The greatest thing you'll ever learn is just to love and be loved in return.

Eden Ahbez, "Nature Boy" (1948)

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 235 / 21
Cập nhật: 2019-11-13 12:07:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 17 - Người Bảo Vệ Thứ Bảy
au vài giây dài như thế kỷ, John hé mở một mắt rồi hai mắt, đưa tay sờ quanh cổ và thử nuốt nước bọt một cái. Nhẹ cả người khi nhận ra cái đầu của cậu vẫn còn dính với cổ, John chậm rãi liếc nhìn xung quanh. Người đàn ông mang kiếm đã biến mất. Cái gì đó đã chạm vào cổ mình chắc chắn không phải là lưỡi kiếm rồi. Hay đúng là hiếm? Vuốt nhẹ đằng sau gáy, nơi lưỡi kiếm vừa mới chạm vào trước đó, ngón tay trỏ của cậu có dính ít máu. Sau khi nuốt nước bọt cái ực và tằng hắng một tiếng – như thể muốn kiểm tra xem mọi bộ phận trong cái cổ yêu dấu có còn hoạt động bình thường hay không – John khẽ lắc đầu và quay sang Alan và Neil. Hai con chó vẫn đang nằm rạp trên mặt đất với hai chân trước che mắt như sợ không dám nhìn cảnh cậu chủ của chúng bị toi đời.
– Ê, hai đứa.
Cậu gọi chúng, và khá hài lòng khi nhận ra mình đã trở lại nói bằng tiếng Anh bình thường.
– Mọi chuyện ổn rồi. Người đàn ông cầm kiếm đã biến mất. Và cái đầu tao vẫn còn nguyên đây.
Hai con chó nhảy bật dậy và chạy tới liếm rối rít khắp mặt và tay John.
Đưa tay xoa xoa lỗ tai hai con chó và ôm chúng, cậu trấn an:
– Tao nghĩ mấy vụ phục tùng đó chỉ được cái nhìn kinh dị thôi, chứ thực chất chẳng có gì đâu. Dù cảm giác thì cứ y như thật ấy. Đúng là hơi kỳ quặc, nhưng đến giờ tao vẫn còn nhớ cảm giác lưỡi kiếm chạm vào gáy đấy.
Rùng mình một cái, cậu nhe răng cười:
– Cứ y như khi đi cắt tóc ấy.
Alan sủa một tiếng lớn và chạy lại kiểm tra một cái gì đó nằm trên mặt đất. Chính là thanh kiếm.
Nhặt thanh kiếm lên và quét nhẹ nó lên ngón tay cái, John có thể thấy rõ nó là thật. Rất sắc là đằng khác. Cậu vung thanh kiếm trong không trung vài lần, lòng vẫn không chắc việc mà cậu đã cảm nhận trước đó là ảo giác hay thực tế. Liệu sáu người bảo vệ còn lại có thật như người cậu vừa gặp hay không? Để chắc ăn, cậu quyết định xách thanh kiếm theo.
Họ tiếp tục đi xuống con đường xoắn ốc, nhưng đi chưa được năm hay mười phút gì đó, họ đã đụng độ một kỵ binh Ả Rập đóng bộ đen thui từ đầu, chân, đến cả cái mạng che mặt. Con ngựa, cũng màu đen nốt, giậm chân bồn chồn bên dưới người cưỡi nó khi ông chĩa cây thương của mình về phía John, cậu chạm vào mũi thương và nhận ra nó cũng thật như thanh kiếm.
Người kỵ binh ra lệnh bằng tiếng Ả Rập:
– Vạch ngực ra.
May phước là John hiểu được tiếng Ả Rập. Dù vậy, cũng giống như với tên đao phủ cầm gươm trước đó, cậu vẫn không lấy gì làm thoải mái trong việc phục tùng mũi thương sắc lẻm trước mặt. Nhưng cậu cũng không nghĩ mình có thể làm được gì: một cậu nhóc với một thanh kiếm to đùng làm sao đấu lại một kỵ binh mang thương.
Cho nên John làm như được bảo, lòng thầm cầu nguyện cú đâm của cây thương sẽ không chết người như của thanh kiếm. Cởi nút áo sơ mi, cậu vạch trần ngực ra, rồi nhìn người kỵ binh phi ngựa ngược về phía sau vài thước, trước khi vòng ngược lại. Một giây sau đó, ông chĩa mũi thương về phía John rồi thúc ngựa phóng tới.
– Ở yên đó, Alan, Neil.
John hét lên với hai con chó, rồi thầm thì một lời cầu nguyện, cậu nhắm mắt lại.
Lần này, cậu thậm chí cảm nhận được mặt đất rung chuyển dưới chân mình và ngửi được mùi ngựa xộc thẳng vào cánh mũi, trước khi hé một mắt nhìn thử. John nhận ra cậu đang tắm mình trong một đám mây bụi tạo ra từ vó ngựa nhưng vẫn còn sống sờ sờ, trong khi người kỵ binh cùng con ngựa của ông thì không thấy đâu.
Alan thở hắt ra một tiếng nhẹ nhõm, rồi ho sù sụ vì bụi bay vào cuống họng. Neil thì chỉ lúc lắc đầu vài cái rồi mệt mỏi nằm xuống nhìn cậu chủ trẻ của nó kiểm tra ngực mình trước khi cài nút áo lại.
Vẫn còn run rẩy vì sợ hãi, John bảo chúng:
– Theo những gì Eno viết thì tao còn phải phục tùng bốn người bảo vệ nữa trước khi giết người thứ năm. Thiệt sự, tao hy vọng đó là tên ngốc đã nghĩ ra mấy cái trò phục tùng ngớ ngẩn này. Chỉ tổ làm người khác đứt dây thần kinh chứ chẳng chơi.
Ôm đầu Alan vào sát ngực mình, cậu gượng gạo cười:
– Mày nghe thử đi, Alan. Trái tim tao đánh lô tô như con chim nhỏ cố bay ra khỏi lồng ấy. Chắc là đến cuối ngày hôm nay, bọn ta sẽ biết trái tim của tao có còn nguyên vẹn hình thù hay không. Mà biết đâu được, có khi mục đích chính của tất cả chuyện này là thế cũng nên.
Rồi John can đảm tiếp tục tiến xuống con đường xoắn ốc, nơi mà chẳng bao lâu sau, cậu buộc phải phục tùng một cung thủ, người bắn một mũi tên không thật sự trúng cậu; rồi một đô vật to con, người nhấc bổng cậu lên để nghiền nát cậu trong lòng bàn tay của ông nhưng lại không thật sự nghiền nát cậu. Đến thử thách thứ năm – cái đòi hỏi John đặt đầu mình vào miệng một con sư tử – thì cậu đã thiếu điều nguyền rủa những người bảo vệ ngầm dưới đất này.
Bước qua ngọn lửa thở ra từ miệng một con rồng phun lửa, cậu nhận xét với hai con chó:
– Thử thách nhiều thế này để làm gì nhỉ? Tao thấy ba lần là đủ rồi. Ý tao là, sau ba lần là chúng ta đã biết rốt cuộc sẽ chẳng có gì xảy ra mà.
Nhưng với việc hoàn thành sáu trong số bảy thử thách của mình, tinh thần John gần như đã kiệt quệ. Giờ bảo cậu giết một con châu chấu còn khó, chứ nói gì đến việc giết thứ đang chờ cậu ở ngã quẹo tiếp theo của con đường – dù thứ đó là gì. Và, đầy căng thẳng sau những thử thách vừa phải trải qua, John cố thu hết can đảm để đối mặt với người bảo vệ cuối cùng. Cậu bảo với Alan và Neil:
– Tao nghĩ tao sẽ không thật sự giết cái gì đâu. Giống như tao không thật sự bị giết từ nãy đến giờ vậy. Tụi mày nghĩ sao?
Hai con chó sủa lớn thể hiện ý tán đồng, nhưng thật sự trong lòng chúng đang hy vọng, nếu John buộc phải giết một cái gì đó, thì cái đó sẽ là một con bê sống để chúng có thể nhâm nhi ít thịt tươi. Bởi, vì là chó, chẳng con nào ngần ngừ như chủ nhân loài người của chúng trong việc giết chết một sinh vật sống khác – ít nhất là một sinh vật không thuộc loài sâu bọ.
Nhưng không gì có thể chuẩn bị tinh thần cho John đương đầu với cái mà cậu trông thấy ở ngã quẹo tiếp theo của con đường. Vì ở đó, cao gần một mét sáu, mặc bộ vét kẻ sọc hiệu Badoglio yêu thích và đôi giày hiệu Cascio Ferro tốt nhất của ông – ông thậm chí còn mặc cái áo sơ mi mà John và Philippa đã mua tặng ông nhân dịp Giáng sinh – là cha ruột của John.
Cha cậu chào:
– A, John. Gặp con ở đây tốt quá.
John ngạc nhiên:
– Cha? Cha làm gì ở đây vậy?
– Không, con đang làm gì ở đây vậy?
Alan và Neil chạy về phía người em trai của chúng, nhưng ngay khi chúng định nhảy lên liếm mặt ông theo cái cách chúng vẫn làm khi còn ở nhà – cái cách thường khiến ông Gaunt gỡ mắt kiếng ra lau vì khi đứng trên chân sau, cả hai con chó đều cao ngang ngửa ông – chúng đột ngột khựng lại. Rồi chúng lùi xa khỏi người đàn ông đang đứng trên đường, miệng gầm gừ một cách lo lắng, như thể cảm thấy có điều gì đó không ổn ở đây. Liếc nhìn John, hai con chó sủa mấy tiếng, và cậu không cần hỏi chúng cũng biết người đàn ông trước mặt không phải – không thể nào – là cha của cậu. Tuy biết vậy, nhưng…
– Sao cha đến được đây vậy?
– Một câu hỏi hay. Chính cha cũng không biết rõ.
Thường thì đó là một câu trả lời khá ổn. Nhưng sau những gì cậu đã trải qua ở sáu thử thách trước, John không tin tưởng lắm vào những gì cậu đang nhìn thấy, rằng cha cậu thật sự đang ở đây. Dĩ nhiên là trừ khi tất cả các thử thách trước chỉ nhằm để đánh lạc hướng cậu về độ thực tế của người bảo vệ cuối cùng này. John đi về phía cha mình và đặt một tay lên vai ông. Cái áo vét ông đang mặc may từ len casơmia, đúng như bình thường. Và loại nước hoa yêu thích của cha cậu. Ngay cả viên kẹo bạc hà Beezer trên đầu lưỡi ông Edward Gaunt nhìn cũng hợp lý: ông Gaunt luôn ngậm hai hay ba viên Beezer sau khi hút xì gà. Nếu đây chỉ là một sản phẩm từ trí tưởng tượng của John hoặc một loại ảo giác nào đó, thì nó cũng chính xác như cái đồng hồ bằng vàng trên tay cha cậu. Tất cả những chi tiết đó làm John nhận ra, giờ cậu không thể đâm kiếm giết chết người đàn ông này chừng nào cậu còn chưa chắc chắn một trăm phần trăm rằng ông chỉ là một kẻ giả mạo, hoặc một thứ gì đó không hề tồn tại.
Cậu cẩn thận hỏi:
– Chaa nè?
– Gì thế John?
– Cha còn nhớ cái tượng Nữ thần Tự do bằng vàng trên bàn làm việc của cha không? Ừm, con đã lỡ tay làm gãy cái tay cầm đuốc của nó. Đó chỉ là một tai nạn thôi cha à. Thiệt đó. Con đã định nói với cha về nó lâu rồi.
Con có dùng keo dán nó lại, nhưng con không giỏi mấy chuyện đó lắm. Con thật sự xin lỗi.
Đó là một tình huống cậu đã định sửa sai ngay khi có thể, nhưng rồi chú Nimrod đã xuất hiện và nhờ cặp sinh đôi giúp chú lấy lại cuốn Grimoire của Solomon. Cậu không có lý do gì để bào chữa cho việc làm hư bức tượng cả. Cậu không thể nói cậu đã làm hư nó như thế nào, rằng cậu đã cầm nó một cách bất cẩn, giả vờ như cậu vừa được trao giải Academy Award, và cái tay cầm đuốc đã đột ngột đứt ra. Vì Chúa, cái bức tượng ngu ngốc đó trị giá đến 25.000 đô, và John thật sự không nghĩ cha cậu sẽ vui vẻ khi biết chuyện. Giống như việc cha sẽ chẳng vui gì nếu biết cậu đến Iraq. Dù gì thì ông cũng chỉ đồng ý cho John và Philippa đi với chú Nimrod đến Istanbul và Đức thôi.
– Thật sự con không biết tại sao nữa. Tự nhiên đùng một cái nó gãy luôn. Như việc đồ đạc thỉnh thoảng bị hư ấy.
Rồi nhún vai, cậu nói:
– Con xin lỗi.
– Không sao đâu, con trai. Cha hiểu mà. Không phải lỗi của con đâu. Dù gì thì nó cũng chỉ là một món đồ trang trí bình thường thôi.
Và Edward Gaunt nở nụ cười khoan dung, hiền hậu nhất của ông với John. Ông không la mắng hay đe dọa cấm túc John, cũng chẳng tuyên bố cắt tiền tiêu vặt của cậu trong sáu tháng. Và điều đó không giống ông Gaunt thật sự chút nào. Ít nhất là ông Gaunt hiện hữu trong mùa đông. Philippa vẫn thường buộc tội cha mẹ mình lo cho đồ đạc và các tác phẩm nghệ thuật của họ hơn là lo cho con cái, và dù John biết điều đó không hoàn toàn đúng, cậu vẫn chắc rằng người cha thật của cậu thể nào cũng cho cậu nghe một bài giảng mô-ran dài mệt nghỉ. Ngay cả khi họ đang ở đây, tại Iraq, cha cậu chắc chắn vẫn tức giận như thường.
– Cha à? Con chỉ muốn cha biết là con không có ghét bỏ gì cha hết, cha nhé?
Ngay khi đang nói, John đã cầm kiếm đâm vào cái người có hình dáng giống như cha cậu như lời hướng dẫn nghiêm ngặt của Eno: “Kẻ thâm nhập bắt buộc phải giết chết người bảo vệ thứ bảy mà không chút lưỡng lự, hoặc sẽ phải đối mặt với sự thất bại hoàn toàn của tham vọng bí hiểm của mình”. John không chắc từ “bí hiểm” nghĩa là gì, nhưng cậu có thể chắc chắn rằng nếu không làm đúng theo hướng dẫn của Eno đến từng câu chữ, cậu sẽ không bao giờ được gặp lại em gái – ít nhất là đứa em mà cậu biết và yêu quý.
Nhưng nếu John nghĩ rằng thanh kiếm của cậu sẽ xuyên qua không khí, cậu đã lầm. Qua cán cầm của thanh kiếm, cú đâm của cậu có cảm giác thật đến rợn người. Còn tệ hơn nữa là việc cái người giống hệt cha cậu hét lên một tiếng kinh hoàng, như thể ông thật sự bị đâm chết. Và ông cũng không biến mất như những người bảo vệ khác. Thay vào đó, ông ngã gục mặt xuống đất và nằm im lìm giữa một vũng máu. Máu nhìn quá ướt, quá thật và quá đỏ.
John hét lên.
Cậu rên rỉ:
– Mình đã làm gì thế này?
Ném thanh kiếm qua một bên, John vội vã quỳ xuống bên cạnh nạn nhân của cậu. Lòng cồn cào như muốn ói đến nơi, cậu lo đến phát điên rằng mình đã làm một chuyện khủng khiếp. Trong đầu cậu giờ đây không ngừng bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng Eno đã sai lầm hoặc, như trước đây, bản dịch của Virgil Macreeby đã sai lầm. Ngay trong cái chết, người đàn ông này trông vẫn giống hệt cha của John.
– Không, không, không, làm ơn không, chuyện này không thể xảy ra được.
Với đôi tay run rẩy, cậu gỡ cặp mắt kiếng của người chết ra và xếp nó vào trong túi áo ngực của ông, nơi cậu tìm thấy một hộp xì gà đựng một điếu Manyana Grand Cru. Tại sao ảo ảnh của Edward Gaunt lại mang theo cả một điếu xì gà nhãn hiệu yêu thích của cha cậu chứ?
Cậu nài nỉ:
– Cha? Làm ơn tỉnh dậy đi cha. Con không có ý đó mà.
Nhưng với lượng máu đổ tràn trên đất và màu sắc gương mặt của ông, có thể thấy rõ người đàn ông đang nằm trên mặt đất đã không còn cứu chữa được nữa rồi. John nhắm nghiền mắt lại, khi những giọt nước mắt đầu tiên bắt đầu lăn ra khỏi mắt và rơi xuống khuôn mặt trắng bệch của người chết.
John gần như phát điên lên vì tuyệt vọng và hối hận. Bất chấp những chứng cớ cho thấy điều ngược lại ở những thử thách trước, giờ đây cậu hoàn toàn chắc chắn rằng cậu vừa giết chết cha ruột của mình. Cậu nói trong nước mắt:
– Con xin lỗi. Cha ơi, con xin lỗi.
Không thể nào trấn an John rằng đó không phải là cha cậu, Alan và Neil cố kéo cậu rời khỏi cái xác nhưng thất bại. Trong suốt mấy phút, John vẫn quỳ gối bên cạnh cha cậu với đôi mắt nhắm nghiền.
Rồi Neil sủa lớn vài tiếng. Mở mắt ra, John nhìn thấy cái xác trông như thật mấy giây trước giờ đã biến mất.
John lắc đầu và thở một cách khó khăn. Nhận ra rốt cuộc đó cũng chỉ là một ảo ảnh, cậu mỉm cười yếu ớt với Neil. Dù thế, cậu cũng biết rằng cậu sẽ không thể nào cảm thấy thoải mái về chuyện đã xảy ra, cho đến khi cậu có thể vòng tay qua vai người cha thật sự của cậu và ôm ông thật chặt.
Vừa mới chạy đi do thám đoạn đường phía trước, Alan giờ chạy ngược về với sự hào hứng thấy rõ trong từng bước chân. Nó sủa lớn vài tiếng, rồi ngậm lấy tay áo John kéo mạnh để giục cậu đứng dậy.
John nói:
– Ok. Ok. Biết rồi. Tao đến đây.
Theo chân hai con chó xuống dưới con đường và vòng qua ngã quẹo tiếp theo trên đoạn hầm xoắn ốc vòng quanh phần tháp Samarra nằm dưới mặt đất, John đột ngột hiểu rõ tại sao con chó lại kích động như thế: Con đường đã kết thúc, và họ đang mặt đối mặt với một cái cửa thấp trên tường. Cao cỡ một cái bàn, cánh cửa được đóng bằng một loại gỗ nhiều năm tuổi với những cái đinh màu đen. Trên cửa là một cái tay cầm sắt to đùng màu đen có hình đầu một người đàn ông với bộ râu thắt bím và những lọn tóc quăn ôm lấy khuôn mặt. Nhưng điều đáng chú ý ở cái tay cầm này là cái lưỡi bằng sắt của người đàn ông bị kéo ra khỏi miệng và đóng đinh vào cánh cửa. John nghĩ đó là một kiểu thiết kế khá ấn tượng, nếu không muốn nói là đầy ý nghĩa – như thể ai đó, Eno chẳng hạn, muốn cảnh báo bất cứ người nào nghĩ đến việc sử dụng tay cầm này không bao giờ được tiết lộ những bí mật nằm phía bên kia cánh cửa.
Eno chỉ cung cấp ít thông tin về cánh cửa. Và sau những thử thách vừa rồi, cũng dễ hiểu khi John lo lắng về việc đụng đến cái tay cầm. Iravotum nằm ở bên kia cánh cửa, nhưng cậu sẽ không ngạc nhiên gì nếu có một con hổ bảy đầu đang chờ cậu. Hoặc một thứ gì đó tệ hơn thế mà hiện giờ cậu không thể nghĩ ra.
Cậu hỏi hai con Alan và Neil đang đánh hơi cánh cửa nãy giờ:
– Tụi mày nghĩ sao? Ê mà tao mới nghĩ ra một chuyện.
Lỡ nó bị khoá thì sao nhỉ?
Và trên thực tế, đúng là cánh cửa bị khoá. Phải mất vài phút, John mới khám phá ra cậu có thể gỡ cái đinh ra khỏi cái lưỡi sắt, và sau khi được giải phóng, cái lưỡi có thể được nhấc lên. Và cánh cửa vốn chỉ có một chốt đơn giản đã dễ dàng được mở ra.
– Hay nhỉ.
John nhận xét, rồi cậu kéo cánh cửa về phía mình, cúi người và bước qua.
Không giống như con đường thắp đuốc hình xoắn ốc đã dẫn họ đi vòng quanh phần thân bị chôn vùi của tháp Samarra, tại đây, hơn trăm mét dưới lòng đất hoặc có thể hơn, ở phía bên kia cánh cửa, thật khó để tin rằng họ đang ở dưới lòng đất. Trong mấy giây, John và hai con chó không thể làm gì khác ngoài đứng há hốc mồm kinh ngạc.
Một đại dương trải dài trước mặt họ với từng đợt sóng nhẹ nhàng vỗ lên bờ cát vàng óng ả. Một luồng gió nhẹ luồn vào trong tóc John, mang theo vị mặn và sự trong lành của biển. Nhưng điều làm cậu thật sự ngạc nhiên không phải là kích cỡ của đại dương, thậm chí không phải ngọn gió đang xáo động bề mặt trống trải của nó, mà là việc cậu có thể phóng tầm mắt nhìn khắp mặt biển nhờ vào một ánh sáng trắng mờ nhạt đặc biệt, một thứ ánh sáng không tỏa nhiệt làm cậu liên tưởng đến ánh điện. Và xem xét không trung phía trên đầu mình, John được gợi nhớ tới những phim tài liệu mà cậu đã xem trên ti vi về bắc cực quang, hay còn được gọi là ánh sáng phương Bắc. Hiệu ứng toàn diện của một thế giới trong lòng một thế giới khác.
Cậu cố thử hình dung ra sự kiện địa lý nào có thể giải thích được sự tồn tại của vùng đất dưới lòng đất này. Nhiều năm trước, cậu đã từng viếng thăm hệ thống hang động khổng lồ ở Kentucky cùng cha mẹ. Nhưng nếu đem so với những gì cậu đang thấy, nó chỉ như một cái hang thỏ. Ngay cả cái hang động lớn nhất thế giới cũng không có khí hậu và ánh sáng của riêng nó.
Sau bảy thử thách vắt kiệt cả sức khoẻ và tinh thần, sự ngạc nhiên thú vị mà John cảm thấy hiện giờ có vẻ đã giúp cậu khôi phục hoàn toàn năng lượng. Có lẽ đó là vì bầu không khí trong lành, khoẻ khoắn với mùi và vị khác hẳn so với bầu không khí đầy mùi xăng mà cậu đã quen hít thở trên mặt đất.
Hít hít mép nước một lúc, Alan quay qua nhìn John như muốn hỏi, “Giờ chúng ta làm gì đây?” Búng hai đồng 25 xu trên tay, John nói với nó:
– Eno có nhắc đến một con thuyền.
Theo như những gì viên quan tư tế tối cao đã viết, cậu cần đưa cho người lái thuyền hai đồng xu, tuy ông không nói rõ là nên dùng đơn vị tiền tệ nào. Chú Nimrod bảo chuyện đó có lẽ không quan trọng.
John nói tiếp:
– Có điều chẳng thấy bóng dáng con thuyền nào cả.
Nhưng ngay khi John đang nói, con Neil, vốn có đôi mắt tinh hơn Alan và cậu chủ trẻ của nó, và nãy giờ mải mê nghiên cứu đường chân trời vô định – vì cũng như việc không ai có thể nói chính xác mặt đất trên đầu họ nằm ở đâu trên mặt đất dưới chân họ, không ai có thể nói chính xác đâu là nơi mặt biển kết thúc và bầu trời dạ quang kia bắt đầu – bỗng sủa lớn khi nó trông thấy một cái gì đó xuất hiện trên mặt nước xa xa.
Nhìn theo hướng ánh mắt của con chó, John hỏi:
– Gì thế Neil? Mày nhìn thấy gì à?
Sủa lớn một tiếng, Neil phóng vào trong làn nước vỗ bờ. Và gần như ngay lập tức, nó kêu lên ăng ẳng và chạy ngược trở ra vì, như John khám phá sau đó, nước biển khá nóng. Cậu nhận xét:
– Thể nào có mây ở đây. Đó là những đám mây hơi nước.
Rồi liếm ngón tay mà cậu vừa nhúng thử xuống nước, cậu kết luận:
– Ngoài việc đó ra thì nước này uống được. Uổng là chúng ta không mang theo túi cà phê ăn liền nào. Nước đủ nóng mà.
Không bao lâu sau, John đã có thể xác định vật thể trên mặt nước là một dáng người đứng thẳng trên mũi thuyền và đang chèo về phía họ với một mái chèo dài duy nhất, giống như một người chèo thuyền đáy bằng ở Venice. Tuy nhiên, phải đến khi chiếc thuyền đã cập bến, cậu mới nhận ra người lái thuyền chỉ là một người máy làm bằng đồng.
John ngập ngừng hỏi:
– Ừm, xin chào. Không biết ông có thể chở tụi tôi băng qua biển để đến lâu đài của Djinn Xanh Babylon không ạ?
Vừa nói, cậu vừa giơ ra hai đồng 25 xu mà cậu mang theo, lòng lo rằng chúng không đủ. Nhưng người lái thuyền chỉ im lặng nhận lấy hai đồng xu vào lòng bàn tay bằng đồng của mình, rồi chỉ vào vài cái ghế trên mạn thuyền. John và hai con chó nhanh chóng trèo vào trong thuyền.
Với sức mạnh như siêu nhân, người lái thuyền bằng đồng cao lớn đẩy cái thuyền ra khỏi bờ và, chỉ trong vài phút, họ đã băng qua làn nước nóng với một tốc độ mà nếu không phải do người lái thuyền bằng đồng kỳ lạ nắm tay chèo thì không thể nào có được. Và chẳng bao lâu sau, họ đã không còn nhìn thấy bờ.
Gõ thử vào lớp gỗ sồi của chiếc thuyền, John nói với hai con chó:
– Tao hy vọng cái thuyền này đủ chắc. Chứ tao ghét phải bơi lắm. Năm phút ngâm mình trong thứ nước này, chắc tao thành con tôm hùm luộc luôn quá.
Nói là nói vậy, chứ thật ra cậu lo cho Alan và Neil nhiều hơn. Là một djinn, cậu không nghĩ làn nước biển nóng hổi này có thể ảnh hưởng gì đến cậu, nhưng với hai con chó thì cậu không dám chắc.
Một tiếng trôi qua, rồi một tiếng nữa, và sau một lúc, John ngủ thiếp đi và mơ về một thứ gì đó dễ chịu. Cậu quên nó ngay lập tức khi mở mắt ra lần nữa và nhận ra cuối cùng họ cũng đã nhìn thấy một cái bờ có phủ cây cối ở đằng xa. Alan và Neil nhúc nhích người không yên trên thuyền, vì chúng đang nôn nóng được làm cái việc mà loài chó thường làm khi tìm thấy một cái cây thích hợp sau mỗi chuyến đi.
Quay sang người lái thuyền, John lịch sự gật đầu cảm ơn:
– ông thật là tử tế. Nếu không có ông, tôi không chắc tụi tôi có thể làm được gì.
Người lái thuyền vẫn không nói gì.
Vẫn cố gắng để bắt chuyện với người lái thuyền, John hỏi:
– Mong đây không phải là một câu hỏi đường đột, và tôi không có ý gì xấu đâu, vì dù gì trái đất cũng được tạo ra từ tất cả mọi vật liệu mà, đúng không? Nhưng chính xác thì tại sao ông lại làm bằng đồng vậy?
Người lái thuyền không thể nói. Có thể thấy rõ điều đó. Nhưng, như việc ông có thể chèo thuyền, ông cũng có thể chỉ tay, và ông đã làm vậy. Ngừng chèo thuyền trong giây lát, người lái thuyền chỉ một ngón tay dài bằng đồng của mình về phía bầu trời trên đầu họ để trả lời câu hỏi của John, trước khi tiếp tục công việc. John gật đầu một cách lịch sự, và phải mất vài giây sau, cậu mới hiểu được hành động của người lái thuyền có ý nghĩa gì. Vì chỉ có một người lái thuyền làm bằng đồng mới có cơ may sống sót với chuyện xảy ra sau đó.
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon