Người không đủ can đảm để mạo hiểm thì sẽ không gặt hái được gì trong cuộc sống.

Muhammad Ali

 
 
 
 
 
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 25
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 235 / 21
Cập nhật: 2019-11-13 12:07:04 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 10 - Ba Điều Ước Của Virgil Macreeby
hi cơn lốc gió đưa họ rời khỏi Berlin và tiến về hướng Nam, John hỏi chú Nimrod:
– Sao chú biết Izaak đang ở Cairo?
– Chú cũng không chắc lắm về chuyện đó. Chú e rằng đến giờ phút này chúng ta chỉ có thể đoán được đến thế thôi. Nhưng nếu chú là Izaak và chú biết một djinn mạnh hơn đang tìm kiếm chú, đó là nơi chú sẽ đến.
John thắc mắc:
– Sao không phải là Babylon? Có khi anh ấy sẽ đến đó cùng Ayesha cũng nên?
– Vì những djinn khác, đặc biệt là djinn nam, đơn giản không được phép đi vào lâu đài của Djinn Xanh tại Babylon. Nếu đó thật sự là nơi Ayesha đến, Izaak sẽ không thể đến đó cùng bà. Trong trường hợp này, chú nghĩ nó sẽ lo lắng trốn đến Cairo, nơi có Ngôi nhà Kafur.
John gật gù:
– Cháu đã đọc về Ngôi nhà Kafur. Trong quyển Những quy luật Baghdad Rút gọn. Đó là chỗ ẩn náu cho djinn duy nhất được công nhận trên thế giới.
– Đúng thế. Một khi cháu ở đó, không djinn hay magus[14] nào có thể làm hại cháu. Chương 319, phần 48, đoạn 900a.
[14] phù thủy cổ đại
John nhận xét:
– Chỗ ẩn náu cho djinn? Nghe có vẻ tiện lợi nhỉ.
– Ừ, nếu cháu là một tên du côn hay một tội phạm. Đó là hạng djinn duy nhất đến một nơi như Ngôi nhà Kafur. Phần lớn bọn họ đều bị đào thải khỏi chính bộ tộc của mình. Hoặc những kẻ tị nạn khỏi những djinn mạnh hơn mà họ lỡ xúc phạm. Bao gồm những djinn từ chối phục tùng phán quyết của Djinn Xanh.
John mệt mỏi ngồi xuống cơn lốc gió. Cậu vẫn chưa hoàn toàn hồi phục sau phép trói buộc djinn mà Izaak đã dùng với cậu. Cậu vẫn còn nhớ rõ cảm giác bứt rứt kỳ lạ trên lòng bàn tay khi chạm vào độc tố con bọ cạp. Chỉ nghĩ đến nó thôi đã đủ làm cậu buồn ngủ. Cậu nhắm mắt lại, và khi mở mắt ra, họ đã bay trên vùng tam giác xanh châu thổ sông Nile của Ai Cập. Ngáp dài một cái, cậu hỏi:
– Cháu ngủ quên hả chú?
Chú Nimrod mỉm cười:
– Chỉ một chút thôi. Cháu thấy trong người thế nào rồi?
– Cám ơn chú, cháu thấy đỡ hơn nhiều rồi ạ. Lâu rồi cháu mới thấy đỡ như thế này.
Đó là sự thật. Ít nhất về mặt thể chất, John cảm thấy khá hơn rất nhiều. Sức mạnh của cậu đã quay trở lại ngay khi cậu cảm nhận được hơi nóng của ngọn gió sa mạc Ai Cập phả vào mặt. Tuy nhiên, cảm giác thoải mái về thể chất này bị phá vỡ vì sự lo lắng của cậu cho Philippa. Thêm vào đó là thái độ lảng tránh của chú Nimrod khi đề cập đến ý nghĩa Lễ mừng Ishtar, và chuyến đi của Ayesha đến Babylon – dù nó ở đâu. John chỉ nhớ Babylon, thủ đô của vương quốc Mesopotamia cổ đại, đã bị phá hủy bởi người Ba Tư vào hơn 2000 năm trước. Cậu có linh cảm việc đi theo Ayesha sẽ không dễ dàng gì.
Nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa sông Nile ở khu phía Tây thành phố Cairo, Ngôi nhà Kafur là một khu chung cư xiêu vẹo, bên ngoài mọc đầy dây thường xuân. Những ai đi ngang qua lối vào âm u của nó đều vội bước đi như bị ma đuổi, và ít người dám đến gần người đàn ông hung tợn quấn khăn xếp và vận một váy quấn galabiya[15] dài đang ngồi lù lù ngoài cửa. Hàm răng gần như không còn một cái, râu ria bồm xồm như lâu rồi không chịu cạo, và có mùi y chang một con mèo hoang, ông cười khằng khặc khi nhận ra chú Nimrod tiến đến, theo sát là John.
[15] Trang phục cổ truyền của người Ả Rập
Với giọng nói đặc trưng của khu đông London, ông chào:
– A, Nimrod. Quý hóa quá. Ngọn gió nào đưa anh tới đây thế?
Và nhe răng cười một cách kinh khủng – vì những cái răng mà ông có trước đây giờ chỉ còn lại những chân răng vàng khè – ông gật gù tự trả lời:
– Cứ làm như tôi không biết ấy.
Chú Nimrod giới thiệu:
– Chào Ronnie. John, cháu chào anh Ronnie Plankton đi. Người canh giữ nơi ẩn náu djinn. Ronnie, đây là cháu tôi, John Gaunt.
John gật đầu chào:
– Rất hân hạnh được gặp ông.
– Ta cũng vậy, con trai, ta cũng vậy.
John hỏi:
– Ông là người Anh phải không ạ?
– Đúng thế. Từ London. Chính xác là ở khu West Ham. Ta đã ở đây trong suốt ba mươi năm qua. Vì một vô ý nho nhỏ mà ta mới thình lình chuyển nhà qua một vùng khí hậu khác như thế này.
Chú Nimrod vào thẳng vấn đề:
– Nó có ở đây không Ronnie?
– Izaak Balayaga à? Mới đến hôm qua, và phải nói là trong một trạng thái khá hoảng loạn. Nó bảo anh có thể đến tìm nó. Và nhờ tôi nói với anh rằng nó đang ở đây nếu anh tới hỏi. Lầu bốn, phòng 28. Nhớ cẩn thận chuột cống nhé! Không phải loại chuột cống djinn hay mundane, mà là loại có đuôi ấy. Chúng từ dưới sông bò lên để “làm bạn” với những chuột cống lớn hơn đến trốn ở đây.
Rồi ông cười nói:
– Tôi tin anh biết rõ kỷ cương ở đây như thế nào.
Nhưng có lẽ anh nên chỉ cho cháu nó.
Cúi xuống gỡ giày ra, chú Nimrod gật đầu ra hiệu cho John làm theo. Rồi chú rút ra một cuốn sổ tay nhỏ, ghi từ trọng tâm của chú lên một tờ giấy, và đặt nó vào trong mũi một chiếc giày, trước khi đưa cả đôi giày cho ông Ronnie. John làm theo chú, dù miễn cưỡng. Cậu hỏi:
– Nhưng có an toàn không chú?
Chú Nimrod trả lời:
– Ronnie có thể là nhiều thứ, nhưng anh ấy không phải một kẻ trộm.
Ông Ronnie mỉm cười:
– Cám ơn anh rất nhiều. Thật vinh dự khi được một djinn có xuất thân như anh đánh giá cao.
Quay qua John, ông nói thêm:
– Ta đã canh gác ở nơi ẩn náu này suốt ba mươi năm qua, và chưa có ai bị mất đôi giày nào cả. Hoặc bị mất từ trọng tâm của họ. Cho nên cháu không cần phải lo lắng, con trai ạ.
Chú Nimrod giải thích:
– Việc đặt từ trọng tâm của cháu vào trong giày của cháu như thế này là một biểu hiện cam kết. Nếu cháu ngu ngốc đi phá luật, Ronnie sẽ buộc phải đốt giày của cháu.
Ông Ronnie gật đầu:
– Đúng thế. Và vì đó là giày của cháu, một món đồ đại diện cá nhân cháu, và là từ trọng tâm của cháu, nên chân cháu sẽ bắt lửa vĩnh viễn. Nếu là cháu, ta sẽ không dại dột thử cảm giác đó đâu. Cho dù cả ta và cháu đều được làm từ lửa.
Theo chú Nimrod đi vào trong một lối đi bốc mùi hôi hám, John nhận ra hai bên tường phủ đầy graffiti, mỗi cái là một câu thần chú hay một lời chú trói buộc. Ngoại trừ vài cái được viết hoặc sơn bằng tiếng Anh, phần lớn là tiếng La-tinh hoặc chữ tượng hình Ai Cập. Chú Nimrod cho biết chúng dùng để ngăn chặn việc sử dụng sức mạnh suy nghĩ lên những thứ bên trong tòa nhà. Khi họ leo lên những bậc cầu thang cũng phủ đầy thần chú, chú Nimrod dặn:
– Cháu cần phải hiểu điều đó. Dù Izaak nói gì với chúng ta, và dù chúng ta có tức giận với nó như thế nào, chúng ta cũng không được phép dùng sức mạnh djinn ở đây. Ngoài ra, với đầy rẫy thần chú xung quanh như thế này, nhiều khả năng sức mạnh djinn của cháu sẽ diễn ra sai bét đấy.
John thắc mắc:
– Nhưng sao lại có người chọn sống ở một nơi như thế này chứ? Cháu nghĩ, chỉ cần một ít sức mạnh djinn, ít nhất họ cũng có thể làm nơi ẩn náu của mình dễ chịu hơn mà.
Chú Nimrod giải thích:
– Chú e là cháu không hiểu rõ vấn đề rồi, John. Luật cấm dùng sức mạnh djinn không chỉ áp dụng với khách. Nó còn áp dụng với cả những người đang sống an toàn ở đây nữa. Chính vì thế, cháu sẽ không tìm thấy bên trong Ngôi nhà Kafur bất kỳ sự thoải mái hay hào nhoáng nào mà hầu hết chúng ta vẫn trang bị cho cuộc sống bên trong những cây đèn hay những cái chai của chúng ta.
John hỏi:
– Thật không còn lựa chọn nào khác sao, chú Nimrod? Ý cháu là, những djinn khác thật sự sẽ làm một điều gì đó tồi tệ với những người bắt buộc phải sống ở đây sao?
– Vậy cháu tự hỏi bản thân xem, cháu sẽ làm gì với Izaak Balayaga nếu chú không có ở đây để ngăn cháu lại?
John trả lời không cần suy nghĩ:
– Cháu sẽ biến anh ta thành một bãi phân lạc đà.
Gõ cửa căn phòng số 28, chú Nimrod nói:
– Chú nghĩ cháu đã tự trả lời câu hỏi của mình rồi đó.
Ngay khi Izaak nhận ra ai đang đứng trước cửa phòng mình, anh lập tức nhào tới chụp lấy tay John hôn chùn chụp và van xin cậu tha thứ cho anh.
Giật lại tay, John khó chịu nói:
– Này, anh thôi làm trò đi.
Và đề phòng trường hợp Izaak lại cố hôn tay cậu, John đút cả hai tay vào túi quần.
Cúi người gần rạp đất, Izaak lùi vào trong căn hộ bẩn thỉu và mời:
– Mời vào. Không có gì nhiều trong đây, nhưng anh không có chỗ nào khác để trú ngụ cả.
John theo chú Nimrod bước qua cửa. Cố lờ đi mùi thịt cừu luộc nồng nặc bên trong phòng, cậu liếc nhìn những tấm rèm mòn xơ cả chỉ và những vết ẩm mốc trên tường. Ở một góc tường, một con chuột cống ngồi lau râu mép. Từ những gì thấy được, John nghĩ con chuột có lẽ là sinh vật duy nhất có làm việc lau chùi gì đó trong căn hộ của Izaak.
John lạnh lùng nói:
– Anh đã làm gì với em gái tôi? Nói, hoặc tôi sẽ thả con nguyên tố tệ nhất mà tôi có thể nghĩ đến lên anh.
Ném cho John một cái nhìn đầy tò mò, như thể ngạc nhiên là cậu cháu mình lại biết về con nguyên tố, chú Nimrod can:
– Đủ rồi John. Sẽ không ai được nói thêm gì về con nguyên tố một khi chú còn ở đây. Đó là những thứ rất khó chịu. Và cực kỳ khó loại bỏ.
Quay qua nhìn Izaak với sự không ưa thấy rõ, chú hỏi:
– Nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra. Và ai ra lệnh cho cậu làm điều đó.
Izaak nói không kịp thở:
– Bà ấy đang giữ cô bé. Chính bà ấy bắt cháu làm vậy. Cháu thật sự không có lựa chọn nào khác. Cháu không muốn làm điều đó đâu. Cháu đâu phải hạng djinn xấu. Thật đó. Nhưng cháu còn có thể làm gì khác chứ?
Chú Nimrod bảo:
– Nói chậm lại đi. Và nói từ đầu.
– Ayesha buộc cháu làm thế. Đó là kế hoạch của bà ấy, chú hiểu không? Cháu chưa bao giờ lấy trộm cuốn Grimoire của Solomon cả. Bà ấy bảo cháu nói với chú như thế. Bà ấy bảo chú sẽ không bao giờ mạo hiểm để cuốn sách rơi vào tay tộc Ifrit, và bảo chú sẽ làm tất cả những gì cần thiết để ngăn việc đó xảy ra. Việc cháu chỉ giao cuốn sách cho cặp sinh đôi ư? Cũng là ý tưởng của bà ấy đó.
Chú Nimrod lắc đầu:
– Ra vậy. Mọi chuyện giờ đã rõ.
John thắc mắc:
– Nhưng Ayesha muốn gì với Philippa chứ?
Izaak ngạc nhiên nhìn cậu:
– Không phải điều đó quá rõ ràng sao? Bà ấy muốn em gái cậu trở thành Djinn Xanh Babylon đời tiếp theo.
John hét lên kinh hoàng:
– Cái gì?
– Ayesha nói bà ấy nhận ra tố chất trí tuệ djinn của Philippa trong Giải vô địch Djinnverso, cũng như những dấu hiệu bí mật nào đó mà anh không biết.
Chú Nimrod gật đầu:
– Ta đã sợ chuyện có thể là như vậy.
Izaak nói tiếp với John:
– Anh chỉ biết nhiêu đó thôi. Cậu thấy đó, thời gian của Ayesha còn rất ít. Quá ít để quan tâm đến việc người kế thừa của bà ấy có tự nguyện hay không. Và bà ấy đã quyết định người đó là em gái cậu, John. Rồi bà ấy ra lệnh anh phải là tòng phạm của bà. Ban đầu, anh đã từ chối. Nhưng bà ấy đã dọa, nếu anh không làm chính xác như bà ấy nói, anh sẽ trở thành bạn đồng hành của Iblis trong chuyến tàu trục xuất đến sao Kim. Cậu biết không, anh nghi là Ayesha tống hắn đến đó chỉ để răn đe và bắt anh nghe lời bà ấy. Cho nên anh đã đồng ý. Anh còn lựa chọn nào khác chứ? Bà ấy đã đưa cho anh công thức thực hiện phép trói buộc djinn mà anh đã dùng trên tàu, cuốn sách giả, và tất cả mọi thứ khác. Sau khi anh nhốt cậu và em gái cậu, Ayesha đã gặp anh trên xe lửa ở Budapest. Vào hôm qua. Rồi bà ấy bảo anh lo mà trốn đi. Và khi anh nói đó không phải là phần thưởng đáng có của anh khi giúp bà ấy, bà ấy bảo bất cứ phần thưởng nào bà ấy cho anh cũng sẽ là vô dụng, bởi vì gần như chắc chắn chuyện đầu tiên Philippa làm một khi trở thành Djinn Xanh sẽ là đuổi theo và trừng phạt anh. Và, tệ hơn thế, hai người có thể làm điều tương tự với anh. Cho nên anh mới đến đây. Nó là nơi duy nhất anh có thể nghĩ đến.
Chú Nimrod cười nhạt:
– Đúng là tiến thoái lưỡng nan. Chỉ tiếc là cậu không sớm nghĩ đến điều này từ đầu.
John giận dữ tra hỏi:
– Giờ em tôi ở đâu? Nó đang ở đâu hả, đồ chuột cống?
Izaak liếm môi:
– Giờ này chắc họ đang ở lâu đài bí mật của Ayesha tại Babylon. Lâu Đài Treo.
John lắc đầu nguầy nguậy:
– Không đời nào Philippa chấp nhận trở thành Djinn Xanh mới. Ayesha có thể thành công trong việc bắt nó đến Babylon, nhưng bà ấy sẽ không thể buộc nó trở thành một thứ mà nó không muốn làm.
Nhưng liếc nhìn khuôn mặt u ám của chú Nimrod, cậu bỗng cảm thấy nhói lên nỗi ngờ vực. Cậu hỏi:
– Bà ấy không thể làm thế, đúng không chú?
Chú Nimrod khẽ nói:
– Chú e là bà ấy không cần dùng đến vũ lực ép buộc đâu. Nếu ở tại lâu đài của Ayesha trong một khoảng thời gian đủ dài, thì dù muốn hay không, Philippa cũng sẽ trở thành Djinn Xanh đời tiếp theo. Trái tim của nó sẽ cứng lại. Và những thứ như lòng tốt, sự nồng ấm của nó sẽ cạn khô. Nó sẽ mang một tính cách mới, một tính cách nằm ngoài phạm trù Thiện và Ác. Và Philippa mà chúng ta biết sẽ biến mất vĩnh viễn.
John lắc đầu:
– Không thể nào. Cháu không hiểu. Làm sao chuyện đó có thể xảy ra chứ?
– Chú không chắc có djinn nào không trực tiếp trải qua nghi lễ khai tâm đó lại có thể hiểu được bí mật của nó. Điều duy nhất chú biết là, nếu Philippa ở đó trong ba mươi ngày, ít nhất là đến Lễ mừng Ishtar, một thứ gì đó sẽ xảy ra và thay đổi con người nó vĩnh viễn. Đó là chuyện đã xảy ra với Ayesha. Đó là chuyện luôn xảy ra với các Djinn Xanh đời trước.
John nói:
– Vậy chúng ta phải đi cứu em cháu ngay.
Izaak lắc đầu:
– Chuyện không tưởng! Cậu không biết mình đang nói gì đâu. Chưa kể đến việc vị trí lâu đài luôn là một bí ẩn. Ngoại trừ việc nó nằm ở Babylon, không ai biết nó ở đâu. Đó là một nơi được bảo vệ tận răng. Bởi những thứ chỉ có mình Ayesha biết.
Ngước nhìn chú Nimrod với ánh mắt đầy hy vọng, John khẩn khoản:
– Phải có cách nào đó chứ, chú Nimrod? Chúng ta không thể bỏ mặc Philippa ở đó được.
Izaak cúi đầu:
– Anh không biết dùng lời nào để xin lỗi cậu về chuyện anh đã làm. Nhưng thật sự cậu không thể làm được gì đâu. Cậu đang nói đến chuyện đối đầu với vị djinn mạnh nhất từ trước đến nay. Chú Nimrod, chú khuyên nó đi.
Chú Nimrod nói:
– Đó là sự thật, John à. Djinn Xanh cũng như những trái bom nguyên tử ấy. Đời sau luôn mạnh hơn đời trước. Có thể Ayesha nhìn giống một con dơi già, nhưng không ai có thể chống lại bà ấy. Tin chú đi. Bà ấy gần như Chúa trời vậy.
John vẫn khăng khăng:
– Phải có việc gì đó chúng ta có thể làm được chứ. Có thể ông Rakshasas sẽ nghĩ ra. Ông ấy biết rất nhiều về Djinn Xanh mà. Cháu nhớ ông ấy viết rất nhiều về Ayesha trong cuốn QBRG, và cháu chắc đó không phải là tất cả những gì ông biết.
Chú Nimrod gật đầu:
– Ừ, có lẽ anh Rakshasas sẽ biết một điều gì đó.
Quay người đi thẳng ra cửa, John giục:
– Vậy không còn thời gian để hoang phí ở đây đâu.
Izaak hỏi:
– Vậy còn anh thì sao?
John sửng cồ:
– Anh thì sao chứ?
– Nếu cậu không tha thứ cho anh, anh sẽ phải ở đây đến hết đời.
John liếc nhìn chú dò hỏi. Chú Nimrod nhún vai:
– Điều đó tùy thuộc vào cháu, John. Trên tư cách anh em sinh đôi của Philippa, cháu được coi như người thân nhất của Philippa. Nếu cháu ước muốn trả thù Izaak bằng cách bắt nó ở đây, cả bộ tộc Marid chúng ta sẽ buộc phải thực hiện sự trả thù đó vì cháu. Đó là cái mà djinn chúng ta gọi là vindicta. Nếu cháu chọn cách đó, chú có thể nói cho cháu biết chính xác những từ cần nói khi chúng ta đã ở bên ngoài khu ẩn náu này.
Một vindicta được thốt ra để chống lại Izaak sẽ buộc nó phải ở lại Ngôi nhà Kafur vĩnh viễn. Nhưng đó là quyết định của cháu.
John hỏi lại:
– Cho cháu hỏi rõ nhé, cháu không được phép dùng sức mạnh djinn với Izaak khi chúng ta ở trong Ngôi nhà Kafur, đúng không? Nhưng cháu có thể nói một vindicta chống lại anh ấy, khi chúng ta đã ở bên ngoài?
Chú Nimrod gật đầu. Izaak ngước nhìn John với ánh mắt khẩn khoản.
John vẫn còn rất giận Izaak. Nhưng lương tâm không cho phép cậu ước muốn một sự trả thù trọn đời lên anh. Có điều, cậu cũng không nghĩ Izaak xứng đáng thoát tội hoàn toàn với những gì đã xảy ra. Đây đúng là một tình huống khó xử, một tình huống mà Philippa luôn giỏi giải quyết hơn cậu. Và trong khi một nửa djinn của cậu còn bận cân nhắc vấn đề, nửa người còn lại của cậu đã phản ứng. John tống cho Izaak một cú đấm thật mạnh. Tru một tiếng lớn, Izaak ngồi phịch xuống đất, tay ôm cái mũi đầy máu.
John nói:
– Tôi tha thứ cho anh, Izaak. Nhưng tốt nhất là anh đừng để chuyện như thế này xảy ra lần nữa. Nếu không, tôi thề là anh sẽ hứng chịu một việc còn tồi tệ hơn nhiều so với một cú đấm vào mũi.
Sướng phát khóc, Izaak hứa:
– Nó không xảy ra nữa đâu. Anh thề đó.
John bảo chú Nimrod:
– Chúng ta đi thôi chú. Hãy ra khỏi đây trước khi cháu đổi ý. Không thì cháu lại tống cho anh ta thêm một cú đấm nữa.
o O o
Quay lại Berlin, tại một căn hộ trang bị hiện đại ở khách sạn Adlon nổi tiếng, ông Rakshasas và ông Groanin kiên nhẫn ngồi nghe chú Nimrod và John giải thích chuyện Ayesha đã mang Philippa đến lâu đài bí mật của bà ở Babylon.
Ông Groanin là người lên tiếng đầu tiên:
– Hỏng bét rồi. Tôi nói, hỏng bét rồi! Bắt cóc một đứa trẻ như thế? Đúng là không có tính người. Không có tính người mà.
Chú Nimrod bảo với người quản gia một tay của mình:
– Vì cả Ayesha và Philippa đều không hoàn toàn là con người, việc xét đến tính người trong tình huống này, hay là việc thiếu tính người, hình như không liên quan lắm, anh Groanin à.
Ông Groanin nghiêm mặt:
– Thưa ngài, ngài biết tôi muốn nói gì mà.
Chú Nimrod nhượng bộ:
– Xin lỗi anh Groanin. Dĩ nhiên anh hoàn toàn đúng rồi. “Không có tính người” là từ rất phù hợp để nói về chuyện đã xảy ra.
Rút ra một chiếc khăn tay to đùng, ông Groanin vừa quệt nước mắt vừa tuyên bố:
– Không có gì mà tôi không làm vì cô bé.
Alan và Neil thì thay phiên nhau liếm tay John, như thể cố gắng an ủi cậu.
Đưa tay vuốt tai hai con chó, John hỏi:
– Rốt cuộc thì Babylon ở đâu mới được?
Chú Nimrod trả lời:
– Iraq.
Ông Groanin gầm gừ:
– Ồ! Hỏng bét hết cả.
John thở dài. Iraq có lẽ là một trong những quốc gia nguy hiểm nhất thế giới. Nội nghĩ đến việc đi cứu một ai đó từ một đất nước có quá nhiều hiểm họa từ con người, chứ chưa nói đến những hiểm họa tạo ra bởi một djinn đầy quyền năng, cũng đã được coi là ngu ngốc. Nhưng nếu đó là nơi Philippa đang bị giữ, vậy thì đó là nơi cậu sẽ đến. Cậu không thấy có lựa chọn nào khác. Ít nhất Iraq cũng là một đất nước sa mạc nóng bỏng, cậu tự nhủ. Ít nhất ở đó, cậu còn có thể sử dụng sức mạnh djinn. Iraq có thể nguy hiểm như thế nào đối với một người có sức mạnh đặc biệt như cậu chứ?
Cậu nói:
– Cháu nghĩ tốt hơn là chúng ta nên đi Iraq.
Nhưng ông Rakshasas lắc đầu. Đưa tay vuốt râu – một dấu hiệu cho thấy ông đang đăm chiêu suy nghĩ về một chuyện gì đó – ông nói:
– Đôi lúc, để đến được nơi thật sự muốn đến, ta cần phải đi theo hướng ngược lại. Từ nơi này, Babylon có thể nằm ở hướng Đông Nam, nhưng chỉ có một kẻ ngốc mới đi về hướng đó trước khi ghé hướng Tây. Theo con đường tới Great Nineveh.
John hỏi:
– Làm ơn đi, ông Rakshasas? Chính xác ông muốn nói gì mới được?
Đến giờ thì ông Rakshasas đã dùng cả hai tay để vuốt chòm râu dài và trắng như cước của mình. Ông chỉ đơn giản giải thích:
– Nghĩa là chúng ta cần tìm một con cừu hoang trước khi tìm được con cừu non thất lạc của chúng ta. Chỉ vậy thôi.
Quay qua chú Nimrod, ông nói:
– Chúng ta cần nói chuyện với Macreeby.
Chú Nimrod chau mày:
– Virgil Macreeby là một tên bất tài xỏ lá.
Ông Rakshasas cười nhẹ, gật đầu:
– Đúng là như thế. Nhưng Nimrod à, đôi lúc một tên bất tài xỏ lá có thể chỉ cậu nơi bắt chuyến xe buýt cuối cùng để về nhà tại Cork. Ngoài ra, không có một mundane còn sống nào biết rõ về những bí mật bí truyền của djinn bằng Virgil Macreeby.
Chú Nimrod giải thích với John:
– Virgil Macreeby hiện là một gã có kiến thức gần bằng vua Solomon. Và đó là cái làm hắn trở nên rất nguy hiểm. Cho một con người.
Ông Rakshasas nói thêm:
– Nó cũng làm cho hắn trở thành một kẻ đáng bỏ công nói chuyện. Virgil Macreeby dành cả đời để nghiên cứu về djinn. Ông nghe nói, hắn đã đọc tất cả những quyển sách cấm ở Bảo tàng Anh quốc và Thư viện Vatican.
Chú Nimrod đế vào:
– Và cũng đã trộm vài cuốn.
Ông Rakshasas kết luận:
– Và đó là lý do tại sao bộ sưu tập sách cấm, sách bí mật của hắn là bộ sưu tập tốt nhất trên thế giới. Tốt hơn cả bộ sưu tập của tôi.
– Đúng, tôi biết đó là sự thật.
Châm một điếu xì gà lớn, chú Nimrod thở ra một vòng khói thuốc mang hình ký hiệu đồng đô la. Chú nói thẳng:
– Dĩ nhiên hắn sẽ chẳng giúp không công cho chúng ta đâu. Và nói thẳng, hắn là kẻ cuối cùng trên thế giới mà tôi muốn ban cho ba điều ước. Hắn là một kẻ rất, rất quỷ quyệt.
Ông Rakshasas gợi ý:
– Chúng ta có thể đưa hắn một quyển sách. Bổ sung cho cái thư viện nổi tiếng của hắn.
– Ờ, có thể tôi sẽ đưa cho hắn quyển Querelae của Solomon. Cuốn sách lớn của những lời than vãn của ông.
Đó là một quyển sách hiếm.
Ông Rakshasas lắc đầu:
– Hiếm? Có thể. Thú vị? Đôi lúc. Còn hữu dụng? Chắc chắn là không, đối với một kẻ như Virgil Macreeby. Tôi nghĩ chỉ có một cuốn sách hắn sẽ muốn sở hữu, Nimrod ạ. Cuốn Meta Magus của tôi. Và tình cờ là tôi có mang cuốn sách đó theo. Trong cây đèn của tôi.
Chú Nimrod phản đối:
– Nhưng đó là cuốn sách vô giá.
Ông Rakshasas gõ nhẹ trán:
– Tôi đã làm một bản copy cuốn sách đó rồi. Ở ngay trên đây. Và giờ đây, khi đã hoàn thành cuốn Những quy luật Baghdad Rút gọn, tôi không cần đến nó nữa. Ngoài ra, cậu không bao giờ thật sự sở hữu một cuốn sách hiếm như Meta Magus. Cậu chỉ trông coi nó một thời gian thôi. Dĩ nhiên tôi chẳng dám cam đoan Macreeby sẽ không giở trò gì. Ngay cả khi đã đưa cho hắn một cuốn sách như cuốn Meta Magus, chúng ta vẫn phải cảnh giác. Phòng trường hợp hắn cố trói buộc chúng ta làm theo lời hắn.
Liếc nhìn John, chú Nimrod nói:
– Với cả ba người chúng ta, hắn sẽ không dám đâu. Thôi được. Nếu anh chắc chắn đó là điều anh muốn làm. Ông Rakshasas lặng lẽ gật đầu. Chú Nimrod nói tiếp:
– Nhưng dù sao, điều anh nói về Macreeby vẫn đúng. Tốt nhất chúng ta nên cảnh giác với hắn. John, cháu cảm thấy thế nào rồi? Mạnh mẽ, hay uể oải?
John liếc nhìn bầu trời đêm lạnh giá của thành phố Berlin bên ngoài khung cửa sổ phòng ngủ khách sạn Adlon. Theo tấm biển báo ở tiền sảnh khách sạn thì nhiệt độ bên ngoài hiện giờ đã xuống dưới 0 độ C. Cậu trả lời:
– Uể oải ạ. Dường như sa mạc đã rời khỏi xương sống cháu ngay khi chúng ta trở lại Berlin.
Chú Nimrod gật gù:
– Trong trường hợp này, có lẽ chú nên vũ trang cho cháu một cái ký gửi ước cho chắc ăn. Khoan, chờ đã, sau những gì đã xảy ra, tốt nhất chú nên cho cháu ba điều ước khẩn cấp. Nhưng cháu phải cẩn thận nhé, John. Chúng là những thứ đòi hỏi chúng ta phải cẩn trọng khi sử dụng.
– Cháu nhớ rồi ạ.
Rít mấy hơi xì gà, chú Nimrod trầm ngâm:
– Để xem nào, chú phải nghĩ ra một từ phù hợp để cháu dễ sử dụng.
– Từ phù hợp hả chú? Thử dùng từ…
Chú Nimrod cắt ngang:
– Không, John, chú phải là người nghĩ ra từ trọng tâm. Đó là nguyên tắc hoạt động của một ký gửi ước.
John bảo với chú:
– Nhưng chú đừng nghĩ từ nào quá phức tạp nhé. Ông Vodyannoy đưa cho cháu một từ tiếng Đức khó phát âm thấy mồ.
– Từ “Rimsky - Korsakov” được không?
– Rimsky gì cơ?
– Rimsky - Korsakov. Một nhà soạn nhạc người Nga, nổi tiếng với một tổ khúc giao hưởng viết năm 1889, mang tên Scheherazade. Cháu nhớ không, John, đó là người đã mở màn chuỗi câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm đó?
John gật đầu:
– Rimsky - Korsakov hả chú?
Ngẫm nghĩ trong giây lát, cậu gật đầu lần nữa:
– Ok, cháu có thể nhớ từ đó.
Chú Nimrod mỉm cười:
– Cháu không cần phải nhớ nó đâu. Trong tình huống khẩn cấp, cái ký gửi ước sẽ tự nhớ giùm cháu.
Một cơn lốc gió khác đưa họ về hướng Tây, đến ngôi làng Great Nineveh ở hạt Kent – một hạt nằm ở phía Đông Nam nước Anh – và tòa lâu đài được người Nóoc- măng xây chính giữa một cái hồ, nơi Virgil Macreeby gọi là nhà.
Chú Nimrod nói:
– Nó kia kìa. Lâu đài Cumbernauld.
Với John, Cumbernauld có vẻ là một nơi sống khá tuyệt vời. Ngắm nhìn nó từ trên cao, cậu sẽ không ngạc nhiên nếu thấy một cánh tay phụ nữ cầm kiếm thò lên khỏi mặt nước, như trong câu chuyện về Vua Arthur.
Thoáng thấy một người đàn ông dáng mập mạp đang đứng nhìn lên trời từ một sân bay phủ cỏ dành cho máy bay lên thẳng ở chính giữa lâu đài, chú Nimrod thông báo:
– Có vẻ như chúng ta đang được chờ đợi. Đó là Virgil Macreeby.
Lái cơn lốc gió bay vòng qua phía sau lưng lâu đài, chú Nimrod giảm dần sức mạnh lốc gió ở phía trên mặt hồ trước khi từ từ hạ cánh xuống sân đáp máy bay. Macreeby luôn tay vẫy họ với vẻ mặt cực kỳ thoải mái, như thể việc có ba djinn đến thăm bằng lốc gió là một chuyện xảy ra hằng ngày ở lâu đài Cumbernauld.
John thắc mắc:
– Sao ông ấy biết chúng ta sẽ đến chứ?
Ông Rakshasas, đang ở bên ngoài cây đèn của mình từ đầu chuyến đi đến giờ, trả lời:
– Với một kẻ như Macreeby, thật khó nói hắn biết được những gì. Tốt nhất chúng ta nên cẩn thận. Phòng trường hợp hắn chuẩn bị cả một nghi thức đón chào kiểu ở lâu đài Dublin cho chúng ta.
Hạ cánh an toàn, chú Nimrod giải trừ cơn lốc gió, trong khi Virgil Macreeby tiến về phía họ với nụ cười niềm nở trên môi. Vận một bộ vét bằng vải tuýt, sở hữu bộ râu cằm nhìn giống cái bàn chải đánh giày, và một giọng nói trơn tru với lời lẽ chải chuốt, ông ta làm John liên tưởng đến một diễn viên kịch Shakespeare.
Macreeby cười lớn:
– Thật tuyệt vời. Các vị biết không, tôi không bao giờ chán nhìn djinn các vị di chuyển bằng cách này. “Ta đến như dòng nước, và ra đi như ngọn gió”, đúng không? Và thân thiện với môi trường hơn nhiều so với một chiếc máy bay. Thật sự tôi rất ghen tị với ngọn lốc gió của anh đấy, Nimrod. Một ngày nào đó, nhất định anh phải cho tôi đi ké thử một chuyến mới được. Cá là nó dễ chịu hơn nhiều so với cây chổi lông gà cũ kỹ của tôi.
Quay nhìn John, Macreeby nháy mắt:
– Ta nói đùa đấy, chứ ta chẳng có cái chổi lông gà nào đâu. Mặc dù mấy người dân làng quanh đây nghĩ ta có.
Ở vùng này của nước Anh, người ta cả tin lắm cơ.
Rồi ông chìa tay ra chào John:
– Chắc cậu là cậu John trẻ tuổi của nhà Gaunt phải không? Ta đã nghe kể nhiều về cậu đấy, chàng trai trẻ.
Bắt tay Macreeby với ngón tay giữa cẩn thận gập theo đường chỉ tay, John chào:
– Hân hạnh được biết ông ạ.
Macreeby nhận xét:
– Anh dạy cháu kỹ đấy, Nimrod. Cậu ấy biết rõ cách bắt tay kiểu djinn.
– Mẹ nó dạy đấy.
– À vâng, cô Layla đáng mến. Cô ấy thế nào rồi? Và cả anh nữa, Rakshasas? Tôi rất mong được đọc cuốn sách mới của anh đấy. Hy vọng anh có mang theo một quyển để bổ sung vào thư viện của tôi. Nghe nói nó đầy đủ và chi tiết. À, gần như thế. Thật tiếc là anh không tham khảo ý kiến với tôi trước khi viết.
Rồi vẫy tay về phía lâu đài, ông nói:
– Nhưng mà, xin mời mọi người vào trong trước đã.
Bên trong lâu đài, Macreeby đứng ngần ngừ một chút trước ba cánh cửa đồ sộ, rồi nói:
– Ờ, tôi nghĩ chúng ta nên vào thư viện. Tôi chắc mọi người sẽ thích lò sưởi của nó. Chưa kể vài miếng bánh gatô chanh nổi tiếng của bà xã tôi. Và chúng ta sẽ không bị làm phiền ở đó.
Mọi thứ bên trong thư viện đều to lớn: từ kích thước cái lò sưởi, số lượng sách, chu vi cái bàn, chiều cao của những cái ghế xung quanh nó, đến cả miếng bánh gatô chanh mà bà Macreeby đặt trước mặt John ngay khi họ ngồi xuống. Thái độ của ông Macreeby thì niềm nở đến nỗi John bắt đầu tin rằng chú Nimrod có lẽ đã nói hơi quá về sự nguy hiểm của gã magus người Anh. Nhưng rồi cậu nhìn thấy những cái móng tay của ông Macreeby. Chúng vừa dài, vừa nhọn hoắt như những cây kiếm nhỏ. Và, bên trong túi ngực áo vét ông Macreeby đang mặc, thay vì một cái khăn tay lụa như thông thường, John nhận ra một con nhện đen khá to. Tất cả những chi tiết đó làm cậu liếc nhìn miếng bánh của mình với chút nghi ngờ.
Ông Macreeby cười khúc khích:
– Yên tâm đi cậu bé, cái bánh không có độc đâu. Mặc dù ta không thể nói điều tương tự với anh chàng bé nhỏ này.
Vừa nói, ông Macreeby vừa gỡ con nhện ra khỏi túi áo và cho phép nó cắn vào tay mình. Ông cho biết:
– Đây là con Atrax formidabilis. Một loài nhện sống trên cây, mắc mạng nhện hình phễu. Có lẽ là loài nhện độc nhất thế giới. Ta đã tự huấn luyện cơ thể mình quen với độc tố của nó bằng cách cho một con Atrax formidabilis nhỏ cắn một hoặc hai lần mỗi ngày đấy.
Xém nữa là John mắc nghẹn miếng bánh đang ăn dở. Chứng kiến con nhện một lần nữa cắn tay Macreeby, cậu kinh ngạc hỏi:
– Sao ông lại muốn cơ thể quen với độc tố của nó chứ?
Ông Macreeby nhún vai giải thích:
– Ở đất nước của cậu, nhiều người mang theo súng cầm tay các loại, đúng không? Để tự bảo vệ khi bị tấn công? Ta mang theo một con nhện cũng với lý do đó.
Để tự bảo vệ trước nhiều kẻ thù của ta. Dĩ nhiên, điều khiển một con nhện như Atrax formidabilis khó hơn nhiều so với một khẩu súng thông thường. Độc tố của một con Atrax formidabilis đực trưởng thành có thể giết chết một người chỉ sau vài giờ. Những con còn nhỏ cũng độc không kém. Chết người chứ chẳng chơi đâu. Tuy nhiên, bây giờ khả năng kháng độc của ta đã đạt đến mức có thể bị một con trưởng thành cắn mà vẫn khỏe re.
Nhăn mặt khi con nhện con cắn tay lần thứ ba, Macreeby nói thêm:
– Dĩ nhiên, bị nó cắn lúc nào cũng đau kinh khủng. Nhưng ta cần phải rèn luyện sức đề kháng của mình thường xuyên.
Rồi mỉm cười với John, ông hỏi:
– Cậu có muốn cầm thử nó không?
John lắc đầu một cách dứt khoát.
– Một anh chàng nhỏ mà dữ, đúng không? Ờ, ta không thể trách cậu quá cẩn trọng được. Đặc biệt là sau những gì xảy ra cho đứa em gái tội nghiệp của cậu, nhỉ? Ta nghĩ tạm thời nên bỏ nó vào lại trong túi vậy.
John hỏi:
– Ông biết gì về chuyện đó? Về em gái cháu?
Thả con nhện vào lại trong túi áo ngực, Macreeby thong thả trả lời:
– Chỉ là những gì ta nghe được qua hệ thống thông tin mật thôi. Nhưng nếu cậu thật sự muốn biết, để ta suy nghĩ cái đã. Ờ, ta đã nghe chuyện đó từ Mimi de Ghulle, người đã nghe nó từ Izaak Balayaga.
Chú Nimrod chau mày:
– Tôi không biết anh quen Mimi de Ghulle đấy.
Vẫy tay chỉ quanh căn phòng họ đang ngồi, Macreeby nói:
– Chúng tôi là bạn cũ. Mimi và tôi. Cũng nhờ sự hào phóng vốn có của Mimi mà tôi có thể sống ở đây.
Rồi lắc đầu, ông Macreeby nhận xét:
– Nói thẳng là ta rất ngạc nhiên khi biết cậu thả Izaak đi một cách đơn giản như thế đấy, John. Nếu là ta, thể nào ta cũng xuỵt một con quái vật lên nó. Nếu ta không lầm, đó là lý do các vị ở đây, đúng không? Các vị cần ta giúp lập kế hoạch giải thoát.
Hơi chưng hửng khi Macreeby đã đoán đúng mục đích chuyến viếng thăm của họ, chú Nimrod thừa nhận:
– Đúng thế. Anh và thư viện nổi tiếng của anh. Chúng tôi đang hy vọng có thể dùng nó để kiếm ra manh mối nào đó có thể giúp giải thoát cháu gái tôi khỏi Babylon.
– Ồ, tôi có thể nói thẳng với anh là điều đó không dễ chút nào đâu.
Rồi như thể có một ý nghĩ nào đó vừa thoáng qua trong đầu, ông Macreeby khục khặc cười:
– Nhưng đúng là cuộc sống đôi lúc quá mỉa mai, phải không? Khi một người như anh, Nimrod, lại phải tìm kiếm manh mối từ một kẻ như tôi. Đúng, tôi chắc chuyện này phải làm anh xấu hổ lắm đây.
John vừa định hỏi chú mình chính xác Macreeby muốn nói gì thì có một tiếng gõ cửa vang lên, và một cậu bé trạc tuổi John bước vào thư viện. Đó là một cậu bé có cặp mắt màu xanh lá, có vẻ dè dặt nhưng ủ rũ. Liếc nhìn cậu bé mới vào với vẻ lạnh nhạt, Macreeby giới thiệu:
– Đây là con trai tôi, Finlay, một đứa không có chút hứng thú gì với việc nghiên cứu ma thuật và trở thành thuật sĩ. Máy tính. Đó là tất cả những gì nó quan tâm tới. Đúng không, Finlay?
– Vâng, thưa cha.
– Lý do gì mà chúng tao được vinh hạnh gặp mày thế, Finlay?
– Bà hỏi khách của cha có ở lại dùng bữa tối không?
Ông Macreeby trả lời:
– Không, tao không nghĩ thế. Tao chắc họ sẽ đi ngay khi đã lục xong bộ não tao. Họ có cả một hành trình dài đăng đẳng đầy mệt mỏi phía trước. Bao nhiêu dặm để tới Babylon nhỉ? Phải mấy ngàn chứ không ít, đúng không, anh Nimrod?
Chú Nimrod chỉ ậm ừ:
– Ờ. Có lẽ thế.
Vẫy tay xua con trai mình đi khỏi thư viện như xua một người hầu, Macreeby nói:
– Đúng là gia đình, Nimrod nhỉ? Họ thử thách chúng ta quá mà. Thằng nhỏ là nỗi thất vọng lớn của tôi đấy.
Ông Rakshasas nhận xét:
– Cậu ấy có vẻ là một chàng trai tốt đấy chứ.
Macreeby bĩu môi:
– Anh thì nhìn ai mà chẳng thấy tốt, Rakshasas. Ngay cả tôi, chắc vậy.
Ông Rakshasas bảo:
– Nếu vậy thì tôi cần một cặp kính mới.
Macreeby nhe răng cười:
– Đúng thế. Nhưng dù sao, tôi nghĩ các vị sẽ không hứng thú gì với một thứ như bữa tối của mundane, với quá nhiều thức ăn trên đĩa của các vị. Các vị sẽ không muốn tốn thời gian để ăn, thay vì để đọc một thứ tốt hơn. Như bộ cuộn sách Bellili Scroll chẳng hạn.
Chú Nimrod bảo:
– Anh lại không nghiêm túc rồi.
– À, xin lỗi Nimrod. Nếu anh thật sự muốn ở lại dùng bữa tối cũng không có vấn đề gì đâu.
– Ý tôi là, anh không nghiêm túc về bộ Bellili Scroll.
– Hoàn toàn nghiêm túc. Và dĩ nhiên, đó chính xác là thứ anh đang cần, đúng không?
Ông Rakshasas hỏi:
– Nhưng bộ Bellili Scroll đã bị hủy hoại. Khi Julius Caesar đốt cháy thư viện Alexandria vĩ đại mà?
– Tôi cũng từng nghĩ vậy, nhưng đó không phải là sự thật. Lịch sử thường là vậy. Nhiều thứ trong đó cuối cùng hóa ra chỉ là những tin đồn vu vơ. Trên thực tế, một rổ đựng những cuộn sách hiếm đã được cứu – bộ Bellili Scroll. Tôi đã tìm thấy chúng trên một kệ sách đóng bụi ở thư viện Vatican cũ kỹ. Và có trời mới biết tôi đã trải qua những gì để trộm được chúng.
Nhìn khuôn mặt khó tin của chú Nimrod và ông Rakshasas, Macreeby mỉm cười:
– Tôi có thể đảm bảo với quý ngài là tôi hoàn toàn nghiêm túc. Thậm chí tôi còn làm một bản dịch tiếng Anh bộ cuộn sách đó. Và tôi hoàn toàn sẵn sàng bán lại cho các vị một bản.
Chú Nimrod lập lại:
– Anh không nghiêm túc.
– Dĩ nhiên là tôi nghiêm túc. Tôi đã bán một bản cho Mimi de Ghulle. Tôi không thấy tại sao lại không thể bán một bản cho các vị được.
Chú Nimrod nói:
– Anh bán cho Mimi de Ghulle một bản? Tôi tự hỏi không biết cô ta cần nó để làm gì nhỉ.
John hỏi:
– Ừm, có ai đó vui lòng nói cho cháu biết bộ Bellili Scroll nói về cái gì không?
Ông Rakshasas giải thích:
– Bellili, Nữ Thần Trắng, là người tiền nhiệm của Ishtar. Người được tôn thờ trước thời Ishtar. Được viết bởi Eno, Quan tư tế tối cao của Bellili, những cuộn sách Bellili Scroll tương truyền có chứa một bản mô tả chi tiết về thế giới Babylon bí mật dưới mặt đất mà Ishtar thừa hưởng từ Bellili: Iravotum.
Macreeby khẳng định thêm:
– Không phải là một bản mô tả. Mà là bản mô tả duy nhất.
John hỏi lại:
– Iravotum?
Ông Macreeby cho biết:
– Iravotum. Đó là nơi Ayesha mang em gái cậu tới, John ạ.
Chú Nimrod và ông Rakshasas đớ người kinh ngạc suốt mấy giây. Vừa thỏa mãn vừa bực mình, ông Macreeby nói:
– Không cần làm vẻ mặt ngờ vực như thế. Với djinn nhiều kinh nghiệm và hiểu biết như hai vị, chỉ cần bỏ mười phút kiểm tra là đủ để chứng thực bộ sách của tôi là hàng thật trăm phần trăm.
Rồi ông Macreeby ngừng lại một giây trước khi nói tiếp để tăng thêm hiệu ứng cho điều mà ông sắp tiết lộ:
– Có cả một bản đồ nữa.
Chú Nimrod thiếu điều há hốc mồm vì kinh ngạc:
– Có cả một bản đồ trong đó? Bản đồ của Iravotum?
Không thể tin được.
Ông Macreeby xoa tay hả hê:
– Tuyệt. Tuyệt. Tôi luôn thích làm việc với những người biết trân trọng sự quý hiếm của món hàng. Một món hàng rõ ràng là vô giá. Đúng, có bản đồ trong đó. Cậu biết không John, tôi luôn tin vào câu nói “Đừng bao giờ đi đâu mà không mang theo bản đồ”. Trừ khi cậu muốn bị lạc. Và dĩ nhiên, đó là điều tôi sẽ bảo các vị làm nếu không thỏa thuận được giá. Vì nói thẳng là tôi dự định sẽ kiếm lời lớn từ lỗ hổng kiến thức này của các vị đấy.
Chú Nimrod nói:
– Vậy thì cho phép tôi ra giá của mình. Anh Rakshasas sẵn lòng trao đổi cuốn Meta Magus của mình lấy bộ sách, Macreeby. Cùng một bản dịch có thể dùng để nghiên cứu đầy đủ.
Ông Macreeby tặc lưỡi:
– Ồ, anh quả thật rất hào phóng, Rakshasas. Tuy nhiên, Nimrod, tôi hy vọng anh còn dự trữ một số đề nghị khác, vì tôi e rằng cái giá của anh không phù hợp lắm. Anh thấy đấy, tôi cũng có một bản copy cuốn Meta Magus. Tất cả những điều trong cuốn sách đó tôi đều biết hết rồi. À, mà sẵn nói luôn, tôi thấy cuốn sách đó cũng không hay lắm đâu. Toàn nói quá không à.
Rồi ông nhe răng cười như một con sói đói:
– Nếu giờ anh đem cuốn Grimoire của Solomon ra trao đổi thì lại là một chuyện khác đấy. Nhưng tôi không nghĩ anh sẽ làm vậy, đúng không? Tất cả chúng ta đều biết ai đang giữ bản copy duy nhất cuốn sách đó mà.
Chú Nimrod thở dài:
– Cứ nói thẳng ra anh muốn gì đi, Macreeby.
– Đừng giữ kẽ như thế chứ, Nimrod. Sao chúng ta không làm theo truyền thống nhỉ? Ba điều ước. Với ba điều ước, anh sẽ có bộ Bellili Scroll gốc cùng bản dịch tiếng Anh của tôi. Và dĩ nhiên là cả tấm bản đồ vô giá của quan tư tế tối cao Eno.
– Cho anh ba điều ước chẳng khác nào đưa khẩu súng máy cho một đứa con nít, Macreeby. Tôi không thể làm thế.
– Thôi nào. Ba điều ước thì có là gì với một djinn như anh đâu.
Chú Nimrod vặn lại:
– Vậy sao anh không hỏi xin Mimi de Ghulle ba điều ước? Không phải anh cũng đưa cô ta một bản copy bộ Bellili Scroll sao? Tôi không nghĩ cô ta sẽ tiếc ba điều ước với người như anh.
Ông Macreeby nhún vai:
– Không may là khi Mimi de Ghulle phát hiện tôi có bộ Bellili Scroll, tôi còn đang mắc nợ cô ta. Anh thấy đấy, mấy năm trước, tôi có hứa đại với gia tộc de Ghulle mấy điều. Để đổi lấy ba điều ước của họ ấy mà. Nên tôi bị họ gây sức ép tàn nhẫn lắm. May là tôi tìm ra bộ Bellili Scroll, không thì chẳng biết cô ta sẽ làm gì tôi nữa. Anh biết người nhà de Ghulle không khoan dung như thế nào mà, Nimrod. Một khi biết tôi tìm thấy bộ sách, Mimi thay đổi thái độ hoàn toàn với tôi. Nói thiệt, bây giờ cứ nghĩ đến chuyện không còn mắc nợ Mimi sau khi đưa cho cô ta một bản copy là tôi lại nhẹ cả người.
Chú Nimrod chau mày hỏi:
– Cô ta cần bộ sách đó để làm gì mới được? Anh có biết không?
Ông Macreeby chỉ cười và nói:
– Có trời mới biết được Mimi nghĩ gì. Sao anh không trực tiếp hỏi cô ta ấy? Nhưng dẹp chuyện đó đi. Như tôi đã nói, Nimrod, giá của tôi là ba điều ước. Chấp nhận hay không thì tùy anh.
Ánh mắt chú Nimrod ném cho tên thuật sĩ người Anh vẫn đầy ngờ vực:
– Với một người quỷ quyệt như anh, Virgil Macreeby, ai mà biết anh sẽ gây ra chuyện tệ hại gì một khi đơn giản có được ba điều ước từ một djinn mạnh như tôi chứ?
– Quỷ quyệt? Tôi muốn tòa lâu đài này có một cái nóc mới thì có gì là quỷ quyệt nhỉ? Quản lý một nơi như thế này tốn kém lắm, Nimrod. Tôi không nghĩ mình quá đáng gì nếu hỏi xin một cái nóc nhà mới. Đơn giản chỉ vì tôi không thích có một đống thợ xây dựng trong nhà mình mấy tháng trời liên tục thôi. Rồi thêm ít tiền nữa. Đối với một người như anh, tiền đâu nghĩa lý gì, đúng không? Và có lẽ là thêm một chiếc Rolls-Royce mới đang quảng cáo trên báo. Nếu không lầm thì có cả một hàng dài người xếp hàng đăng ký mua, mà tôi thì lại ghét chờ đợi. Quỷ quyệt à? Tôi không nghĩ vậy.
Chú Nimrod thẳng thừng nói:
– Xin lỗi, nhưng tôi không tin anh có thể hạn chế bản thân với ba điều ước đó, cho dù anh có viết chúng ra đàng hoàng bằng máu của mình. Cả hai ta đều biết anh là chuyên gia trong việc nói một đằng, nghĩ một nẻo. Cho dù chúng ta có đồng ý với ba điều ước đó, đến giây cuối cùng anh vẫn có thể ước một điều hoàn toàn khác.
Ông Macreeby nhún vai:
– Chắc trong Những quy luật Baghdad có quy định về tình huống này chứ. Tôi nhớ là có điều khoản về sự đồng ý giữa một djinn và một con người trong việc thỏa thuận trước ba điều ước sắp ban cho. Tôi chắc là có mà. Ông Rakshasas lên tiếng:
– Vậy chắc anh cũng biết sự đồng ý đó dựa vào một lời thề. Một lời thề trên những gì anh tin tưởng và tôn thờ. Trong trường hợp của anh thì chuyện đó vô nghĩa, vì tất cả mọi người đều biết anh không tin tưởng vào bất cứ điều gì, và anh là kẻ không có óc sùng đạo nhất từng biết thở.
Ông Macreeby nhếch mép cười lạnh tanh:
– Đúng, đúng. Tôi tự hào để nói đó đúng là sự thật. Nhưng tôi e rằng, điều đó có nghĩa chúng ta đang ở trong tình huống khó xử đây, thưa quý ngài. Quý ngài muốn bộ sách. Và tôi muốn một cái giá hợp lý.
Chú Nimrod nói:
– Tôi sẽ không cho anh ba điều ước, Macreeby. Ai mà biết chuyện gì có thể xảy ra chứ. Và chúng ta đều biết anh Rakshasas giờ không có khả năng ban điều ước cho ai cả.
Nhận ra chú Nimrod đang chuẩn bị đề nghị một điều gì đó, ông Macreeby gật đầu và giục:
– Nói tiếp đi. Tôi đang nghe.
– Tôi nghĩ là tôi có một giải pháp hợp lý cho cả hai phía. Cháu tôi, John, sẽ ban cho anh ba điều ước. Tôi chắc anh cũng biết, sức mạnh djinn của nó vẫn chưa trưởng thành hoàn toàn, vì thế sẽ có những điều ước ngoài khả năng thực hiện của nó. Nói cách khác, sẽ tốt hơn cho anh nếu anh biết giữ điều ước của mình trong những giới hạn mà anh vừa đặt ra ban nãy.
Ông Macreeby chau mày suy nghĩ trong vài giây, trước khi hỏi lại:
– Anh có chắc cậu nhóc này ban cho tôi ba điều ước được không đấy, Nimrod?
– Dĩ nhiên là được. Nếu như anh không quá tham lam.
Ông Macreeby quay sang hỏi John:
– Cậu thì sao, cậu bé?
John gật đầu nói:
– Như chú Nimrod nói, nếu ông không quá tham lam thì không thành vấn đề.
– Ok. Chúng ta thỏa thuận vậy nhé.
Chú Nimrod nói:
– Hãy xem bộ sách trước. Và bản dịch của anh. Sau đó hãy tính đến ba điều ước.
Ông Macreeby xoa xoa hai bàn tay béo ú của mình vào nhau như một đứa trẻ láu táu. Cặp mắt lạnh như băng của ông lóe sáng. Nhưng giọng nói của ông vẫn đầy sự thỏa mãn như tiếng rên ư ử của một con mèo:
– Ok thôi. Tôi sẽ đi lấy chúng ngay. Các vị có thể mang bản copy đi. Rất uyên thâm, tôi có thể đảm bảo với các vị. Ai cũng biết tôi trọng chữ tín trong mấy chuyện như thế này lắm.
Rồi ông nhanh nhẩu trèo lên cái thang thư viện cao ngất như một con khỉ. Mang xuống một cuốn sách bọc da xanh lơ nhạt và một cái hộp đựng bộ cuộn sách, đặt chúng lên bàn, ông giải thích:
– Những cuộn sách cũng gần giống như những điếu xì gà hảo hạng. Chúng ta phải giữ độ ẩm cho chúng.
Với thái độ gần như cung kính, ông mở cái hộp ra, trước khi đứng lùi lại để chú Nimrod và ông Rakshasas kiểm tra cuộn sách bản gốc. Trong vài phút sau đó, hai djinn chăm chú ngâm cứu trong im lặng.
Quay qua cười với John, ông Macreeby hỏi:
– Cậu ăn bánh nữa không?
John lắc đầu. Ngồi xuống gần lò sưởi, cậu ráng nặn óc nhớ lại từ trọng tâm của ba cái ký gửi ước cậu đã được trang bị trước đó. Giờ cậu có thể nhận ra chú Nimrod thật thông minh trong việc thuyết phục ông Macreeby chấp nhận ba điều ước từ cậu. Gã phù thủy người Anh sẽ không thể nào biết được bản thân John không có sức mạnh gì nếu ở trong vùng khí hậu lạnh. Điều ước mà John chuẩn bị ban cho Macreeby sẽ được lấy từ sức mạnh đáng kể của chú Nimrod. Đây là cách rất tốt để ngăn Macreeby ước một điều gì thái quá. Nhưng vì đây không phải là trường hợp khẩn cấp, cái ký gửi ước sẽ không tự nhớ ra từ trọng tâm của nó mà John phải tự nghĩ ra. Có điều giờ cậu chỉ nhớ đó là tên một gã người Nga. Từ gì nhỉ? Một cái từ gì đó kỳ quặc. Như là Rumplestiltskin. Ngoại trừ việc nó không đúng.
Mười lăm phút nữa trôi qua, và John nhận ra hai djinn lớn giờ đang gật gù ưng thuận.
Ông Rakshasas là người lên tiếng đầu tiên:
– Tôi không bao giờ nghĩ bộ sách này còn tồn tại. Phải chi tôi có nó khi viết cuốn sách của mình thì hay biết mấy.
Ông Macreeby mỉm cười thỏa mãn:
– Lúc nào mà chả vậy. Định mệnh của lịch sử. Số phận của sử gia mà.
Chú Nimrod nói:
– Trời ơi! Đúng là có cả một tấm bản đồ ở trong này.
Ông Rakshasas kết luận:
– Những cuộn sách này đúng là đồ thật. Chất lượng giấy. Mực in. Ngôn ngữ. Thật khó tin.
Liếc nhìn cuốn sách bọc da dày cộm – bản dịch của ông Macreeby – chú Nimrod khen:
– Bản dịch rất tốt, Macreeby. Rất uyên thâm.
Ông Macreeby bắt đầu mất kiên nhẫn:
– Rất vui được một djinn trí tuệ như anh khen ngợi, Nimrod. Nhưng giờ nếu anh không phiền, tôi đã thực hiện nhiệm vụ của mình trong giao kèo rồi. Tôi nghĩ đã đến lượt bên anh.
Chú Nimrod quay sang hỏi John:
– Cháu sẵn sàng chưa, John?
Phải “Rang cá không sả ớt” không ta? Chắc không phải.
– Hả? Ờ, cháu nghĩ vậy.
John đứng dậy, hy vọng sẽ nhớ ra từ trọng tâm là gì. Hay là “Rừng cây cưa xả láng”?
Ông Macreeby hỏi:
– Nếu không phiền, tôi cho thằng Finlay đứng xem được không? Việc tận mắt chứng kiến một djinn thật sự ban cho tôi ba điều ước có thể sẽ giúp xóa bỏ suy nghĩ cha nó là một kẻ lang bang. Mà biết đâu được? Có thể việc này sẽ thuyết phục được thằng nhóc nối nghiệp tôi cũng nên.
Chú Nimrod quay sang nhìn John như muốn hỏi ý cậu.
– Hả? Ờ, cháu thì sao cũng được.
Đến giờ thì John đã nhớ ra đó là tên một nhà soạn nhạc người Nga. Không phải Tchaikovsky. Một cái gì đó như là Ovsky. Hoặc Kovich. Giống như Shostakovich. Cũng là một nhà soạn nhạc người Nga. Nhưng không phải tên đó. Ovskykovich chăng?
Họ cùng ra ngoài tìm Finlay. Nhận ra John không thể nào nhớ ra từ trọng tâm của cái ký gửi ước vì không trong trường hợp khẩn cấp, chú Nimrod tranh thủ cơ hội ghé sát tai John mà nhắc:
– Là Rimsky - Korsakov. Rimsky - Korsakov.
Ông Macreeby đang đứng chờ họ trong sân sau lâu đài cùng với Finlay. Hí hửng xoa hai tay vào nhau, ông bảo con trai:
– Ráng căng mắt lên mà nhìn nhé. Nhìn để biết có những chuyện máy tính không thể làm được.
Chú Nimrod nhắc:
– Nhớ nhé, Macreeby. Ước hợp lý thôi.
– Tôi có nói đến một cái nóc nhà mới, đúng không? Còn gì khiêm tốn và hợp lý hơn thế chứ? Anh không biết một cái nóc mới cho một dinh cơ như vầy tốn kém thế nào đâu. Đúng thế, tôi ước gì tòa lâu đài này có một cái nóc mới.
John nhìn lên nóc lâu đài. Tuy đang sử dụng sức mạnh của chú Nimrod, cậu cũng phải tập trung suy nghĩ để biến điều ước đầu tiên của ông Macreeby thành hiện thực. Cậu không biết nhiều về công trình kiến trúc, nhất là kiến trúc của các lâu đài Anh quốc, nhưng có vẻ như ông Macreeby chỉ muốn một cái nóc cùng kiểu với cái nóc ông đang có. Chuyện này có vẻ dễ. Nói nhỏ trong miệng từ “Rimsky - Korsakov”, rồi cậu tuyên bố:
– Xong.
Finlay Macreeby lắc đầu và ôm bụng cười sằng sặc.
Cha nó trừng mắt hỏi:
– Mày cười cái gì thế hả?
– Con chẳng thấy có gì khác biệt cả.
John bực mình giải thích:
– Tớ không nghĩ cha cậu muốn có một cái nóc khác kiểu với cái hiện tại. Cậu đứng đây thì làm sao thấy được gì. Cậu phải leo lên đó nhìn kỹ thì mới thấy nó là cái nóc mới chứ.
Finlay bĩu môi chọc:
– Ờ, phải rồi.
Ông Mac gắt gỏng với con:
– Mày bị gì vậy hả? Nếu John nói đó là một cái nóc mới, thì nó là một cái nóc mới.
Chú Nimrod liếc nhìn đồng hồ. Hiện giờ, chú không muốn gì hơn là bắt tay ngay vào việc nghiên cứu bản dịch bộ Bellili Scroll của ông Macreeby. Muốn nhanh chóng xong việc ở đây, chú giục:
– Anh ước điều ước thứ hai đi chứ, Macreeby.
Ông Macreeby lúc lắc đầu:
– Tiền. Dĩ nhiên rồi.
Finlay khúc khích cười nhại theo cha nó:
– Dĩ nhiên rồi.
– Để xem, nên ước bao nhiêu nhỉ?
Bắt gặp ánh mắt răn đe của chú Nimrod, ông cáu kỉnh gật đầu:
– Rồi, rồi, hiểu rồi. Không quá tham lam chứ gì? Một triệu bảng thì sao? Hợp lý chứ?
Chú Nimrod gật đầu.
– Vậy tôi ước gì mình có một triệu bảng, bằng tiền mặt.
John nói nhỏ:
– Rimsky - Korsakov.
Ánh mắt ông Macreeby ngay lập tức bị hút về phía hai cái cặp táp bằng thép hiện ra trên cửa vào lâu đài. Hú lên một tiếng mừng rỡ, Macreeby quỳ xuống và mở một trong hai cái cặp ra. Đưa tay vuốt ve chồng tiền bên trong cặp như kẻ sắp chết khát gặp nước, ông liếc nhìn Finlay và hí hửng hỏi:
– Mày thấy chưa?
Finlay há hốc mồm kinh ngạc. Chộp lấy một cọc tiền 50 bảng bọc trong giấy bóng kính, nó nói như đang mơ:
– Khoan đã. Số tiền này là thật sao?
Ông Macreeby tặc lưỡi:
– Dĩ nhiên là thật rồi. Tao đã bảo mà mày cứ không tin.
– Mấy người này là thần đèn chính hiệu hả?
Chú Nimrod nhăn mặt:
– Nếu cậu không phiền, thì chúng tôi thích được gọi là “djinn” hơn.
– Vậy họ đang ban ba điều ước hả?
Ông Macreeby cười ha hả:
– Mày chưa từng nghe à? Thần đèn nào mà chẳng cho điều ước. Ngu vừa phải thôi. Mày nghĩ tao đang làm gì ở đây nãy giờ? Làm trò à?
Liếc nhìn đống tiền, Finlay nhếch mép cười khinh bỉ:
– Và cha phí hai điều ước cho một cái nóc mới và một đống tiền vớ vẩn?
Lắc đầu, nó hỏi:
– Đầu óc cha có vấn đề rồi à? Thay vì một cái nóc, sao không ước cả một ngôi nhà mới?
Cha nó bực mình nói:
– Mày nói đủ rồi đó, Finlay.
Nhưng Finlay vẫn cười nói:
– Ồ, nói vậy chưa đủ đâu. Một triệu bảng thời này chỉ là một mớ giấy lộn thôi. Một triệu bảng chả mua được gì cả. Nghe này, lão chim đần to xác ơi, chỉ còn có một điều ước, lão suy nghĩ kỹ giùm nhé. Động não chút đi chứ, lão chim đần to xác.
Ông Macreeby gắt lên:
– Câm miệng. Mày câm miệng lại để tao nghĩ coi. Tao muốn một chiếc Rolls-Royce mới. Mẫu mới nhất. Một chiếc Phantom.
Finlay xen vào:
– Đừng có ước một chiếc Rolls-Royce. Ước tất cả những chiếc Rolls-Royce trong phòng trưng bày ấy. Hoặc tốt hơn là ước cả cái công ty sản xuất Rolls-Royce.
– Mày chẳng hiểu gì cả.
– Ông mới là người không hiểu gì, lão chim đần to xác ạ.
– Ước gì mày là một con chim, Finlay.
Giận con, ông Macreeby buột miệng nói, và trước khi John kịp ngăn mình lại – thực tế là cậu không thể tự ngăn mình lại, vì điều ước đã được nói ra, và tất cả những gì cậu có thể làm bây giờ chỉ là tập trung suy nghĩ của mình vào loại chim tốt nhất mà cậu có thể nghĩ đến – cậu đã lẩm bẩm từ “Rimsky - Korsakov” lần thứ ba để biến điều ước của ông Macreeby thành sự thật. Ngay khi cái tên của nhà soạn nhạc người Nga bật ra khỏi miệng cậu, Finlay tội nghiệp lập tức biến thành một con chim cắt.
Chú Nimrod thở hắt một tiếng:
– Ôi trời, chuyện gì thế này?
Ông Rakshasas lắc đầu giải thích:
– Một điều ước như con cá trên đĩa: Một khi đã nuốt vào bụng rồi thì khó mà lôi trở ra được.
Con chim cắt bay vụt lên bầu trời phía trên sân trong lâu đài và giận dữ lượn vòng quanh đầu họ.
Chú Nimrod giục:
– Giờ vẫn chưa trễ đâu, Macreeby. Nhanh. Ước điều ước thứ tư đi.
Ông Macreeby hỏi lại, vẻ ngạc nhiên:
– Cái gì?
Chú Nimrod giải thích:
– Quy luật Baghdad số 18. Điều ước thứ tư khi nói ra sẽ vô hiệu hóa ba điều ước đầu.
– Và để mất cái nóc mới cùng một triệu bảng tiền mặt của tôi à? Còn khuya.
John lo lắng hỏi:
– Nhưng còn Finlay thì sao?
Liếc nhìn con chim cắt lượn lờ trên đầu mình, ông Macreeby nói dứt khoát:
– Có thể chuyện này sẽ dạy nó biết tôn trọng cha nó.
Chú Nimrod ngạc nhiên:
– Macreeby, đừng ngốc thế. Nó là con trai anh mà.
Ông Macreeby mỉm cười độc ác:
– Không. Nó không còn là con trai tôi. Nó là một con chim. Chúc nó may mắn.
Nhặt hai cặp tiền đầy nhóc lên và đi về phía lâu đài, ông Macreeby nói ném lại sau lưng:
– Và chúc các vị may mắn. Từ những gì tôi đọc được trong bộ Bellili Scroll, các vị sẽ cần đến tất cả sự may mắn có được đấy.
Rồi ông đặt hai cặp tiền xuống sảnh ngoài lâu đài và đá cánh cửa đóng sập lại sau lưng mình.
Cảm thấy muốn bệnh vì chuyện khủng khiếp cậu vừa làm, John ngước nhìn con chim cắt đang bay cao trên cái nóc nhà mới – dường như cao hơn cả những vị thần – trước khi quẹo về phía đường chân trời phía nam và biến mất khỏi tầm mắt.
Chú Nimrod thở dài:
– Chú biết sẽ có chuyện không hay xảy ra mà.
John rên rỉ:
– Ôi, cháu đã làm gì? Cháu đã làm gì thế này?
Chú Nimrod an ủi:
– Không phải lỗi của cháu. Một khi điều ước đã được nói ra, cháu không thể làm gì khác đâu.
Đặt một tay lên vai John như muốn an ủi cậu, ông Rakshasas nói:
– Chú cháu nói đúng đó, John. Bây giờ cháu đã biết rồi đó. Biết sự nguy hiểm mà djinn chúng ta thường gặp phải khi ban cho mundane ba điều ước. Rằng họ luôn có thói quen nói trước nghĩ sau. Đến giờ ông vẫn còn nhớ lần đầu ông phải thực hiện một điều ước không suy nghĩ như vậy. Ông đã rất đau lòng.
Rồi thở dài một tiếng, ông Rakshasas nói tiếp:
– Nhưng đó là chuyện tất yếu phải xảy ra. Kinh nghiệm mà. Cháu sẽ không thể học bơi trên sàn nhà bếp.
Kẹp cuốn sách của Macreeby vào nách, chú Nimrod đặt tay lên vai còn lại của John và nói:
– Chúng ta đi thôi. Hãy đi khỏi đây trước khi chú biến hắn ta thành một con én. Để rồi xem hắn thích việc con trai mình biến thành chim cắt như thế nào.
Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon - Philip Ballantyne Kerr Hậu Duệ Thần Đèn - Tập 2 - Djinn Xanh Babylon