Kẻ nào chưa một lần thất bại trong quá trình trưởng thành, tức kẻ đó không có gan thực hiện những điều mới mẻ.

Woody Allen

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 235 / 21
Cập nhật: 2019-11-13 12:07:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 15 - Tháp Babel
gay khi John và ông Groanin tìm được Darius và thông báo cho cậu biết hai con quái vật sa mạc đã chạy trốn, họ nhanh chóng hoàn tất việc thay lốp xe và tiếp tục lên đường.
Vừa điều khiển xe chạy với tốc độ chậm vì trời đã tối, Darius vừa nhận xét:
– Đánh bại được hai con quái vật dữ tợn đó thì chắc cậu phải là một djinn vĩ đại lắm. Tớ cứ nghĩ chắc phen này chúng ta toi đời rồi.
Ông Groanin gật gù:
– Hai chúng ta có cùng một ý nghĩ.
Alan và Neil sủa một tiếng lớn, như thể muốn nói, “Thật ra là bốn người chúng ta cùng nghĩ vậy”.
John nhún vai:
– Sự thật tớ chẳng phải là djinn vĩ đại gì đâu. Phần lớn thời gian tớ còn không biết mình đang làm gì ấy chứ. Em tớ mới là người thông minh. Nó là đứa thật sự có tài trong hai anh em tớ. Nói về djinn thì nó rành hơn tớ nhiều.
Darius lắc đầu và trả lời bằng tiếng Ả Rập:
– Tớ biết cậu muốn nói gì, John à. Nhưng tớ cũng biết chỉ có những djinn thật sự vĩ đại mới nói về bản thân mình một cách khiêm tốn như thế. Chỉ có những djinn vĩ đại và dũng cảm mới dám đến một nơi nguy hiểm như Iraq để giải cứu em gái, bất chấp việc không được dùng đến sức mạnh đặc biệt của mình.
Phải 8 giờ hơn họ mới đến được ngoại ô Samarra, một nơi không có gì nhiều ngoại trừ vài cây cọ và mấy căn nhà màu bùn đất tàn tạ bởi bom đạn.
Khi họ lái vào trong thị trấn, Darius cho biết:
– Samarra một thời từng là thủ đô của người Caliphs. Nhưng nó đã bị bỏ hoang hơn một trăm năm trước. Giờ đây chỉ có quân đội và các nhà khảo cổ học mới đến đây.
Cuối cùng thì họ cũng đến được nơi mà mình đang tìm kiếm: tòa tháp hình xoắn ốc của Samarra. Với sự tự tin của một hướng dẫn viên du lịch giàu kinh nghiệm, Darius cam đoan với họ rằng tòa tháp này được xây dựng ngay tại vị trí của Tháp Babel nguyên thủy, và với cùng một kiểu dáng thiết kế. Cậu khăng khăng khẳng định:
– Cùng một nền móng đấy. Ít nhất đó là điều cha tớ bảo tớ.
Đây cũng là nơi mà theo quan tư tế tối cao Eno, họ có thể tìm thấy lối vào bí mật của vương quốc dưới lòng đất Iravotum. Tuy nhiên, ngay khi trông thấy tòa tháp, họ lập tức phải đối mặt với một rắc rối khác: một doanh trại quân đội Mỹ đóng quân quanh tòa tháp hình xoắn ốc, và trông nó có vẻ khó thâm nhập hơn bất cứ lối vào bí mật nào. Khu doanh trại nằm sau vài lớp hàng rào kẽm gai và vài trăm ngàn bao cát.
Ông Groanin càu nhàu:
– Hỏng bét rồi. Giờ chúng ta phải làm sao đây?
John đề nghị với một cái nhún vai:
– Tìm cách vào trong lớp hàng rào kẽm gai chứ sao giờ.
Ông Groanin nói:
– Có phải trại của hướng đạo sinh ở đó đâu chứ. Và ta không nghĩ họ mong có khách đến thăm. Đặc biệt là những vị khách ăn mặc như chúng ta.
Darius ngừng xe lại ở một khoảng cách an toàn, và họ cùng chăm chú nhìn kỹ khu doanh trại, cố nghĩ ra một cách gì đó.
John nhận xét:
– Mấy bộ đồ kiểu Ả Rập này không thành vấn đề.
Nói rồi cậu lột bỏ hai lớp áo bisht và thobe của mình ra khỏi người. Bên trong cậu vẫn mặc bộ quần áo phương Tây bình thường. John nói:
– Vả lại cháu có hộ chiếu quốc tịch Mỹ mà. Có lẽ chúng ta nên đến đó và nhờ giúp đỡ là được.
Darius nói:
– Tớ không có hộ chiếu quốc tịch Mỹ.
– Tớ biết. Nhưng tớ nghĩ cậu sẽ muốn ở lại coi chừng xe. Để bảo đảm không ai trộm nó ấy mà.
Darius gật đầu:
– Cũng đúng ha. Thế tớ ở lại coi xe vậy.
Ông Groanin cho biết:
– Ta cũng không có hộ chiếu quốc tịch Mỹ.
– Nhưng ông có hộ chiếu quốc tịch Anh, lo gì. Mỹ với Anh là đồng minh mà.
Ông Groanin làu bàu với cái giọng không có vẻ gì là tin tưởng:
– Ờ, đồng minh. Ít nhất thì chúng ta được dạy là thế. Nhưng sẽ giải thích thế nào về việc gã tài xế người Anh một tay và cậu nhóc mười hai tuổi người Mỹ lang thang tại một trong những quốc gia nguy hiểm nhất thế giới đây?
John gợi ý:
– Chúng ta có thể nói rằng ông là người bảo hộ của cháu. Điều đó có nghĩa ông là người phải đứng ra nói chuyện với họ đấy, ông Groanin. Chúng ta sẽ bảo họ rằng bà của cháu sống ở Baghdad và đang bị bệnh nặng. Nặng đến nỗi sợ không qua khỏi ấy. Và bà chưa bao giờ gặp mặt cháu. Điều đó giải thích sự có mặt khẩn cấp của cháu ở đây. Chúng ta sẽ nói rằng đã thuê một tài xế chở đến Baghdad, nhưng được nửa đường thì bị bỏ rơi. Ông Groanin gật đầu:
– Nghe cũng có vẻ lọt lỗ tai đó. Nhưng cứ cho là chúng ta mò được vào bên trong doanh trại đi. Rồi làm sao nữa?
Suy nghĩ trong giây lát, John nói:
– Để coi, có thể cách này xài được. Ông còn nhớ khi Darius lần đầu nghe cháu nói chuyện với ông Rakshasas ở bên trong đèn không? Lúc đó, cậu ấy đã tưởng cháu là người có tài nói tiếng bụng. Sao ông không thử giả vờ làm một người biết nói tiếng bụng nhỉ? Ông sẽ biểu diễn với một cây đèn có một djinn bên trong. Dĩ nhiên djinn đó là ông Rakshasas. Càng tốt hơn vì ông Rakshasas có thể sử dụng thư viện bên trong cây đèn của mình để trả lời tất cả mọi câu hỏi trên thế giới. Cho nên, ngoài việc biểu diễn khả năng nói tiếng bụng, ông còn có thể đóng vai Ông-Biết-Tuốt nữa.
Ông Groanin thắc mắc:
– Nhưng việc đó thì giúp ích được gì cho chúng ta chứ?
– Ông có thể tổ chức một buổi biểu diễn phục vụ quân đội. Trong khi họ xao lãng, cháu sẽ kiểm tra quanh trại với bản đồ của Eno. Để xem cháu có thể tìm thấy lối vào bí mật hay không.
Ông Groanin lầm bầm:
– Nghe chẳng ổn chút nào cả.
John khăng khăng:
– Dĩ nhiên sẽ ổn mà. Với sự hỗ trợ của ông Rakshasas, chắc chắn ông sẽ là người biết nói tiếng bụng giỏi nhất thế giới.
Nãy giờ chăm chú lắng nghe từ bên trong cây đèn của mình, ông Rakshasas nói vọng ra:
– Ý kiến tuyệt đó.
Họ chào tạm biệt Darius, cậu bé chúc họ may mắn và bảo sẽ chờ họ tại Nhà hàng Kebabylon ở ngay bên ngoài thị trấn, một quán ăn do người chị họ thứ hai của mẹ Darius điều hành. Cậu nói:
– Nó ở trên đường dẫn đến Baghdad ấy. Tới là thấy ngay thôi. Tất cả đồ đạc trong quán đều màu tím và trên tường có cả một bức hình Michael Schumacher bự tổ chảng luôn. Dì Lamoor, em họ thứ hai của mẹ tớ, còn hâm mộ Michael hơn cả tớ ấy chứ.
Tòa tháp Samarra nằm giữa một vùng đất trống rộng lớn, bằng phẳng và cằn cỗi. Đằng sau lớp hàng rào kẽm gai, bao cát là vài tá xe tăng, xe chở lính, cùng khoảng hai mươi cái lều Quonset đặc trưng của quân đội Mỹ nằm tụm lại quanh tòa tháp. Giữa lớp hàng rào kẽm gai là một cổng vào với hai bốt kiểm soát được rọi đèn sáng trưng và canh gác bởi một ụ súng máy suốt 24/24.
John, ông Groanin và hai con chó tiến về cái cổng. Tại đây, ông Groanin, người hoá ra lại có năng khiếu diễn kịch bẩm sinh, thuật lại câu chuyện khó tin của họ cho hai lính gác mặt non choẹt nghe. Hai lính gác không nói gì mà chỉ lịch sự lắng nghe với thái độ cảnh giác, cho đến khi ông Rakshasas từ bên trong cây đèn ông Groanin cầm trên tay giả vờ làm tiếng nói của ông Groanin và thách thức họ kiểm tra kiến thức của mình.
Một trong hai người lính lên tiếng:
– Ok, được thôi. Tôi đến từ New Mexico. Ông thử nói về thủ đô của nó xem.
Nhằm kéo dài thời gian để ông Rakshasas có thể tìm thông tin từ bộ bách khoa toàn thư Encyclopedia Britannica của mình, ông Groanin nói:
– Dễ ợt. Đáng lẽ cậu phải hỏi câu nào khó hơn mới đúng.
Rồi giơ cao cây đèn, ông tuyên bố:
– Nhưng hãy để vị thần bên trong đèn trả lời câu hỏi của cậu.
Ông Rakshasas nói:
– Thủ đô của New Mexico là Santa Fe. Đó là thủ đô có người sinh sống lâu đời nhất của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Với dân số 70.000 người, nó đồng thời nằm cách mặt nước biển 7.000 feet.[19]
[19] Khoảng 21m.
Người lính đặt câu hỏi thừa nhận:
– Khỉ thật, tôi thậm chí còn không biết nhiều như thế.
Ông Groanin được thể năn nỉ:
– Nếu chúng tôi có thể trú tạm ở đây đêm nay thì tốt quá. Chứ thật sự chúng tôi không còn chỗ nào khác cả. Hoặc nếu cậu không nhận tôi, chắc cậu cũng không nỡ từ chối giúp thằng bé này chứ. Dù gì thì nó cũng là công dân Mỹ mà.
Người lính đầu tiên nói:
– Tôi sẽ thông báo cho trung uý. Để xem bà ấy quyết định thế nào.
Bên trong cái lều Quonset to nhất, trung uý Kelly Sanchez lắng nghe câu chuyện của ông Groanin. Bà là một phụ nữ xanh xao, gầy gò với mái tóc màu đỏ cắt ngắn và những quầng thâm bên dưới đôi mắt màu xanh lá. Liếc nhìn ông Groanin với vẻ không hài lòng, bà hỏi một cách nghiêm nghị:
– Ông nghĩ gì mà lại mang trẻ con đến một nơi như thế này? Ông không thấy như vầy là quá liều lĩnh sao?
Ông Groanin nói:
– Tôi biết tại sao bà lại nghĩ vậy. Nhưng thằng bé này có thể nói tiếng Ả Rập trôi chảy. Mẹ nó, em gái cùng cha khác mẹ của tôi, là người lai Mỹ - Ả Rập mà.
Nữ trung uý thở dài nhượng bộ:
– Thôi được, hai người có thể ở lại đây một đêm. Nhưng chỉ một đêm thôi nhé. Sáng mai, tôi sẽ cho người thu xếp đưa cả hai đi Baghdad, nếu đó thật sự là nơi hai người muốn đến.
– Cám ơn bà.
Ông nhìn John và mỉm cười. John mỉm cười đáp lại.
Ông hỏi:
– Tin tốt phải không John?
John trả lời:
– Phải ạ. Cháu cám ơn bà rất nhiều, thưa trung uý.
Ông Groanin nói tiếp:
– Như đã nói, tôi là một chuyên gia nói tiếng bụng. Tôi rất vui lòng được biểu diễn phục vụ mọi người như một lời cảm ơn mọi người đã cho chúng tôi tá túc đêm nay. Tôi đã biểu diễn tại nhiều hộp đêm trên khắp châu Âu và Mỹ. Sao bà không thử nhỉ, trung uý? Bà có thể hỏi vị thần trong đèn bất cứ điều gì bà muốn.
Vị trung úy hỏi:
– Thế hỏi xin ba điều ước được không?
Ông Rakshasas đáp:
– Kỳ công phép thuật tốn nhiều thời gian lắm. Nhưng tôi rất vui lòng để bà kiểm tra giới hạn kiến thức của mình.
Trung uý Sanchez nói:
– Thôi được. Tôi đã từng học toán ở đại học trước khi gia nhập quân đội. Vậy ông có thể cho tôi biết đường cong hình lá Descartes là gì không?
Ông Groanin lập lại:
– Đường cong hình lá Descartes. Người có nghe rõ không, hỡi vị thần trong đèn?
Ông Rakshasas trả lời:
– René Descartes, sinh ngày 31 tháng Ba năm 1596 tại La Touraine, nước Pháp. Mất ngày 11 tháng Hai năm 1650 tại Stockholm. Nhà toán học và triết học người Pháp. Đường cong hình lá Descartes là một đường cong xác định bởi phương trình:
x3 + y3 = 3axy
– Giỏi quá.
Trung úy Sanchez khen, và lần đầu tiên từ khi gặp John và ông Groanin, bà mỉm cười:
– Có lẽ ông nói đúng. Nó có thể có ích cho những chàng trai ở đây. Anh nghĩ sao, Trung sĩ?
Vị trung sĩ đứng ngay sau lưng John trả lời:
– Vâng, thưa Trung uý.
Bà Sanchez hỏi:
– Trong vòng một tiếng được không?
Ông Rakshasas trả lời:
– Sao lại không nhỉ?
Bà Sanchez mỉm cười lần nữa:
– Tốt. Rất tốt.
Một người lính dẫn John, ông Groanin và hai con chó đến một cái lều Quonset nhỏ hơn, nơi họ được sắp xếp cho ở qua đêm, nhưng sau đó người lính ở lại đứng gác ngoài cửa. Đó là chuyện họ không lường tới khi lên kế hoạch.
John nhận xét:
– Anh ta cứ đứng bên ngoài như thế này thì chẳng dễ gì ra vào đâu.
Gật đầu về phía cái bản đồ mà John chăm chú nghiên cứu nãy giờ, ông Groanin hỏi:
– Mà cháu đã có khái niệm gì về vị trí của cái lối vào bí mật đó chưa?
John cho biết:
– Có vẻ như nó ở phía Bắc của toà tháp, ngay đằng sau cái lều tắm ấy.
Thở dài một tiếng, ông Groanin bảo:
– Vậy thì chỉ còn một giải pháp duy nhất. Chắc là cháu phải đi đến Iravotum mà không có chúng ta rồi.
– Ý ông là cháu phải tự đi một mình ấy à?
– Dĩ nhiên cháu sẽ mang theo Alan và Neil. Nhưng đừng chờ ta và anh Rakshasas. Với cái cậu lính gác ngoài kia, có lẽ cháu chỉ có một cơ hội duy nhất để đi xuống cái lối vào bí mật ấy thôi. Tốt nhất cháu nên nắm lấy cơ hội này khi còn có thể.
Ông Rakshasas nói:
– Anh Groanin nói đúng đấy John. Đây có thể là cơ hội duy nhất của cháu.
Rất ghét ý nghĩ bỏ rơi John, ông Groanin đành nói:
– Mà người chỉ có một tay như ta đi chung có khi còn gây trở ngại cho cháu cũng nên. Ta muốn nói, người chỉ có một tay sẽ làm cháu bị chậm lại, chàng trai ạ. Mà cháu cũng không cần đến sự giúp đỡ của ta đâu. Những gì cháu thể hiện từ đầu chuyến đi đến giờ đã chứng minh cháu can đảm hơn nhiều so với những kẻ to xác và lớn gấp đôi tuổi cháu. Nếu có ai đó có thể giải cứu em gái cháu, thì đó chính là cháu, John à.
Ôm trọn John vào lòng, ông Groanin đưa tay quệt nước mắt và nói:
– Chúc may mắn, con trai của ta. Và hãy nhanh trở về nhé. Chúng ta sẽ cùng Darius đợi cháu ở Nhà hàng Kebabylon. Phải không, anh Rakshasas?
Người djinn già đồng ý:
– Đúng thế, chúng ta sẽ đợi.
John hỏi:
– Nhưng ông sẽ giải thích với Trung ý Sanchez như thế nào khi bà ấy phát hiện cháu biến mất khỏi doanh trại vào ngày mai?
– Ta sẽ bảo bà ấy rằng dạo này do nóng quá nên cháu cư xử hơi kỳ quặc, và cháu đã chạy đâu đó mất tiêu rồi. Và ta sẽ nán lại quanh vùng để chờ cháu xuất hiện. Chắc là chúng ta sẽ ổn với bà Lamoor ở Nhà hàng Kebabylon thôi.
Rồi nhặt cây đèn chứa vị djinn già lên, ông nói:
– Chúng ta đi thôi, anh Rakshasas. Đến giờ biểu diễn rồi. Để quân đội chờ là không nên đâu.
Người lính gác ngoài cửa dẫn họ đến lều giải trí, nơi buổi biểu diễn của họ sẽ diễn ra, nhưng đi được khoảng nửa đường, hai con chó và John – khoác theo một cái ba lô nhỏ đựng quyển sách của Eno, một cái xẻng con, đèn pin, chai nước, và vài thanh Hershey mà Trung uý Sanchez đã tặng cho John – lẳng lặng tách đoàn.
Nhẹ nhàng chuồn về phía lều tắm, John bảo hai con chó:
– Giờ chỉ còn ba chúng ta thôi đó nhe.
Cái lều tắm dựa lưng vào một bệ đỡ lớn mà từ đó toà tháp Samarra được xây lên. Bên trong lều có vài cái nhà xí, vài vòi hoa sen, một dãy bồn rửa, cùng vài tá rổ đựng đầy đồ dơ. Sàn nhà được lát bằng những tấm ván kê chéo nhau để tránh cho những cái chân ướt không bị dính cát. Tất cả mọi thứ đều đơn giản nhưng thiết thực.
Thò đầu và vai qua một phần vạt lều đằng sau mấy cái rổ đựng đồ, John soi đèn pin dọc theo phần đáy tháp. Một cái đầu sư tử nhỏ được khắc trên tường đánh dấu vị trí, chính xác như những gì Eno miêu tả. Cậu thông báo với hai con chó:
– Đây rồi. Chúng ta đang ở ngay phía trên lối vào bí mật của Iravotum.
Dời cái rổ đựng đồ qua một bên và nhấc một tấm ván lên, John mặt đối mặt với một sàn cát cứng ngắc. Họ sẽ phải đào nó, và John ngay lập tức nhận ra cái xuổng nhỏ mà cậu mang theo sẽ chẳng giúp ích được gì. Cũng may một người lính nào đó đã để quên túi trên móc đồ, phía trong có một xẻng đào hào loại có thể gấp lại được. Mượn tạm cái xẻng, John bắt đầu hì hục đào. Từ đây, cậu có thể nghe được tiếng ông Groanin “làm nóng” không khí với vài câu nói đùa gượng gạo, nhưng thật ngạc nhiên là những người lính lại có vẻ thích chúng. Có điều đào chưa được bao lâu, John đã nghe có tiếng người đi vào trong lều nên phải vội vã kéo hai con chó núp vào trong một cái rổ đựng đồ gần đó.
Bên trong rổ, John có thể nghe được tiếng khoảng nửa tá lính đi vào trong phòng tắm, cởi bộ áo giáp và quân phục của mình ra, và rồi hò reo vui vẻ khi bước vào dưới làn nước ấm. Nếu cậu cũng được tắm một cái thì hay biết mấy. Với lớp áo sơ mi dính bết vào người vì mồ hôi, John ước gì mình đã nghĩ đến việc đi tắm trước khi tiếp tục nhiệm vụ giải cứu của mình.
Một lúc sau thì người lính cuối cùng cũng bước ra khỏi lều và John lại có thể thở bình thường. Mở cái nắp rổ ra, cậu đứng dậy và nói với hai con chó:
– Ổn rồi. Tìm lối vào thôi.
Cầm cái xẻng đào hào lên, John lại tiếp tục nhiệm vụ đào hào cao cả của mình, cho dù cậu vẫn còn nghi ngờ những gì Eno viết: rằng lớp cát che giấu một cái tay cầm hình sư tử mà cậu chỉ cần cầm nó và nói từ bí mật là cánh cửa bên dưới sẽ mở ra. Nếu những gì Eno viết là sự thật thì đó chỉ là khởi đầu của những trở ngại mà John sẽ phải đối mặt. Vị quan tư tế tối cao đã viết về “bảy người bảo vệ”, sáu trong số đó John cần phải “phục tùng không điều kiện”. Đáng báo động hơn là hướng dẫn nghiêm ngặt của Eno rằng “kẻ thâm nhập bắt buộc phải giết chết người bảo vệ thứ bảy mà không chút lưỡng lự, hoặc sẽ phải đối mặt với sự thất bại hoàn toàn của tham vọng bí hiểm của mình” – với trường hợp của John, có nghĩa là cậu sẽ thất bại trong việc tìm đường đến Iravotum.
Ngừng tay trong giây lát để nghỉ lấy sức, John lắng nghe tiếng ông Groanin tiếp tục “trình diễn”. Những người lính có vẻ rất khoái ông. Họ vỗ tay hưởng ứng nồng nhiệt khi, có vẻ như, ông trình diễn một tiết mục nói tiếng bụng khác, lần này là vừa đọc lại một bài thơ vừa uống cạn một chai bia.
Rồi John lại một lần nữa bắt tay vào công việc đào bới, cho dù đến giờ cậu đang bắt đầu mất lòng tin vào kế hoạch của mình. Cái từ bí mật để mở cửa nghe như thể nó chỉ tồn tại trong một câu chuyện cổ tích xưa như trái đất nào đó. Hoặc như thể nó là một từ do ông Macreeby bịa ra. Nhưng ngay khi ý nghĩ đó vừa xẹt qua đầu John, cái xẻng đụng vào một thứ gì đó bằng kim loại. Vọc tay vào trong cát, John kéo lên một cái vòng bằng đồng nặng chịch có hình dáng như đầu sư tử. Cái tay cầm nối liền với một sợi xích dẫn xuống lớp cát bên dưới chân cậu.
– Ờ, chắc là nó rồi. Bắt đầu thôi.
Rồi cậu thầm thì cái từ bí mật, dù không kỳ vọng mấy là nó sẽ hoạt động:
– Mở ra, Simsim.
Không có gì đáng kể xảy ra, ngoài việc cả lớp cát đổ sụp xuống hố và biến mất vào trong bóng tối. Không chắc đây có phải là kết quả của cái từ bí mật hay không, John soi đèn pin xuống hố. Nhìn thấy một cánh cửa sập hình tròn bên dưới chân mình, cậu nhảy xuống rồi nói vọng lên với Alan và Neil, vẫn đang ngồi ở phía trên hố:
– Có một cái cửa dưới này.
Dạng chân ra hai bên cửa, John giữ chặt cái tay cầm hình đầu sư tử và bắt đầu kéo xích. Cánh cửa sập rỉ sét nhấc lên được chừng mười phân, nhưng phải mất thêm độ năm hoặc mười phút nữa cậu mới có thể mở toang nó ra.
Dựa cánh cửa vào thành hố, John nhặt đèn pin lên và soi vào đường hầm bằng đá cũ kỹ bên trong. Nhưng có vẻ cậu không cần thiết phải làm vậy nữa, vì bằng một cách nào đó cả đường hầm được thắp sáng, như thể đó là kết quả của việc mở cửa. Cậu nhận xét:
– Có lẽ khí oxy từ bên ngoài tràn vào đã làm điều này.
Quay lên trên, cậu giục hai con chó nhảy xuống trước khi kéo tấm ván che lại, để phòng trường hợp ai đó tìm thấy cái hố và quyết định khám phá thử. John thật chẳng muốn có một tốp lính theo đuôi sau lưng chút nào. Rồi cầm ba lô lên, cậu bước qua cánh cửa sập. Nghiến chặt răng vì nỗi sợ không gian chật ùa vào lòng, John móc một viên thuốc than ra uống, và ba người bọn họ bắt đầu lần theo lối đi xoắn ốc dẫn xuống dưới. John nhanh chóng kết luận nó có cùng kiểu thiết kế như tòa tháp Samarra. Dần dần, cậu nhận ra phần dưới mặt đất lớn hơn nhiều so với phần trên mặt đất, gần giống như một tảng băng trôi. Nó khiến cậu tự hỏi không biết cả tòa tháp này đã có thời ở phía trên mặt đất hay không. Trong trường hợp đó, có vẻ như nó bự ngang ngửa những tòa cao ốc chọc trời ở New York bây giờ. Treo trên những bức tường của đường hầm là một hệ thống đuốc sáng cháy đều với ánh lửa màu tím kỳ lạ.
Cậu nói lớn tiếng:
– Không biết ai trông coi những ngọn đuốc này nhỉ?
Gần như ngay lập tức, cậu cảm thấy một điều kỳ lạ nhất: cậu đang nói bằng một ngôn ngữ mà chính cậu cũng không nhận ra. Cậu biết mình đang nói gì, chỉ có điều khi những từ ngữ thoát ra khỏi miệng cậu, chúng trở nên xa lạ. Và không chỉ với cậu. Cả Alan và Neil đều không hiểu cậu nói gì – cậu có thể nhận ra điều đó khi con Neil dùng chân vẽ ký hiệu dấu hỏi lên lớp bụi cát trên đường, và con Alan rên lên ư ử.
– Lạ thiệt.
Cậu lại nói lớn, nhưng dĩ nhiên những từ thoát ra khỏi miệng cậu hoàn toàn xa lạ. Và phải mất một hoặc hai giây sau, cậu mới nhận ra mình đang chịu ảnh hưởng của cái mà Eno gọi là “hiệu ứng Babel”. Theo như câu chuyện trong Kinh Cựu ước, đó là việc người ta bỗng dưng không hiểu tiếng nói của nhau và bắt đầu nói bằng những ngôn ngữ khác nhau.
Cậu cố giải thích với hai con chó:
– Đừng lo. Trong bộ Bellili Scroll, Eno có nói chuyện này sẽ xảy ra. Nó liên quan đến việc có mặt ở vị trí nguyên thuỷ của Tháp Babel.
Ngoại trừ việc cả Neil và Alan vẫn không hiểu cậu đang nói gì, phải mất vài phút, John mới nhận ra mình đang nói tiếng của người Lakota Ấn ở Bắc Mỹ, hay còn được biết đến như tiếng Sioux. Cậu biết được điều đó vì dạo gần đây, cậu có xem một chương trình truyền hình về một bà lão Lakota dạy các diễn viên nói tiếng của mình. Cảm giác này không đến nỗi khó chịu lắm, và John tự trấn an mình rằng Eno có nói hiệu ứng Babel chỉ là tạm thời thôi.
Nhưng một lúc sau, cậu và hai con chó gặp phải một thứ khác khó chịu hơn trên con đường xoắn ốc. Đó là một người đàn ông ngực trần to lớn vận quần lụa và xách theo một thanh kiếm. Cho dù có Alan và Neil bảo vệ, John vẫn thấy rõ họ sẽ không thể nào vượt qua người đàn ông mà không bị thương nặng hay bị giết ít nhất một người.
John cố phân bua:
– Xin ông bình tĩnh. Đây chỉ là một sự hiểu lầm thôi.
Cháu không có ý xấu gì đâu. Thật đó. Tên cháu là John.
Ông là ai?
Nhưng với tiếng Sioux Lakota, những gì phát ra khỏi miệng cậu nghe giống như “Xon bin tih. Dii la mou hiel tho. Chaong coy xagi da. Thao. Te chaua John. On lai?”
Người đàn ông mang kiếm nhe răng cười với John – với cậu đó như một nụ cười đe doạ – mặc dù có thể thấy rõ ông không hiểu lấy một từ mà cậu nói. John nhanh chóng tra cứu lại cuốn sách của Eno để tìm xem mình phải làm gì tiếp theo, phòng trường hợp cậu bỏ sót chi tiết nào đó. Nhưng bản dịch của Macreeby đã nói rõ: “Cuộc sống đã dạy chúng ta rằng chỉ có những ai thật sự quyết tâm mới thành công. Để tìm kiếm, trước tiên ngươi phải biết khiêm nhường. Vì thế, ngươi phải phục tùng sáu trong số bảy người bảo vệ, vô điều kiện, hoặc chuyến đi của người sẽ vĩnh viễn thất bại. Sáu lần ngươi sẽ phải phục tùng bất cứ những gì ngươi đối đầu, cho dù chúng có vẻ khủng khiếp và chết người như thế nào”.
Eno nói không quá. Người đàn ông mang kiếm trước mặt họ nhìn quá khủng khiếp và chết người. Dù có muốn chống cự, John cũng không biết mình có thể làm gì.
Cậu bảo hai con chó:
– Ok. Không thử sao biết.
Câu nói thốt ra khỏi miệng cậu nghe giống như “Ol. Khog thuo bit.”
Cúi đầu thật thấp, John từ từ bước về phía người đàn ông mang kiếm. Để đảm bảo, vừa đi cậu vừa cúi chào nhiều lần và lập đi lập lại từ “colapi”, tiếng Lakota nghĩa là “bạn”.
Khi đến gần người đàn ông, John cảm thấy một bàn tay nặng nề đặt lên vai và đẩy cậu quỳ xuống đất. Cậu nuốt nước bọt cái ực khi người đàn ông im lặng lùi lại một bước và giơ kiếm lên. Lưỡi kiếm loé sáng trong ánh đuốc, và John có thể cảm thấy nó chạm thế nào vào gáy cậu khi người kiếm sĩ chuẩn bị chém. Sao cậu có thể phục tùng chuyện này chứ? Tất cả bản năng trong người cậu hét lớn rằng nếu cậu cứ tiếp tục quỳ dưới đất như thế này, cậu sẽ phải nói lời vĩnh biệt với cái đầu của mình. Làm sao có thể coi việc phục tùng của cậu là một thuận lợi, khi nó dẫn đến cái chết của chính cậu? Lỡ Macreeby đã dịch sai thì sao? Có khi nào Eno viết rằng cậu không nên phục tùng, và Macreeby đã bỏ quên cái từ trọng tâm đó?
Alan và Neil gầm gừ khi cánh tay lực lưỡng của người đàn ông đưa thanh kiếm lên cao sau lưng. John bảo chúng ngồi yên và nhắm chặt mắt lại. Khi người đàn ông vung lưỡi kiếm về phía cổ John, cậu thầm thì bằng tiếng Lakota:
– Baong nhe, co, no dn do.
Câu đó có nghĩa là “Bảo trọng nhé, cổ, nó đến đó!”
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon