Cuộc chiến thật sự là giữa những gì bạn đã làm, và những gì bạn có thể làm. Bạn so sánh bạn với chính mình chứ không phải ai khác.

Geoffrey Gaberino

 
 
 
 
 
Tác giả: Oscar Wilde
Số chương: 10
Phí download: 2 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 13
Cập nhật: 2021-08-28 15:43:32 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 6: Giấc Mơ Của Một Nhà Vua Trẻ
huyện xảy ra vào đêm trước ngày lễ đăng quang, nhà vua trẻ ngồi một mình trong căn phòng đế vương của mình. Những viên cận thần đã rút lui ra hết, họ cắm mặt xuống đất theo nghi lễ trong cái ngày trọng đại này rồi theo đúng trật tự đi đến phòng khánh tiết trong cung điện để học những bài học cuối cùng từ một giáo sư về lễ tân.
Cậu bé – bởi vì vua mới là một cậu bé 16 tuổi – không cảm thấy buồn rầu vì họ đã để cậu lại một mình bởi vì cậu có thể lún sâu trong chiếc ghế bành êm ái có đặt những tấm nệm thêu mà thở dài nhẹ nhõm. Nằm ở đấy trong tư thế tự nhiên, thoải mái, đôi mắt nhìn bâng quơ, cái miệng hé mở, trông nhà vua khác nào tượng thần Điền dã có nước da nâu giòn hoặc một con thú nhỏ bị người đời giăng bẫy.
Mà quả thật, chính những người thợ săn đã tìm ra Hoàng tử bằng một trùng hợp ngẫu nhiên nhất trong lúc cậu đi chân đất với một ống sáo trên tay đang đi theo một đám trẻ chăn dê nghèo khổ con những người đã nuôi nấng cậu – những đứa trẻ mà bao giờ cậu cũng rất thấy thoải mái khi ở bên cạnh. Cậu là kết quả cuộc hôn nhân bí mật của nàng Công chúa duy nhất của đức vua đương triều với một chàng trai lạ mặt, mà theo một số người, bằng phép màu của một cây sáo trúc đã làm cho nàng Công chúa quốc sắc thiên hương si mê như điên như dại. Một số người khác lại đồn rằng đó là một nghệ sĩ ở Rimini, một người mà Công chúa đã gặp nhiều lần và bày tỏ lòng ngưỡng mộ. Nhưng một ngày kia nghệ sĩ đột nhiên biến khỏi thành phố, để lại công việc trang trí nhà thờ trong tình trạng dở dang.
Cậu bé ra đời nhưng chỉ mới được một tuần tuổi thì bị bắt cóc khi nằm bên người mẹ trẻ đang say ngủ. Đứa bé được giao cho vợ chồng một bác nông dân tầm thường không có con sống ở một chỗ khuất nẻo sau một cánh rừng sâu, từ thành phố đi đến đấy phải mất một ngày đi ngựa. Với một trái tim tan nát – hoặc vì một cơn bạo bệnh như ngự y thông báo, hoặc như một số lời đồn đại là do một chất kịch độc có nguồn gốc từ Itali pha trong một li rượu mùi – chỉ một giờ sau khi thức dậy người mẹ trẻ đã bắt đầu cuộc hành trình trở về cõi vô tận. Trong khi đó một viên cận thần đáng tin cậy một mình một ngựa buộc hài nhi trước bụng phóng đi xa rồi dừng con ngựa sùi bọt trắng xóa vì mệt trước cánh cửa gỗ xù xì của túp lều duy nhất ở bìa rừng. Thi thể của nàng Công chúa được hạ xuống một ngôi mộ đã đào sẵn trong một sân nhà thờ bỏ hoang ngoài cổng thành. Lại có lời đồn rằng trong ngôi mộ ấy còn có một cái xác khác đang chờ sẵn, một thanh niên tuấn tú có vẻ đẹp của một người ngoại quốc, hai tay chàng bị trói ra sau lưng và ngực chàng có những vết thương há miệng, đỏ bầm.
Ít nhất thì đó cũng là câu chuyện được người này rỉ tai cho người khác. Nhưng có thể phỏng đoán là ông vua già trong lúc đang nằm trên giường bệnh chắc là cảm thấy hối hận về tội lỗi của mình, hoặc chỉ thuần túy mong muốn vương quốc của ông không lọt vào tay một dòng họ khác đã cho tìm thằng bé về. Và trước sự có mặt của toàn thể bá quan văn võ trong triều, ông đã chính thức thừa nhận cậu bé là người nối dõi ngai vàng.
Có vẻ như ngay từ những giờ phút đầu tiên được thừa nhận, cậu bé đã có những dấu hiệu cho thấy một niềm đam mê kì lạ đối với cái đẹp, một thứ đã được ấn định là có một ảnh hưởng quan trọng trong đời cậu. Những người phục vụ cho ông hoàng trẻ tuổi trong những ngày đầu thường nghe thấy tiếng reo vui sướng bật ra từ miệng cậu khi cậu nhìn thấy bộ triều phục đẹp đẽ và những món ngọc ngà châu báu dành cho mình. Với một niềm vui vô bờ bến cậu quẳng ngay sang một bên chiếc áo quê mùa xấu xí và cái áo khoác làm bằng da cừu. Sự thật là cậu thường nuối tiếc quãng đời tự do sống trong rừng và bao giờ cũng có vẻ bực bội, mất kiên nhẫn trước những nghi lễ chán ngắt trong triều, chiếm quá nhiều thời gian trong một ngày. Nhưng cung điện tuyệt vời với cái tên Niềm Vui mà bây giờ cậu làm chúa tể có vẻ như là một thế giới mới mẻ, thanh lịch đối với cậu. Khi có thể trốn thoát khỏi những buổi lên triều hoặc những cuộc nghị sự, cậu thích chạy như bay xuống cầu thang rộng thênh thang có những con sư tử bằng đồng thiếp vàng và những bậc thang làm bằng đá ban thạch nổi vân đỏ thắm, thích lang thang đi trong mê cung phức tạp từ phòng này sang phòng kia, từ cầu thang này sang cầu thang khác giống như một người kiếm tìm cái đẹp.
Những cuộc hành trình khám phá ấy, như cậu vẫn thường gọi, thực sự là những cuộc viễn du vào một xứ sở tuyệt vời mà thỉnh thoảng cậu có thể được tháp tùng bởi những tên thị đồng mảnh dẻ, măng tơ, xõa mái tóc rất kiểu cách, bận những chiếc áo khoác không tay bồng bềnh với những dải ruy băng nhiều màu bay phấp phới. Nhưng thường thì cậu ngồi một mình, cảm nhận với một phản ứng tự nhiên nhanh nhẹn gần như là một sự tiên tri rằng những bí mật của nghệ thuật tốt nhất là được học trong bí mật và rằng Cái Đẹp cũng như sự thông thái chỉ yêu những kẻ tôn thờ đơn độc.
Có nhiều câu chuyện lạ lùng liên quan đến cậu trong thời kỳ này. Người ta kể rằng có một quan tỉnh trưởng chuẩn bị sẵn một bài diễn văn hùng hồn hoa mỹ nhân danh những người dân trong tỉnh mình cai quản đến gặp vua thì thấy cậu đang quỳ gối trong một tư thế ngưỡng mộ thật sự trước một bức tranh lớn vừa được mang tới từ thành Venice, một họa phẩm thể hiện sự sùng bái đối với những vị thánh thần mới. Một lần khác vua lại biến mất vài tiếng đồng hồ và chỉ sau một cuộc tìm kiếm thật lâu họ mới phát hiện ra chàng trong một căn phòng nhỏ trong một cái tháp nằm ở phía bắc cung điện, như một người đang nhập định trước một cổ vật quý thời Hy Lạp khắc hình tượng thần Adonis. Người ta thấy chàng, như một giai thoại cho biết, áp đôi môi nồng ấm của mình vào vầng trán bằng đá hoa cương của một pho tượng cổ được khai quật ở dưới đáy một con sông trong thời gian người ta xây dựng một chiếc cầu đá bắc ngang qua khúc sông ấy. Pho tượng này được khắc lên cái tên của Bithynian, nô lệ của Hadrian. Đức vua cũng thức trắng một đêm để quan sát ảnh hưởng của ánh trăng lên một bức phù điêu bằng bạc của Endymion. Tất cả những gì quý và hiếm đều có một tác động sâu xa đến đức vua và đến nhiệt tình của vua trong việc phái các thương gia đi khắp nơi để lùng sục những món đồ đó. Một số người tìm đến tận những người đánh cá ở biển Bắc vì hổ phách, một số khác được lệnh đi Ai Cập tìm cho bằng được loại ngọc lam có màu xanh lá cây kì ảo chỉ có thể tìm thấy ở một địa chỉ duy nhất là trong những ngôi mộ cổ của các Pharaon. Đó cũng chính là loại ngọc được truyền tụng là có nhiều phép thuật. Một số nhà buôn lại lên đường đến Ba Tư tìm mua những tấm thảm lụa quý và đồ gốm, số còn lại sang tận Ấn Độ tìm mua hàng sa, ngà voi, đá mặt trăng, vòng đeo tay bằng ngọc trai, gỗ đàn hương, đồ sứ màu xanh và khăn quàng cổ bằng thứ len hảo hạng.
Nhưng cái hầu như chiếm toàn bộ sự quan tâm của đức vua chính là cái áo hoàng bào mà chàng sẽ mặc trong buổi đăng quang, một chiếc áo dệt bằng chỉ vàng cùng với vương miện dát toàn hồng ngọc và cây quyền trượng có cẩn vô số ngọc trai loại cực quý. Thực ra thì đó chính là mối bận tâm của chàng khi chàng ngả lưng trên chiếc ghế đế vương, mắt lơ đãng nhìn ngọn lửa nhảy múa trong lò sưởi. Những vật này đã qua bàn tay sáng tạo của những nghệ nhân nổi tiếng nhất đương thời và đã được trình lên chàng từ nhiều tháng trước. Chính vua đã ra lệnh cho những người thợ kim hoàn làm việc miệt mài ngày đêm để hoàn thành trước cái ngày cả thế giới sẽ nhìn vào, đánh giá những viên kim cương xem lao động của họ bỏ ra có xứng với chúng không.
Chàng hình dung mình đứng trong cung thánh nhà thờ lớn trong bộ hoàng bào đẹp nhất. Thế là một nụ cười cứ vấn vương mãi trên đôi môi non nớt và thắp sáng đôi mắt đen thăm thẳm như rừng đại ngàn.
Một lúc sau đức vua đứng dậy tựa người vào cái thành chạm trổ của một ống khói nhìn quanh căn phòng sáng mờ mờ. Tất cả các bức tường đều treo những tấm thảm thêu đẹp đẽ thể hiện chủ đề sự chiến thắng của Cái Đẹp. Một bức tranh lớn cẩn bằng đá mã não và đá xanh da trời che kín một bức tường. Quay mặt về phía một cửa sổ là một cái tủ được chạm trổ theo một phong cách rất kì lạ với những thanh gỗ sơn và khảm vàng, trên có đặt những cái li tinh xảo bằng thủy tinh Veneti và một cái li làm bằng mã não dạng dải có vân đen. Những bông hoa thuốc phiện đỏ nhạt được thêu trên những tấm vải trải giường bằng lụa trông như thể chúng vừa rơi khỏi những bàn tay mỏi mệt vì buồn ngủ, những cây sậy cao bằng ngà làm khung cho một cái lọng nhung, từ đó những cọng lông chim đà điểu thật lớn bung ra, như những đợt sóng trắng đến tận cái trần trang trí bằng bạc hơi ngả sang màu xanh. Bức tượng chàng Narcissus tươi cười bằng đồng màu xanh lá cây cầm một cái gương bóng loáng giơ lên đầu. Trên bàn là một cái tô dẹt làm bằng thạch anh tím.
Đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ chàng có thể thấy cái mái vòm vĩ đại của thánh đường hiện ra lù lù như một quả bong bóng lơ lửng trên các mái nhà. Đội quân cấm vệ mệt mỏi đi lên đi xuống trên con đường mờ sương cạnh bờ sông. Xa hơn nữa trong khu vườn thượng uyển, một con chim họa mi hót réo rắt. Làn hương thoang thoảng của hoa nhài bay qua ô cửa sổ mở rộng. Chàng vén những lọn tóc quăn màu hạt dẻ rủ xuống trán, lấy ra một cây đàn luýt, để những ngón tay của mình lang thang trên những sợi dây đàn. Đôi mắt với hàng mi dày khép hờ, một trạng thái mệt mỏi lạ lùng lướt qua. Chưa bao giờ chàng cảm thấy một nhiệt tình nóng bỏng đến thế, hoặc một niềm vui tuyệt đích đến thế – sự huyền diệu và bí ẩn của cái đẹp.
Khi chuông đồng hồ trên tháp canh điểm 12 giờ đêm, chàng nhấn vào một cái chuông, hai thị đồng hiện ra cởi ngự bào, rưới lên tay chàng nước ép hoa hồng, rải một ít cánh hoa lên gối. Vài phút sau khi họ ra khỏi phòng, đức vua trẻ chìm sâu vào trong một giấc ngủ.
Đây là giấc mơ của ông hoàng trẻ tuổi. Chàng thấy mình đang đứng trong một gian phòng áp mái dài và thấp, giữa tiếng quay và tiếng động lách cách của nhiều khung cửi. Ánh ngày vàng vọt chiếu qua những ô cửa sổ soi cho chàng thấy những thân hình còm nhom của những người thợ dệt đang cúi xuống khung cửi. Những đứa bé xanh xao, bệnh hoạn cúi người dưới những cái xà ngang lớn. Khi những con thoi đánh qua khung cửi, họ nhấc những thanh gỗ nặng lên, khi thoi dừng lại họ cho những thanh gỗ rơi xuống ép sợi lại với nhau. Vẻ đói khát hiện lên trên những khuôn mặt hốc hác, mệt mỏi. Mấy người đàn bà gầy xơ gầy xác ngồi bên bàn may. Một cái mùi thum thủm khó chịu tràn ngập nơi này. Không khí hôi hám nặng nề, các bức tượng rịn ra dòng mồ hôi nhơm nhớp bẩn thỉu vì trời ẩm.
Nhà vua trẻ đến gần một người thợ dệt, đứng ngay cạnh anh ta quan sát. Người này ngước nhìn chàng, ánh mắt giận dữ: “Tại sao ngươi đứng đấy nhìn ta? Bộ ngươi muốn do thám ta rồi về báo cáo cho ông chủ phải không?”
“Ai là ông chủ của các ông?”
“Ông chủ chúng tôi à?” Người thợ dệt đay lại giọng mỉa mai. “Ông ta cũng là một người như tôi thôi. Thật thế, chỉ có một điều khác biệt duy nhất, ông ta mặc quần áo đẹp còn tôi thì ăn mặc rách rưới và trong khi tôi ốm yếu vì đói khát thì ông ta khỏe mạnh vì cơm no rượu say”.
“Đây là mảnh đất tự do,” ông vua trẻ nói, “và ông không phải là nô lệ của một ai cả”.
“Trong chiến tranh,” người thợ dệt đáp, “người mạnh biến kẻ yếu thành nô lệ, trong hòa bình người giàu biến người nghèo thành nô lệ. Chúng tôi phải làm việc để sống và họ trả cho chúng tôi đồng lương rẻ mạt để chết đói. Chúng tôi làm việc hùng hục cho họ ngày cũng như đêm để cho bọn chúng chất đầy vàng vào hòm. Con cái chúng tôi tàn úa trước khi kịp lớn, gương mặt của những người mà chúng tôi yêu trở nên khó coi và độc ác. Chúng tôi đạp nho để làm rượu cho kẻ khác uống. Chúng tôi gieo trồng lương thực nhưng bụng thì trống rỗng. Chúng tôi mang xiềng xích đấy, chỉ có điều mắt người không nhìn thấy. Chúng tôi là nô lệ nhưng người ta lại gọi là những công dân tự do”.
“Điều này xảy ra với tất cả mọi người à?” Đức vua hỏi.
“Với tất cả mọi người. Trẻ cũng như già, đàn ông cũng như đàn bà, trẻ nhỏ cũng như người ốm. Bọn nhà buôn áp bức bóc lột chúng tôi, bằng những cái giá cắt cổ. Bọn cha cố đi qua nỗi đau khổ của chúng tôi, một mực làm ngơ chỉ cắm đầu cắm cổ lần tràng hạt, không kẻ nào đoái hoài đến chúng tôi. Trên những con hẻm tối tăm không có ánh mặt trời. Đói khát bước đi với đôi mắt hau háu và theo sau nó là Tội ác với bộ mặt đần độn. Nhưng tất cả những chuyện ấy thì có nghĩa lí gì với ngươi kia chứ? Bởi vì ngươi đâu phải là một người trong chúng ta. Khuôn mặt ngươi hớn hở thế kia!” Nói đoạn người thợ dệt bực bội quay đi, ném một con thoi vào máy dệt và nhà vua trẻ nhìn thấy đó là một con suốt cuộn những sợi chỉ vàng.
Một nỗi khiếp sợ thít chặt trái tim chàng. Chàng hỏi người thợ dệt: “Cái áo ông đang dệt là cho ai vậy?”
“Đó là cái áo hoàng bào được mặc trong lễ đăng quang cho ông vua trẻ. Điều ấy có ý nghĩa gì đối với ngươi không?”
Nhà vua bật lên một tiếng kêu thống thiết, mở choàng mắt ra và thấy mình đang nằm trong cung cấm. Qua cửa sổ chàng nhìn thấy một mặt trăng lớn màu mật ong đang treo trong không gian mờ mờ.
Sau đó chàng lại thiếp đi và lại mơ, đây là giấc mơ tiếp theo.
Chàng đang nằm trong một khoang thuyền cổ của Hi Lạp được hàng trăm nô lệ còng lưng chèo. Ông chủ thuyền ngồi trên một tấm thảm trải cạnh chàng. Người ông ta đen bóng như gỗ mun, chiếc áo choàng bằng lụa đỏ thắm. Đôi hoa tai bằng bạc đung đưa trên đôi dái tai dầy, ông ta đang cầm một cái cân đĩa bằng ngà.
Những người nô lệ ở trần chỉ đánh độc một cái khố rách nát, người nọ bị xích vào với người kia. Mặt trời nóng bỏng đổ lửa lên tấm lưng trần của họ. Những người da đen đi lên đi xuống trên chiếc cầu rút, vun vút dùng roi da quất lên lưng những người nô lệ trong lúc họ sải đôi tay gầy ốm đẩy mái chèo nặng nề trong dòng nước. Những tia nước mằn mặn của biển bắn tóe lên từ những mái chèo.
Cuối cùng họ cũng đến một cái vịnh nhỏ và bắt đầu dò độ sâu. Một ngọn gió nhẹ từ trên bờ thổi xuống phủ lên boong tàu và cánh buồm lớn một lớp bụi đỏ. Ba người Ả Rập ngồi trên lưng lừa vừa phóng đi vừa quay người ném lao về phía chiếc thuyền. Ông chủ thuyền lấy cung ra bắn một mũi tên xuyên qua cuống họng một người, hắn nặng nề ngã xuống nước, đồng bọn của hắn vội vã thúc lừa chuồn mất. Một người đàn bà che mạng màu vàng cưỡi lạc đà chậm chạp đi theo, thỉnh thoảng lại ngoái đầu nhìn lại cái xác chết.
Vừa khi họ thả neo và hạ cánh buồm xuống thì những người da đen đi vào trong khoang tàu mang ra một cái thang dây dài khá nặng vì có gắn với dây dọi dò chiều sâu nước biển. Ông chủ thuyền ném một đầu dây nặng xuống nước, cột đầu thang còn lại thật chặt vào một cái trụ sắt. Sau đó những người da đen tóm một người nô lệ nhỏ tuổi nhất, đổ dầu ôliu lên người anh, đổ sáp vào hai lỗ tai và lỗ mũi anh sau đó buộc một hòn đá lớn vào thắt lưng anh. Người nô lệ trẻ tuổi uể oải trèo xuống thang rồi biến mất trong lòng biển. Bong bóng nổi lên ở chỗ chàng trai lặn xuống. Một số người nô lệ còn lại trên thuyền tò mò liếc nhìn qua mạn thuyền. Ở một mũi thuyền có một kẻ điệu bộ khá duyên dáng đang ngồi gõ trống một cách đơn điệu. Được một lát người thợ lặn trồi lên khỏi mặt nước, thở phì phò leo lên thang dây, một viên ngọc trai cầm trên tay. Người da đen nhận lấy viên ngọc rồi lại đẩy người nô lệ xuống biển. Những người nô lệ còn lại ngủ gục bên mái chèo.
Cứ thế người nô lệ trẻ tuổi lặn xuống đáy biển nhiều lần, mỗi lần ngoi lên lại mang theo một viên ngọc đẹp. Người chủ thuyền cân ngọc rồi cho vào trong một cái túi da màu xanh.
Nhà vua trẻ cố mở miệng ra nói một điều gì nhưng lưỡi chàng dường như bị dính vào vòm miệng, môi chàng cứng đơ không làm sao cử động được. Những người da đen trò chuyện với nhau một lúc rồi quay ra cãi nhau về một chuỗi hạt sáng lấp lánh. Hai con sếu lượn vòng lượn vòng quanh con thuyền.
