Hãy tiến lên và cứ phạm sai lầm. Phạm thật nhiều sai lầm. Bởi vì đó là nơi bạn sẽ tìm thấy thành công ở phía sau những sai lầm này.

Thomas J. Watson, Sr.

 
 
 
 
 
Tác giả: Ma Văn Kháng
Thể loại: Tuổi Học Trò
Biên tập: Lê Huy Vũ
Upload bìa: Lê Huy Vũ
Số chương: 19
Phí download: 3 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 164 / 24
Cập nhật: 2020-06-05 02:27:43 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 3 - Chiếc Kẻng Sắt
iàng Dìn Tếnh cao một mét bẩy, bằng Thiêm, cùng tuổi, nhưng vập vạp, to con hơn. Mặt choắt, mồm nhọn, mắt xếch xác hay nhìn trộm. Mới mười bốn tuổi, Tếnh đã nhận súng của Pháp thả dù xuống, đi làm lính phỉ. Đó là năm 1954. Kéo tay Thiêm theo mình tới cây cột cái ở giữa nhà, Tếnh chỉ vết đạn sượt ở thân cột, trừng mắt nhìn Thiêm: “Này, có một thằng ở Bản Ngò đi bẫy chim chiung, rẽ vào nhà tao, định chim con Seo Mùa vợ tao, tao bắn trượt nó đấy!” Thiêm vằng tay, bỏ đi. Nó níu anh lại, lên mặt răn đe, khiêu khích: “Ý mày thế nào, thầy giáo!” Thiêm nhìn thẳng mặt nó, nghiêm nghị: “Tếnh, nếu người đàn bà không yêu mình thì mình phải biết xấu hổ.” Nó thót ngực, rên một tiếng kinh hãi rất khó hiểu, bỏ ra sân. Đó là ngày đầu tiên Thiêm về La Pan Tẩn. Ba ngày sau, Thiêm họp cha mẹ học sinh thôn Bãi Đá, nói: “Ăn uống để nuôi khí huyết. Học hỏi để nuôi trí não. Tôi là thầy giáo, tôi xin lo cả hai việc cho các em, chỉ xin mỗi người giúp một tay.” Thiêm xin một mảnh ruộng lớn ở gần trường, chiều ấy mượn trâu nhà hố pẩu. Mắc ách vào vai con trâu sừng quặp, Thiêm quát: “Vắt!” Con trâu cứ đứng nghênh cái mõm bù xù lông. Cô Seo Mùa vội chạy xuống cầm sợi thừng xỏ mũi con trâu. Bà con đứng xem cười ồ. Con trâu không biết tiếng Kinh. Thiêm gãi tai, cười theo mọi người, rồi nhổ bọt vào bàn tay cầm cầy. Quả nhiên giật dây, kêu “mổng” con trâu lập tức dún chân, nhoai cổ bước. A! Nó chỉ biết tiếng Mèo. Lưỡi cầy vênh vỏ đỗ quật đất cuồn cuộn từng dòng nổi đều như sóng lượn. Người thôn Bãi Đá đứng xanh đỏ tím vàng hoa cả mắt trên bờ, nắc nỏm khen thầy giáo người miền xuôi khiến trâu, lựa đường cầy thật khéo. Thiêm hớn hở, khi đi bên trái, lúc nhẩy sang phải, mắt đoán định, tay máy giật mũi trâu, tay điều khiển mũi cầy tránh đá ngầm, nghiêng ngả, sâu nông tuỳ lúc, tài chẳng kém thợ cày Mèo.
Còn hôm nay là ngày phiên chợ huyện Xin Ma Chải, cách bẩy ngày họp một lần. Trên một quả đồi vầu thưa, cả ngàn người thuộc tám xã lân cận, tụ hội từ tinh mơ tới chiều tà, xoay tròn trong cơn lốc đam mê mua bán đổi trao, ăn uống tình tự. Hôm qua, ngày áp phiên, Thiêm lên rừng chặt đủ bốn mươi cây trúc vàng, buộc thành hai bó. Mờ sáng nay, cô Seo Mùa dong con ngựa bạch đến trường, đóng trúc vào nạng thồ xong, dẫn con ngựa ra tới miếu Quan Âm đầu thôn, trao cương cho anh, âu yếm hỏi: “Có gì vui trên nét mặt anh thế, anh Thiêm?” Thiêm sờ mặt mình, kêu thế a, rồi cám ơn Seo Mùa, theo con ngựa xuống núi.
Công ty Lâm thổ sản tỉnh đặt cửa hàng thu mua ở toà dinh thự kiên cố như cái đồn lính khố xanh của tri châu Hoàng Vĩnh Kinh. Trúc đang được giá. Bao nhiêu bán cũng hết. Bán xong bốn chục cây trúc, Thiêm trao tiền cho hố pẩu, tới cửa hàng lương thực mua suất gạo độn ngô mười hai cân rưỡi gửi ngựa về, qua bưu điện bỏ thư cho ông nội, nhận sách báo đặt, rồi đến Phòng giáo dục huyện. Ông Trần Đổng, năm mươi tuổi, đầu hói trụi, trơn bóng như quả dừa, xuất thân giáo viên dân lập xã, xung phong lên dậy học ở miền núi đợt này cốt kiếm suất lương trong biên chế. Nay, mục tiêu đã đạt, lại được lòng bí thư Đường Xuân Ân người cùng xã, thăng tiến lên chức trưởng phòng, nhất thống sơn hà Lưu Bá Ôn, vênh váo lên mặt, bợm rượu gặp rượu ngon đồng rừng, say sưa tối ngày, công việc bề trễ, chẳng hề chăm lo. Nghe Thiêm gọi cửa, ông Đổng mới mắt nhắm mắt mở lẫm chẫm bước ra khỏi buồng ngủ. Sơ ý, ông không khép cửa buồng, vô tình nhìn vào, thấy trên đất cạnh chân giường ông ngủ có chiếc xi líp nữ và cái nịt vú màu trắng, Thiêm vội quay mặt đi. Ôm vò rượu, chắt một chén nhỏ, tợp một hơi cạn, ông Đổng đập đít chén, chỉ mặt Thiêm mắng phủ đầu: “Thằng này, mày khai láo! Làm đ. gì mà có được những hai lớp học ở trên cái xứ La Pan Tẩn khỉ ho cò gáy nhà mày!” Thiêm nói: “Tôi có đòi gì đâu. Chỉ xin mấy quyển sách giáo khoa thôi.” Ông Đổng nhe hàm răng xỉn lè nhè: “Đào đâu ra sách giáo khoa bây giờ. Mày vốn con nhà thi thư, bịa ra mà dậy. Thôi, về đi! Đừng có qua mặt tao nhé. Kiểm tra lòi mặt gian, ốm nặng với tao có ngày đấy!” Nói rồi đẩn Thiêm ra cửa. Ông còn có việc riêng chưa làm xong.
Chiều tà, chợ tan.
Đường về toả các phương, nồng hơi gió nam. Trên các eo đồi bên các nẻo đường mòn, cạnh con ngựa phất đuôi buộc dưới gốc đào, thấp thoáng hình cái dù giấy xanh đỏ tròn xoe che các cặp trai gái tình tự. Quên phắt cái thói hống hách vô lối, thô lỗ của ông Đổng, Thiêm thấy lòng phấn chấn lạ thường. Có niềm vui lớn gì đang tiềm trữ trong lòng anh và phát toả lên diện mạo mà sáng nay Seo Mùa nhận ra?
Phăm phăm bước trong ánh chiều muộn rợp bóng núi, anh lội ào ào qua con suối lớn, định bụng qua cái vạch ngăn cách thung lũng và núi cao này sẽ đi gấp để trở về nhà không tối quá. Từ Xin Ma Chải về thôn Bãi Đá những hơn chục cây số đường dốc.
Nhưng, đặt chân lên bờ bên kia, sửa soạn vượt dốc núi, Thiêm bỗng có cảm giác vừa tiếp nhận một lực cản ở phía trước và một sức níu kéo ở phía sau. Điều chưa từng xẩy ra nữa là cùng với cảm ứng nhồn nhột, rơn rởn như đang chịu tác động của những vòng xoáy nhẹ ở đỉnh đầu, vùng mỏ ác, anh giống như một kẻ mất phương hướng vừa bồn chồn vừa bấn bíu âu lo vừa khấp khởi như sắp đón nhận một ân ưu có kích tấc dị thường. Lội qua lội lại dòng suối ba lần, cuối cùng Thiêm đứng ngẩn ở giữa dòng nước, nghe trong sâu thẳm lòng mình một ước vọng đang âm thầm trỗi dậy. Như ở trong vòng mê ảo, Thiêm chuệnh choạng đi xuôi về phía hạ lưu. Cảm nhận mơ hồ là bị một ngoại lực qua môi trường siêu dẫn điều khiển, anh dừng lại bất thần ở nơi dòng suối đang êm chảy phẳng phiu bỗng đội cộm lên, sùng sục tung bọt. Cái gì nằm ở lòng suối khiến dòng nước và Thiêm mất thăng bằng? Toàn bộ cảm giác lúc này tựu trung là một tâm trạng khắc khoải không yên dưới tác động của một năng lượng bí ẩn, khiến Thiêm có được phép thông linh, giao tiếp được với một linh hồn xa vắng. Thiêm ngụp xuống làn nước sâu, rồi đứng dậy, vội vã chạy lên bờ, tìm đến nhà một người Tày ở ven suối, mượn một cây xà beng. Nửa tiếng sau, hì hụi kích bẩy, vần đẩy, anh đưa được vật thể nằm dưới lòng suối lên bờ. Người ướt rượt, anh run lẩy bẩy không phải vì lạnh. Linh ứng lạ thường trước vật lạ nọ đã chứng tỏ cảm giác vừa trước đó của anh là có thật.
Tan chợ muộn mằn là mấy người say rượu, bước khật khưỡng đến cạnh Thiêm, họ nhìn vật nọ, nghê nga: “Cái gì mà lạ thế?” Cái gì hình dong giống cái thúng nhưng bằng sắt thép, lại thủng đáy và ở bên rìa lại trổ những lỗ tròn nho nhỏ? Một gã cầm cồ đá chọi khẽ vào vật nọ. Vật nọ phát một tiếng kềnh rè rè. Gã nọ cười toét miệng, giang tay chọi cồ đá lần thứ hai thật cật lực. Lần này cồ đá và vật nọ cùng toé lửa và tiếng vật nọ vang rền sang cả hai bờ suối. Thiêm lật nghiêng vật nọ, cúi xuống nhìn, nhận ra ở một chữ FORD khắc chìm nét mờ mờ bên rìa vành của nó, chợt hiểu. Vừa lúc gã đàn ông nọ ném cồ đá, cười hềnh hệch: “Thế thì ta biết rồi, thầy giáo ơi. Đây là chiếc vành bánh xe ô tô của tri châu Hoàng Vĩnh Kính. Người cầm lái chiếc xe này là Trải. Trải là châu đảng trưởng Quốc Dân Đảng châu này. Một đêm từ tỉnh về, không hiểu tại sao chiếc xe này đang đi bỗng đâm ngoặt xuống vực, ở khúc suối trên. Người lái xe chết mất xác. Chiếc xe cũng tan tành mỗi nơi một mảnh. Thầy giáo lấy cái vành xe này làm kẻng báo gọi học trò đi học à? Nặng lắm, địu leo núi về bản làm sao được!”
Thiêm vào mấy nhà người Tày ven suối xin chạc trâu, mây sợi, giẻ rách bện thành một sợi dây dài, xỏ qua xỏ lại mấy lỗ hổng trên chiếc vành xe, tạo thành hai quai mắc vào vai, cõng chiếc vành xe đi.
Qua con suối lớn, đường bắt đầu dốc cùng lúc trời đã tím xẫm hoàng hôn. Nhìn xuống mặt đường, dấu chân ngựa bổ đã thấy loè nhoè. Ruồi trâu vo ve vài con vẽ những nét loằng ngoằng trong thanh vắng. Thiêm hiểu, giờ đây trên đường này chỉ còn mình mình. Nghĩa là, ngoài anh ra, chẳng còn ai anh có thể cậy nhờ, dựa dẫm.
Chiếc vành xe ập vào lưng nặng dần. Đã ứa mồ hôi mặt. Cả mảng lưng hầm hập nóng rồi ướt nhèm. Đi được chừng nửa đường, Thiêm định dừng nghỉ một lát, nhưng vừa đặt chiếc vành xuống, nhìn quanh thấy bóng núi đen xầm, lại vội vàng quàng nó lên vai, cắm cúi bước.
Cảm giác đã vượt quá mức thông thường. Cùng với hơi thở mỗi lúc một dồn, anh nhận thấy mình xa lạ dần với xung quanh. Cái dốc hình như cao hơn mọi khi. Con đường hình như gập ghềnh hơn, hẹp hơn mọi khi. Miệng khô đắng, mắt lờ ngờ nhìn hai bên đường, có lúc Thiêm giật mình, đứng sững. Đường này là đường nào? Xứ này là xứ nào? Cây pơ mu đổ nằm ngổn ngang như thây ma, bụi rậm bên đường hình con hổ lớn rình mồi, nét kỳ quặc này sao anh chưa hề thấy?
Chân bước mỗi lúc một dài dại. Đã đến lúc chân là chân người nào rồi. Vấp một cái đau điếng, xuýt bổ chửng xuống đất, cúi nhìn ngón chân cái, thấy nó đỏ loè. Thiêm chợt bừng tỉnh. “Mệt quá nên rơi vào vòng mê mị đây. Cố lên, ra khỏi cái mệt sẽ hết mệt. Cao vượt lên sẽ thấy xung quanh thấp.” Nghiến răng, Thiêm xốc cái vành xe lên vai. Nhưng được mấy bước, đã lại thấy người lểu đểu, thỉnh thoảng lại hụt một nhịp đi. Rồi bỗng như bị đập mạnh vào lưng, đầu chúi xuống đất, chiếc vành xe văng buột khỏi vai, động một tiếng cành thật nặng ở đâu đó.
Mở mắt, Thiêm vội chống tay dậy, nhìn quanh. Quái, có kẻ nào định đánh cắp chiếc vành xe của anh, nên đã giật nó khỏi vai anh và giấu vào bụi chi khẩu pấu gai góc kia. Thiêm bò vào bụi gai, nghiêng mình kéo chiếc vành xe ra, vừa lúc nhận ra chênh chếch khoang trời bên một mảnh trăng vàng. Mảnh trăng từ đâu lạc tới. Giật thót mình, anh nghe thấy một tiếng kèng rất to, vội kêu lớn: “Ông!” Ông nội sao lại ở đây? Cao lớn, quần sồi, áo đũi, ông nội đang vung dùi khua kẻng: “Dậy! Dậy! Vĩ nghiệp đang chờ tay các ngươi!” Kèng! Kèng! Kèng!
Thiêm dụi mặt. “Ta mê rồi”, anh thoáng nghĩ, vịn một bờ đá đứng dậy. Trăng rãi làn sáng nhợt nhạt. Bóng Thiêm dài nghêu, dật dờ, nghiêng ngả. Thiêm bước chẳng thật chân. Bước vào đất, bước vào khoảng không. Thấy hai đầu gối rẹo rọ, chực rời ra, Thiêm vội dừng lại dựa vai vào vách núi. Tai Thiêm ù ù. Hồn Thiêm phờ phật, chập chờn.
Tiếp sức cho anh là cái miếu Quan Âm chợt như có phép thiêng hiện ra bên đường. Cái miếu là một hốc đá, trong có mấy cục đá giống hình người buộc manh vải đỏ. “Có thế chứ!” Anh cười, miệng mếu xệch, cảm thấy hai vai nát nhừ. Seo Mùa ơi, cái vui trên mặt anh em nhận ra hoá ra phải khó nhọc mới có được đây này!
Loáng qua óc anh gương mặt trái đào người phụ nữ Mèo xinh xắn nọ vừa lúc anh tuột tay, người quay đảo, rồi bổ nhào vào một bụi rậm bên đường.
Quá nửa đêm, trăng đã lụi, nửa mê nửa tỉnh, Thiêm vừa lê vừa kéo chiếc vành xe về tới Bãi Đá. Những năng lượng dự trữ cuối cùng giúp anh treo được chiếc vành xe lên cái cột ngoãm thay cái mõ tre câm đã tắt nghỉm tiếng từ buổi khai trường. Anh nằm rụi một thân xác thoi thóp ngoài trời đêm, còn linh hồn qua huyệt bách hội trên đầu, đi vào một đường hầm tối mò.
Linh hồn Thiêm thoát ra khỏi đỉnh đầu đi vào một con đường hầm tối om. Nằm đây chỉ là thể xác Thiêm. May mà Seo Mùa dong trâu đi kéo củi về bắt gặp cái thể xác ấy ở bãi đá, vội vực vào nhà rồi chạy đi báo hố pẩu. Thể xác không hồn của Thiêm nóng rét đang giao tranh. Nóng như ninh nấu đấy mà rét như gió thốc từ gan ruột thốc ra. Thiêm là cái xác không hồn ba ngày liền. Cháo từ tay Seo Mùa bón vào miệng lại nôn ra hết. Cái xác càng lúc càng dặt dẹo, đặt nằm xuống là nó ngoẹo đầu sang một bên. Ghé tai thật sát ở ngực mới nghe thấy tiếng qủa tim của nó chốc chốc lại dội lên một tiếng rất khẽ như giả vờ. Rất may, tiếng quả tim lớn dần. Rồi đến ngày thứ năm thì linh hồn Thiêm đang vơ vẩn ở đâu đó bỗng nghe thấy tiếng một người già kêu khan khan: Hồn ở bụng còn. Hồn ở ngực còn. Chỉ có hồn ở đầu của thầy giáo là bỏ đi lang thang thôi. Phải cứu mau!
Chà! Thế là may lắm! Vì một khi hồn ở bụng ra đi là nó cuốn luôn cả hồn ở đầu ở ngực đi theo luôn, là cầm chắc cái chết. Thầy giáo Thiêm chưa thể chết được! Con người mạnh mẽ về tinh thần và thể chất, đẹp đẽ từ ngoại hình tới tâm hồn này chưa thể chết được! Choách! Choách! Đôi mảnh sừng trâu đen bóng trong tay ông già từ trên cao rơi xuống phát hai âm thanh vang giòn. Ông già cúi xuống. Hai mặt mảnh sừng xin âm dương này đều sấp thì nguy tai là cái chắc. Nhược bằng chúng một sấp một ngửa thì hiển nhiên thầy giáo đang ở trạng thái bệnh trọng. Kinh hãi nhất là một mảnh tự dưng lại dựng đứng lên, ấy là cái chết đã đến gõ cửa, phải tức tốc hiến tế tam sinh để mong cứu vớt phần nào. Chà chà… ông già thở đánh phào, ngước lên, mặt ngây ngây nhẹ nhõm: hai mặt mảnh sừng đều ngửa, tức thị chỉ có hồn ở đầu mới bị bắt đi đâu đó thôi, phải mau lên ngựa truy đuổi, cứu thầy.
Linh hồn Thiêm đang lặn lội trong một đường hầm tối mò, lát sau nó thoát ra ngoài khoảng hẹp tăm tối nọ, bay về nơi non bồng nước nhược. Nó đang nhơ nhởn, chập chờn, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn prập prập, tiếng người hú dài và tiếng một ông già hát nghê nga lẫn trong tiếng nhạc đồng giòn giã và tiếng thanh la khan rè:
Ê, ngựa khổng lồ.
Ngựa khoẻ của ta.
Chân mi phải nhanh hơn đất.
Móng mi phải không để vết.
Ma phải kinh hồn chạy về nhà nó.
Tiến lên, kẻo xác người thối rữa cả rồi!
Xác người đã thối là thối hoắc.
Tiếng ông già hát mà tai Thiêm nhận được? Hai mi mắt Thiêm dính liền, Thiêm phải dùng sức để tách biệt chúng ra. Thoạt đầu tất cả chỉ lờ mờ như bóng đêm. Mãi sau Thiêm mới nhận ra dần dần. Trước hết là mùi hương ngàn ngạt. Rồi con mắt Thiêm lờ mờ nhìn thấy trên bức vách nơi đặt bàn thờ tổ tiên ba đời một căn nhà người Mèo, những lá bùa vặn thừng, túm lông gà, cây gậy tiền. Cuối cùng là hình hố pẩu. Hố pẩu trong vai ông thầy cúng đang ở trong tiết đoạn đuổi bắt ma tà.
Mắt hố pẩu sáng rực như mắt người ngộ dại, cái mũi quặp mỏ diều rõ là nét vẻ của người quyết đoán. Cây súng kíp dài ngoẵng kẹp nách. Tay trái đeo chùm nhạc đồng, ông già đang quặp riết hai ống chân vào hai mép bên chiếc ghế băng phủ lớp chăn đỏ dầy dặn. Chà, lão kỵ sĩ đang trên mình con tuấn mã phóng xuống địa ngục thực hiện lớp đuổi bắt con ma ác trong buổi cúng cứu vong hồn Thiêm. Lão kỵ sĩ đang tả xung hữu đột với đủ các loại ma cản đường, quyết xông vào sào huyệt con ma ác để dành lại hồn vía Thiêm đang bị nó giam giữ. Con ma này là ma gì mà quỷ quyệt quá! Đã ba ngày nay hố pẩu trổ đã gần hết pháp thuật cao cường mà vẫn chưa truy tìm và khuất phục được nó. Ma ác này là ma gì? Ma rừng. Ma cột nhà. Ma bếp lò? Không phải! ác nhất là ma lợn sề, ma trâu, ma ngũ hải cũng không phải. Hay là ma mặt trời gây đau đầu, sốt nóng dẫn đến tử vong, ma suối làm đau bụng đau chân, ma đống mối khiến người nóng như lò lửa lại sùi bọt mép? Không phải. Tìm mãi có thấy đâu! Ma này lạ chưa từng thấy. Kia kìa, có phải nó không? Nó tròn như cái thúng nhưng thủng đáy. Nó thu hồn Thiêm vào trong nó. Hố pẩu rởn cả tóc gáy, vội ghìm ngựa, dương khẩu súng kíp: “Bớ ma kia!”
Thiêm giật bắn mình, ngồi bật dậy. Mồ hôi tháo chẩy ướt sẫm lưng, bụng. Khói thuốc súng vần vụ khét đắng. Hố pẩu đứng trên chiếc ghế băng phủ chăn đỏ, hét khàn khàn, đắc thắng:
- Đi đi! Đi đi! Các ma lành ma dữ hãy về nhà mình! Hồn phách ra khỏi thể xác thế là đủ rồi! Vong hồn người hãy về nhập mộng, như người trở về với công việc ruộng nương của mình!
Xách con dao quắm cùn nhặt được ở trong bếp Thiêm thập thễnh bước ra đầu hồi ngôi trường, dừng trước cái vành xe ô tô mới treo lại. Bình minh như cánh đồng hoa thơm ngát đang dâng chan khắp bốn phương chân trời. Hít một hơi dài, căng lồng ngực, Thiêm có cảm giác đã hoàn toàn lấy lại được sức lực đã mất sau trận ốm vì kiệt lực mấy hôm rồi. Thiêm vung tay.
- Kềnh! Kềnh! Kềnh!
Con dao quắm như đoản gươm lệnh của viên đại tướng tổng tư lệnh vẽ một bán cung nhỏ, nhằm trúng gờ chiếc vành xe xin xỉn màu thép rỉ. Thiêm có cảm giác cả anh lẫn cây cỏ, gia súc, muông thú và bầu không khí quanh anh, chợt ắng đi đến mấy giây trong nghẹn ngào đón đợi. Cái gì đây sẽ khai sinh với xứ sở này? Hớp rượu đầu Thiêm đã nếm, Thiêm bốc men say. Văng ra từ tay Thiêm, ngay từ khi mới phát lộ đã là một thanh âm ở kỳ viên mãn, trọn vẹn, vừa giòn giã vừa trầm rè, nặng nhọc, vừa vang lộng, vừa thăm thẳm xa xăm.
Kềnh! Kềnh! Kềnh!
Thoát ra khỏi cái vành xe thô tháp, những tiếng vang đơn lẻ đã trở thành một chuỗi âm thanh trầm hùng nối nhau, gối lên nhau, gọi nhau, tan biến vào nhau, tạo thành một hiệu lệnh hùng dũng, nhưng ngân nga một âm hưởng giao tình thân mật. Có cảm giác chính là cái vành xe do cảm kích và cuộc hoá thân, qua tay Thiêm mở lối, đã vận động toàn bộ nội lực ẩn tàng để bộc lộ mình.
Kềnh! Kềnh! Kềnh!
Xưa rày đất này chỉ biết đến tiếng mõ tre, mõ gỗ, tiếng trống da. Xưa rày chưa tiếng gọi đàn nào rền rã, xốc xáo gan ruột dến thế. Âm thanh này chứa trong nó một năng lượng chưa ai biết tới. Nó âm âm trong mỗi căn nhà. Nó truyền lan theo từng triền núi, nó thanh thoát, nó trĩu nặng. Nó vang vổng lên tận trần mây, nhập vào với gió trời, bay lượn trên cao xanh. Nó in hình vào tâm tưởng con người.
Kềnh! Kềnh! Kềnh!
Hai thôn lớn bốn xóm nhỏ, từ ông già đến trẻ sơ sinh, chẳng nơi nào, không một ai không nghe thấy tiếng kẻng Thiêm khua với cảm hứng chứa chan buổi sáng đó. Thiêm bỗng cảm thấy chính anh như vừa được ban phép lạ.
Hố pẩu sờ sẫm cái vành xe còn đang rung ngân, mắt rơm rớm, giọng nhừa nhựa:
- Thầy Thiêm à, âm tuy biểu hiện ra bên ngoài mà phát tự bên trong. Lòng người có cảm xúc mới phát ra âm được. Đàn môi, khèn bè, sáo ngang, tiêu dọc, trống kèn là âm nhạc. Cái kẻng trong tay thầy Thiêm cũng là âm nhạc. Âm nhạc của thầy không giả dối, nó có lòng nhân, nó hàm dưỡng tính tình. Âm nhạc của thầy là giao cảm, giao tình.
Rồi âu yếm nhìn Thiêm, chia sẻ nỗi xót thương và cảm phục trước hành vi cao cả đem sức thồ được chiếc kẻng về của anh, hố pẩu cười méo xệch miệng, tiếp:
- Thời nay thịnh trị rồi. Thời thịnh trị, vua là dìu, dân là chiêng trống. Thời thịnh trị, công việc là xe, khéo léo là lực đẩy. Thầy Thiêm là cái sức dời núi của ông thần, là cái khéo léo của ông thánh, ông tiên; các vị này vì có đức thuần trinh nên quây quần dậy bảo được mọi người trong thiên hạ. Nào, dở sấu, ông tiên, ông thánh, quân ma nào dám bắt người, người bắt cái kẻng này thành vật truyền lệnh của người đi!
Chẳng ai còn có thể ngủ yên trong ổ rơm, ngồi yên bên bếp lửa. Trẻ con toàn thôn trung tâm kéo đến ngồi chật năm dẫy bàn dài. Ông bà, cha mẹ, anh chị đứng chen như nêm ngoài hàng hiên, nhấp nhổm, ồn ào.
Người đánh kẻng kéo thẳng vạt áo nâu, mặt chợt bừng sáng như vừa rửa nước ấm. Ở góc nhà, cặp mắt ai xanh óng ánh vừa ngước dậy.
- Kính thưa hố pẩu. Thiêm như là đã say. Kính thưa các cụ các ông các bà các anh các chị. Cùng toàn thể các em học sinh xã La Pan Tẩn yêu quý. Hôm nay chúng ta họp mặt ở đây để nêu quyết tâm và bàn cách thực hiện kế hoạch mười năm xây dựng Toà lâu đài văn hoá xã ta. Chúng ta quyết đạp bằng mọi trở lực, khó khăn. Chúng ta nhất định đi đến đích!
Dừng lại, như sực nhớ, Thiêm ngào ngạt, mắt ứa lệ:
- Thay mặt Hội đồng nhà trường, tôi đề nghị hố pẩu, các vị và các em, cùng vỗ tay hoan hô tất cả mọi người chúng ta có mặt ở đây vào thời điểm lịch sử này! Hoan hô! Hoan hô!
Trong nhà hố pẩu, cựa quậy trên cái nẹp gianh rải trên giường, Tếnh bừng tỉnh, quờ tay sang bên cạnh, ngồi dậy, làu bàu: “Tiếng gì to như tiếng ông trời thế! Điếc tai quá! Mà cái nấm Seo Mùa, mày bỏ tao đi đâu rồi!”
Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn - Ma Văn Kháng Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn