Outside of a dog, a book is man's best friend. Inside of a dog it's too dark to read.

Attributed to Groucho Marx

 
 
 
 
 
Tác giả: Jo Nesbo
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Đỗ Quốc Dũng
Upload bìa: Đỗ Quốc Dũng
Số chương: 52
Phí download: 6 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1233 / 33
Cập nhật: 2017-08-25 12:57:34 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 32: Chứng Khiếm Khứu
ình trạng tắc nghẽn giao thông giờ tan tầm đã bắt đầu, và trên phố Grønlandsleiret, những người làm công ăn lương đi ô tô chậm chạp nhích qua Sở Cảnh sát. Một chú chim chích đậu trên cành cây nhìn cái lá cuối cùng rụng xuống rồi bị cuốn lên và bồng bềnh lượn qua cửa sổ của phòng họp tầng năm.
“Tôi không giỏi diễn thuyết trước đông người.” Bjarne Møller mào đầu, và những ai đã từng nghe Møller phát biểu đều gật đầu đồng tình.
Một chai rượu sâm banh nhãn hiệu Opera giá bảy mươi chín krone, mười bốn cái cốc nhựa vẫn nguyên trong hộp, và tất cả mọi người từng tham gia vào vụ Kẻ Hành quyết chờ Møller nói nốt.
“Trước hết, tôi muốn chuyển lời chúc mừng nồng nhiệt từ phía Hội đồng thành phố Oslo, ngài Thị trưởng và ngài Giám đốc Sở Cảnh sát và cảm ơn tất cả các bạn vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Như các bạn đều biết, chúng ta đã phải chịu áp lực khá lớn khi nhận ra mình đang phải đối mặt với một tên cướp ngân hàng hàng loạt…”
“Tôi không biết lại có loại cướp ngân hàng nào khác đấy!” Ivarsson nói to và nhận được một tràng cười. Ông ta chọn cho mình một chỗ ở cuối phòng, cạnh cửa ra vào, để từ đó có thể quan sát tất cả các cảnh sát trong phòng họp.
“Tôi cho rằng anh có thể nói vậy,” Møller mỉm cười. “Điều tôi muốn nói là… ừm… như các bạn đã biết… chúng ta đều vui mừng vì vụ này đã kết thúc. Trước khi nâng ly, tôi muốn nói một lời cảm ơn đặc biệt tới người đáng được khen ngợi nhất…”
Harry có thể cảm thấy những người khác đang nhìn mình. Anh ghét những dịp như thế này. Các sếp phát biểu, phát biểu trước các sếp, cảm ơn những tên hề, vở tuồng nhảm nhí.
“Rune Ivarsson, người đã chỉ đạo cuộc điều tra. Xin chúc mừng anh, Rune.” Một tràng vỗ tay nổi lên.
“Anh có muốn nói vài lời không, Rune?”
“Không,” Harry nghiến răng lầm bầm.
“Vâng, tôi xin nói đôi lời,” Ivarsson đáp. Các cảnh sát được mời tới nhất loạt nghển cổ lên. Ông ta hắng giọng. “Không may là tôi không có quyền để nói, giống như anh đã nói lúc nãy, Bjarne ạ, rằng tôi không giỏi diễn thuyết trước đông người. Bởi vì tôi giỏi thật.” Tiếng cười lại rộ lên. “Và từ kinh nghiệm là người phát biểu trong những buổi tổng kết về thành công của những vụ án khác, tôi biết rằng để cảm ơn từng người thì chắc sẽ mất cả ngày. Các bạn đều biết rằng công việc của cảnh sát là một công việc mang tính tập thể. Beate và Harry có vinh dự là những người trực tiếp phá án, nhưng cả nhóm đã tạo nền tảng cho thành công đó.”
Harry sửng sốt nhìn cả phòng gật đầu tán thành.
“Vì vậy, xin cảm ơn tất cả các bạn.” Ivarsson nhìn khắp lượt các cảnh sát ngồi trong phòng, hiển nhiên là nhằm để từng cá nhân đều cảm thấy được chú ý và cảm ơn. Rồi, với giọng vui vẻ hơn, ông ta hô to, “Mở sâm banh nào!”
Ai đó đưa chai rượu cho ông ta và, sau khi lắc một hồi, ông ta bắt đầu mở cái nút bần ra.
“Tôi chẳng hứng thú gì với trò này,” Harry thì thào với Beate. “Tôi chuồn đây.”
Cô nhìn anh với vẻ quở trách.
“Coi chừng!” Cái nút bần nổ tung rồi phóng thẳng lên trần nhà. “Mọi người cầm cốc lên nào!”
“Xin lỗi!” Harry nói. “Hẹn gặp ngày mai nhé.”
Anh đi qua phòng để lấy áo khoác. Trong thang máy đi xuống, anh tựa vào thành thang máy. Tối qua, anh mới được ngủ có vài tiếng trong căn nhà gỗ của Albu. Sáu giờ sáng nay anh đã lái xe tới ga tàu ở Moss, tìm một trạm điện thoại công cộng và số của đồn cảnh sát Moss để báo về cái xác trên bờ biển. Anh biết họ sẽ gọi cho cảnh sát Oslo xin trợ giúp. Khi anh về tới Oslo lúc tám giờ, anh bèn tới quán Kaffebrenneriet ở Ullevalsveien và uống một tách cortado[5] cho tới lúc chắc chắn vụ án đó đã được giao cho những người khác và anh có thể trở về văn phòng bình an.
Cửa thang máy trượt mở, Harry bước ra rồi đi qua cửa tự động. Bước vào bầu không khí mùa thu lạnh giá, quang đãng của Oslo, vốn được báo cáo là ô nhiễm hơn không khí ở Bangkok. Anh tự nhủ rằng không việc gì phải vội và buộc mình bước chậm lại. Hôm nay, anh không muốn nghĩ tới bất cứ chuyện gì, chỉ ngủ và hy vọng là sẽ không mơ thấy gì hết. Hy vọng ngày mai tất cả mọi cánh cửa đều khép lại sau lưng anh.
Tất cả, trừ một cánh cửa. Cánh cửa sẽ không bao giờ khép lại, cánh cửa mà anh không muốn khép lại. Nhưng anh sẽ chưa nghĩ tới nó, cho tới ngày mai. Rồi anh sẽ đi dạo với Halvorsen ngoài bờ sông Akerselva. Dừng lại bên cái cây mà họ đã tìm thấy xác cô. Dựng lại lần thứ một trăm chuyện đã xảy ra. Không phải bởi họ đã quên mất điều gì, mà là để lấy lại cái cảm giác đó, cái mùi xộc vào mũi đó. Nghĩ đến mà anh đã thấy sợ.
Anh đi theo lối mòn giữa đám cỏ. Lối đi tắt. Anh không nhìn về phía nhà tù xám xịt bên trái. Nơi Raskol lúc này hẳn đã tạm cất bàn cờ vào hộp. Họ sẽ không bao giờ tìm được thứ gì ở Larkollen hay bất cứ đâu khác để định tội tên Di gan đó hay bất cứ tay chân nào của hắn, ngay cả khi chính Harry đảm trách vụ này. Họ sẽ phải theo đuổi lâu đến khi nào cần thiết. Kẻ Hành quyết đã chết. Arne Albu đã chết. Công lý giống như nước, Ellen từng nói vậy. Nó luôn tìm được một cách nào khác. Họ biết điều đó không đúng, nhưng ít ra thì đó là một lời nói dối đôi lúc có thể giúp họ khuây khỏa.
Harry nghe thấy tiếng còi hụ. Anh đã nghe quen từ lâu rồi. Những chiếc xe màu trắng gắn đèn màu xanh quay tít chạy vụt qua anh và đi khuất xuống dưới phố Grønlandsleiret. Anh đã cố gắng không nghĩ đến lý do mà chúng được gọi đi. Có lẽ chẳng liên quan tới anh. Mà nếu có thì cũng phải đợi đã. Đến mai.
○○○
Tom Waaler nhận ra là anh ta đến quá sớm. Những người dân sống trong tòa chung cư sơn vàng nhạt này còn nhiều việc khác để làm hơn là ru rú trong nhà suốt ngày. Anh ta vừa nhấn cái nút cuối cùng trên hàng nút. Anh ta đang quay người định bước đi thì nghe thấy cái giọng lẹt xẹt trong loa kín: “A lô?”
Waaler quay phắt lại. “Xin chào, đó có phải là…” Anh ta nhìn vào bảng tên cạnh cái nút. “Astrid Monsen không?”
Hai mươi giây sau, anh ta đã đứng ở đầu cầu thang, nhìn vào khuôn mặt lốm đốm tàn nhang, sợ sệt đang ngó nhìn anh ta từ phía sau khóa dây xích an toàn.
“Tôi vào được chứ, chị Monsen?” anh ta hỏi, nhe hàm răng của mình ra trong nụ cười đặc biệt của David Hasselhoff.
“Không thì hơn,” chị ta nói the thé. Có lẽ chị ta không xem phim Baywatch.
Anh ta bèn giơ thẻ ngành ra.
“Tôi tới để hỏi xem liệu chị có thể cung cấp thông tin gì về cái chết của Anna Bethsen hay không. Chúng tôi không còn chắc chắn rằng đây là một vụ tự sát nữa. Tôi biết là một đồng nghiệp của tôi đang tự mình tiến hành điều tra và tôi không rõ là chị đã nói chuyện với anh ta chưa.”
Tom Waaler từng nghe nói rằng động vật, nhất là những loài săn mồi, có thể đánh hơi thấy nỗi sợ hãi. Điều đó không làm anh ta ngạc nhiên. Anh ta chỉ ngạc nhiên là không phải tất cả mọi người đều đánh hơi thấy nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi có mùi hăng gắt, thoảng qua như nước đái bò.
“Chị sợ gì vậy, chị Monsen?”
Hai đồng tử của chị ta càng dãn rộng ra hơn nữa. Cần ăng ten của Waaler lúc này rung tít.
“Sự giúp đỡ của chị rất quan trọng đối với chúng tôi,” Waaler nói. “Khía cạnh quan trọng nhất trong mối quan hệ giữa cảnh sát và người dân là sự thành thật, chị có đồng ý không?”
Mắt chị ta lơ đãng nhìn đi chỗ khác và anh ta bèn đánh bạo: “Tôi tin là đồng nghiệp của tôi có dính dáng gì đó đến vụ án này.”
Cái cằm chị ta trễ xuống và chị ta nhìn Waaler với ánh mắt bất lực. Trúng phóc.
Họ ngồi trong bếp. Những bức tường màu nâu đầy những nét vẽ của trẻ con. Waaler đoán chị ta là một bà dì có cả đàn cháu. Anh ta ghi chép trong lúc chị ta nói.
“Tôi nghe thấy một tiếng rầm trong hành lang, và khi tôi đi ra thì thấy một người đàn ông lăn kềnh trên đầu cầu thang trước cửa nhà tôi. Anh ta rõ ràng là bị ngã nên tôi đã hỏi xem anh ta có cần giúp đỡ gì không, nhưng anh ta nói gì nghe chẳng rõ. Tôi bèn đi lên tầng trên và bấm chuông nhà Anna Bethsen, nhưng cũng không thấy ai trả lời. Khi đi xuống tôi đỡ anh ta dậy. Mọi thứ trong túi anh ta văng tung tóe. Tôi nhặt được ví của anh ta, trong đó có tên và địa chỉ nhà anh ta. Rồi tôi dìu anh ta ra phố, vẫy một cái taxi không có khách và đưa địa chỉ cho người lái xe. Tất cả những gì tôi biết chỉ có vậy.”
“Và chị chắc đó chính là người sau đó đã tới thăm chị? Tức là Harry Hole ấy?”
Chị ta nuốt khan. Rồi gật đầu.
“Tốt rồi, chị Astrid. Làm thế nào chị biết được là anh ta ở trong nhà Anna ra?”
“Lúc anh ta tới tôi đã nghe thấy.”
“Chị nghe thấy anh ta tới và chị nghe thấy anh ta đi vào căn hộ của Anna?”
“Phòng làm việc của tôi ở ngay cạnh hành lang. Ngồi trong đó anh có thể nghe thấy mọi thứ. Tòa nhà này yên tĩnh lắm; không có nhiều người ra vào đây.”
“Chị có nghe thấy động tĩnh nào khác gần căn hộ của Anna không?”
Chị ta ngần ngừ. “Tôi nghĩ là tôi đã nghe thấy có ai đó rón rén đi lên phòng Anna sau khi cảnh sát đã rời khỏi đó. Nhưng nghe như tiếng chân phụ nữ. Giày cao gót ấy mà. Nó phát ra tiếng khác hẳn. Nhưng tôi nghĩ đó là bà Gundersen ở tầng ba.”
“Vậy sao?”
“Cứ hễ đi uống rượu ở quán Gamle Major về là bà ta thường đi rón rén.”
“Chị có nghe thấy tiếng súng nào không?”
Astrid lắc đầu. “Những bức tường giữa các căn hộ được cách âm tốt lắm.”
“Chị có nhớ biển số của chiếc taxi đó không?”
“Không.”
“Chị nghe thấy tiếng động mạnh ở ngoài hành lang vào lúc mấy giờ?”
“Mười một giờ mười lăm.”
“Chị hoàn toàn chắc chắn chứ, chị Astrid?”
Chị ta gật đầu. Hít một hơi sâu.
Waaler ngạc nhiên trước sự chắc chắn đột ngột trong giọng nói của chị ta: “Anh ta đã giết cô ấy.”
Waaler cảm thấy mạch đập nhanh hơn. Một chút thôi. “Điều gì khiến chị nói thế, chị Astrid?”
“Tôi biết có gì đó không ổn khi nghe người ta bảo Anna tự sát đêm đó. Chẳng phải là có người nằm say bí tỉ trên cầu thang đấy sao, còn cô ấy thì không ra mở cửa. Tôi đã định gọi cho cảnh sát nhưng rồi anh ta đã tới đây…” Chị ta nhìn Tom Waaler như người chết đuối vớ được cọc. “Câu đầu tiên anh ta hỏi tôi là tôi có nhận ra anh ta không. Và đương nhiên là tôi hiểu ý anh ta là gì.”
“Vậy ý anh ta là gì, chị Astrid?”
Giọng chị ta vót lên nửa quãng tám. “Một kẻ giết người hỏi nhân chứng duy nhất liệu họ có nhận ra mình không? Anh nghĩ sao? Anh ta tới để cảnh cáo tôi nếu tôi tố giác anh ta. Tôi đã làm theo ý muốn của anh ta. Tôi đã bảo với anh ta là tôi chưa bao giờ nhìn thấy anh ta.”
“Nhưng chị đã bảo rằng sau đó anh ta quay lại để hỏi chị về Arne Albu cơ mà?”
“Đúng thế, anh ta muốn tôi gán tội cho kẻ khác. Anh phải hiểu là lúc đó tôi sợ đến mức nào. Tôi đã giả vờ là không nhận ra và thuận theo ý anh ta…” Tom nghe thấy những tiếng nức nở bắt đầu bóp nghẹt những dây thanh quản của chị ta.
“Nhưng bây giờ thì chị đã sẵn lòng nói cho chúng tôi biết chuyện này rồi chứ? Trong một phiên tòa phải tuyên thệ?”
“Vâng, nếu như các anh… nếu như tôi biết là tôi sẽ được an toàn.”
Tiếng chuông báo có email phát ra từ một căn phòng khác. Waaler nhìn đồng hồ, đã bốn rưỡi. Anh ta phải hành động nhanh, nếu được thì phải ngay trong tối nay.
○○○
Lúc bốn giờ ba mươi lăm phút, Harry mở cửa căn hộ và ngay lập tức nhớ ra anh quên béng đã hẹn Halvorsen cùng tới phòng tập đạp xe. Anh hất giày ra, đi vào phòng khách rồi nhấn nút PLAY trên chiếc máy trả lời tự động đang nhấp nháy. Là Rakel gọi.
“Tòa sẽ ra quyết định vào thứ Tư này. Em đã đặt vé máy bay vào thứ Năm. Mẹ con em sẽ về tới sân bay Gardermoen lúc mười một giờ. Oleg hỏi là liệu anh có thể tới đón mẹ con em không.”
Mẹ con em. Cô đã kể là quyết định sẽ có hiệu lực ngay tức thì. Nếu họ thua thì sẽ chẳng có mẹ con em nào mà đón, chỉ là một người đã mất tất cả.
Cô không để lại số điện thoại để anh gọi lại, báo rằng mọi chuyện đã kết thúc và cô không cần phải ngoái nhìn sau lưng nữa. Anh thở dài và ngồi thụp xuống cái ghế bành màu xanh. Nhắm mắt lại và nhìn thấy cô ở đó. Rakel. Tấm ga trải giường màu trắng lạnh giá đến mức nó khiến da anh như phải bỏng, những tấm rèm hầu như không lay động trên ô cửa sổ để mở và một dải ánh trăng lọt vào, chiếu lên cánh tay trần của cô. Anh nhẹ nhàng lướt đầu ngón tay trên mắt, bàn tay, đôi vai nhỏ, cái cổ cao, thanh mảnh, và đôi chân đang quấn lấy chân anh. Anh cảm thấy hơi thở bình thản, ấm áp của cô trên cổ anh, nghe thấy nhịp thở phát ra từ cái thân hình đang say ngủ đó thay đổi hầu như không nhận ra khi anh nhẹ nhàng ve vuốt eo lưng cô. Bờ hông cô cũng khẽ dịch chuyển về phía anh như thể cô chỉ đang ngủ đông và chờ đợi.
○○○
Lúc năm giờ chiều, Rune Ivarsson nhấc máy điện thoại nhà tại Østeras và nói với người gọi rằng cả gia đình ông ta vừa mới ngồi vào bàn ăn. Bữa ăn có ý nghĩa thiêng liêng với gia đình họ; vui lòng hãy gọi lại sau có được không?
“Xin lỗi đã làm phiền ông, Ivarsson. Tôi Tom Waaler đây.”
“Chào, Tom,” Ivarsson nói với miếng khoai tây nhai dở trong miệng. “Nghe này…”
“Tôi cần xin lệnh bắt Harry Hole ngay. Cùng với lệnh khám nhà anh ta. Thêm năm người tiến hành khám nhà. Tôi có lý do để tin rằng Hole có dính líu tới một vụ giết người theo chiều hướng rất không hay.”
Miếng khoai tây nghẹn lại trong họng Ivarsson.
“Việc khẩn đấy,” Waaler nói. “Có nguy cơ là bằng chứng sẽ bị tiêu hủy.”
“Bjarne Møller,” Ivarsson chỉ thốt ra được cái tên đó giữa những cơn ho.
“Phải, tôi biết rằng nói đúng ra thì đây là trách nhiệm của Møller,” Waaler nói. “Nhưng tôi cược là ông sẽ đồng ý với tôi là ông ấy thiên vị. Ông ấy và Harry đã làm việc với nhau mười năm rồi mà.”
“Anh nói có lý. Nhưng cuối ngày hôm nay chúng tôi còn phải làm một việc khác nữa, vì vậy lính của tôi đều bị trói chân trói tay cả rồi.”
“Rune…” Đó là vợ Ivarsson. Ông ta do dự, không muốn làm bà vợ bực mình. Ông ta đã về muộn hai mươi phút sau vụ ăn mừng bằng sâm banh, rồi chuông báo động ở chi nhánh Grensen của ngân hàng Den norske lại kêu rinh lên.
“Tôi sẽ trả lời anh sau, Waaler. Tôi sẽ gọi cho các cố vấn pháp luật của cảnh sát để xem tôi có thể làm gì.” Ông ta hắng giọng và nói thêm, đủ to để cho bà vợ nghe thấy. “Sau khi chúng tôi ăn xong.”
○○○
Harry tỉnh giấc khi nghe thấy tiếng đập cửa. Não bộ anh tự động kết luận rằng người đó đã đập cửa một lúc rồi và biết chắc là Harry có nhà. Anh bèn nhìn đồng hồ đeo tay. 5 giờ 55 phút. Anh đã mơ về Rakel. Anh vươn vai và đứng lên khỏi ghế.
Tiếng đập cửa lại vang lên. Mạnh.
“Đọc rồi, được rồi,” Harry kêu lên và đi ra cửa. Anh lờ mờ nhìn thấy một bóng người qua lớp kính gợn sóng trên cửa. Hẳn là người hàng xóm nào đó, Harry thầm nghĩ, vì họ không gọi bằng điện thoại nội bộ.
Anh vừa đặt tay lên tay nắm cửa thì thấy mình dừng lại. Một cảm giác nhói lên ở cổ. Mắt anh hoa lên. Mạch đập hối hả. Vô lý. Anh bèn mở cửa ra.
Là Ali. Mặt cau lại.
“Anh đã hứa hôm nay sẽ dọn kho của anh trong tầng hầm rồi cơ mà,” anh ta nói.
Harry vỗ trán.
“Khỉ thật! Xin lỗi anh, Ali. Tôi đãng trí quá đi mất.”
“Không sao đâu, Harry. Tối nay nếu anh rảnh thì tôi sẽ giúp anh một tay.”
Harry nhìn anh ta ngạc nhiên. “Giúp tôi á? Tôi chỉ cần mười giây là dọn xong chỗ đó. Nói thật là tôi không nhớ nổi mình có gì để dưới đó nữa, nhưng cũng được.”
“Đó là những thứ có giá trị mà, Harry.” Ali lắc đầu. “Anh đúng là khùng khi để những món đồ như vậy trong tầng hầm.”
“Chuyện đó thì tôi không rõ. Tôi ra quán Schrøder ăn chút gì đã. Rồi tôi sẽ ghé qua, Ali.”
Harry đóng cửa, ngồi thụp xuống ghế và nhấn điều khiển từ xa. Bản tin thời sự phát bằng ngôn ngữ ước hiệu. Harry từng thụ lý một vụ phải thẩm vấn vài người điếc và anh đã học được vài ước hiệu. Anh cố gắng khớp các cử chỉ của phóng viên với dòng chữ chạy bên dưới. Chiến sự Trung Đông không có gì mới. Một người Mỹ bị đưa ra tòa án binh vì chiến đấu cho Taliban. Harry không xem nữa. Thực đơn trong ngày của quán Schrøder, một tách cà phê, một điếu thuốc lá, anh thầm nghĩ. Đi xuống tầng hầm rồi về thẳng giường ngủ. Anh cầm điều khiển định tắt ti vi đi thì cho thấy người phóng viên xòe các ngón tay ra rồi giơ ngón cái lên. Đó là một ước hiệu mà anh nhớ được. Có ai đó đã bị bắn. Harry liền nghĩ ngay tới Arne Albu, nhưng anh ta lại bị chết ngạt. Mắt anh liếc xuống dòng phụ đề chạy bên dưới. Anh chết sững trên ghế. Rồi nhấn nút điều khiển điên cuồng. Đây là tin xấu - có thể là rất xấu. Dịch vụ viễn truyền văn bản không cung cấp được gì nhiều hơn so với dòng phụ đề.
Nhân viên ngân hàng bị bắn trong vụ cướp. Tên cướp đã bắn một nhân viên thu ngân tại chi nhánh Grensen của ngân hàng DNB ở Oslo vào chiều nay. Tình trạng của nhân viên này hiện rất nguy kịch.
Harry đi vào buồng ngủ và bật máy tính lên. Vụ cướp là tin trang nhất của báo điện tử. Anh nhấp đúp chuột:
Chi nhánh ngân hàng này đang chuẩn bị đóng cửa khi một tên cướp đeo mặt nạ xông vào, giơ súng lên và ra lệnh cho nữ trưởng chi nhánh lấy tiền ra khỏi cây ATM. Do việc lấy tiền không diễn ra theo đúng thời gian được yêu cầu, hắn đã bắn một nhân viên ngân hàng ba mươi tư tuổi. Tình trạng của người phụ nữ bị thương được cho biết là rất nguy kịch. Trưởng Đơn vị Chống Cướp Rune Ivarsson nói rằng lực lượng cảnh sát hiện chưa tìm được đầu mối và không có bình luận gì về những ý kiến cho rằng vụ cướp này có cùng phương thức với những vụ cướp được tiến hành bởi người được đặt biệt danh là Kẻ Hành quyết. Tuần qua, cảnh sát đã thông báo rằng hắn được tìm thấy, đã chết ở d’Ajuda, Brazil.
Có thể chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên. Đương nhiên là có thể. Nhưng không phải vậy. Không thể nào. Harry đưa một tay lên vuốt mặt. Đây là điều mà anh vẫn sợ suốt từ bấy đến giờ.
Lev Grette chỉ cướp một ngân hàng. Những vụ tiếp theo được thực hiện bởi một kẻ nào đó khác. Một kẻ đã thành thục. Thành thục đến mức hắn lấy làm tự hào vì đã bắt chước được Kẻ Hành quyết thực sự tới tận chi tiết đẫm máu cuối cùng.
Harry cố gắng hãm luồng suy nghĩ đó lại. Anh không muốn nghĩ ngợi thêm chút nào về những vụ cướp ngân hàng nữa. Hay là chuyện nhân viên ngân hàng bị bắn. Hay những hậu quả của chuyện hóa ra có tới hai Kẻ Hành quyết. Nguy cơ anh có thể sẽ lại phải làm việc dưới sự chỉ đạo của Ivarsson và trì hoãn vụ án của Ellen.
Dừng lại. Hôm nay không nghĩ gì nữa. Để mai.
Nhưng hai chân anh vẫn kéo anh ra sảnh, và những ngón tay anh tự động nhấn số của Weber. “Harry đây. Có gặp may gì không?”
“Đương nhiên là có rồi.” Giọng Weber có vẻ hưng phấn một cách đáng ngạc nhiên. “Rốt cuộc thì người tốt luôn gặp may mà.”
“Thế mà giờ tôi mới biết đấy,” Harry nói. “Nói đi nào.”
“Beate Lønn đã gọi cho tôi từ Nhà Đau đớn trong lúc chúng tôi đang ở ngân hàng. Cô ấy vừa mới bắt đầu xem những cuốn băng ghi lại vụ cướp thì phát hiện ra điều gì đó thú vị. Tên cướp đứng gần tấm nhựa phân cách phía trên quầy giao dịch trong lúc hắn nói chuyện. Cô ấy bảo bọn tôi kiểm tra xem có nước bọt bắn vào không. Lúc đó vụ cướp mới xảy ra được nửa tiếng nên vẫn có cơ may tìm ra gì đó.”
“Và?” Harry sốt ruột hỏi.
“Không thấy chút nước bọt nào trên tấm vách ngăn cả.”
Harry rên lên.
“Nhưng một giọt nước tí tẹo do hơi thở đọng lại.”
“Thật à?”
“Ừ, thật.”
“Chắc là có ai đó dạo này hay cầu nguyện buổi tối. Chúc mừng, Weber.”
“Tôi đoán là chúng ta sẽ có hồ sơ ADN trong vòng ba ngày nữa. Sau đó chúng ta có thể bắt đầu so sánh. Tôi đoán là từ nay đến cuối tuần chúng ta sẽ lần được ra hắn.”
“Hy vọng là ông đoán đúng.”
“Đương nhiên.”
“Cảm ơn vì đã thỏa mãn cơn tò mò của tôi.”
Harry cúp máy và mặc áo khoác vào. Anh đang định đi thì nhớ ra chưa tắt máy tính bèn đi vào phòng ngủ. Khi anh tới để nhấn nút tắt nguồn thì anh nhìn thấy nó. Tim anh đập chậm lại và máu trong mạch dồn lại. Anh vừa nhận được email. Đương nhiên là anh vẫn có thể tắt máy. Lẽ ra anh nên làm vậy, có gì gấp đâu. Có thể là bất kỳ người nào gửi. Chỉ có một người là không thể. Lúc này sao mà Harry thấy muốn mình đã trên đường tới quán Schrøder thế không biết. Lững thững trên phố Dovregata, thắc mắc về những đôi giày đang lơ lửng giữa trời và đất, thích thú nhớ lại những hình ảnh trong giấc mơ về Rakel. Những việc kiểu như vậy. Nhưng đã quá muộn rồi; những ngón tay của anh lại tự hoạt động. Những bộ phận bên trong của chiếc máy tính kêu ro ro. Rồi cái email hiện ra. Lần này khá dài.
Chào Harry,
Sao mặt mày lại dài ra thế kia? Chắc mày nghĩ mày sẽ không nhận được thư của tao nữa chứ gì. Cuộc đời còn nhiều bất ngờ lắm, Harry ạ. Một điều mà trước lúc mày đọc thư này Arne Albu hẳn đã phát hiện ra. Tao và mày, chúng ta đã làm cho cuộc sống của hắn điêu đứng, phải không? Nếu tao không nhầm thì vợ hắn đã bỏ hắn và giữ lấy mấy đứa con. Ác quá, nhỉ? Cướp đi gia đình của một gã đàn ông, nhất là khi mày biết đó là điều quan trọng nhất trong cuộc đời một con người. Nhưng hắn tự làm thì phải tự chịu thôi. Tội không chung thủy có bị trừng phạt bao nhiêu cũng không đủ, mày có đồng với tao không, Harry? Dù sao thì món nợ máu nho nhỏ của tao cũng dừng ở đây.
Nhưng vì mày đã bị lôi vào chuyện này dù là thành phần vô tội, nên có lẽ tao nợ mày một lời giải thích. Lời giải thích khá đơn giản. Tao yêu Anna. Tao thật lòng yêu nàng. Con người nàng và những gì nàng mang đến cho tao.
Không may là nàng lại không yêu cái mà tao mang tới cho nàng. Cái chữ H[6] to đùng. Cái Giấc ngủ mê man đó. Mày có biết nàng có sẵn máu nghiện ngập không? Như tao đã nói, đời còn lắm bất ngờ. Tao đã đưa nàng đến với ma túy sau một cuộc trưng bày nghệ thuật thất bại - nói toạc ra là như vậy. Nàng và ma túy dường như sinh ra để cho nhau vậy; mê ngay từ mũi tiêm đầu tiên. Anna là khách hàng và người tình bí mật của tao trong suốt bốn năm. Nói cách khác, hai vai trò đó không thể tách rời.
Khó hiểu hả, Harry? Vì mày không hề nhìn thấy dấu vết tiêm chích nào khi mày lột quần áo của nàng ra phải không? Phải rồi, “mê ngay từ mũi tiêm đầu tiên” chỉ là một cách nói thôi. Mày biết đấy, Anna không chịu nổi kim tiêm. Bọn tao dùng giấy bạc bọc kẹo sô cô la Cul’a để hít heroin. Tốn kém hơn tiêm chích nhiều. Mặt khác, Anna lại luôn mua được với gã bán sỉ miễn là cặp với tao. Chúng tao - nói thế nào nhỉ? - không thể tách rời nhau. Cứ nghĩ đến những lan đó, nước mắt tao lại ứa ra. Nàng làm bất cứ việc gì mà một người đàn bà có thể làm cho một gã đàn ông: nàng ngủ với tao, cho tao ăn, cho tao uống, mua vui cho tao và an ủi tao. Và van xin tao. Nói chung, điều duy nhất nàng không làm là yêu tao. Sao chuyện đó lại khó khăn đến thế nhỉ, Harry? Nàng đã yêu mày, trong khi mày chẳng làm cái chó gì cho nàng cả.
Thậm chí, nàng còn có thể yêu được cả Arne Albu. Mà tao lại cứ nghĩ rằng hắn là một thằng đần nàng đang moi tiền để mua ma túy theo giá thị trường, hòng tránh xa tao một thời gian.
Nhưng rồi một buổi tối tháng Năm, tao gọi cho nàng. Tao vừa ngồi tù ba tháng vì mấy tội vặt, và tao với Anna đã lâu không nói chuyện. Tao bảo nàng là chúng tao nên ăn mừng. Tao đã nhận được loại hàng tinh khiết nhất thế giới từ xưởng sản xuất ở Chang Rai. Tao có thể nhận ra ngay tức khắc có gì đó không ổn qua giọng nàng. Nàng bảo mọi chuyện đã kết thúc. Tao đã hỏi nàng rằng nàng đang nói tới H hay là tao, và nàng đáp, cả hai. Mày biết đấy, nàng đã bắt đầu với cái tác phẩm sẽ khiến nàng được nhớ tới, nàng nói vậy, và việc đó cần đầu óc tỉnh táo. Mày cũng biết là Anna bướng bỉnh đến thế nào một khi đã quyết tâm theo đuổi điều gì, vì vậy, tao dám cá là mày không hề phát hiện ra ma túy trong máu nàng. Phải không?
Thế rồi nàng kể với tao về gã đó, Arne Albu. Họ đang đi lại với nhau và có kế hoạch dọn về sống chung. Trước tiên hắn phải giải quyết với vợ đã. Từng nghe câu đó rồi phải không, Harry? Tao cũng vậy.
Trong khi cả thế giới đang đổ vỡ tan tành mà đầu óc ta vẫn có thể tập trung được, chẳng lạ sao? Trước khi gác máy tao đã biết mình phải làm gì. Trả thù. Man rợ quá à? Không hề. Trả thù là sự phản xạ của con người có tư duy, một sự pha trộn phức tạp của hành động và sự kiên định mà cho tới nay không một loài động vật nào khác đạt tới trong quá trình tiến hóa. Nói về tiến hóa, hành động trả thù đã cho thấy nó hiệu quả đến mức chỉ có những kẻ có lòng căm thù mãnh liệt nhất trong số chúng ta mới sống sót. Trả thù hay là chết. Nghe như tên một bộ phim cao bồi miền Tây ấy nhỉ, nhưng nên nhớ rằng chính logic của sự trả thù đã tạo ra nhà nước dựa trên hiến pháp. Lời hứa thiêng liêng rằng mắt trả bằng mắt, kẻ có tội bị thiêu dưới hỏa ngục hoặc ít ra là bị treo cổ. Trả thù về căn bản là nền tảng của văn minh, Harry ạ.
Vì vậy, tối hôm đó tao đã ngồi xuống và vạch ra một kế hoạch. Tao lên kế hoạch đơn giản thôi.
Tao đặt Trioving đánh cho tao một chiếc chìa khóa căn hộ của Anna. Tao sẽ không nói với mày tao đã làm thế nào. Sau khi mày rời khỏi đó thì tao vào.
Anna đã lên giường. Nàng, một khẩu Beretta M92 và tao đã có một cuộc trò chuyện khá lâu và đầy thấu hiểu. Tao bảo nàng tìm thứ gì đó mà Arne Albu đã đưa cho nàng - một cái thẻ, một lá thư, một tờ danh thiếp, bất cứ thứ gì. Kế hoạch là để nó ở trên xác của nàng để giúp mày liên hệ vụ giết người với hắn, nhưng nàng lại chỉ có một tấm ảnh chụp gia đình hắn tại căn biệt thự gỗ mà nàng đã rút trộm từ trong cuốn album gia đình hắn. Tao đoán cái đó có lẽ hơi bí hiểm và chắc mày cần thêm một chút trợ giúp. Vì vậy tao nảy ra một ý. Ngài Beretta đã thuyết phục nàng nói cho tao biết cách vào được căn nhà gỗ của Albu. Chiếc chìa khóa được để ở trong cái đèn ngoài hiên.
Sau khi bắn nàng - tao sẽ không kể chi tiết vì chuyện đó ít kịch tính một cách đáng thất vọng (chẳng có chút sợ hãi hay hối tiếc) - tao đã nhét tấm ảnh vào trong chiếc giày của nàng rồi lập tức đến thẳng Larkollen. Tao đã nhét chiếc chìa khóa dự phòng của Anna vào trong chính biệt thự đó, như tao chắc là giờ này mày đã nhận ra. Tao đã nghĩ tới chuyện gắn nó vào bên trong két nước bồn cầu, đó là chỗ ưa thích nhất của tao, như chỗ Michael trong phim Bố già giấu súng. Nhưng có lẽ mày sẽ không có đủ trí tưởng tượng mà tìm ở đó, vả lại làm thế cũng chẳng để làm gì. Vì thế, tao đã để nó ở trong ngăn kéo kệ đầu giường. Dễ ợt, phải không nào?
Sân khấu thế là đã dựng xong, và mày và những con rối khác có thể bước vào. Mà tao hy vọng là mày đừng bực mình vì những cú hích nhẹ của tao nhằm tiếp đà cho mày trong quá trình đó nhé. Trí thông minh của đám cảnh sát chúng mày thực ra là chẳng có gì đáng lo ngại. Ý tao là không cao đến mức đáng lo ngại.
Cáo biệt. Cảm ơn đã đồng hành và giúp đỡ. Hân hạnh được làm việc cùng mày, Harry.
TBK.
Kẻ Báo Thù Kẻ Báo Thù - Jo Nesbo Kẻ Báo Thù