Người thợ lặn ngoi lên mặt nước lần cuối cùng, viên ngọc anh mò được đẹp hơn cả những viên ngọc trong kho châu báu của vua Ormuz bởi vì nó tròn trịa như vầng trăng đầy đặn đêm rằm và sáng còn hơn ngôi sao buổi sớm. Nhưng khuôn mặt người nô lệ có một màu xám thật kì cục và khi anh ngã xuống boong thuyền, máu trào ra từ hai tai và mũi. Anh cựa quậy một chút rồi nằm xụi lơ. Những người da đen nhún vai không nói không rằng rồi kẻ cầm chân người nắm tay, họ nâng anh lên quẳng xuống biển.
Chủ thuyền cất tiếng cười khành khạch, giơ tay ra đón lấy viên ngọc. Ông ta giơ lên ngắm nghía săm soi hồi lâu rồi cúi chào viên ngọc và nói: “Nó sẽ được gắn lên cây quyền trượng của nhà vua”. Đoạn ông ta quay sang ra hiệu cho những người da đen nhổ neo.
Khi vị vua trẻ nghe thấy những lời này, chàng hét lên một tiếng, giật mình thức dậy. Bên ngoài cửa sổ, bình minh với những ngón tay dài màu xám đã chạm tới những ngôi sao sớm đang tan chảy. Chàng lại rơi vào một giấc ngủ đầy mộng mị khác.
Chàng thấy mình đang thơ thẩn dạo chơi trong một cánh rừng già âm u. Những cành cây lúc lỉu những trái cây kì lạ, những thân cây khác lại nở bung những bông hoa tiết ra nọc độc. Những con rắn lục xanh lè rít lên khi chàng đi qua trong lúc mấy con vẹt có bộ lông sặc sỡ vừa kêu choe chóe vừa chuyền từ cành này sang cành kia. Những con rùa khổng lồ nằm ngủ trong đám đất nóng lên dưới ánh mặt trời. Trên các cành cây, vượn ngồi vắt vẻo và lũ chim công nghiêng đầu xòe cánh.
Chàng cứ thế đi tiếp đi tiếp cho đến khi ra khỏi khu rừng và ở đấy chàng nhìn thấy cơ man là người đang hùng hục lao động dưới lòng một khúc sông cạn. Người ta leo lên vách đá cheo leo nom như một đàn kiến. Người ta đào những cái hố thật sâu rồi nhảy xuống. Một số người đẽo vào vách đá bằng những cái rìu lớn; những người khác bới đất. Họ nhổ những cây xương rồng, đào cả rễ lên rồi giẫm đạp lên những bông hoa xương rồng màu đỏ. Ai cũng hối hả, gọi nhau í ới, chẳng có ai đứng không cả.
Từ trong bóng tối của một cái hang, Thần Chết và Thần Cơ Hội quan sát đám người. Cuối cùng Thần Chết lên tiếng: “Ta mệt mỏi rồi, hãy cho ta một phần ba số người kia rồi ta sẽ đi”.
Nhưng Thần Cơ Hội lắc đầu: “Chúng là đầy tớ của ta”.
Thần Chết hỏi: “Mụ có cái gì trong tay?”
“Ta có ba gren bắp, thế còn lão có gì?”
“Vậy hãy cho ta một gren,” Thần Chết kêu lên, “để ta trồng trong vườn nhà mình, chỉ một mà thôi và ta sẽ biến.”
“Ta chẳng cho lão cái gì hết,” Cơ hội nói, giấu tay trong vạt áo.
Thần Chết cất tiếng cười, lấy ra một cái ly, nhúng nó vào hồ nước, từ trong ly bay lên thần Sốt rét. Bà ta lượn nhanh một vòng, một phần ba số người đang lao động ngã xuống chết. Một làn sương mù lạnh buốt bủa xuống theo bước chân bà ta và rắn nước từ đâu bò lổm ngổm quanh chân mụ.
Khi nữ thần Cơ Hội nhìn thấy một phần ba số nhân công ngã lăn ra chết, mụ ta đấm ngực thùm thụp kêu khóc, và gào lên: “Lão đã tàn sát một phần ba số nô lệ của ta, lão hãy cút đi ngay. Đến vùng núi của người Tarta đi, ở đó đang có chiến tranh, vua của mỗi bên đều kêu lão đến đấy. Người Afgan cũng giết hại những con bò đen, hãy đến đấy mà xem những cuộc đấu bò. Người ta đánh nhau trong những bộ áo giáp cùng giáo mác đấy, còn đội cả những mũ trụ bằng kim khí nữa. Đây là thung lũng của ta, cơn cớ gì mà lão lại nấn ná lại đây? Đi đi, và đừng bao giờ quay về đây nữa.”
“Không, cho đến khi mụ đưa cho ta một gren bắp, lúc đó ta sẽ cút”.
Cơ Hội nghiến răng trèo trẹo: “Ta sẽ không cho lão bất cứ một thứ gì hết”.
Thần Chết cười khô khốc, lấy ra một hòn đá đen ném vào trong rừng sâu và từ trong một bụi độc cần hoang rậm rạp, thần Cảm Cúm bước ra trong một bộ váy áo bằng lửa. Ả lồng lộn trong đám người, chạm vào ai là người ấy lăn ra chết. Cả đến cỏ cây cũng khô héo dưới bước chân của ả. Cơ Hội rùng mình, bốc tro để lên đầu.
“Ngươi... ngươi thật độc ác quá chừng. Có nạn đói trong các kinh thành ở Ấn Độ đấy. Còn các hồ chứa nước ở Samarcand thì cạn kiệt cả. Nạn đói cũng đang hoành hành trong các đô thành ở Ai Cập, hàng đàn châu chấu kéo đến từ các hoang mạc. Sông Nile không còn trôi chảy giữa đôi bờ nữa, các thầy tu lớn tiếng nguyền rủa Isis và Osiris. Cút đến những nơi mà người ta cần lão đi, để bọn đầy tớ lại cho ta.”
“Không, nếu mụ không cho ta một gren bắp ta chẳng đi đâu hết”.
“Lão sẽ không có được một cái gì hết”.
Một lần nữa Thần Chết lại cười, tiếng cười cụt lủn, lão huýt một hồi sáo qua những ngón tay chụm lại. Một người đàn bà bay là là đến. Bệnh dịch viết trên trán mụ, một đám đông những con kên kên háu đói bay vần vũ dưới chân mụ. Mụ dang rộng đôi cánh trùm lên toàn thung lũng, không một người nào sống sót.
Cơ Hội vừa rít lên vừa bay qua khu rừng, Thần Chết nhảy lên một con ngựa đỏ phóng đi còn nhanh hơn cả ngọn gió.
Từ trong đám bùn lầy ở lòng chảo thung lũng những con rồng bò ra, lẫn trong đó có cả những con vật khủng khiếp với lớp vảy cứng. Một bầy chó rừng chạy sục trong cát, chốc chốc lại nghếch mũi lên trời đánh hơi.
Nhà vua khóc tức tưởi trước toàn cảnh thương tâm này cất tiếng hỏi: “Những người này là ai và họ làm gì vậy?”
“Tìm hồng ngọc để dát lên vương miện nhà vua,” một người đứng sau chàng lên tiếng.
Vua giật mình quay lại thấy một người ăn mặc như một kẻ hành hương, giơ một cánh tay ra, trong bàn tay có một cái gương bạc.
Máu rút hết khỏi mặt, chàng run giọng hỏi: “Cho vua nào?”
Người hành hương đáp: “Nhìn vào tấm gương này ngươi sẽ thấy hắn”.
Và đưa mắt nhìn vào gương chàng thấy gương mặt của chính mình, thế là chàng hét lên một tiếng kêu đau đớn và tỉnh hẳn dậy. Ánh mặt trời rực rỡ của một sớm mai tươi đẹp tràn vào phòng. Từ các cành cây xanh tốt trong vườn ngự uyển chim hót rộn lên, hân hoan đón chào một ngày mới.
Tể tướng và những đại quan trong triều bước vào nghiêng mình kính cẩn trước hoàng đế của họ, bọn thị đồng dâng lên vua áo hoàng bào, vương miện và quyền trượng.
Đức vua cúi xuống nhìn, những món đồ quý giá đẹp quá chừng, còn đẹp hơn là chàng có thể hi vọng. Nhưng nhớ đến những giấc mơ hãi hùng, chàng hạ lệnh: “Mang những thứ này đi, ta sẽ không đụng đến đâu”.
Triều thần ngơ ngác, một vài người bật cười. Họ nghĩ chàng đùa.
Nhưng vua lấy sắc mặt nghiêm nghị nói với họ một lần nữa: “Mang những món này đi và đừng để cho ta nhìn thấy. Mặc dù hôm nay là ngày đăng quang, trẫm quyết không dùng đến. Trong chiếc máy của Nỗi buồn và dưới những đôi tay trắng bệch của Niềm Đau cái áo của trẫm đã được dệt nên. Có máu trong mỗi viên hồng ngọc, cái chết trong mỗi viên ngọc trai.” Đoạn vua kể cho bá quan nghe ba giấc mơ của mình.
Triều thần nghe xong đưa mắt nhìn nhau, thì thầm: “Chắc bệ hạ bị điên rồi, mơ là mơ và chỉ là mộng ảo mà thôi. Việc gì phải để tâm đến những kẻ bán sức lao động cho chúng ta. Chẳng lẽ một người sẽ không ăn bánh mì khi tận mắt thấy người trồng ngũ cốc, không uống rượu khi nói chuyện với người trồng nho?”
Tể tướng cúi đầu bẩm: “Tâu bệ hạ, thần cầu mong bệ hạ dẹp những ý nghĩ đen tối sang một bên mà mặc chiếc hoàng bào đẹp tuyệt này rồi đội vương miện lên đầu. Bởi vì thần dân làm sao nhận ra người là Chúa thượng của họ nếu người không trong bộ quần áo của hoàng đế?”
Vị vua trẻ tuổi đưa mắt nhìn tể tướng: “Có thật thế không? Họ sẽ không biết ta là vua nếu ta không mặc hoàng bào?”
“Họ sẽ không nhận ra đâu, tâu bệ hạ,” Tể tướng nói.
“Trẫm từng nghĩ trên đời này giá trị tự thân tạo ra các bậc đế vương, nhưng có thể như khanh đã nói... có thể điều đó đúng. Mặc dù vậy trẫm vẫn không mặc chiếc áo này, cũng không đội vương miện này, thậm chí trẫm bước vào đây như thế nào thì cũng sẽ ra đi như thế”.
Vua ra lệnh bãi triều, chỉ giữ lại một thị đồng làm bạn, người này ít hơn chàng một tuổi. Chàng cần đến sự phục vụ của người này. Sau khi tự tắm bằng nước mát, vua tự tay mở một cái tủ lớn sơn son thiếp vàng lấy ra một chiếc áo dài bằng da thuộc thô sơ và một chiếc áo khoác lông cừu quê mùa mà trước đây chàng vẫn mặc khi chiều chiều đứng ở ven đồi nhìn theo đàn dê đi theo người chăn dê về chuồng. Sau khi mặc xong những bộ quần áo này, chàng cầm lấy cái gậy thô của người chăn cừu.
Chú thị đồng mở to đôi mắt xanh biếc với vẻ quá đỗi ngạc nhiên, rồi mỉm cười thưa với chàng: “Tậu bệ hạ, thần thấy hoàng bào và quyền trượng của bệ hạ rồi, nhưng còn vương miện của người đâu?”
Nhà vua bẻ một cành tầm xuân bò lên ban công, uốn nó thành một vòng hoa và đội lên đầu.
“Đây sẽ là vương miện của trẫm”.
Và với cách phục sức như thế chàng rời phòng mình đi vào chính điện nơi các nhà quý tộc đang đợi.
Không khí nhốn nháo hẳn lên khi chàng đi vào, một số người hét lên: “Trời đất, người ta đợi một đấng minh quân, nhưng hóa ra đây lại là một kẻ ăn mày”. Một số người còn giận dữ hơn: “Hắn mang hổ nhục đến cho vương quốc của chúng ta, hắn không đáng làm vua”. Chàng trai không nói một lời chỉ thản nhiên đi qua bọn họ, xuống cầu thang làm bằng đá ban thạch đỏ thắm, đi ra ngoài cái cổng đồng, nhảy lên mình ngựa và phóng về phía nhà thờ, tên thị đồng chạy bộ bên cạnh chàng. Dân chúng hai bên đường chỉ trỏ, cười nhạo: “Coi kìa, đấy là thằng hề của nhà vua”.
Chàng dừng cương ngựa lại, nói: “Không, ta chính là vua đây”. Và chàng kể cho họ ba giấc mơ của mình.
Một người đàn ông tách ra khỏi đám đông, tiến lên phía trước cay đắng nói với chàng: “Tâu bệ hạ, người có biết rằng người không thể từ bỏ cuộc sống vương giả để đến với cuộc sống nghèo hèn cơ cực của chúng tôi không? Sự xa hoa của ngài là nguồn sống của chúng tôi, sự trụy lạc của bệ hạ là bánh mì của dân chúng. Lao động khổ sai cho một ông chủ cay độc thật trăm phần khốn nạn nhưng không có ông chủ nào để bán sức lao động còn khốn nạn hơn. Bệ hạ có nghĩ là sự thèm khát ngọc ngà châu báu đã nuôi sống chúng tôi không? Chẳng phải người đã nói với người mua, ‘các ngươi phải mua cho thật nhiều’. Và với người bán, ‘các ngươi phải bán giá này hay sao?’. Thần không tin việc bệ hạ đang làm sẽ mang lại điều tốt đẹp cho dân nghèo. Xin bệ hạ hãy hồi cung, mặc lên người bộ quần áo làm ra cho một bậc hoàng đế. Thần dân mạo muội xin hỏi bệ hạ định làm gì?”
“Mọi người không phải là những người anh em giàu có và nghèo khổ của nhau sao?”
“Úi trời, tên của người anh em giàu có là Cain”.
Mắt nhà vua đẫm lệ, chàng cưỡi ngựa đi trong tiếng xôn xao bàn tán của mọi người, thị đồng hoảng sợ không dám đi theo chàng nữa.
Khi chàng đi đến cổng nhà thờ lớn, bọn lính rút kích ra và nói: “Nhà ngươi làm gì ở đây? Không một ai được đi qua cánh cổng này ngoại trừ nhà vua”.
Vua đỏ mặt giận dữ nói với bọn chúng: “Ta chính là vua,” rồi gạt kiếm kích sang một bên, đĩnh đạc bước vào nhà thờ.
Vị giám mục già nhìn thấy nhà vua đi vào trong bộ đồ của một kẻ chăn dê, bèn bừng tỉnh khỏi những suy nghĩ miên man, đứng lên, tiến đến trước mặt nhà vua, nói: “Con trai của ta, đây là triều phục của một vị vua sao? Cái vương miện ta sẽ đặt lên đầu con, cây quyền trượng ta sẽ trao vào tay con đâu rồi? Chắc chắn đây sẽ là một ngày hội của niềm vui chứ không phải là một ngày làm mất thể diện quốc gia”.
“Chẳng phải là Niềm vui khoác lên người bộ y phục mà Nỗi buồn tạo ra sao, thưa Đức giám mục?”. Nhà vua trẻ đáp rồi kể lại cho giám mục nghe ba giấc mơ của mình.
Nghe xong vị giám mục già nua cau mày nói: “Con trai, ta đã là một lão già gần đất xa trời mất rồi. Trong những mùa đông của đời mình, ta đã chứng kiến bao nhiêu tội ác gây nên trong thế gian rộng lớn này. Bọn cướp cường bạo kéo từ trên núi xuống, đi đến đâu bắt trẻ con đến đấy rồi đem chúng bán cho lũ người Moor. Sư tử nằm phục sẵn chờ những người hành hương đi qua, nhảy lên ăn thịt lạc đà. Heo rừng nhổ bắp trong thung lũng, cáo gặm nhấm cây nho trên đồi. Quân cướp biển đợi sẵn trên bờ được dịp là đốt cháy những chiếc thuyền đánh cá, cướp lưới bắt cá của dân chài. Người hủi sống trong các bụi cây ngập mặn, lấy bãi sậy làm nhà, chẳng có ai dám bén mảng lại gần họ. Kẻ ăn mày lang thang trên các đường phố ăn thức ăn với lũ chó hoang. Con có thể ngăn chặn được những chuyện như thế không? Con có thể đưa những người hủi về với đồng loại? Cho kẻ ăn mày một cuộc sống ấm no? Làm cho sư tử và heo rừng vâng theo mệnh lệnh của con không? Chẳng phải là cái người đã tạo nghiệp chướng cho muôn loài là người khôn ngoan hơn con sao? Vì thế mà cha khẩn thiết van xin con đừng làm cái điều mà con đang định làm. Cha xin con hãy trở về cung điện mặc lên người bộ quần áo của hoàng đế, đội chiếc vương miện mà cha sẽ đặt lên đầu con, cầm thanh quyền trượng mà cha sẽ trao vào tay con. Còn về những giấc mơ ấy, đừng nghĩ về nó nữa. Những bất công trong cuộc đời này quá lớn so với sức chịu đựng của một con người và nỗi đau khổ của chốn nhân gian này quá nặng nề đối với một trái tim.”
“Cha nói thế trong chính ngôi nhà của Chúa hay sao?” Nhà vua hỏi, đi lướt qua vị giám mục, thong thả trèo từng bước lên cung thánh, đứng trước tượng Chúa Jesus.
Chàng đứng nghiêm trang trước tượng Chúa; tay phải Chúa cầm một chiếc li vàng đựng rượu lễ óng ánh sắc vàng, tay trái Người cầm một lọ nhỏ đựng dầu thánh. Vua quỳ xuống trước tượng Chúa, những ngọn nến sáng lên rực rỡ trong điện thờ dát toàn ngọc quý, khói của một nén hương trầm cuộn nhè nhẹ bay lên quanh những vòng hoa tươi trang trí cái mái hình vòm cuốn cao cao trong thánh đường. Vua cúi đầu cầu nguyện và các vị linh mục trong những chiếc áo lễ hồ cứng lặng lẽ rút ra ngoài.
Chợt có tiếng ồn ào kinh động từ ngoài đường phố vọng vào, rồi một đoàn kị sĩ quý tộc gươm giáo sáng lòa, đội những chiếc mũ có đính lông chim xông vào giáo đường: “Kẻ mộng mị ngu xuẩn đâu rồi?” Họ quát ầm lên. “Vua đâu – cái kẻ ăn mặc như một đứa ăn mày ấy đâu rồi? Thằng lỏi ấy chỉ mang đến nỗi nhục cho vương quốc của chúng ta.”
Vị vua trẻ lại cúi đầu cầu nguyện, khi cầu nguyện xong chàng đứng dậy, quay sang nhìn mọi người với ánh mắt buồn bã.
Nhưng kìa, ánh mặt trời rực rỡ rọi qua khung kính cửa sổ đổ lên người chàng một vầng hào quang làm cho bộ quần áo mộc mạc quê mùa của chàng như tỏa sáng, đẹp hơn bất cứ bộ quần áo nào đã từng được tạo ra với mục đích làm vui lòng chàng. Cây gậy chăn dê làm bằng một khúc cây khô chợt nở ra những bông hoa ly ly có một màu trắng còn tinh khôi hơn bất cứ một viên ngọc trai nào. Cả những chiếc gai nhọn cũng nở ra những đóa hồng tươi rói còn đỏ hơn cả những viên hồng ngọc. Trắng hơn cả ngọc trai là những đóa ly ly trong những đài hoa như thiếp bạc. Đỏ hơn cả những viên hồng ngọc là những đóa hoa hồng, trong những chiếc lá mạ vàng. Chàng đứng đó trong bộ quần áo của hoàng đế, cánh cửa điện thờ dát đầy đá quý mở ra và từ khung cửa pha lê phát lên một thứ ánh sáng nhiệm màu, huyền bí chói lọi sắc cầu vồng. Chàng đứng đấy trong bộ quần áo của hoàng đế, vinh quang của Chúa tràn ngập nơi này, các vị thánh đặt trong các bệ thờ ở các hốc tường dường như cũng cử động. Trong bộ đồ đẹp nhất của một đấng minh quân, chàng đứng trước mặt mọi người, những nhạc công bắt đầu vào cuộc: đàn organ, kèn trumpet và những chú bé trong ca đoàn.
Mọi người quỳ gối trước chàng trong một niềm tôn kính uy nghi, các nhà quý tộc cho gươm vào vỏ, tỏ lòng thành kính. Khuôn mặt của Đức giám mục tái nhợt đi, đôi tay ông run rẩy: “Đây là một vương miện còn vĩ đại hơn xin được dâng lên vua.” Ông kêu lên và phủ phục trước nhà vua trẻ.
Nhà vua lại ra khỏi thánh đường trở về cung qua những đường phố tấp nập, dân chúng tràn cả ra hai bên đường. Chẳng có ai dám nhìn thẳng vào khuôn mặt ấy bởi vì đó là khuôn mặt của một thiên thần.
Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác - Oscar Wilde Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác