What holy cities are to nomadic tribes - a symbol of race and a bond of union - great books are to the wandering souls of men: they are the Meccas of the mind.

G.E. Woodberry

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 235 / 21
Cập nhật: 2019-11-13 12:07:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 21 - Quái Vật Suy Nghĩ
sâu bên trong rừng thẳm, một cái gì đó cựa quậy.
Một tiếng nổ răng rắc có thể nghe được của dòng điện chạy vang lên, theo sau là tiếng rên rỉ lớn. Và rồi mặt đất rung chuyển như thể ở đâu đó giữa những đám cây, một sinh vật to lớn đang di chuyển.
Nói cho Philippa nghe về con quái vật ước, John dặn:
– Ráng đừng ước cho nó biến mất nhé. Chỉ tổ giúp nó tìm ra chúng ta thôi. Mà trên thực tế, đừng ước gì cả là tốt nhất.
Philippa thì thầm nói lại:
– Cái đó nói dễ hơn làm. Anh biết năm mươi phần trăm suy nghĩ đều dính đến một điều ước mà.
Hoàng đế đề nghị:
– Hay hai người tách riêng đi. Để chia nhỏ điều ước ra. Như thế con Optabellower sẽ khó xác định vị trí của chúng ta hơn.
John cương quyết lắc đầu:
– Không đời nào. Khó lắm tụi cháu mới tìm được nhau.
Thà liều một phen còn hơn.
Những cái cây lại run lên lần nữa. Vị hoàng đế nói gấp:
– Vậy thì tốt nhất hai người đừng ráng nghĩ gì. Nó đến gần rồi đó.
Philippa gợi ý:
– A, đúng rồi. Chúng ta có thể nghĩ về toán học. Một định đề toán học không thể hiện suy nghĩ hay mong ước cá nhân nào. Nó chỉ là một khái niệm đã được chứng minh. Con quái vật ước không thể phát hiện ra chúng ta nếu chúng ta làm toán trong đầu.
Dù sẽ rất khó cho John để buộc suy nghĩ của cậu tập trung vào việc làm toán mà không ước gì được làm một cái khác, cậu cũng đồng ý rằng đây là một giải pháp tốt. Có lẽ là hơn cả tốt, nếu người nghĩ ra nó là đứa em gái song sinh của cậu. Cho nên, khi Philippa chọn cách giải một vài phương trình bậc hai trong đầu, John bắt đầu nhẩm lại bảng cửu chương 13, 14, 15, 16, 17 và 18. Và trong một lúc, cả khu rừng im lìm như chết, cho thấy con quái vật ước đang khó khăn để xác định vị trí của họ. - Mười chín lần mười bảy là… ờ… ba trăm hai mươi ba.
John tự lẩm bẩm trong đầu. Với cái não mệt nhoài vì phải hoạt động hết công sức để đánh đu với mấy con số, cậu nhận ra mình không thể trụ lâu hơn nữa. Con quái vật ước nãy giờ không manh động gì, nhưng thái độ cảnh giác cao độ của Hoàng đế Nebuchadnezzar cho thấy nó vẫn ở đâu đó gần đây. Cậu phải nghĩ ra một kế hoạch nào đó tốt hơn, nếu không họ sẽ bị kẹt ở đây mãi. Thình lình cậu nảy ra một ý. Dời Finlay xuống tay, cậu nhìn thẳng vào mắt con chim cắt và nói:
– Nghe này, Horus, người có mắt phải là mặt trời và mắt trái là mặt trăng. Tao cần mày giúp một chuyện.
Finlay vỗ cánh như muốn nói tôi-đang-nghe-đây, hăm hở được làm một cái gì đó có ích cho cậu bé djinn để có thể tìm được sự tự do của mình.
John nhấn mạnh:
– Nhưng mà nguy hiểm lắm nhé.
Ngẩng cao đầu lên không trung, Finlay rít nhẹ một tiếng, như thể muốn trấn an với John rằng nó dư sức làm được bất cứ việc gì cậu muốn giao, dù chúng có nguy hiểm đến đâu.
– Tao cần mày đánh lạc hướng con quái vật ước. Tao cần mày lượn lờ phía trên đầu nó, chỉ ở ngay ngoài tầm với, và ước lớn rằng mày được biến lại thành một cậu bé. Trong khi mày làm việc đó, tao và em gái tao sẽ tận dụng cơ hội chạy ra bờ biển, và đợi mày ngoài đó. Mày thấy sao?
Finlay rít lên một tiếng ngắn và, ngay khi John nhấc tay lên trên đầu cậu, nó lập tức cất cánh và ước thật mãnh liệt được trở lại làm người. Ngay khi quay lại hình dáng ban đầu của mình, thể nào nó cũng trả thù cha nó – sẽ cho cha nó nếm mùi y như nó. Nếm mùi như thế nào thì nó hiện vẫn chưa nghĩ ra, nhưng chắc chắn chúng sẽ làm cha nó ngủ cũng gặp ác mộng.
Thoáng thấy bóng dáng mờ ảo của con quái vật, Finlay bay vút xuống, đầu không ngừng ước hết công suất. Và, cảm nhận được điều ước mãnh liệt của con chim cắt, con quái vật ước đứng dậy với một tiếng rống lớn kỳ dị khủng khiếp, và cố chụp lấy con chim với đôi tay không hình dạng của nó. Tính toán sai kích cỡ và tầm với của con quái vật, Finlay mém nữa là bị dính cú tóm chết người đó. Biết chắc luồng điện chạy quanh người con quái vật sẽ hút hết tất cả sức mạnh của nó, Finlay bay cao hơn một chút và tiếp tục ước hết công suất.
Ngay khi Finlay bay lên không trung, hoàng đế dẫn John và Philippa chạy ngược ra khỏi khu rừng rậm rạp của Iravotum. Vì những lý do mà khỏi nói chắc ai cũng biết, ông tránh con đường chính ra. Lần theo một lối mòn mà chỉ có hoàng đế mới nhận ra, chẳng mấy chốc họ đã đứng trên bờ cát vàng ở ngay rìa cái biển hồ.
Một sự ngạc nhiên đang chờ họ ở đó. Đến giờ, John đã kể cho Philippa nghe về cái chết của Alan và Neil. Cậu định sẽ cho cô thấy hai con chó lần cuối, rồi nhờ cô giúp chôn cất chúng trước khi lên thuyền. Nhưng không có bóng người lái thuyền, cũng như xác của Alan và Neil. Hai con chó không còn ở dưới tán cọ mà John đã phủ lên chúng trước khi đi.
Philippa hỏi lại:
– Anh có chắc chúng chết rồi không vậy?
John trả lời:
– Làm sao anh lầm được chứ.
– Có thể người lái thuyền đã mang chúng đi. Hoặc một người nào đó.
John nghĩ có lẽ đó là lời giải thích hợp lý nhất. Cậu không muốn nhắc đến con rắn khổng lồ hoặc con Rukhkh với Philippa, nhưng hiện giờ cậu đang nghĩ đến khả năng cơ thể hai người bạn trung thành của cậu có lẽ đã bị ăn mất. Cũng tại cậu cả, sao lại không che giấu chúng cẩn thận hơn chứ.
Tự khiển trách bản thân đã quá bất cẩn, John bước xuống lớp sóng đang nhẹ nhàng vỗ về bờ cát, giống y lúc trước, và lo lắng tìm kiếm bóng dáng người lái thuyền ở phía đường chân trời.
Một giọng đàn ông vang lên:
– Ông ấy sẽ xuất hiện ngay thôi.
Ngạc nhiên vì cái giọng này quá giống người New York để có thể là hoàng đế, John quay lại và trông thấy hai người đàn ông đang đi về phía cậu. Cả hai đều đóng bộ vét doanh nhân, và cũng chẳng ai thật sự cao lớn. Một trong số họ mang kiếng, và nhìn có phần giống cha John.
Người đàn ông mang kiếng hỏi:
– Cháu không nhận ra chúng ta sao?
Người đàn ông còn lại ngắt lời:
– Vì Chúa, làm sao chúng có thể nhận ra chúng ta được chứ? Chúng chưa thấy chúng ta bao giờ mà. Ít nhất là không phải hình dáng này.
Người đàn ông đầu tiên tủm tỉm cười:
– A, cậu nói đúng.
– Dĩ nhiên em phải nói đúng rồi.
Rồi người đàn ông không mang kiếng, người trông cũng hơi giống người kia, chỉ về phía đường chân trời và tuyên bố:
– À, thuyền của chúng ta đang đến kìa.
Người đàn ông mang kiếng nhận xét:
– Mắt cậu xem ra vẫn tinh như cũ nhỉ, Neil.
Quai hàm John muốn rớt thẳng xuống mắt cá chân.
Cậu hồi hộp hỏi:
– Bác Neil? Bác là bác Neil của cháu phải không?
– Còn ai trồng khoai đất này nữa, cậu nhóc.
Rồi bác Neil giang tay ôm lấy John, trong khi bác Alan ôm chặt lấy cô cháu gái của mình, người đang lập cập hỏi với giọng như không tin vào chính mình:
– Bác Alan? Thật sự là bác sao?
Bác Alan gật đầu:
– Ừ, bác đây. Dù bác không ngại để nói với cháu rằng, thật tuyệt khi được đi trên hai chân trở lại. Bác sẽ không nhung nhớ việc đi trên bốn chân đâu.
Nước mắt chảy dài trên khuôn mặt đầy bụi cát, John mếu máo:
– Cháu cứ nghĩ hai bác chết rồi.
Bác Alan bảo:
– Các bác cũng nghĩ vậy. Rớt một cú cao thế cơ mà.
Bác Neil lắc đầu:
– Đừng nhắc em nhớ về chuyện đó nữa. Đến giờ mà lưng em vẫn còn ê ẩm đây này.
Bật cười hạnh phúc, John hỏi:
– Chuyện gì đã xảy ra thế? Sao hai bác trở lại thành người được vậy?
Bác Neil nhún vai:
– Đừng hỏi bác. Bác còn chẳng nhớ rõ chuyện gì xảy ra sau khi con chim quái quỷ đó bay đi với hàm răng bác găm chặt vào giò nó mà. Vài giờ trước, khi thức dậy dưới một đống lá, hai bác chỉ thình lình nhận ra mình không còn là chó nữa. Vậy thôi.
Bác Alan bảo:
– Layla có lẽ sẽ giải thích được chuyện này. Nếu cô ấy ở đây. Dù gì thì cô ấy cũng là người biến các bác thành chó mà. Đó là sự trói buộc hay điều ước của cô ấy, hoặc bất cứ cái gì mà cô ấy gọi nó.
Rồi khẽ lắc đầu, bác nói thêm:
– Nhưng chúng ta đáng bị trừng phạt như thế. Sau những gì chúng ta đã làm, hoặc đã cố tình làm với cha các cháu.
John liếc nhìn phía đường chân trời, nơi cái dáng đứng trên mũi thuyền không thể lẫn được của người lái thuyền bằng đồng giờ đã hiện rõ.
Trong khi đó, bác Neil tiếp lời bác Alan:
– Từ đó trở đi, không có ngày nào mà bác không ước phải chi mình đừng làm chuyện đó. Bác thật lòng ước các bác đã không làm thế.
Bác Alan gật đầu tán đồng và nói:
– Bây giờ, điều ước lớn nhất của bác là khi gặp lại, cha các cháu sẽ tha thứ cho các bác. Bác không ước gì khác ngoài…
Hoàng đế hét lên:
– Không. Đừng nói thế. Đừng ước bất cứ điều gì!
Nhưng đã quá trễ. Cách bờ biển khoảng một trăm thước, đằng sau những tán cây, một tiếng gãy lớn, kéo theo là một tiếng rống và tiếng điện xẹt báo hiệu cho John và Philippa là con quái vật ước đang đuổi theo họ một lần nữa. Một hoặc hai giây sau đó, Finlay, lại thiếu thêm một vài cọng lông đuôi nữa sau cuộc đụng độ với con Optabellower, bay vụt xuống và chập choạng hạ cánh xuống tay John. Nó rít lớn và đập cánh liên hồi theo một cách mà nó hy vọng sẽ giúp truyền tải cho họ thông điệp khẩn cấp. Nhưng không cần đợi nó nhắc, John đã vội vã hét lớn giục người lái thuyền nhanh tay lên. Và trước sự ngạc nhiên của mọi người, người lái đò dường như tuân lệnh. Chèo nhanh hơn trước, ông vượt qua khoảng cách mấy trăm thước giữa chiếc thuyền và bờ chỉ trong chưa đầy một phút. Nhưng không phải trước khi con quái vật ước hiện ra từ những tàng cây và bắt đầu di chuyển một cách chậm mà chắc về phía nhóm người đứng lố nhố gần mép nước. Con quái vật chỉ còn cách họ chưa đầy năm mươi thước khi cuối cùng cái thuyền cũng chạm bờ và tất cả mọi người lập tức nhảy lên thuyền – tất cả, ngoại trừ hoàng đế, người kê bờ vai lông lá mạnh mẽ của mình vào mũi thuyền và phụ người lái thuyền bằng đồng đẩy thuyền rời khỏi bờ cát.
Khi thuyền đã bắt đầu có thể trôi tự do, John hét lớn với hoàng đế:
– Nhanh! Nhảy lên đi ông!
Nhưng Hoàng đế Nebuchadnezzar đã lùi lại bờ trên bốn chân như một con ngựa lo lắng. Bắt được ánh mắt sợ hãi của John, ông mỉm cười và giơ một bàn tay lông lá lên vẫy chào tạm biệt. John lại hét lên lần nữa và chỉ tay vào con quái vật ước đang tiến đến gần hoàng đế.
Hoàng đế hét lớn với cậu:
– Không sao đâu. Nó sẽ không hại ta. Giống như ta đã nói đó, John. Ta không có điều ước gì cả. Và ta nghĩ cỏ ở đây chắc xanh hơn nhiều so với phía bên kia biển.
Hoàng đế nói thêm vài điều gì đó, nhưng giọng của ông chìm lỉm trong tiếng rống giận dữ của con quái vật ước khi nó nhảy xổ xuống mép nước. Giờ đây, khi cả John, Philippa, bác Alan, bác Neil và Finlay giờ đều liều mạng ước được rời khỏi bờ biển càng nhanh càng tốt, con quái vật điên tiết lên trước viễn cảnh trốn thoát của họ. Nhưng nhiệt độ của nước biển dường như ngăn nó đuổi theo họ, và chẳng mấy chốc, tay chèo nhịp nhàng và hối hả của người lái thuyền đã bỏ lại đằng sau con quái vật được tạo bởi suy nghĩ vô thức của Ishtar với tiếng gầm bất lực của nó.
Philippa thở dài nhẹ nhõm:
– Ôi chao, xém chết.
Lo lắng liếc nhìn bầu trời, John bảo:
– Chúng ta chưa thoát hẳn đâu. Trên đường đến đây, tụi anh đã bị một con chim khổng lồ tấn công.
Philippa nói liền:
– À, chắc đó là con Rukhkh chứ gì. Em đã nghe cảnh báo về nó.
Rồi cô kể cho John nghe về Gordon Trung Quốc cùng cái miệng sự thật của ông, và việc cô đã tạo ra ngọn gió như thế nào để giúp xua đuổi con chim đi.
John không có lòng dạ nào để nói với cô rằng ngọn gió của cô không phải chỉ đẩy con chim đi, mà còn kéo theo cả Alan và Neil.
Tuy nhiên, con Rukhkh không hề xuất hiện. Bác Alan và bác Neil bảo chuyện đó không có gì đáng ngạc nhiên, nếu xét tới vết thương mà họ đã “thân tặng” cho con chim.
Bác Alan tự hào tuyên bố:
– Bác cá là còn lâu nữa con vật đó mới có thể đứng mà không chột dạ nghĩ đến các bác. Mà cái chân của nó cũng mắc cười thật đó. Mùi vị y như phô mai. Phô mai nướng.
Rồi nhăn mặt, bác nhổ nước bọt qua mạn thuyền:
– Đến giờ ta vẫn còn cảm thấy cái vị đó. Khủng khiếp thật.
Vài tiếng sau, cái thuyền cập vào bờ biển bên kia. Sau khi chào tạm biệt người lái thuyền bằng đồng (không may là họ đã quên cảm ơn cái thuyền, và cái mũi thuyền mà họ giờ khám phá ra có khả năng nói chuyện đã không ngần ngại mà thẳng thừng chê họ thô lỗ), họ chui qua cánh cửa thấp trên tường và bắt đầu hành trình ngược lên con đường xoắn ốc vòng quanh phần thân dưới đất của tháp Samarra. Và dần dần, khi họ đã lên gần đến mặt đất và nhiệt độ trở nên ấm hơn, Philippa bắt đầu cảm thấy một ít sức mạnh djinn của cô đang quay trở lại.
Bác Alan bỗng nhớ ra một chuyện:
– Nè, có ai nghĩ đến việc sẽ giải thích thế nào về sự xuất hiện đột ngột của chúng ta giữa doanh trại quân đội chưa?
Rồi quay sang nhìn John, bác nói:
– John, cháu là người duy nhất trong số chúng ta mà cái bà Trung úy Sanchez đó đã gặp. Bác không nghĩ bà ta sẽ lấy làm dễ chịu khi tìm thấy ba kẻ lạ mặt cùng một con chim cắt tại một khu vực nhạy cảm cấm vào đâu.
John nói:
– Cháu cũng đang nghĩ về chuyện đó đây.
Bác Neil bảo:
– Vậy thì cháu phải nghĩ nhanh lên đi, cháu trai. Bác không khoái chuyện bị nhốt ở xà lim Iraq và chờ họ nghĩ ra sẽ làm gì với chúng ta đâu.
Bác Alan gợi ý:
– Bác nghĩ đã đến lúc bọn trẻ các cháu triệu hồi thảm thần, hay một thứ gì đó tương tự.
John lắc đầu:
– Tụi cháu không được sử dụng sức mạnh djinn cho đến khi chúng ta về đến Jordan. Chú Nimrod đã căn dặn kỹ lưỡng về điều đó. Mà giờ thật sự cháu đuối lắm rồi. Bảo cháu biến ra một miếng lót ly còn khó, chứ nói gì đến một tấm thảm thần.
Philippa thì ngáp ngắn ngáp dài:
– Cháu cũng vậy. Chẳng biết không khí dưới kia là cái thứ không khí gì mà làm cháu kiệt sức luôn.
Bác Neil lầm bầm:
– Nhà ngục ơi, chúng ta đến đây.
John nói:
– Khoan đã. Có thể chúng ta không thể sử dụng sức mạnh djinn. Nhưng điều đó không có nghĩa chú Nimrod không thể làm gì đó.
Giờ thì họ đã ở ngay bên dưới cánh cửa dẫn lên khu lều tắm.
Rút cái điện thoại di động của mình ra, John kiểm tra xem có nhận được tín hiệu gì không. Rồi vẫy nó trước mặt hai người bác của mình, cậu tuyên bố:
– Cháu có ý này.
Không dễ gì thuyết phục Edwiges trở thành Djinn Xanh đời tiếp theo, nhưng chú Nimrod tin rằng mình có thể làm được. Biết Edwiges khó có thể từ bỏ nhiệm vụ làm sập tiệm mấy sòng bạc ở Monte Carlo của bà, chú Nimrod đã giúp bà tìm ra một nhóm người sẵn sàng mạo hiểm tiền bạc để sử dụng hệ thống của bà. Trong quán Café de Paris, đối diện một sòng bạc lâu đời nổi tiếng, chú Nimrod và bà Edwiges đã tình cờ gặp được một nhóm tám phụ nữ Anh lớn tuổi đang trong tour du lịch Cotê d”Azur bằng xe buýt do giáo hội tổ chức. Bà Edwiges xem ra rất được lòng họ, và với kỹ năng giao tiếp ngoại hạng của chú Nimrod, họ nhanh chóng hứng thú với việc dùng thử hệ thống cò quay rulet của bà.
Tám phụ nữ đến từ thị trấn Cheltenham mỗi người bỏ ra 50 euro tiền mặt để mua số lượng đồng chip trị giá 500 đô tại câu lạc bộ giải trí lâu đời và đi thẳng đến bàn cò quay rulet. Tại đây, như được hướng dẫn, họ đứng im nhìn cò quay quay mười ván mà không đặt cược gì, cẩn thận ghi lại kết quả, và rồi đặt cược dựa theo lời khuyên trong quyển booklet của bà Edwiges. Ván đặt cược đầu tiên giúp họ thắng được 18.000 đô. Ván thứ hai là 648.000 đô. Và ván thứ ba mang đến cho họ con số khó tin 23.328.000 đô. Họ có lẽ sẽ tiếp tục thắng ván thứ tư, vì giờ đây họ đã hoàn toàn tin hệ thống của bà Edwiges không thể nào thất bại, nếu không phải vì người quản lý sòng bạc quyết định đóng cửa sòng suốt ngày hôm đó. May cho ông, vì ván thứ tư sẽ mang đến cho tám phụ nữ 839 triệu đô, và sòng bạc sẽ không tránh nổi việc phá sản. Hoặc có lẽ là cả Monte Carlo phá sản. Nhưng dù sao thì bà Edwiges đã tuyên bố hoàn toàn hài lòng với kết quả này, và không lâu sau đó, chú Nimrod đã thuyết phục được bà đồng ý trở thành Djinn Xanh đời tiếp theo. Bà cùng chú Nimrod cưỡi lốc gió của chú về Amman, Jordan, nơi chú dự định sẽ liên lạc với Ayesha ngay khi nhận được tin Philippa đã được giải thoát từ John.
Chú Nimrod và bà Edwiges đang ở trong tiền sảnh khách sạn thì chú nhận được cuộc gọi của John. Sau khi chúc mừng John và nói cho cậu biết chú nhẹ nhõm thế nào khi biết cậu và Philippa đều an toàn, chú Nimrod thừa nhận vẻ ngỡ ngàng:
– Nếu Alan và Neil đã trở lại thành người, vậy chắc chắn Ayesha sẽ cảm nhận được sức mạnh của chị Layla. Bởi vì chỉ có sức mạnh của chị ấy mới có thể phục hồi hai người đó về nguyên trạng. Trong trường hợp này, chuyện cháu có dùng sức mạnh djinn hay không cũng không còn quan trọng nữa. Ngoài ra, chắc chắn đến giờ này Ayesha phải biết Philippa đã trốn thoát rồi chứ. Đóng chú vào chai đi, nhưng chú thấy hơi lạ khi bà ấy không tìm cách ngăn hai đứa rời khỏi Iravotum đấy. Nhưng tốt nhất hai đứa cũng nên cẩn thận, phòng trường hợp bà ấy đang lên kế hoạch nào khác.
John nói với chú:
– Chú nói tụi cháu có thể dùng sức mạnh djinn đúng không? Nhưng cháu đuối quá rồi, chú Nimrod. Thậm chí cháu còn chẳng nhớ được bao lâu rồi mình chưa ngủ nữa. Nếu giờ muốn làm một cái bánh hamburger biến mất, tất cả những gì cháu có thể làm là ăn luôn nó đi cho xong. Mệt lắm chú ơi. Cả Philippa cũng vậy. Nhưng cháu có một ý này. Chỉ có điều cháu cần đến sự giúp đỡ của chú, chú Nimrod.
o O o
Trung úy Sanchez đang hì hục đánh bóng đôi giày của bà thì một nữ hạ sĩ bước vào lều và thông báo họ đang cần đến sự có mặt khẩn cấp của bà trong khu lều tắm. Đón bà ở đó là hai người đàn ông mặc vét đen, kèm theo hai đứa trẻ và một con chim săn mồi.
Bà hỏi viên trung sĩ đang đứng canh bộ năm bất hợp pháp này:
– Cái quái gì xảy ra ở đây thế?
Viên trung sĩ cho biết:
– Tôi phát hiện họ chui lên từ một cái hố trong lòng đất đằng sau mấy cái rổ đựng đồ dơ. Hai quý ngài này nói họ là đặc vụ CIA.
Bác Neil nói:
– Đúng thế, Trung úy. Và chúng tôi đang thực hiện một nhiệm vụ bí mật quốc gia ở đây.
Trung úy Sanchez gần như không thể kìm nổi sự giận dữ. Vì, dù là quân nhân hay không, đây cũng là khu vực phòng tắm phụ nữ. Bà hỏi bác Alan:
– Có lý do gì mà đặc vụ CIA lại chui vào một cái hố trong lòng đất bên dưới phòng tắm phụ nữ chứ? Và hai đứa trẻ này là sao?
Bác Alan nói:
– Tôi rất tiếc, nhưng đó là bí mật quốc gia không thể tiết lộ.
– Khỉ gió.
Rồi nhận ra John, bà nói thêm:
– Khoan, chờ đã. Tôi biết cháu, đúng không? Cháu là đứa trẻ đã đến đây với người đàn ông một tay biết nói tiếng bụng.
Bác Neil cắt ngang lời bà:
– Trung úy, bà có máy tính ở đây không?
– Dĩ nhiên có.
Dưới sự canh gác nghiêm ngặt, bác Alan, bác Neil, John và Philippa đi theo viên trung úy đến phòng làm việc của bà Sanchez, nơi bác Alan bảo bà đăng nhập vào trang web của CIA.
Khi trang web CIA đã hiện ra trên màn hình laptop, trung úy Sanchez hỏi:
– Giờ thì sao?
Bác Neil hướng dẫn:
– Cuối trang. Phần Liên lạc chúng tôi. Chọn định dạng email. Và trong phần tin nhắn, đánh vào tên Alan và Neil Gaunt. Trang web sẽ nhận ra tên của chúng tôi và tự động gửi lại thông tin xác định chúng tôi là ai, cũng như tính chất nhiệm vụ mà chúng tôi đang thực hiện.
Bà Sanchez vốn không ưa gì gián điệp, dù đó có là gián điệp bên phe bà, tuy nhiên bà vẫn nhún vai và làm theo hướng dẫn của bác Neil. Làm trong quân đội tốt nhất là thế.
Cách đó mấy ngàn dặm, tại hệ thống máy tính chủ của CIA ở Washington, email của trung úy Sanchez nhanh chóng được nhận và, nhờ vào tài xử trí của chú Nimrod – đổi lấy việc chú Nimrod ban cho ông ba điều ước, một người bạn cũ của chú tại đây đã đánh vào máy tính vài dòng hồ sơ điệp vụ vốn không hề tồn tại trước đó – một câu trả lời tự động ngay lập tức được gửi đi.
“Alan và Neil Gaunt là hai đặc vụ nằm vùng hiện đang hoạt động trên chiến trường Iraq. Nhiệm vụ: tìm kiếm hai đứa trẻ, bí danh John và Philippa, người hiện đang được đặt trong vòng nghi vấn về việc liên quan đến một chương trình vũ khí bí mật. Anh/chị có nhiệm vụ đáp ứng tất cả mọi đề nghị giúp đỡ của hai Đặc vụ Gaunt nói trên để hoàn thành nhiệm vụ của họ.
Lệnh từ Phó Cục trưởng Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA)”
Sau khi đọc xong tin nhắn từ CIA, Trung úy Sanchez liếc nhìn John và Philippa với vẻ mặt không tin thấy rõ.
– Đặc vụ Gaunt, phải nói là những đứa trẻ này trông quá nhỏ để có thể liên quan đến một chuyện như thế.
Ý tôi là, chúng hệt đám trẻ con bình thường thôi mà.
Rồi nghĩ ngợi một lát, bà nói thêm:
– Ngoại trừ con chim cắt trên vai cậu bé. Cái này thì đúng là hơi bất thường.
Bác Neil mỉm cười với bà:
– Thoạt nhìn thì chúng giống trẻ em bình thường, nhưng tin tôi đi, chúng hoàn toàn không bình thường đâu.
Quay qua John, bác gợi ý:
– Nhóc, sao cháu không cho bà ấy thấy khả năng của mình nhỉ?
John gật đầu. Chỉa ngón tay trỏ vào một cái cốc trên bàn làm việc của viên trung úy, cậu nói:
– Nhìn kỹ cái cốc cà phê đó nhé.
Rồi cậu khẽ thầm thì “ABECEDARIAN” trong cuống họng. Với sức mạnh gần cạn kiệt, cậu chỉ định làm cái cốc biến mất. Nhưng John đang mệt, rất mệt, nên thay vào đó, cậu làm cả cái cốc vỡ tan thành từng mảnh vụn. Cái cốc vốn chứa đầy cà phê, và việc cà phê văng tung tóe khắp nơi càng tăng tính thuyết phục cho câu chuyện của họ. Ngay lập tức, trung úy Sanchez quyết định phải hợp tác đàng hoàng với bác Alan và bác Neil.
Bà trầm trồ:
– Ồ, nếu không thấy tận mắt, chắc tôi cũng không tin chuyện này có thể xảy ra. Hai đứa nhỏ này, chúng cứ như từ truyện tranh bước ra ấy.
Bác Alan nhắc bà:
– Như tôi đã nói, đây là bí mật quốc gia. Điều bà vừa thấy chưa từng xảy ra. Những đứa trẻ này chưa từng ở đây. Bà chưa từng nghe nói về chúng tôi. Hiểu không?
Ông nhìn thẳng vào trung úy Sanchez, người gật đầu một cách nghiêm chỉnh:
– Vâng, thưa ông. Hãy nói ông cần tôi làm gì.
Bác Neil nói:
– Tốt. Đây là chuyện bà có thể giúp. Chúng tôi cần một chiếc xe jeep có thể đưa chúng tôi đến Nhà hàng Kebabylon ở thị trấn Samarra này.
Viên trung úy cho biết:
– Tôi đã dẫn người đàn ông một tay đến đó. Ông ta nói tên mình là Groanin. Ông ta đã xuất hiện cùng cậu bé này ở đây khoảng một hay hai ngày trước.
– Giáo sư Groanin à? Ông ấy cũng là một trong số họ.
Trung úy Sanchez nhận xét:
– Thảo nào ông ta có thể làm cái trò nói tiếng bụng đó.
Bác Alan nói:
– Bà sẽ ngạc nhiên nếu biết ông ấy có thể làm gì đấy, madam. Nhưng bà có thể không cần bận tâm đến ông ấy nữa. Chúng tôi sẽ chăm sóc Giáo sư Groanin chu đáo.
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon