông là cô gái đang thì đẹp dịu và hiền. Dòng sông viền cát trắng phau, trườn mình giữa những vườn mít, vườn xoài, miên man qua không biết bao nhiêu bãi ngô xanh rờn.
Dấu vết cuộc chiến đấu giải phóng thành phố còn rải rác hai bên bờ sông. Những chiếc tàu tuần sông của địch bỏ lại bị mắc cạn, nằm nghiêng trên bãi, cát ngập vào tận sàn. Gần chỗ bè gỗ bến tắm, một khẩu cao xạ Trung Quốc còn đứng ngon lành giơ họng trong ụ. Những cây thầu dầu lá phấn trắng và những dây cỏ gà ngẩn ngơ vươn lên quanh cả băng đạn.
Kông-pông Bếch đêm nay vào tuần trăng tròn. Ánh trăng mượt mà rải trên vườn xoài, vườn chuối trải ra đến cánh đồng ngô đã nảy lá lăn tăn, óng ánh như sóng trăng và lặng im, êm đềm lạ lùng.
Trên hiên nhà sàn giữa vườn nhìn ra, trong im lặng không thể hiểu được những gì ghê gớm hôm qua xảy ra cũng ở nơi đất lành chim đậu này. Khi chiều, người trong xóm cho biết đằng kia mới thấy thêm một hố chôn người.
Bỗng trong ánh trăng, vờn lên tiếng trống. Tiếng trống những đêm “dù kê” xưa kia bây giờ nghe như chiêm bao. Có khi trai gái hát đối suốt đêm chưa cạn lời, đêm sau lại nối. Tiếng trống những đêm “dù kê”, đêm nay. Đúng rồi. Thế mà ngỡ không phải thật. Chỉ vì tiếng trống thanh quá, tưởng có, tưởng không, mơn man như tiếng gió lay ánh trăng trên lửa địa ngục vừa tắt.
Tôi dạo theo bóng trăng dọc bờ sông trên bến Kông-pông Chàm. Dòng Mê Kông phẳng lặng. Những chiếc thuyền ván dài như cái độc mộc, một người đứng chèo, dáng cao cao thành một nét đen thẫm ngang qua ánh trăng. Bên kia sông, lửa lom đom, rải rác. Biết đấy là những người trên đường trở về làng, đêm ghé thuyền nghỉ, thổi cơm trên bãi. Dòng sông cũng tấp nập tối ngày như trên mặt đường. Khắp đất nước, người trở về, người đi tìm nhau chưa ngớt.
Có tiếng bìm bịp kêu, đêm dịu dần vào khuya. Tiếng chim lẫn trong gió sông thổi lên, bây giờ mới mát rượi.
Sáng hôm sau, đến thăm ủy ban xã ven sông. Thật cũng không có việc phải tới. Nhưng, hôm trước gặp một đơn vị quân giải phóng công tác ở đây có kể cho nghe những khó khăn, những mới lạ về công việc thành lập chính quyền làng này. Tôi muốn được tận mặt thấy quang cảnh và những con người trên đất nước hồi sinh.
Kông-pông Bếch cũng như mọi làng giặc chạy qua.Chúng lại lùng giết người một chặng nữa. Người bị giết, người bị lùa đi, bối rối, loạn xạ.
Những người làng bị dồn đi nơi khác đương lần lượt trở về.
Bộ đội giải phóng đến công tác chọn người ra làm việc xã tự quản. Khi cả làng đã vào nề nếp, đội công tác họp toàn xã, giải thích nhiệm vụ và quyền lợi người công dân. Mọi người bỏ phiếu bầu ra ủy ban.
Hầu hết người làng không biết chữ. Phiếu được đánh dấu bằng vật gì quen thuộc. Hạt ngô là ông Sơng, hạt đậu đen là anh Xnung, hạt bí là cô Thì Đa, hạt đậu xanh là bà Tha Ra...
Bỏ phiếu xong cả làng vào một đêm hội múa lăm thôn, Kông-pông Bếch cũng thế.
Tôi đi qua các xóm lặng lẽ, thanh vắng. Chiếc nhà sàn nhỏ đứng giữa vườn, thanh gỗ bắc thẳng lên gian giữa. Nếu không tinh ý, khó biết đấy là căn nhà mới được dựng lại. Bởi mới mà cũ. Đây là những người bị cưỡng bức đi từ bốn năm trước, giờ trở lại, kiếm mảnh gỗ, đệp lá thốt nốt, chữa lại cái chân thang, lợp khoảng mái nhà dột. Chiếc cầu qua lạch nước vào sân được lắp miếng ván gỗ mới. Có người về không còn nhà, đã đi nhặt nhạnh đâu đấy được chiếc chân kê cột đá, một chum nước, tấm gỗ làm sàn, làm vách.
Nhưng đã rõ ra những tổ ấm của người ở. Có những chú gà con túc tích chạy theo đàn trước cửa. Có trẻ em đánh võng dưới sàn. Thấy khách lạ đi qua, các em nhỏm đầu nhìn ra.
Xã đã vận động các nhà trồng rau đậu và cây chóng được hái. Những khóm chuối đã bén chân, cạnh vết tước bẹ, tàu lá lên xanh tốt, bên cây đu đủ. Những luống khoai nước, khoai riềng đã hay hay mắt.
Trên đường đến trụ sở, tôi được nghe thêm một chuyện về chủ tịch Hiêng. Tối qua, chủ tịch Hiêng sang làng bên dự đám cưới. Có người đến bảo: “Đừng đi, phỉ hẹn về đón đường giết đấy.” Nhưng chủ tịch Hiêng cứ đi đám cưới và sáng sớm đã về trụ sở tiếp chúng tôi.
Chủ tịch Hiêng đến trụ sở trước khách. Anh đã cầm lái đầu máy kéo “Công nông” đỏ chóe đến bờ sông rồi đi sang đò. Dưới bến sau trụ sở, chốc lại có chuyến đò ngang tạt vào. Người bên sông sang bãi xới ngô, người lên trụ sở có công việc.
- Hôm qua chủ tịch Hiêng đi ăn cưới, không sợ phỉ à?
Chủ tịch Hiêng người bé nhỏ, hốc hác. Vẫn bộ quần áo đen lam lũ như mọi người. Nhấc khẩu súng trên lưng xuống, anh cười và trả lời:
- Nó không phải phỉ.
- Thế nó là ai?
- Nó là quân Pôn Pốt còn sót lại.
- Thế nó là phỉ đấy!
Nhưng chủ tịch Hiêng đã cắt nghĩa:
- Cũng không phải phỉ. Có đứa theo Pôn Pốt chạy vào rừng. Chúng nó là người nơi khác, không biết đường, không quen ai. Ngồi trong rừng thì chết đói cho nên phải ra cướp cái ăn. Mình khéo gọi, nó ra với mình.Chúng tôi đã gọi được mấy đám. Bây giờ bận quá, chưa đi gọi nốt được.
Việc tưởng khó mà chủ tịch xã chỉ thấy giản dị có thế.
Trụ sở xã trong vườn xoài, chen giữa các nhà trong xóm. Trẻ em từ trên sàn nhảy xuống sông tắm, đùa cười vang động quanh nhà. Ở đâu có tiếng trẻ cười nói ở đấy có niềm vui. Dưới gầm sàn mấy nhà, những khung cửi dệt bỏ xó đã lâu, mới được lôi ra. Cả những những con cúi đánh sợi chỉ màu, không biết người trong xóm mua ở đâu hay vẫn giấu giếm được.
Một chị để trần lưng, ngồi trên khung cửi cắm cúi đưa thoi. Sợi nâu sáng đỏ nhạt, sợi ngang, sợi dọc, đan qua, đan lại. Chị đứng dệt những tấm vải may xà-rông. Đây là vuông vải váy mầu đầu tiên từ bốn năm nay. Mai kia rộn ràng trên đường làng và các phiên chợ những tấm váy hồng sáng dịu - mầu vốn được ưa chuộng của chị em Khơ-me.
Chủ tịch Hiêng, phó chủ tịch Chúa và đồng chí trưởng công an xã, cùng đi ra đồng. Tất cả đều vác xới như mọi người. Các xóm đang xới cỏ ngô cỏ đậu, vun luống thuốc lá. Ai nấy vẫn chỉ có bộ quần áo đen. Người người mải miết vun đất, san luống, trên lưng khoác súng. Đấy là đội viên đội tự vệ của xã.
Chủ tịch Hiêng đã từ Xtung Treng trở về làng, bây giờ vẫn chưa biết tin vợ con ở đâu, sống hay chết. Phó chủ tịch Chúa, cả nhà đã bị chúng đem cắt tiết, chỉ mình Chúa chạy thoát.
Tôi đã qua nhiều vùng, nhiều cánh đồng, nhưng chưa đâu thấy người ta đông vui như ở cách đồng Kông-pông Bếch. Trên bãi ven xóm, ven làng ngô đã lên xanh.Mọi người mới trở về, ùa ra đồng gieo ngô, không cần biết ruộng xóm nào, nhà nào. Trên cánh đồng, lúa mố trải dài xanh mờ. Không một khoảng bỏ hoang. Cả những miếng bãi thừa thẹo bên lạch nước cũng được đánh luống tra đậu, trồng thuốc lá. Trong đầu xóm, những giàn hóp đã được bắc sẵn như giàn hoa, đợi đưa dưa leo bắt lên.
Đường qua cánh đồng, người lũ lượt đi chợ, tấp nập, đông vui. Những chị đội hũ dầu lạc, hũ mắm, vắt vẻo hai tay, bước thong dong. Rồi người đội rau lang, rau muống, vác bó hom sắn. Người xách lồng có mấy con ngỗng con - ngỗng giống mang về nuôi. Những xe bò chở đồ đất nung. Đủ thứ nồi, hỏa lò, chảo, khuôn bánh, chõ xôi, cái ang, cái vò...
Những chiếc xe bò kéo đôi, bánh lênh khênh, chất đầy đồ đất nung ngất ngư qua nhịp cầu bắc ngang lạch nước, dưới bóng cây me hoa vàng lăn tăn rơi.
Có hai thanh niên lực lưỡng, vác xới đến giơ tay bắt tay tôi và tự giới thiệu:
- Thưa ông, chúng tôi trước ở Phnôm Pênh. Chúng tôi là sinh viên luật trường đại học Phnôm Pênh.
Các cậu ấy cũng đen gắm đen gúi với bộ quần áo đen nhờ nhệch bụi, không cách nào phân biệt được họ với mọi người trong làng, nếu các cậu ấy không nói tiếng Pháp.
Rồi tôi ngờ ngợ, nhớ ra hình như đã gặp một cậu đi đường cầm cái đàn ghi-ta mới. Phải rồi, cậu này. Tôi hỏi:
- Làm thế nào sống được tới hôm nay?
Cả hai người cùng cười, nét mặt bâng khuâng.
- Thưa ông, tôi không hiểu sao nữa. Nhưng tất nhiên, đã bốn năm, hôm nay tôi mới lại dám nói một câu tiếng Pháp. Tôi bị đuổi ra khỏi thành phố, bị vào đội lao động, lên đây làm ruộng. Mấy lần ốm tưởng chết. Anh này cũng giống như tôi. Cái may mắn trời cho là không cấp trên nào biết tông tích chúng tôi. Nếu người ta biết, chắc chết rồi.
Đột nhiên, tôi hỏi:
- Tối hôm qua, các cậu đánh trống phải không?
- Vâng, trống và đàn, và múa hát.
- Đêm nào cũng múa lăm thôn?
- Thưa vâng.
- Thế khi còn Pôn Pốt?
- Không ai dám bước chân khỏi nhà, từ chập tối.
Một cậu nói:
- Thưa ông, tiếng trống vui đêm trên đất nước chúng tôi, quanh năm ở đâu cũng nghe. Tôi được nghe như thế từ thủa bé. Chúng tôi đã lớn lên trong tiếng trống những đêm hội hát “dù kê”. Chỉ có ma quỷ, bọn mất giống người ấy mới cấm tiếng trống mà thôi.
Nhớ tiếng trống múa lăm thôn đầm ấm vòm lên ánh trăng bến nước đêm qua.
Chúng tôi đã về tới trụ sở xã. Dòng sông trắng xóa ngay sau lưng. Người đi nương, ra cánh đồng, người đáp thuyền lên trụ sở có việc. Thuyền sang ngang mà người cứ đứng chong chỏng cả đám. Tiếng cười nói vang vang.Khói thuốc lá um từng đám trên đầu thuyền, từ ngang sông lên trước cửa trụ sở.
Sang sông qua Kông-pông Chàm, tôi ăn sáng với một đơn vị vượt sông của bộ đội giải phóng. Lữ đoàn này, trong cuộc tổng công kích đã bắc cầu cho các đợt qua sông Mê Kông của quân giải phóng vào Kông-pông Chàm tới Phnôm Pênh.
Giặc bỏ Kông-pông Chàm, hốt hoảng chạy hết. Những chiếc giang thuyền nằm chết trên bãi cát, những thuyền buồm bị bắn cháy trơ lườn như bộ xương cá, những hầm hào nham nhở…
Bến phà bộ đội giải phóng vượt sông chiến đấu, bây giờ là bến đợi - đúng nghĩa tên gốc:Kông-pông: bến, Chàm: đợi. Chưa bao giờ như bây giờ, bến đợi người bên này sông sang bên kia sông làm cỏ ngô. Từ sáng sớm đã vun vút sang ngang những thuyền độc mộc đủ loại, thuyền gỗ, thuyền thân thốt nốt bổ đôi, có cả đuôi tôm gắn máy - cơ hồ còn sót lại thứ thuyền gì qua lại được thả tất xuống sông, người đứng đò ngang đông chen vai, tiếng cười nói vang mặt nước.
Chỉ đến lúc trông thấy cái tàu chiến mắc cạn, ống khói nghiêng như bị gió thổi rạp xuống, mới nhớ đây đã từng là mặt trận và trận tấn công chiếm Kông-pông Chàm của quân giải phóng đã phá vỡ tuyến phòng ngự Phnôm Pênh.
Những đám nổi lửa thổi cơm lập lòe mép nước đêm hôm qua, đã xuống bè xuôi về quê từ lúc mờ sáng. Mấy đứa trẻ gầy leo khoeo cởi truồng đứng giữa bè, nhìn lại bến vẫn chỉ thấy một màu hoa phượng đỏ rực và im lặng hoang vắng.
Trên bến thị xã, một đám các cô bộ đội nữ Cam-pu-chia mặc quân phục đương xuống phà.
Cũng trạc tuổi ấy, nếu váy áo đen tuyền, trông ai cũng như ai, con gái cũng như bà già, nhưng đi đã nhiều đường đất, tôi gặp rất ít ông già, bà già. Những kham khổ ròng rã đã làm các cụ chết vãn cả rồi hay sao. Vâng, bà già chống gậy cũng như nhiều nạ dòng, cũng như cô gái mười bảy, nếu cùng trong váy áo lam lũ, ai cũng chỉ một màu xám ngắt giống nhau.
Những cô gái mười bảy hai mươi trong bộ quần áo chiến sĩ thì khác hẳn. Trước nhất, ở đôi mắt ngời sáng. Chiếc mũ lưỡi trai đội nghiêng, hơi làm dáng một chút đấy. Ống tay áo sơ-mi ka-ki xanh nhạt xắn cao, đôi cánh tay đen giòn.
Cô bộ đội đến, chào giơ tay ngang mũ rồi mỉm cười lễ phép hỏi chúng tôi:
- Các đồng chí về Phnôm Pênh hay các đồng chí lên Xiêm Riệp?
- Chúng tôi chỉ đi đến Chơng Prâng.
Cô ấy im lặng.
Rồi nói:
- Tưởng về Phnôm Pênh, cho chúng em đi nhờ xe.
- Đồng chí về Phnôm Pênh?
- Vâng, em về Phnôm Pênh rồi đi Xoài Riêng.
- Đồng chí đi công tác?
- Không. Em đi tìm mẹ em.
Rồi cô kể cô tên là Út, quê ở thị xã Xoài Riêng. Bốn năm trước, cô bị bắt ra khỏi nhà, vào đội lao động nữ, phải lên làm ruộng trên Xiêm Riệp.
Từ đấy, bặt tin gia đình. Em có còn sống? Anh trai đi đâu? Mẹ thế nào? Bọn lính canh tra hỏi có biết chữ không, cô chỉ lắc đầu. Nếu bảo biết chữ chắc chết. Ngày ngày, cô đi chăn bò. Bốn năm chăn bò, ngày mưa cũng như ngày nắng. Không còn biết năm tháng nữa.
Xiêm Riệp được giải phóng. Những người sống sót đều xin theo bộ đội. Cô Út vào bộ đội từ ngày ấy.
Bây giờ Út được đơn vị cho về Xoài Riêng tìm mẹ. Cả mấy cô cùng đi với nhau.
Tôi hỏi:
- Các cô cùng về Phnôm Pênh?
- Vâng.
Tôi không hỏi thêm. Nhưng chắc chắn những cô Ô Pênh, cô Van Na ấy cũng đương đi tìm gia đình. Khắp các con đường trên đất nước đâu cũng ngổn ngang người trở về làng, người đi tìm người nhà.
Đường nắng chang chang, chiếc xe bò lắc lư lăn bánh. Nắng trưa mỗi lúc thu tròn bóng thì trên mặt đường cũng thưa dần. Cây che mát ven đường không còn nữa, xe phải tìm vào tránh nắng trong cửa rừng. Hai gọng càng buộc treo ngang lên, chiếc xe đứng giơ càng thành hai cái ghế ngồi. Cả nhà núp bóng cây ô môi, thổi cơm trưa ăn.
Những chiếc xe và lũ lượt người xúm quanh đi trên những con đường hun hút, thăm thẳm nắng. Hai bên đường, đã lâu không người đi lại, cỏ tranh mọc thành rừng, lởm nhởm quanh vùng cây bị đẽo vỏ khoanh quanh gốc đứng chết khô.
Nhưng không. Chúng không thể đánh chết được cả một dân tộc. Cây thốt nốt cũng như người, không thể chết được. Những cây thốt nốt mà từ thân cây tàu lá, chùm quả và dòng nước ngọt trong thân đều cho cái sống nuôi người. Cây thốt nốt tự nhiên như sự sống của dân tộc Khơ-me dũng cảm.
Khác nào, chúng không thể làm thịt hết trẻ con. Bây giờ lại thấy những em bé chăn trâu, chăn bò, nghe tiếng xe ngoài đường, chạy ào ra giơ tay. Những bàn tay vẫy như gió đưa cành lá non, vượt lên trên sự hủy diệt.
Lại gặp đám cưới. Cứ ra đường lại trông thấy đám cưới. Cả đất nước đang tỏ rõ niềm vui to lớn của đời người bằng những cuộc sum họp lứa đôi. Cái bạt dù che nắng trong gốc cây trước nhà. Những chiếc bàn kê ghép lại. Người chen vai ngồi, ồn ào ăn uống. Ông cụ ôm chiếc trống cơm, mỗi khi vỗ tay vào mặt trống lại nghiêng đầu hất bộ râu trắng lên. Chiếc dây song treo mười sáu cái kẻng đồng, dùi gỗ gõ liên tiếp. Tiếng phách, tiếng trống nổi lên… giàn nhạc plêng-xiêm rộn rã bắt đầu.
Chú rể quấn xà-roỏng màu điều, cổ áo sơ-mi trứng sáo thắt cà vạt hoa vàng. Và, cũng hớn hở chẳng khác đám trẻ thấy xe chạy qua, người trong tiệc cưới đứng lên, mặt đỏ gay, giơ tay vẫy chúng tôi. Ai cũng biết mỗi người đương khẩn trương mỗi việc trên đất nước đương phải làm lại tất cả. Nhưng cứ vẫy, vẫy gọi, vẫy mời. Cái vẫy tỏ niềm vui con người.
Dưới đò bờ sông, thủng thỉnh đi lên hai nhà sư áo vàng. Đi trên đất Chùa Tháp cả mấy hôm rồi cũng không thấy một chỏm chùa, không bóng một tấm áo vàng nhà chùa. Nhưng cũng như vô vàn cây thốt nốt khắp nơi, cũng như tiếng trẻ hồn nhiên lại gặp, tấm áo vàng nhà sư, không biết đây là áo mới hay áo nhà chùa đã cất giấu được trước khi các sư sãi phải tập trung đi lao động khổ sai. Chấm áo vàng, những chấm áo vàng tươi, nhởn nhơ.
Huyện Chơng Prâng giữa ngã ba hai tỉnh Kông-pông Chàm và Kông-pông Chnăng.
Tôi đến với đội công nhân sửa đường đầu làng Pa-thia ra bến Prek-đam. Chúng tôi nghỉ lại đấy. Cơm xong trời vừa tối và trăng đã lại lên. Cữ này đương tuần trăng. Dưới trăng bình yên, tôi được cái thú lang thang trong yên tĩnh, cứ việc dừng lại, ngả lưng dưới ánh trăng.
Trăng sáng mênh mang trong lán cỏ của công trường, trông ra bóng trăng lao xao trên từng chiếc lá. Chốc chốc nghe tiếng xoài rụng, như quả xoài đương lăn ngay ngoài màn. Đom đóm đàn lập lòe phía bờ tre. Anh em nói đằng ấy cũng có cái hố chôn chung. Trên bờ hố còn thấy nhiều áo trẻ con. Người làng cũng không biết trẻ con ở đâu chúng nó đem đến giết chỗ ấy.
Những đàn đom đóm bay, gió lập lòe rập rờn lúc bốc cao, lúc là xuống mặt cỏ.
Đêm càng khuya càng lặng im. Tiếng xe ô tô qua ngoài đường cái đã vãn. Thỉnh thoảng, chỉ còn nghe lạch cạch, vẫn cái bánh xe bò của người trở về quê, có lẽ người ta cố đi đêm cho được quãng đường mát. Thế nhưng ngoài đường cái đầu xóm lại rộn lên tiếng trẻ con cười hát và tiếng gầu nước bờ giếng, người tắm giội nước ào ào... Trẻ con rỡn trăng, người trong xóm ra giếng tắm dưới trăng. Cũng không biết trẻ trong xóm ra đùa chơi hay trẻ con ở những xe bò nghỉ ghé đêm ven đường. Tiếng gàu kéo nước, tiếng tắm gội, tiếng trẻ đùa cười, những tiếng yên lành, tiếng cuộc đời.
Người chơi trăng khuya tới lúc nào mới chịu đi ngủ, lúc nào tiếng kéo nước tắm mới ngớt. Vị rượu thốt nốt ngọt lành lúc nãy vẫn thơm man mác. Tiếng hát, tiếng trống vờn lên, lại có múa lăm thôn ở đâu rồi.
Những nếp nhà mà công trường làm đường đương ở, những cái nhà kỳ quái. Thật không ai rõ là nhà gì, bởi nhà còn đương làm dở dang. Nền nhà còn chưa đắp.Chỉ biết vật liệu làm nhà đều đã bị dỡ từ các nhà trong làng ra. Chiếc cột gỗ được bào lại, vết đục hốc cột cũ còn lồi lõm trên những rui mè, cầu phong. Gạch ngói cũng thế, hòn mới hòn cũ loang lổ vàng khè, đen sạm, khấp khểnh.
Hình như là trại lính, cả huyện Chơng Prâng đã phải về đắp nền, dỡ nhà trong làng ra làm. Người ở công trường kể dạo mới đến, chỗ nào cũng phảng phất mùi thối xác chết, mà không rõ ở đâu.
Ruồi nhặng ghê gớm, kinh khiếp. Nhiều không biết cơ man nào, khắp nước rùng rợn ruồi nhặng. Nhiều đến vốc tay được. Quanh bữa ăn, nhặng vù vù đen ngòm, xanh lè từng đám đậu vào bát đĩa, vào mặt. Chớp mắt, nhấp nháy, ruồi tưởng mồi động đậy, đậu cả vào mắt, rồi ruồi đuổi theo đũa, chui vào miệng.
Phải ăn cơm ở đầu nhà và chập tối mới dám dọn. Nhưng ruồi nhặng ở đây cũng không biết sợ bóng tối. Đầu tiên, mọi người còn xua xua, sau, xua không xuể, mà ăn càng dềnh dàng, nhặng càng kéo đến nhiều, đành chỉ có cách ăn nhanh. Có hôm đã phải tính ăn cơm lúc trời tối hẳn. Nhưng anh em bảo ăn lúc nào nó cũng đến. Tôi không tin. Rồi quả nhiên, bữa cơm đầu tiên, tôi thấy nhặng bay trong bóng tối, nghe vù vù rồi cứ từng nắm, lép nhép bay vào mặt, vào miệng...
Công trường làm đường này thật bồng bột trong quang cảnh dữ dội đặc biệt thế. Những khuôn mặt nắng cháy. Người trong làng cũng hăng hái ra làm giúp. Người quảy đất, người máy ủi, máy xúc, người trồng cỏ dưới nắng lửa táp.
Quãng đường này, từ Kông-pông Chàm về Phnôm Pênh bị đứt ba ki-lô-mét trong trận lụt lớn mùa thu năm ngoái.
Cam-pu-chia - Việt Nam xa-ma-ki chay-dô! Cam-pu-chia - Việt Nam đoàn kết muôn năm! Các bạn Khơ-me ai cũng nói câu ấy, ai cũng thuộc, tôi cũng thuộc.
Chủ tịch xã Xang Xôm cũng lên công trường, có sức lực của người xã Pa-thi góp vào đội tự vệ, anh Út, anh Chít, anh Sâng, anh Chàng mà tôi làm quen từ hôm mới đến cũng có mặt. Mọi người, vai quảy cỏ, vai vẫn khoác súng như mọi khi. Trên lưng đê, những chiếc xe ủi lăn rầm rầm. Người trong làng, cả trẻ con cũng kéo ra xem máy làm. Có những đứa đứng nhìn trong bóng mát cây ô môi. Có đứa thích quá, chạy ràn rạt theo xe lăn trên đê nắng.
Chợ ở đầu xóm mỗi lúc một đông. Cái chợ như người ốm vừa được vực lại, còn xào xạc, nhưng đã ra cái chợ. Các chị bắc bếp nướng chuối, rán chuối. Người bán mớ cá và những bó măng chua. Một khay mật thốt nốt trắng sùi bọt. Có người bày trên mảnh lá buông, những chiếc gương soi, con chỉ đỏ và kim băng. Cả những cái chũm, cái nơm bắt cá, chiếc chảo đất, cái hũ đựng nước cũng được để ra dọc đường cái. Một bà có tuổi, váy đen bạc, trải miếng ni-lông đặt các thứ hành hẹ, thịt lợn, xoong nước dùng, bánh phở và rá, húng dổi. Biết ngay đấy quán hủ tiếu. Khói lên ngào ngạt thơm mùi nước dùng và mùi chuối rán.
Người trên đường tạt vào ngồi làm bát hủ tiếu. Có người bước tới, tay xách cái xoong mới. Có người đặt xuống cạnh mình những hom sắn và bộ lưới vừa mua được. Cả góc chợ xúm lại hỏi mua lưới ở đâu, lấy hom sắn ở đâu.
Chợ thị xã Kông-pông Chàm, chợ ngã ba Xuông, ngã ba Kông-pông Thom, chợ cây số 6 Phnôm Pênh hay chợ trên bến Niếc Lương, đâu cũng như vậy, còn phờ phạc, nhưng vui.
o O o
Đêm sáng trăng, trẻ con ra đường chơi đến tận khuya. Người kéo nước giếng tắm rào rào mãi khuya còn nghe. Có lúc, một quả xoài rơi ngay ngoài liếp, tôi chợt thức. Không biết lúc ấy mấy giờ, ánh trăng trong leo lẻo. Nhìn ra cánh đồng đương đợi mưa để lấy nước cày, đồng trăng mênh mông, bóng cây thốt nốt ban đêm trông càng rõ, như những chiếc dù che.
Tiếng gà gáy xa xa. Gà gáy nửa đêm hay gà gáy sáng. Tiếng gà đối đáp xôn xao dần lên. Lắng nghe đâu có tiếng mõ tụng kinh chùa nào cúng sớm thế, khuya thế. Hay mõ cúng ông Tà - hòn đá thần tài - trước cửa mỗi nhà. Chủ đã trở lại, người ta cúng cho ông Tà được biết đường trở về.
Kí Ức Đông Dương Kí Ức Đông Dương - Tô Hoài Kí Ức Đông Dương